Friday, November 25, 2011

Nhìn lại để thương !

Trong đời sống hằng ngày, chúng ta ít khi nhìn lại chính mình, để thấy rõ được những giá trị đích thực của sự sống, thương yêu bản thân mình và thương những người chung quanh. Bởi vì, tình thương là điều kiện tất yếu để đem lại hạnh phúc chân thực. Nếu đời sống mà thiếu vắng tình thương yêu thì sẽ trở nên khô khan, trơ trọi và không có ý nghĩa gì cho cuộc sống. Mà tình thương có mặt, là nhờ vào tuệ giác vốn có ở nơi mỗi chúng ta được phát khởi, và trí tuệ chỉ biểu hiện khi tâm trở về trọn vẹn với thân. Có lẽ, trí tuệ là chiếc chìa khóa để mở ra cánh cửa an vui và hạnh phúc, cho nên vào đời nhà Trần có Tuệ Trung Thượng Sĩ, là người cư sĩ tại gia đã tu tập và ngộ đạo, nên vua Trần Thánh Tông đã gửi gắm thái tử Trần Khâm tới để học hỏi đạo lý, nhằm phát huy được trí tuệ. Đến ngày trở lại triều đình, Trần Khâm kính cẩn hỏi cốt lõi yếu chỉ của Thiền thì được Tuệ Trung Thượng Sĩ dạy rằng: “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc. (soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được - Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục).

Thật vậy, chúng ta chỉ cần nhìn lại thân tâm mình cho thật kỹ càng và tường tận thì sẽ thấy được vô vàn điều kiện để làm nên hạnh phúc. Tuệ Trung Thượng Sĩ khẳng định cho Trần Khâm biết rằng, cốt lõi của sự sống an vui và giải thoát, nó vốn có tại đây rồi, đừng chạy đi tìm kiếm ở một nơi nào khác mà vô ích. Câu nói trên tuy ngắn gọn, nhưng thật là thâm sâu, hàm chứa toàn bộ yếu chỉ của Thiền. Và nhờ lời dạy thâm sâu đó, nên sau này đã giúp cho vua Trần Nhân Tông thấu rõ được đạo lý nhà Phật, và về sau vua trở thành sơ tổ của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử.

Nhìn lại, trong tiếng pàli gọi là Ehipassiko. Có nghĩa là, hãy hồi đầu lại, hãy trở về đây mà thấy. Tức là, sự sống đích thực đang có mặt tại đây, ta hãy trở về sống trọn vẹn và thừa hưởng với những gì đang biểu hiện. Nhìn lại, là ta thấy rõ sự vận hành của thân tâm, cũng như hoàn cảnh đương tại. Nhìn lại, là trạng thái tâm ý tỉnh thức và trong sáng, không bị mê mờ hay dao động bởi ngoại cảnh. Mỗi khi tâm ý trở về trọn vẹn với tự thân, ta sẽ cảm nhận được những dòng dấy khởi từ thân tâm mình một cách rõ ràng. Nhờ biết rõ những hiện thực ấy, nên ta làm chủ được bản thân mình, và đồng thời không bị “cái ta” sai sử, chi phối.

Trong đời sống hằng ngày, ta thường quên nhìn lại chính mình, nhất là khi đi tới những nơi đông người. Khi đi chợ hay là vào siêu thị để mua sắm, ta dễ bị hoàn cảnh ở nơi đó thu hút. Những lúc ấy, ta không biết rõ là mình đang làm gì, mà chỉ hành xử theo thói quen của bản năng và quán tính. Trong mọi sinh hoạt cũng thế, ta thường bị “cái ta” điều động và làm theo như một công thức có sẵn. Khi ai nói một câu gì khó nghe thì lập tức cái ta xen vào để phản ứng, chia chẻ và phân tích đúng sai, hay dở, tốt xấu v.v… Lúc đó, ta không thấy rõ được sự vận hành của tâm ý như mình thế nào cả, nên không làm chủ được chính mình, từ đó ta nỗi giận la mắng người ấy hoặc dùng mọi thủ đoạn để buộc tội hay trừng phạt lại đối tượng đã làm cho mình khổ! Hiện trạng bực bội này, làm cho thân thể ta gồng cứng lên, những tế bào co rúm lại và khuôn mặt biến dạng đỏ phừng phừng hoặc tái nhạt đi, tim đập không đều, khó thở, máu huyết bị tắc nghẽn. Chúng ta thừa biết rằng, mỗi khi máu trong cơ thể không được lưu thông thì sẽ dẫn đến đủ thứ những căn bệnh phát sinh. Vì vậy, không hiểu rõ và làm chủ chính mình sẽ tác hại cho tự thân và những người xung quanh. Do đó, đối với bản thân mình ta không biết thương yêu, mà còn tạo ra đau khổ thì làm sao ta có thể thương yêu ai được? Thế thì, ta muốn thương yêu mọi người, trước hết phải biết thương lấy chính mình. Mà thương yêu bản thân mình thì phải có cái nhìn sâu sắc vào trong đời sống hằng ngày, để biết rằng, ta nên tiếp xúc và tiêu thụ những gì, nhằm đem lại sự lợi ích cho tự thân, và cho những người chung quanh.

Thực ra, khi trở về với chính mình, ta sẽ học ra được rất nhiều kinh nghiệm; từ những nỗi khổ niềm đau, giận hờn, ghen ghét, sự phản ứng v.v… Tất cả những diễn biến ấy, đều là bài học quý giá cho ta cả, và đồng thời trí tuệ cũng được biểu hiện từ giây phút ấy. Có thể nói rằng, những người có tình thương lớn, là nhờ họ trải qua rất nhiều cay đắng trong cuộc đời, nên họ dễ dàng buông xả, thông cảm và thương yêu đối với mọi người xung quanh. Như những người cha, người mẹ hiền cũng vậy, sở dĩ các nhà văn, nhà thơ ca ngợi, diễn tả công lao của cha mẹ đối với con cái được ví như núi non, như trời biển … là vì cha mẹ chịu quá nhiều thiệt thòi, cực khổ, gian nan để nuôi dạy cho con cái của mình khôn lớn, mà không bao giờ tính toán hoặc đặt điều kiện gì với người con thân yêu của mình cả. Do đó, nên cha mẹ được xứng đáng cho những người con tôn thờ và kính ngưỡng. Thực ra, cũng nhờ có sự trải qua nhiều bài học đắng cay, gian khó như thế, nên giúp cho tình thương và sự kham nhẫn của người cha, người mẹ được lớn thêm lên. Vì thế, cái gì cũng có hai mặt của nó, tùy theo cách nhìn nhận ở nơi mỗi người mà có đúng hay là sai.

Do vậy, nhìn lại chính mình là vấn đề rất quan trọng cho đời sống của chúng ta. Có khi nào bạn ngồi yên và lắng lòng để nghe những tiếng nói thì thầm trong tâm mình chưa? Bạn đã từng nhận diện rõ ràng hơi thở vào và hơi thở ra từ ở nơi thân tâm mình hay không? Hơi thở như bà mẹ hiền, đã nuôi dưỡng cho bạn sống mấy mươi năm nay, nhưng có khi nào bạn quan tâm nhìn lại hơi thở và tỏ lòng biết ơn đến nó chưa? Hơi thở rất là quan trọng, bởi nó chỉ cần ngừng thở trong vòng một vài phút thì bao nhiêu sự nghiệp mà bạn gầy dựng được, kể như tiêu tan trong chốc lát. Thế mà chúng ta vô tình quên lãng và xem thường, đến khi nằm hấp hối trên giường bệnh thì lúc bấy giờ ta mới thấy sự hiện hữu của hơi thở cho đời sống của con người rất là quan trọng đến mức độ nào! Và khi đó, cho dù ta có tiếc nuối và hối hận gì chăng nữa thì cũng đã quá muộn màng!

Vì vậy cho nên, khi nhìn lại chính mình ta sẽ được tự do và bình an trước mọi xung đột, phức tạp xảy ra trong đời sống này. Mỗi khi tâm ta bình thản, tươi mát thì tình thương chân thực đồng thời cũng được biểu hiện. Nhờ đó, khi tiếp xúc với mọi hoàn cảnh éo le, tiêu cực xảy ra thì ta cũng dễ dàng buông xả và tha thứ cho những ai đang còn yếu kém, vụng về hay lầm lỡ! Trong tâm ta không còn ôm ấp nỗi hiềm hận hay oán ghét ai cả, bởi nhờ có cái nhìn trong sáng và thâm sâu vào thực tại đang là!

Viên Ngộ
 
 

Cuộc Hợp Tan - Thượng Tọa Thích Phước Tịnh



Đừng Phí Phạm Kiếp Người - TT Thích Phước Tịnh



Phần 1 :



Phần 2 :


Thursday, November 24, 2011

Quán chiếu để tự chuyển hóa


Tóm lại, Tứ Vô Lượng Tâm là một phương pháp tu tập thiền quán. Mới nghe đến Tứ Vô Lượng Tâm, ta cảm nghĩ giáo lý này hướng về tình cảm, nhưng tình cảm của Tứ Vô Lượng Tâm được tạo bằng chất liệu trí tuệ, tức là thiền quán. Tâm Từ chứa Bi, chứa Hỷ, và chứa Xả. Tình thương mà còn kỳ thị, còn phân biệt, tình thương mà không có niềm vui thì chưa phải là tình thương trong đạo Bụt. Tâm Bi cũng phải được làm bằng chất liệu của Từ, Hỷ, và Xả. Hỷ mà không có Từ, Bi, và Xả thì cũng không phải là Hỷ trong đạo Bụt. Xả trong đạo Bụt có nghĩa là không dính mắc, không phân biệt, kỳ thị, nhưng không có nghĩa là trốn tránh trách nhiệm. Phải có một thệ nguyện, một sự cam kết. Đây không phải là dửng dưng như người ta hiểu khi dịch Xả là indifference. Xả đây có nghĩa là Bất Xả, tức là buông nhưng không bỏ. Chúng ta khấn nguyện: ‘‘xin chư Phật từ bi bất xả’’. ‘‘Các vị Bụt xin đừng có bỏ con tội nghiệp’’. Xả đây không có nghĩa là không thương mà lại là bí quyết của tình thương chân thật trong đạo Bụt. Tứ Vô Lượng Tâm là giáo lý của Bụt về tình thương (the Buddhist teachings on love). Edward Conze khi viết về Từ, Bi, Hỷ và Xả đã gọi giáo lý này là ‘‘The cultivation of social emotions’’, như vậy đã là làm nghèo nội dung của bốn tâm vô lượng.


Tu tập bốn tâm này, ta sẽ đi tới giải thoát hoàn toàn, chứ không phải chỉ để có mục đích sanh lên cõi trời Phạm Thiên. Trong thời đại Bụt nhiều người tin tưởng ở Phạm Thiên (Brahma). Ao ước của họ là khi chết được sinh lên và cộng trú với Phạm Thiên, cũng tương tợ như những tín hữu Cơ Đốc giáo mong được về nước Chúa. Trong kinh, Bụt đã có một thái độ rất từ Đi đối với những người tin vào một Đấng Tối Cao và ước ao sau khi chết trở về gần gũi với Đấng Tối Cao ấy. Bụt không có thái độ đả phá. Bụt nói rằng Phạm Thiên, Brahma, là một đấng có Từ, có Bi, có Hỷ, và có Xả. Nếu quý vị muốn lên sống bên Ngài thì quý vị phải tu Từ, Bi, Hỷ, và Xả. Bụt không nói: ‘‘Không có Phạm Thiên đâu. Bạn đừng hy vọng hão huyền. Bạn hãy tu theo tôi và hãy từ bỏ tất cả những tín ngưỡng của bạn.’’

Nếu bậc Thầy của chúng ta đã làm như thế thì ta cũng nên theo con đường ấy. Giáo lý Cơ Đốc dạy rằng Thượng Đế là tình thương (Dieu est amour). Người Phật Tử chúng ta cũng phải nói: ‘‘Thượng đế là tình thương. Nếu muốn được Chúa yêu mến, nếu muốn về nước Chúa, quý vị phải thực tập tình thương chân thật’’. Và theo chúng tôi, tình thương chân thật phải có chất liệu của Từ, Bi, Hỷ và Xả. Rồi chúng ta đề nghị những phương pháp thực tập tình thương cụ thể. Tình thương mà người đời xử dụng có ý nghĩa rất mù mờ. Có khi thương nghĩa là đam mê, vướng mắc, khổ đau; đó không phải là tình thương đích thực ta nên thực tập. Vì vậy quý vị có thể sử dụng những phương pháp nuôi dưỡng, và phát triển tình thương nơi mình. Như thế chuyện trở về với Thượng đế, sống bên Thượng đế mới trở thành ra sự thật được. Con người đầy hận thù làm sao có thể sống chung với Đấng Tình Thương?

Giáo lý Tứ Vô Lượng Tâm mầu nhiệm vô cùng. Chúng ta hay nói về thương yêu nhưng chúng ta ít nhận biết được bản chất của thương yêu. Chúng ta đã học, chúng ta đã biết những yếu tố nào có thể làm nên tình thương yêu đích thực, và biết những phương pháp cụ thể để tạo ra chất liệu thương yêu, để chuyển hóa cả người thương và người được thương. Phương pháp năm cái lạy, chẳng hạn, rất cụ thể. Ngoài phương pháp đó ra chúng ta còn rất nhiều phương pháp khác nữa. Có một loại tình thương gọi là tình thương chiếm hữu (possesive love) không mang lại tự do, không đích thực là thương. Tình thương đích thực phải có Xả, tức là không kỳ thị và vướng mắc. Vậy tại sao chúng ta không thực tập và không chia sẻ? Tại sao không viết một bài về tự do trong tình thương? Đó là những đề tài rất mới, và cũng rất cũ. Niềm vui trong tình thương là một đề tài khác nên viết. Khi viết ta lấy kinh nghiệm của ta, lấy khổ đau của ta, lấy hạnh phúc của ta làm chất liệu. Ta thấy rằng thực tập đạo Bụt không khô khan chút nào. Thực tập trong đạo Bụt đem lại niềm vui và sự chuyển hóa. Đó là nhờ tình thương đích thực trong bốn tâm vô lượng.