LỜI TỰA
Đấng Như Lai ứng thế, vì muốn cứu vớt các loài phàm linh khỏi khổ luân hồi, chứng lên quả Phật, nên mở cửa phương tiện, nói ra muôn ngàn pháp môn. Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni một trong các pháp môn là trí ấn của tất cả Như Lai mầu nhiệm rộng sâu, chẳng khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám. Các hàng tứ chúng nếu phát tâm trì tụng, tất hiện đời tội chứng tiêu diệt, phước huệ phát sinh, tương lai sẽ gần gũi chư Phật mười phương Tịn Độ.
KINH PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG ĐÀ RA NI
Nước Kế Tân
Sa Môn Phật Đà Ba Lỵ dịch
Như thế tôi nghe:
Một thời Đức Bạc-Dà-Phạm ờ tại đạo tràng Măng-Tre, trong vườn Thệ-Đà-Lâm Cấp-Cô-Độc, thuộc thành Thất-La-Phiệt, cùng với tám ngàn chúng tỳ kheo câu hội.
Các vị ấy đều là bậc đại A-La-Hán hàng trí thức của quần chúng. Trong đây, những tôn giả như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, A Nan... làm thượng thủ.
Lại có ba vạn hai ngàn Bồ Tát, đều là bậc trụ nơi hạnh Bất Thối chuyển chánh trí, soi sáng tất cả các pháp không còn ngăn ngại vô lượng công đức trang nghiêm, cùng các đại chúng đồng thời câu hội trong ấy các Bồ Tát như: Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại thế Chí Bồ Tát, Mạn Thù Thất Ly Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Trì Địa Bồ Tát, Hư Không Tạnng Bồ Tát, Tịnh Trừ Nhứt Thiết Chướng Bồ Tát... làm thượng thủ.
Lại có một vạn Phạm Thiên Vương do Thiện Tra Phạm Thiên Vương, Thiện Kiến Thiên Vương làm thượng thủ, từ các cõi khác đến dự hội.
Lại có một vạn hai ngàn vị Đế Thích Thiên Vương, cùng với vô lượng Thiên Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩu Na La, Ma Hô Lặc Dà, Cừu Bàn Trà, Tỳ Xá Da, Nhân, Phi Nhân... cũng tụ hội.
Bây giờ Đức Thế Tôn đang được bốn chúng vây quanh, cung kính cúng dường, một lòng chiêm ngưỡng cầu nghe pháp yếu.
Khi ấy tại cõi trời Đao Lợi có vị thiên tử tên là Thiện Trụ ngự tại cung báu lớn, đang cùng với các thiên nữ dự cuộc âm nhạc ca múa vui đùa hưởng lạc. Lúc đó ở thiên giới vào khoảng cuối đêm, bổng nhiên giữa hư không có tiếng gọi bảo: "Thiện Trụ Thiên Tử! Bảy hôm nữa ông sẽ hết phước trời, xã báo thân đoạ xuống cõi Diêm Phù Đề, bảy lần làm cầm thú, thường ăn đồ nhơ uế. Kế đó lại đoạ vào Địa Ngục chịu đủ các sự khổ trải qua nhiều khiếp mới được làm người. Tuy được thân người, nhưng lại đen lùn thô xấu, mù cả đôi mắt, các căn không đủ, hơi miệng thường hôi hám, nghèo khổ hèn hạ, hằng thiếu ăn, thiếu mặc, mọi người trông thấy đều gớm ghét, lánh xa...".
Thiện Trụ Thiên Tử nghe lời ấy rồi, kinh hoàng tột độ, lông tóc đều dựng đứng, ôm lòng sầu muộn, ông vội đem hương hoa cùng các thứ cúng dường, đến chổ Thiên Đế quì xuống dâng lễ, than khóc thuật lại việc trên và thưa: " Nay tôi tâm tư bối rối mê loạn, không biết phải làm thế nào? Cuối xin Thiên Đế xót thương, cứu vớt tôi ra khỏi vòng khổ độc!" Thích Đế Hoàn Nhơn nghe xong, trong lòng rất kih ngạc tự suy nghi4: "Thiện Trụ Thiên Tử đời trước tu phước gì, được sanh lên cõi trời hưởng sự vui thù thắng vi diệu nhiếu năm? Lại kiếp xưa tạo nghiệp chi mà sau khi hết thiên phước, phải chịu bảy lần làm cầm thú, rồi đoạ vào địa ngục, khi được thân người, đôi mắt mù lòa, thọ đủ điều xấu ác?".
Nghĩ như thế rồi, liền nhiếp tâm vào định, dùng thiên nhãn xem: Thấy Thiện Trụ Thiên Tử ở cõi trời mạng chung, liền đoạ làm thân heo, hết thân heo thọ thân chó, hết thân chó thọ thân chồn, hết thân chồn thọ thân khỉ, hết thân khỉ thọ thân rắn độc, thọ thân kên kên, hết thân kên kên thọ thân chim quạ. Trong bảy kiếp làm cầm thú ấy thường ăn những đồ nhơ uế.
Khi thấy như thế, Ngài cũng lo lắng đau xót dùm cho Thiện Trụ Thiên Tử. Thiên Đế lại suy nghĩ: "Thiên nhãn của ta chỉ thấy biết một ít phần, không thể hiểu được những nghiệp nhân sâu xa. Duy Đức Như Lai là bậc Chánh Biến Tri, mới có thể thấu suốt tất cả nhân quả thiện ác. Duy Đức Thế Tôn là Đấng Đại Từ, mới có thể cứu vớt Thiện Trụ Thiên Tử thoát vòng khổ độc. Ta nên đến thỉnh cầu Như Lai về việc này!". Nghĩ đoạn, Ngài liền xuất lãnh Thiện Trụ Thiên Tử cùng chư thiên, đem theo các thứ tràng hoa, hương lạ nhiệm mầu nơi cõi Trời, anh lạc, thiên y, bay xuốn vườn Thệ Đa Lâm Cấp Cô Độc.
Bấy giờ ở cõi nhân gian thời khắc vào khoãng đầu hôm, nhằm lúc chư Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ, tứ chúng như trên đang vân tập. Khi đến nơi, Thiên Đế hướng dẫn Thiện Trụ và thiên chúng đãnh lễ Phật, đi nhiễu quanh ba vòng, dâng hiến lễ cúng dường. Pháp sự đã xong, Thích Đế Hoàn Nhơn quì trước Như Lai bạch lại việc trên và thưa thỉnh rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Thiện Trụ Thiên Tử đời trước tu phước chi, mà được hưởng sự vui nơi cõi trời trải nhiều thời gian? Lại kiếp xưa tạo nhân gì, sau khi hêt phước phải đoạ làm thân cầm thú báy phen, ăn đồ bất tịnh, rồi thọ sự khổ nơi Địa Ngục, sự hèn xấu nơi cõi người? Và do phước nhân nào, cảm được giữa hư không có tiếng mách bảo? Xin Đức Thế Tôn vì chúng con và đại hội nói rõ nhân duyên. Lại cúi xin Đấng Thiên Nhân Sư mở lượng từ bi, cứu vớt cho Thiện Trụ Thiên Tử được thoát vòng khổ ách".
Khi ấy, Đức Như Lai mỉm cười, từ nơi đảnh môn phóng ánh sáng ngũ sắc rộng lớn, soi khắp mười phương cõi Phật. Quang Minh ấy ánh chiếu lẫn nhau, rồi uyển chuyển quay về nhiễu quanh bên hữu Phật ba vòng, trở lại miệng Đấng Điều Ngự. Đức Thế Tôn thu ánh quang minh xong, bảo trời Đế Thích rằng: "Lành thay!
Thiện Nam Tử! Ông khéo vì Thiện Trụ Thiên Tử và đại chúng, hỏi nhân duyên thiện ác tiền sanh. Lại hay vì chúng hữu tình hiện tại và đời sau, mà thưa thỉnh ta nói pháp môn cứu khổ. Lắng nghe! Ta sẽ vì các ông giải thích rành rẽ."
Này Thiện Nam Tử! Cách vô lượng kiếp về trước, có Đức Phật ra đời hiệu là tỳ Bà Thi, Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật ấy sau khi hóa duyên đã mãn, vào Niết Bàn. Trong thời tượng pháp của Ngài, có một quốc gia tên Ba La Nại. Trong nước đó có người Bà La Môn nghèo, chỉ sanh được một người con trai rồii qua đời sớm. Cậu bé ở với mẹ cho đến khi khôn lớn, được giao cho việc nông tác ngoài đồng. Bà mẹ ở nhà lo tảo tần thức ăn, mỗi ngày mang ra ruộng cho con. Một hôm cơm nước đưa đến trễ, đứa con đói khát, sanh lòng hờn giận, dùng lời ác độc mắng rằng: "Mẹ tôi còn thua loài súc sanh! Tôi thấy mấy con heo, chó, chồn, khỉ, rắn, kên kên, quạ, còn biết thương lo cho con của nó! Tại sao bà để cho tôi đói khát mà không đem cơm nước đến!". Do lòng đợi chờ hờn giận, đứa con nói như thế đến ba lần. Giây lát bà mẹ với dáng điệu vội vã mang cơm nước đến, và nói nhiều lời an ủi khiến cho con vui mừng hết buồn giận. Đứa con vừa ngồi xuống sắp dùng cơm, bổng thấy giửa hư không có vị Bích Chi Phật hình tượng Sa Môn, bay từ phương Nam qua phương Bắc. Người con thấy rồi sanh lòng kính ngưỡng, đứng lên chấp tay cúi đầu đảnh lễ, thỉnh vị Bích Chi Phật giáng lâm. Bích Chi Phật nhận lời từ từ đáp xuống. Đứa con vui mừng trải tranh trắng làm tòa ngồi, dâng hiến hoa sạch đẹp, giảm phần ăn của mình cúng dường Sa Môn. Sau khi thọ thực xong, Bích Chi Phật lại vì người con ấy nói pháp yếy khiến cho được vui lòng.
Về sau người con xuất gia, chư tăng cử cho làm chức trị sự. Lúc ấy có người Bà La Môn xây cất tăng xá vừa xong, ngày khánh thành khách tăng hội đến, lại có thí chủ đem nhiều tô du và sữa đặc cúng dường. Ông trị sự hiềm vì khách tăng luôn luôn làm cho phiền rộn, nên không đem tô du và sữa ra thết đãi.
Mấy vị khách tăng hỏi: "Những thức ăn đó là do đàn việt cúng dường hiện hiền tăng, sao không thấy dọn ra?" Ông trị sự tánh nóng vội liền cất tiếng mắng rằng: "Bộ mấy ông đui mù hết cả sao? có tô du và sữa đâu mà bảo tôi cất dấu? Nếu muốn đòi thêm nữa thì chỉ có phân và nước tiểu để cho các ông ăn mà thôi!"
Đức Phật bảo Đế Thích: "Đứa con của người Bà La Môn nghèo đó là Thiện Trụ Thiên Tử hiện nay. Do kiếp trước hờn giận dùng lời ác gọi bảy tên cấm thú mắng mẹ. Nên phải chịu bảy phen làm cầm thú. Bởi khi làm trị sự thốt ra lời nhơ uế mắng chư tăng, nên nghiệp cảm thường ăn đồ nhơ uế bất tịnh. Do bỏn sẻn giử riêng thức ăn của hiện tiền tăng nên bị quả báo địa nguc và chịu hèn nghèo thô xấu trong kiếp người. Bởi mắng chư tăng là đui mù, nên bảy năm trời phải chịu mù đôi mắng sống trong cảnh tối tăm nhiều điều khổ nảo. Nếu biết những tội nghiệp như thế, đã có nhân tất phải trả quả, ảnh hưởng không tiêu mất.
Lại nữa Thiên Đế! Thiện Trụ Thiên Tử được hưởng sự vui thù thắng dịu ở cỏi trời là do kiếp trước trải tòa hoa, cúng dường thức ăn cho vị Bích Chi Phật và nhờ ảnh hưởng của sự nghe chánh pháp. Lại do đời trước chấp tay ngửa lên hư không, hết lòng kính thỉnh, cúi đầu đảnh lể vị Bích Chi Phật, bởi công đức ấy nên được nghe giữa hư không có tiếng mách bảo cho biết trước. Đó là tiếng vị thần giữ cung điện của Thiện Trụ Thiên Tử vậy!
Khi ấy Thiện Trụ Thiên Tử nghe lời Phật dạy, biết nghiệp mình đều có túc nhân, hết sức ăn năn tự trách. Ông gieo mình đảnh lễ trước Phật, tỏ bày tội lỗi, cầu xin sám hối thương khóc sa nước măt như mưa huyết lệ rơi ứ đọng trên chiếc khăn trong giỏ đựng hoa, chết ngât hồi lâu mới tỉnh lại.
Đức Phật bảo Đế Thích và Thiện Trụ Thiên Tử: "Trong mười nghiệp ác, khẩu nghiệp rất mãnh liệt, phải biết lời ác còn quá hơn lửa dữ. Lửa dữ chỉ thiêu đốt tài sản của báu thê gian. Lửa gian ác khẩu chẳng những đốt hết thất thánh tài và tất cả công đức xuất thế, mà còn chiêu cảm ác báo về sau. Như Thiện Trụ Thiên Tử chỉ vì nóng giận mắng mẹ và chư tăng, mà tổn phước trời, phải chịu thân cầm thú và địa ngục.
Cho nên, đối với cha mẹ và chư tăng, lẽ ưng tôn trọng cung kính cúng dường, dùng lời dịu dàng khen ngợi, thường nghĩ đến ân đức, chớ nên kinh huỷ. Lòng từ ái giữa trần gian chỉ có cha mẹ, ruộng phước trong ba đời không chi hơn chúng tăng. Các bậc chân tăng hiền thánh, nếu cúng dường thì công đức không mất. Như muốn tiếng thêm, muốn cầu pháp xuất thế, lại có thể thành đạo. Đâu nên đối với chúng tăng vội thốt lời khinh chê, huỷ nhục! Còn cha mẹ công sanh dưỡng rất khó nhọc, mười tháng cưu mang khổ nặng, ba năm bú sữa mớm cơm. Trải đủ sự lo lắng gian lao lo nuôi con khôn lớn, dạy dỗ, cho học hành, mong con được thành lập, tài đúc hơn người. Nếu con xuất gia, lại mong cho con đắc đạo thoát vòng sanh tử. Ân niệm ấy cao rộng như biển trời. Vì thế, ta đã bảo A Nan:
Nếu có người vai bên trái cõng cha, vai bên phải cõng mẹ đi bên núi Tu Di trăm ngàn vòng, huyết chảy ngập hai bàn chân, còn chưa thể báo công ơn sanh dưỡng, huống chi lại khởi niềm hờn giận buông lời khinh mắng ư!
Này Thiên Đế! Thiện Trụ Thiên Tử nay do thấy ta, chí tâm sám hối nên đạo nhãn trong sáng, tội cũng trừ diệt. Đức Thế Tôn lại nhìn Thiện Trụ Thiên Tử an ủi rằng: "Ông chớ nên quá lo buônthừơng khóc! Ta có pháp môn tên là Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni. Ông trì chú này tất sẽ thoát khỏi vòng khổ ách. Môn Đà Ra Ni đây, vô lượng hằng hà sa chư Phật đời quá khứ đã nói, ta nay cũng sẽ diễn nói. Trong các thần chú về Phật Đảnh, môn Đà Ra Ni này rất tối tôn, tối thắng, hay trừ tất cả sự khổ não trong nẻo luân hồii của tất cả chúng sanh!
Thích Đế Hoàn Nhơn nghe Phật nói rất vui mừng, một lòng khát ngưỡng, thưa rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Cúi xin Như Lai thương nghĩ Thiện Trụ và bọn chúng con vì chúng sanh đời mạt pháp về sau, tuyên thuyết pháp môn Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni. Chúng con sẽ tuân hành và nguyện cho tất cả loài hữu tình đều thoát khỏi sự khổ tam đồ bát nạn!"
Bấy giờ Đức Như Lai vì Thiên Đế, Thiện Trụ Thiên Tử, bốn bộ chúng và nghĩ thương chúng sanh thời mạt pháp đời sau, dùng giọng Phạn âm trong sáng, thanh diệu hoà nhã như tiếng chim ca Lăng Tần Già, thuyết chú rằng:
PHIÊN ÂM VIỆT NGỮ
01. Namô ba ga pha thê
02. Sạt hoa tát răn lô ky đa
03. Bơ-ra di vi ti sắc tra đa
04. Bút đà da ba ga pha tê
05. Tát di da that
06. Um!Bút rum, bút rum, bút rum
07. Suýt đà da, suýt đà da
08. Vi suýt đà da vi suýt đà da
09. Á sà ma sá ma
10. Sa măn tá phạ hoa sát
11. Sa phà ra na ga ti ga gạ na
12. Xoa phạ hoa vi suýt đi
13. Á vi chuân da đu măm
14. Sạt hoa tát thá ga đa
15. Sú ga đa
16. Phạ ra phạ ca nã
17. A mi rị tá, bi sá ưu
18. Maha muýt đơ ra măn đa ra bana
19. Um! Á hạ ra, á hạ ra
20. A du săn đà ra ni
21. Suýt đà ha, suýt đà ha
22. Ga ga na, xoa phạ hoa vixuyt di
23. U sắc ni sá vi ca da đi suýt đi
24. Sá hạ sa ra, ra sa mi săn tô ni tê
25. Sá ra hoa tát thá ga da
26. A hoa lô ki ni
27. Sẹt hoa tát thá ga đa mát tê
28. sá tra bá ra mi tá
29. Ba ri bù ra ni
30. Na sá bù mi bo ra, đi sắc si tê
31. Sá ra hoa tát thá ga do hất rị đà da
32. Di sắc sá na
33. Di sắc si tê
34. Um!Muýt đơ rị, muýt đơ ri, ma ha muýt đơ ri
35. Hoa đi ra ca da
36. Săn hạ da ná vi suýt di
37. Sá ra hoa ca ma, phạ ra ma vi suýt di
38. Ba ra đu ri ca ti, bi ri vi suýt di
39. Bơ ra ti na hoa ra đá da a dục
40. San ma dã đi sắc sá na, đi sắc si tê
41. Um! ma ni ma ni, mạ ha ma ni
42. Á ma ni á ma ni
43. Vi ma ni, vĩ ma ni, mạ hạ vĩ ma ni
44. Mát di mát di, mạ hạ mát di
45. Tát thá đá bủ da
46. Cu thi vi ri suýt di
47. Vĩ sa phổ ra, bút di vi suýt đi
48. Um! hi hi
49. Dá ra, đá ra
50. Vĩ đá ra, vĩ đá ra
51. Sa ma ra, sa ma ra
52. Sa phạ ra, sa phạ ra
53. sa ra phạ, bút da
54. Đi sắc sá na
55. Đi sắc si tê
56. Suýt ti, suýt ti
57. Hoạ di ri, hoạ di ri, maha hoa di ri
58. Á hoạ di ri
59. Hoạ dí ra gạ bi
60. Dá ra gạ bi
61. Vĩ đá ra gạ bi
62. Hoạ di ra, rít hoạ lã, gạ bi
63. Hoạ di rô, na gà tê
64. Hoạ di ro, na gà tê
65. Hoạ di ra sam bà vê
66. Hoạ di rô, hoa di rị na
67. Hoạ dị rảm, hoa phạ đô mạ mạ
68. Sá rị rảm, sa ra phạ, sát ta phạ nam
69. Tà ca da, bi ri vi suýt di
70. Sất da hoa phạ đô mi sát na
71. Sa ra phạ, ga ti, bi ri suýt di
72. Sá ra phạ, tát tha ga da, sất đa mi
73. Sá ma sa phạ sát dăn tu
74. Sạt hoa tất tha ga đa
75. Sá ma sa phạ sa đi sắc si tê
76. Um! Sất di da sất di da
77. Bút đi da, bút di da
78. Vi bút đi da, vi bút đi da
79. Bồ đà da, bồ đà da
80. Vi bồ đà da, vì bồ đà da
81. Mô ca da, mô ca da
82. Vi mô ca da, vi mô ca da
83. Suýt đà da, suýt đà da
84. Vi suýt đà da, vi suýt đà da
85. Sa măn đà da, sa mi
86. Sa măn đá da, sa mi bi rị suýt đi
87. Sá ra phạ tát thá ga đá sam ma da hất rị đà da
88. Đi sắc sá na, đi sắc si tê
89. Um! Muýt đơ rị, muýt đơ ri mạ hạ
90. Mạn đà ra bá na
91. Đi sắc si tê
92. Sóa ha
Thuyết chú xong Đức Như Lai bảo rằng:
Này Thiên Đế! Môn Như Lai Quán Đảnh, Thanh Tịnh Chư Thú, Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni này, tám mươi tám câu chi, trăm ngàn hà sa chư Phật đã tuyên thuyết, và nguyênmật thủ hộ, tùy hỷ, ngợi khen. Tất cả Như Lai đều đồng ấn khả. Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhơn nào thọ trì hoặc đọc tụng, do công đức ấy những tội ngũ nghịch thập ác trong trăm ngàn muôn kiếp đều được tiêu diệt, sẽ chứng quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Kẻ ấy trong hiện tại sẽ được Túc Mạng Trí, rồii sanh từ cõi trời này đến cõi trời khác, tự cõi Phật này đến cõi Phật khác. Kẻ ấy sẽ được chư Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Thế Chí xoa đầu thọ ký, thường ở nơi đạo tràng nghe hiểu và thọ trì chánh pháp. Kẻ ấy ba nghiệp thân, khẩu, ý hằng thanh tịnh, tâm an vui, thân khổ dứt trừ, những xúc giác nhẹ lành, thọ mang tăng thêm, không bị hại tử. Kẻ ấy đưọc chư thiện thần hộ vệ, chư Bồ Tát từ ái, chư Phật hộ niệm. Người thọ trì chú này, đến cõi địa ngục, ngạ quỉ, Diêm Ma Vương đọc tụng, các tội phạm nơi đó đều được giải thoát, cảnh giới trống rỗng. Các cung trời, cung điện Bồ Tát, cung điện Cõi Phật đều mở cửa trước người thọ trì vào.
Tại sao thế? Bởi môn Đà Ra Ni này, hay trừ sạch tội ngũ nghịch, thập ác của chúng sanh, hay cứu tất cả sự khổ nạn trong cảnh Diêm Ma, Bàng Sanh, Ngạ Quỉ, Địa Ngục, hay độ thoát tất cả chúng sanh nghiệp dày, phước mỏng, nghèo nàn, hèn hạ, đau bịnh, tàn tật, yếu thọ, xấu xa, câm ngọng, đui điếc hay cứu vớt các loài A Tu La, Dạ Xoa, La Sát, Phú đơn na, Ca tra Phú đơn na các thân quỉ thần, cho đến hay độ thoát các loài thủy tộc, phi cầm, tẩu thú, rắn rết, ruồii muỗi, côn trùng. Các chúng sanh ấy tuỳ phận sẽ được sanh lên các cãnh giới an lành, và lần lượt đều chúng giải thoát.
Này Thiên Đế! Nếu có người thọ trì chú ấy, từ kiếp hiện tại trở về sau, vĩnh viễn xa lìa khỏi ác đạo thường sanh trong giòng quý tộc ở cõi trời, cho đến được cùng mười phương Chư Phật đồng ở một chỗ, cùng chư Bồ Tát làm bạn lành, và kết cuộc sẽ chứng quả vô thượng đẳng giác.
Này Thiên Đế! Môn Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni này, của ta đây, có đủ thần lực uy thế, công đức rộng lớn, như mặt trời kiết tường, như châu mai trong sạch, sáng suốt không bợn nhơ, tùy ở chỗ nào phóng ánh quang minh làm sáng sạch ở nơi đó. Lại nữa, như bảy báu thù thắng ở thế gian, tất cả hàng vua quan dân chúng đều ưa thích nhìn không chán. Môn Đà Ra Ni này cũng thế, nên thọ trì, đọc tụng, biên chép hoặc cúng dường, kẻ ấy sẽ được vô lượng công đức, tất cả thiên long bát bộ đều ưa kính, quý trọng.
Này Thiên Đế! Hàng vua quan tứ chúng nếu biên chép Đà Ra Ni này để trong tháp bảy báu, nơi toà bảo sư tử, nơi tháp ở ngã tư đường, trong tháp xá lợi, hoặc nơi đầu phướng cao: lại dùng các thứ hương hoa, anh lạc, y phục, thức ăn uống, thuốc men cúng dường, kẻ ấy công đức vô lượng vô biên, phước trí không thể tính kể. Kẻ ấy là đích tử của Phật, là Bồ Tát Ma Ha Tát, vị cứu vớt được vô lượng chúng sanh đi qua lại nơi đó. Nêu có chúng sanh nào phạm tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác, các trọng giới và tất cả tội nặng, ưng đoạ tam đồ thọ khổ, mà đi ngang qua tháp hoặc phướng có để Đà Ra Ni này được một điểm bụi hay chút gió từ tháp phướng ấy dính nhiễm đến thân mình, hoặc được bóng tháp phướng che, thì tất cả tội nặng đều tiêu trừ, sanh về cõi trời hướng sử vui thắng diệu, hoặc tuỳ duyên sanh về tịnh độ.
Kẻ nào thọ trì Đà Ra Ni này, khi sắp tụng niệm dùng nưóc rửa tay, nước đổ rơi xuống đất rưới nhằm loại trùng kiến, các vật loại ấy đều được ảnh hưởng công đức sanh lên cõi trời, cho nên các hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thiện Nam, Tín Nữ, nếu trai giới thanh tịnh, sáu thời thọ trì Đà Ra Ni này, thì các tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác, cùng tất cả tội nặng trong ba đời thảy đều tiêu diệt, được Chư Phật, Bồ Tát xoa đầu thọ ký.
Bấy giờ đã quá nửa đêm, Diêm Ma La Vương, Hộ Thế Tứ Thiên Vương, Đao Lợi thiên Vương, Da Ma thiên vương, Đấu Xuất Đà Thiên Vương, Hoá Lạc Thiên Vương, Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương, Phạm Thiên Vương, Đại Phạm Thiên Vương, xuất lãnh quyến thuộc trăm ngàn muôn ức, đem theo các hương hoa và các thứ trang nghiêm đến nhiễu quanh bên hữu Phật bảy vòng, đành lễ nơi chân, rồii hiến dâng thức cúng dường. Lễ kính đã xong, lại thưa thỉnh rằng:
"Bạch Đức Thế Tôn ! Chúng con nghe Như Lai diễn thuyết môn Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni nên đến đây xin thỉnh thọ và tuỳ thuận lời dạy mà thủ hộ. Cúi xin Đấng Thiên Nhân xư vì chúng con nói pháp yếu về thân chú này để cho sự thọ trì của chúng con được thông suốt và thành tựu.
Đức Phật bảo vua Diêm Ma La vương và các vị Thiên Vương:
Lắng nghe! Ta sẽ vì các ông, tuần tự giải thuyết:
- Nếu có chúng sanh nào bị khổ nạn, tộii chướng cực nặng không ai cứu độ, nên chọn ngày trăng sáng tắm gộii, mặc y phục sạch sẽ, thọ bát quan trai giới, quỳ trước tượng Phật tụng Đà Ra Ni này 1080 biến, thì tất cả tội nghiệp chướng nan đều tiêu diệt. Kẻ ấy sẽ được thanh tịnh giải thoát, được môn Tổng Trì Đà Ra Ni, biện tài vô ngại.
- Nếu có kẻ nào tuy chưa trì tụng, mà chỉ nghe một âm thanh của Đà Ra Ni này lọt vào tai, tức liền thành tựu hạt giống Phật, ví như một hạt Kim Cương rơi xuống đất, tất lần lượt xuyên lọt đến nơi bản tế mơi dừng, đất tuy dầy không thể làm trở ngại được. Thần chú cũng thế, khi đã lọt vào tai, liền huân tập khiến cho lần lần thành quả chánh giác, phiền não tuy nặng cũng không thể ngăn che. Dù kẻ ấy có bị đoạ vào cõi Đĩa Ngục, Ngạ Quỉ, Bàng sanh, cũng không bị nghiệp báo làm cho hạt giống đó tiêu mất, mà còn nương sức chú, lần lượt tiến tu cho đến khi thành Phật.
Nếu chúng sanh nào một phen nghe được Đà Ra Ni này, qua kiếp hiện tại, sẽ không còn bị các tật bịnh và các sự khổ não, cũng không thọ thân bào thai, tuỳ theo chỗ sanh hóa hiện nơi hoa sen. Từ đó về sau, ngũ nhãn lần lần thanh tịnh được Túc Mạng trí, kiết sử tiêu trừ, sẽ chứng quả Vô Thượng Đẳng Giác.
Nếu có kẻ nào mới chết, hoặc chết đã lâu, có người tụng 21 biến Đà Ra Ni này vào một nắm đất hoặc cát, rải lên thi hài, kẻ ấy sẽ được sanh về mười phương Tịnh Độ. Như người chết thần thức đã bị đoạ vào Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Bàng Sanh, khi đất cát ấy dính vào hài cốt, cũng được thoát khỏi ác thú, sanh lên cõi trời.
Nếu chúng sanh nào mỗi ngày tụng chú này 21 biến, thì kẻ ấy ứng tiêu được sự cúng dường rộng lớn của tất cả thế gian, khi xả báo thân sẽ sanh về thế giới Cực Lạc. Kẻ nào thường tụng niệm sẽ được tăng thọ mạng, hưởng sự vui thù thắng, tương lai sanh về 10 phương Tịnh Độ, nghe pháp mầu, được thọ ký ánh sáng nơi thân chiếu tất cả cõi Phật, và chứng đại Niết Bàn.
Nếu muốn được oai lực tự tại hành giả dùng các thứ như bột nếp, bột gạo v.v. nắn thành hình người để tám phương hướng nơi đàn tràng, trong bảy ngày đêm đối tám phương mà tụng chú, tất cả sẽ được như ý.
Nếu nước lụt dâng, hướng về nơi đó tụng chân ngôn này 108 biến cầu nguyện, thì nước sẽ rút kui.
Nếu bị nạn vua, nạn quan, nạn binh, nạn giặc cướp, nạn khẩu thiệt, tụng chú này 21 biến vào năm thứ nước thơm đem rưới lên đảnh Phật và tắm Phật, các nạn sẽ được tiêu diệt.
Nêuchúng sanh nào tướng mạng yểu, muốn cầu sống lâu, nên chọn ngày trăng sáng, tắm gội, mặc y phục sạch, một lòng trai giới, tụng chú này đủ 1080 biến, sẽ được trường thọ, tất cả tội chướng đều được trừ diệt.
Nếu có người tụng chú này một biến vào lỗ tai của bất kỳ loài cầm thú nào, thì sanh loại ấy hết kiếp đó không còn thọ thân cầm thú, dù nó có nghiệp nặng sẽ bị đoạ vào địa ngục cũng được thoát ly.
Nếu kẻ nào bị bịnh trầm trọng, chịu ngiều đau khổ, được nghe Đà Ra Ni này, sẽ lìa bịnh khổ, tội chướng tiêu diệt. Cho đến các chúng sanh trong bốn loài nghe được chú này, đều xả bịnh khổ, lìa thân bào thai, hoá sanh nơi hoa sen tuỳ theo chỗ sanh nhớ biết đời trước không quên mất.
Nếu có chúng sanh nào vừa mới lớn khôn đã tạo các tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác cho đến lúc tuổi già tự suy nghĩ biết mình do nghiệp ác này sau khi mãn phần sẽ đoạ vào Địa Ngục A Tỳ, chịu khổ lớn trải qua nhiều kiếp, rồi xoay vần luân hồi trong ba đường ác không ai cứu vớt. Người ấy nên chọn ngày rằm, tắm gội, mặc y phục tinh khiết, dùng cái bát vàng, bạc hoặc đồng có dung lượng chứa nước khoảng một thăng đựng nước trong sạch để trước tượng Phật, thọ giới Bồ Tát, trì trai thanh tịnh. Vào ở nơi đàn tràng, hình đứng vào vị thế ở phương Đông, hướng mặt về tượng Phật ở phương Tây, đảnh lễ chí thành sám hốii, rồii tụng Đà Ra Ni này 1080 biến, giữa chừng không gián đoạn. Kế đó dùng nước ấy rưới bốn phương và trên dưới nguyện cho tất cả đồng được thanh tịnh. Làm phép này xong, tất cả tội chướng tiêu diệt, thoát khỏi tội báo Địa Ngục Tam Đồ, vua Diêm La buông tha, thần Tu Mạng vui đẹp, không sanh giận trách, trở lại chấp tay cung kính, tuỳ hỷ ngợi khen công đức.
Nếu muốn cứu độ người tội nặng nên chọn ngày rằm tụng chú này vào mật hoặc sữa 1080 biến, rồi cho người đó ăn. Làm như thế đương nhơn sẽ tiêu trừ tội chướng, sanh về cõi lành, lần lượt tiến tu, chứng quả vô thượng đẳng giác.
Nếu tụng 21 biến chân ngôn này gia trì vào tăm xỉa răng, rồi đem dùng, có thể trừ bịnh đau răng, được khoẻ mạnh thông minh, trường thọ.
Nếu muốn cứu độ tội khổ của loài súc sanh nên gia trì chú này vào cát hoặc đất vàng 21 biến rồi rải lên mình chúng và bốn phương, tội chướng của chúng nó sẽ được tiêu trừ.
Nếu có chúng sanh nào muốn được phước đức đầy đủ, muốn cầu tài bảo xứng, ý muốn cứu độ mình và người, nên khởi lòng lành mỗi ngày phát nguyện sám hối, đối trước tượng Phật kiết ấn tụng chú này bảy biến, tâm không tán loạn, mắt nhìn tượng Phật không di động, rồii đem công đức ấy hồi thí cho tất cả chúng sanh. Tác pháp và có tâm lành như thế quyết định sẽ được như nguyện, tăng phước lộc trong hiện tại, cho đến cả những đời sau.
Nếu hành giả ở nơi đạo tràng, mỗi ngày ba thời, mỗi thời tụng chú này 21 biến gia trì vào chén nước sạch rồi dùng tâm trân trọng bưng chén nước uống. Làm như thế sẽ tiêu trừ các bệnh, sống lâu trăm tuổi, giải mối oan kết, tiếng nói thanh diệu, biện tài thông suốt, mỗi đời thường được Túc Mạng Thông nhớ biết tiền kiếp. Nếu đem chén nước ấy rưới trong phòng nhà, cho đến chổ chuồng trâu ngựa, thì nơi đó sẽ được oai lực của chân ngôn giữ gìn an ổn, trừ khổ các nạn: la sát, rắn, rồng. Như đem chén nước ấy, miệng tụng chú, rưới lên đảnh người bịnh và cho bịnh nhơn uống, các thứ bịnh nặng sẽ tiêu trừ.
Nếu muốn tiêu trừ các tai chướng, nên dùng vải vụn lụa năm sắc kết làm cây phất trần. Kế đó tụng chú nơi cây phất quét bụi nơi tượng Phật và kinh. Thường làm như thế chướng nạn của mình sẽ tiêu mà tội nghiệp của chúng sanh cũng được trừ diệt.
Nếu bị nhiều khẩu thiệt và tai tiếng phát khởi nên dùng châu sa hòa với bạch mật hoặc đường cát trắng, tụng chú vào đó 21 biến, rồi đem thoa vào môi 100 tượng Phật. Làm như thế khẩu thiệt tai tiếng sẽ tiêu trừ.
Nếu vợ chồng chán ghét nhau, muốn được hoà thuận, tụng chú này vào vải hoặc lụa 21 biến, đem may áo cho chồng hoặc vợ mặc. Làm như thế vợ chồng sẽ được hoà thuận.
Nếu người nam hay nữ bị ma quỉ khuấy rối, hoặc phần âm yêu đám quyến luyến không buông tha, nên giữ chánh niệm vừa tụnng chú vừa xoa khắp mình nạn nhân, kẻ đó lây tay vổ vào thân, ma quỉ liền bỏ chạy.
Nếu người nử không có ai đến cưới hỏi, nên dùng muối tốt sạch, tụng chú vào đó 108 biến, rồi đem cúng dường cho hiện tiền tăng, tất sẽ được như ý.
Nếu chổ ở có quỷ thần dữ khuấy rối nên tụng chú vào thức ăn 21 biến rồii đem cúng thí cho ăn. Trong khi ấy lại nói: Nay tôi cúng thí cho các vị, như không làm tổn hại chúng sanh rồi thì tuỳ ý ở lại, nếu làm tổn hại phải mau đi nơi khác. Nếu quỉ thần hung hãn không nghe lời nên dùng nọc sắt dài 12 ngón tay, tụng chú vào đó 21 biến, rồi đem đóng xuống đất. Làm như thế các quỉ thần dữ phải chạy ra khỏi địa giới.
Nếu có bịnh nhơn bị tinh mỵ dựa vào, kẻ cứu hộ nên nhìn chăm chú vào mặt người bệnh mà tụng Đà Ra Ni này, tinh mỵ sẽ xuất ra.
Nếu có quỉ La Sát hoặc các loài quỉ dữ vào quốc giới gây đau bịnh làm khủng bố và não loạn dân chúng, nên xưng niệm Tam Bảo, ngày đêm tụng trì chú này,kiết ấn Phật Đảnh Tôn Thắng rao khắp bốn phương, thì các tai nạn đều tiêu diệt. Làm như thế cũng cứu được chúng sanh thọ khổ ở tam đồ.
Nếu muốn thí nước cho loài Ngạ Quỉ, tụng chú này vào nước sạch bảy biến, rồi rải khắp bốn phương, tâm tưỡng miệng nói cầu cho chúng được thọ dụng, thì các ngạ quỉ sẽ được uống nước cam lồ.
Nếu người nào buôn bán ế ẩm, muốn được khách hàng chiếu cố, thường kiết ấn tụng chú này 21 biến, an trí tượng Phật nơi chỗ tinh sạch kín đáo mà cúng dường, tất sẽ được như ý.
Nếu người nào mỗi ngày ba thời, mỗi thời tụng chú 21 biến, cung kíng cúng dường, chí tâm thọ trì, vì kẻ khác giải nói, người ấy sẽ được an vui, sống lâu không bịnh, phát sanh trí tuệ, được Túc Mạng Thông khi lâm chung như ve thoát xáx, liền được sanh về thế giới Cực Lạc, tai không còn nghe tiếng Địa Ngục huống chi bị sa đọa, kẻ ấy sẽ tuần tụ tiến thêm trên đường đạo quả cho đến khi thành Phật.
Đức Phật bảo vua Diêm La và các vị Thiên Vương: Nếu chúng sanh nào muốn lập đàn trì Đà Ra Ni này, nên dùng đất vàng trộn với nước thơm mà bôi trên mặt đàn. Đàn tràng vuông vức mỗi bề rộng bốn cánh tay, dùng giấy lụa năm s8ác bao qung ba lớp, tụng chú vào hạt cải trắng, hoặc nước thơm rải bốn bên. bốn góc bàn để bốn bình nước tinh sạch, các bình nước lượng lớn nhỏ dung lượng phải đều nhau. Giửa đàn rải các thư hoa, đốt các thứ hương, thắp các đèn dầ có chất thơm. Trước tượng Phật, dùng những đồ đẹp sạch, dùng các thức ăn như cơm trắng, nếp sữa, đường hoặc các thứ hoa quả cúng dường. Hành giả phải tắm gội mặc y phục sạch, giữ giới Bồ Tát, không nên ăn các thức săc đen, mỗi thời kiết ấn trì chú nà 108 biến, nếu có thể 1080 biến. Trì tụng như thế sẽ tiêu trừ các tội chướng, tăng trưởng phước đức căn lành sanh về các cõi Tịnh Độ, và được thọ ký thành Phật.
Muốn kiết ấn Phật Đảnh Tôn Thắng nên chấp hai tay lại, hai ngón trỏ co vào lòng bàn tay, hai ngón cái áp vào lóng giữa ngón trỏ là ấn thành.
Khi kiết ấn này tụng chú 108 biến, tất đã cúng dường thừa sự tám mươi tám Cu Chi hằng hà sa na do tha tăm ngàn chư Phật, được chư Phật khen ngợi, khen là Phật tử.
Nếu người nào mỗi ngày kiết ấn, tụng chú này 108 biến sẽ được mười phương chư Phật thọ ký, quyết định không còn nghi ngại. Như mỗi ngày kiết ấn tụng được 1080 biến, kẻ ấy sẽ được thân Kim Cang bất hoại, mau thành đạo quả.
Hành giả nào mỗi ngày thường trì chú, rồi kiết ấn đối bốn phương, mỗi phương tụng chú một biến, rải ấn một lượt sẽ được tất cả thiên long quỷ thần cung kính ủng hộ, nhan sằc tươi đẹp, sự cần dùng tùy niệm, sẽ được chư thần xui khiến cho có người đem đến. Người đó sẽ được tất cả chư Phật ngợi khen, sẽ được tùy ý sanh về mười phương Tịnh Độ.
Tóm lại công lực của Tôn Thắng Đà Ra Ni vô cùng, có thể tùy nguyện ứng dụng, không thể tả xiết.
Đức Phật bảo Thiên Đế và đại chúng: "Môn Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni, trong thời mạt pháp, nếu có hàng vua quan tứ chúng y đúng pháp thức lập đàn thọ trì và cúng dường, đó gọi là Bố Thí Độ. Khi lập đàn tu hành, giữ ba nghiệp thanh tịnh, không phiền não giận hờn, là Trì Giới Độ và Nhẫn Nhục Độ. Mỗi ngày trì niệm không gián đoạn biếng trễ gọi là Tinh Tấn Độ. Chuyên y theo phép tắc, một lòng không loạn là Thiền Định Độ. Bố thí đàn tràng đúng pháp, thông hiểu phép thọ trì, khéo lượng chừng độ, biết việc nên làm hoặc không nên làm, là Bát Nhã Độ.
Này Thiên Đế và đại chúng! Nếu y theo lời dạy này mà kiết lập pháp sự, tức sẽ đầy đủ sáu pháp ba la mật. Các ông nên xoay vần khai thị, khiến cho chúng sanh được nhiều lợi ích, chứng quả Bồ Đề!
Khi Đức Phật nói pháp môn này xong, Thiên Đế, Thiện Trụ và chư thiên lãnh giáo trở về thiên cung. Thiện Trụ Thiên Tử y theo lời dạy mà thọ trì, mãn bảy ngày dùng thiên nhãn quan sát, tự thấy tội báo của mình đều tiêu trừ, phước thọ ở cõi trời càng tăng thêm vô lượng. Ông vui mừng phấn khởi cả tiếng ngợi khen rằng: "Kỳ diệu thay Phật Đà! Kỳ diệu thay Đạt Ma! Kỳ diệu thay Tăng Già! Kỳ diệu thay sức chú ấn Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni, hay trừ diệt tất cả khổ ách, khiến cho tôi thoát khỏi các ác báo như thế!"
Liền đó ông đến trình bạch lại với Thiên Đế, thỉnh ngài cùng thiên chúng xuống cõi Diêm Phù tạ ơn Phật. Thiên Đế xuất lãnh Thiện Trụ và hàng tuỳ thuộc, đem các thứ hương hoa phước lọng, y phục và anh lạc quí đẹp, ngồi xe báu bay xuống vườn Thệ Đa Lâm, đảnh lễ cúng dường Phật. Hành lễ xong lại chấp tay đi nhiễu quanh Như Lai trăm ngàn vòng, rồi đứng qua một bên dùng các lời kệ ca ngợi công đức của Đấng Thế Tôn.
Bấy giờ Đức Như Lai đưa cánh tay sắc vàng xoa đầu thiện Trụ Thiên Tử, dùng tiếng hòa nhã nói những lời pháp yếu và thọ cho bồ đề ký.
Đức Phật lại bảo: "Kinh này tên là Tịnh Nhứt Thiết Ác Đạo, Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni, các ông nên thọ trì."
Thiên Đế và đại chúng vui mừng đảnh lễ, tín thọ phụng hành.
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh
Quán Tự tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, đô nhứt thiết khổ ách.
"Xá lợi tử, Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệt phục như thị.
Xá Lợi Tử! chư thọ pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tì, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới, vô Vô minh diệt vô Vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo, vô Trí diệt vô Đắc, dĩ vô sỡ đắc cố, Bồ đề tát đoả y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô ái ngại, vô ái ngại cố vô hữu khủnh bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật, y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thế khổ, chơn thiệt bất hư, cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú.
Tự Quy Y và Đảnh Lễ
Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm. (1 lạy)
Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)
Tự quy y tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại. (1 lạy)
Hồi Hướng Chúng Sanh
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.
(Xá 3 xá rồi lui ra)