Saturday, July 31, 2010

Xót xa cảnh cháu bé “ngày nào cũng bị lột da”








Xót xa cảnh cháu bé “ngày nào cũng bị lột da”
(Eva.vn) - Tấm mền dính chặt lột đi nhiều mảng da trên lưng Duy Phước khi bé trở mình trong giấc ngủ trưa. Những vết thương từ từ rỉ máu, tiếng khóc thút thít nghẹn đắng vì đau đớn của bé mỗi ngày đang làm tan nát cõi lòng của cặp vợ chồng trẻ trong cảnh nghèo.
Tôi hỏi thăm con hẻm để tìm đến địa chỉ 343/35/6D ai cũng lắc đầu nói không biết. Nhưng khi vừa nhắc đến hoàn cảnh của cháu bé ngày nào cũng bị “lột da” thì mọi người đều vỡ òa. Một phụ nữ tốt bụng còn dẫn tôi đến tận gia đình bé “tội lắm chú ơi, thằng bé ngày nào cũng bị lột da, mình mẩy tóe máu nhìn xót lắm”.

Trong căn nhà nhỏ, cụ già mái tóc bạc phơ đang ngồi phe phẩy chiếc quạt đuổi ruồi cho đứa chắt. Nằm co ro dưới nền nhà là cháu bé nhỏ thó, cơ thể đầy thương tích với những mảnh da bong tróc đã khô lại và nhiều vết thương còn rỉ máu.

Đó là cảnh thương tâm của bé Nguyễn Duy Phước con anh Nguyễn Phước Sanh (SN 1983) và chị Đặng Thị Thanh Thảo (SN 1985). Từ khi mới lọt lòng, bé đã phải mang trong mình căn bệnh ly thượng bì bóng nước bẩm sinh. Căn bệnh này khiến cho làn da của bé mỏng đến mức chỉ cần lấy móng tay cào nhẹ cũng sẽ bị rách. Vì thế đã gần 3 năm sau khi chào đời nhưng cháu chưa một ngày được mặc quần áo.

“Thời gian mang thai bé, vợ chồng em rất cẩn trọng thường xuyên đi khám định kỳ. Mỗi lần đi khám bác sĩ đều cho biết thai nhi phát triển hoàn toàn bình thường. Nhưng ngay khi vừa sinh con ra, em còn chưa kịp nhìn thấy mặt cháu thì bé đã bị chuyển qua Bệnh viện Nhi Đồng 1.



Cơ thể của bé hầu như lúc nào cũng rỉ máu

Một tháng sau, em nhận con thì thấy bé bị băng kín cả chân lẫn tay, mỗi lần thay băng bé đều bị lột mất lớp da bám theo sợi vải. Bác sĩ cho biết cháu mắc phải chứng bệnh ly thượng bì bóng nước bẩm sinh. Đây là một loại bệnh không thể chữa khỏi mà chỉ khắc phục được phần nào. Lần đầu được làm mẹ nhưng thấy con mình như thế em đau đớn lắm.” Gạt đi hai hàng nước mắt đang lăn dài, chị Thanh Thảo nghẹn ngào tâm sự.

Lập gia đình với hai bàn tay trắng lại phải nuôi con bệnh tật khiến cuộc sống của vợ chồng anh Phước Sanh lâm vào cảnh khốn cùng. Không có chi phí để theo đuổi việc điều trị của bé tại bệnh viện, họ đành ngậm ngùi mang con về ở nhờ trong căn nhà của bà ngoại theo lời của bố vợ.

“Đi khám khắp các bệnh viện bác sĩ đều nói nuôi được ngày nào thì nuôi thôi, bệnh cháu khó qua lắm. Tôi khuyên vợ chồng nó mang con về nhà để bé sống được ngày nào với gia đình thì ấm cúng ngày đó. Nhưng thật may mắn thằng bé đã chống chọi tốt với bệnh tật cho đến tận bây giờ. Bé Duy Phước có lẽ đã tốt hơn nhiều nếu chúng tôi có đủ điều kiện chữa trị cho cháu.” Ông Đặng Văn Rau, ông ngoại bé cho biết.



Bé Duy Phước đang chiến đấu với bệnh tật trong sự nghèo túng của gia đình

Thời gian đầu khi bé mới được chuyển về nhà, gia đình đã thuê một bác sĩ ở gần mỗi ngày 2 lần đến chăm sóc. Tuy nhiên chỉ được khoảng 2 tháng sau đó họ đã phải tự tay chăm sóc bé vì không đủ sức để chi trả tiền thuê bác sĩ và thuốc men. Từ đó mọi người trong nhà đều trở thành y tá bất đắc dĩ. Chỉ khi nào bệnh tình trở nặng cháu mới được đưa đến bệnh viện.

Do bị băng bó chân tay lâu ngày nên các ngón tay và ngón chân của bé gần như dính liền với nhau khiến cho những hoạt động trở nên rất khó khăn. Chăm sóc cho bé phải hết sức thận trọng vì chỉ cần sự cọ xát nhẹ cũng đủ để làn da của bé bị nổi bóng nước rồi vỡ ra vết thương rất khó có thể lành lại, cơ thể bé hầu như lúc nào cũng rỉ máu.

Với công việc cắt tóc thuê tại một cửa hiệu của anh Sanh và việc bán hàng cho shop quần áo trong siêu thị của chị Thảo, mỗi tháng vợ chồng họ chỉ kiếm được khoảng 2,5 triệu đồng. Trong khi chi phí thường ngày cho việc điều trị của bé tại nhà phải cần đến gần 300 nghìn đồng từ tiền kháng sinh, thuốc bổ máu, thuốc điều trị, bông băng, tã giấy… và sữa.

Ông bà nội không còn, sự sống của Duy Phước bấy lâu nay phần lớn nhờ vào ông bà ngoại. Tuy nhiên với những đồng lương ít ỏi từ việc dọn dẹp vệ sinh của người ông và việc trông xe của người bà tại Siêu thị Sài Gòn Super Bowl cả nhà cũng chỉ cầm cự được qua ngày. Các khoản chi phí thuốc thang của bé cũng thất thường khi có khi không theo sự nghèo túng của gia đình.

Mọi đóng góp hảo tâm xin gửi về:

1. Chị Đặng Thị Thanh Thảo (mẹ bé Nguyễn Duy Phước)

Số nhà: 343/35/6D đường Trần Thủ Độ, phường Phú Thạnh, quận Tân Phú, TPHCM.

Điện thoại: 01216.617.330

(Theo Dân trí)

Friday, July 30, 2010

Lá sen Chống nóng ẩm, giải cảm và giảm béo

Sen là loài “thực – dược lưỡng dụng” – vừa là thức ăn vừa là thuốc. Có điều, khi nói đến tác dụng làm thuốc của cây sen, người ta thường chỉ chú ý đến tâm sen (liên tâm), hạt sen (liên nhục), bát sen (liên phòng), tua sen (liên tu), ngó sen (liên ngẫu)… mà hầu như không nói đến lá. Do đó, khi đến mùa sen, lá sen thường chỉ dùng để gói thức ăn, không mấy ai thu hái để dùng làm thuốc.


Tác dụng dược lý của lá sen

Theo Đông y truyền thống, lá sen có vị đắng chát (khổ sáp) tính bình. Vào 3 kinh tâm, can và tỳ. Có tác dụng thanh thử, lợi thấp, thăng phát thanh dương và chỉ huyết (cầm máu). Chủ trị thử thấp tiết tả (tiêu chảy do nóng ẩm mùa hè), huyễn vận (chóng mặt hoa mắt), phù thũng, thổ huyết, nục huyết (chảy máu mũi), băng lậu, tiện huyết, sản hậu huyết vận (choáng váng sau khi sinh)... Thời xưa, lá sen tươi là vị thuốc rất thông dụng trong dân gian, dùng để chữa trị các chứng bệnh do thử thấp gây nên trong những tháng hè như: cảm nắng, say nắng, đau bụng tiêu chảy... Còn lá sen khô, hoặc đã thiêu tồn tính, dùng để chữa các chứng xuất huyết.

Kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy, ngoài những tác dụng mà người xưa đã phát hiện, lá sen còn có tác dụng giảm béo và chống xơ vữa động mạch, do trong lá có nhiều loại alkaloids và flavonoid đặc biệt; ngoài ra còn có tác dụng giải độc nấm. Do đó, trên lâm sàng hiện nay, lá sen còn được sử dụng để phòng ngừa và chữa trị béo phì, phòng trị cao huyết áp, cao mỡ máu, xơ vữa động mạch, bệnh mạch vành tim và viêm túi mật. Theo các chuyên gia, những người cao tuổi cơ thể đã suy yếu, động mạch não đã bị xơ cứng, hoặc từng bị liệt nửa người do tai biến mạch máu não, nên thường xuyên sử dụng lá sen.

Những cách cụ thể dùng lá sen phòng bệnh

Thanh thử trừ thấp, chống xuất huyết

Kinh nghiệm thực tế của Đông y truyền thống cho thấy, nhờ tác dụng thanh nhiệt giải thử (thanh trừ hỏa nhiệt trong mùa hạ) và sinh tân (tăng thể dịch) chỉ khát (chống khát) lá sen được dùng trong những tháng hè, để phòng ngừa và chữa trị các chứng bệnh do nắng nóng gây nên. Cụ thể, có thể dùng lá sen theo những cách sau:

Cháo lá sen (hà diệp chúc): dùng lá sen tươi 1 tàu, gạo tẻ 50g. Gạo vo sạch, nấu cháo theo cách thông thường. Lá sen rửa sạch, khi cháo sắp chín lấy lá sen úp lên trên mặt cháo; tiếp tục nấu nhỏ lửa một lúc, đến khi thấy cháo có màu lục nhạt là được. Chia ra ăn trong ngày, có thể cho thêm chút đường trắng.

Tác dụng: loại cháo này có tác dụng thanh thử lợi thấp, thăng dương kiện tỳ. Chủ trị “thử khí khốn tỳ” (nóng ẩm mùa hạ gây tổn thương chức năng tiêu hóa); “Dương khí bất thăng” dẫn tới tình trạng vùng thượng vị đầy tức kém ăn, người mệt mỏi, chân tay bải hoải.

Thanh lạc ẩm: lá sen tươi 6g (dùng phần rìa lá; kim ngân hoa 6g, tây qua thúy y (vỏ xanh dưa hấu) 6g, ty qua bì (vỏ trái mướp) 6g, búp tre tươi 6g. Cho vào nồi, đổ ngập nước, sắc còn 2 bát; chia 2 lần uống trong ngày.

Tác dụng: giải thử (trừ nóng mùa hè), thanh phế (mát phổi). Dùng trong trường hợp sau khi bị cảm nắng đã chữa khỏi, nhưng vẫn còn đau đầu, ho khan, mắt hoa nhìn không rõ.

Hà diệp hồng táo thang: dùng lá sen tươi 20g (cắt nhỏ), hồng táo (táo tàu) 5 trái, sắc lấy uống, chia ra uống từng ít một như uống trà.

Tác dụng: thanh thử, ích khí, thoái nhiệt. Dùng chữa trẻ nhỏ và người cao tuổi sốt nóng nhẹ dai dẳng trong ngày hè.

Song hà tiên: lá sen 7 tàu (bỏ phần rìa và chóp), ngó sen 7 cái. Hai thứ giã nát, thêm nước và mật ong lượng thích hợp, sắc lấy nước; chia ra 2 - 3 lần uống trong ngày, uống ấm (nếu nguội cần hâm lại).

Tác dụng: thanh nhiệt lương huyết; dùng chữa thổ huyết do xuất huyết ở đường tiêu hóa trên, tiêu phân đen.

Giảm béo, phòng trị bệnh tim mạch

Trà lá sen (độc vị lá sen): dùng lá sen khô 10g (tươi 30g), xé nhỏ, nấu nước uống thay trà trong ngày, liên tục 2 - 3 tháng. Có tác dụng hạ mỡ máu và chống béo phì rõ ràng.

Trà táo mèo lá sen (sơn tra hà diệp trà): sơn tra (hoặc táo mèo) 15g (đã thái lát, phơi khô), hà diệp (lá sen) 10g khô (hay 20g tươi), thái nhỏ. Hãm nước sôi, uống thay trà trong ngày.

Tác dụng: sơn tra có tác dụng xúc tiến tiêu hóa, chống tích trệ, hạ cholesterol máu và tăng lưu lượng máu trong động mạch vành tim; còn có tác dụng bảo vệ gan. Lá sen phối hợp với sơn tra thành loại trà có hương vị đặc biệt, có tác dụng phòng bệnh tim mạch, điều hòa chuyển hóa mỡ và giảm béo rõ ràng. Đồng thời còn có tác dụng xúc tiến tiêu hóa, chống đầy bụng, giúp ăn ngon miệng trong những ngày nắng nóng.

Cháo lá sen: lá sen 2 tàu, rửa sạch, sắc lấy nước, cho 50 - 100g gạo, thêm chút đường phèn, nấu cháo ăn. Tác dụng: lợi thủy tiêu mỡ, giảm thiểu sự ngưng tập tiểu cầu, cải thiện tuần hoàn máu, sử dụng thường xuyên có khả năng phòng ngừa tăng huyết áp và tai biến mạch máu não. Rất thích hợp với người cao tuổi.

Theo Sức khoẻ và Đời sống

Thursday, July 29, 2010

BẢN NGÃ LÀ GỐC CỦA KHỔ ĐAU & BẤT CÔNG

Trên cõi đời này, tất cả chúng ta dù lớn hay nhỏ, ai cũng như ai đều thấy mình (bản ngã) là quan trọng; cho mình là trung tâm của vũ trụ, nên xem thường mọi người và muốn mọi người quí trọng mình, hướng về mình. Đó là cái bệnh rất lớn làm cho con người đau khổ. Thế nên Phật thuyết giáo chỉ dạy cho chúng ta là phải buông xả kiến chấp về bản ngã, để thoát khỏi mọi khổ đau. Người chấp ngã chẳng những không thấu đạt chân lý mà còn đặt để ra nhiều điều bất công sai lầm khiến cho người vật phải khổ đau vì mình.

Người chấp ngã ở trường hợp nào cũng muốn hoàn cảnh theo mình, qui hướng về mình. Đối với thiên nhiên thì muốn thiên nhiên vì mình, lệ thuộc mình. Lúc tôi còn ở Chân Không, một hôm trời mưa tôi hỏi thị giả:

Đố chú, mưa để làm gì ?

Thị giả đáp :

- Thưa Thầy, mưa để cho nhà nông làm ruộng.

Tôi cười, hỏi:

- Ngoài biển có ai làm ruộng đâu mà sao trời vẫn mưa ?

Thị giả không trả lời được.

Đa số chúng ta đều nghĩ trời mưa là để làm ruộng, trời nắng là để phơi lúa v.v... Tất cả cái gì cũng để cho chúng ta hết. Nên khi làm ruộng gặp trời nắng thì than trời, trách trời không thương mình. Ngược lại khi phơi lúa mà mưa thì cũng trách trời, có khi nổi giận với Trời nữa. Do chấp ngã mà nhiều người nói bậy nói càn, bởi thiên nhiên không chìu theo ý mình, không chìu theo công việc làm ăn của mình ! Đó là trời mưa để làm ruộng, trời nắng để phơi lúa. Rồi đến nước biển mặn để lấy muối, đất màu mỡ để trồng cây lấy trái, gió thổi để cho người mát... Do nghĩ tất cả mọi thứ đều để cho chúng ta, nên cái gì như ý thì chúng ta vui, trái lại thì chúng ta buồn giận. Quí vị gẫm lại xem có phải con người bắt trời đất chìu theo ý mình không ? Như vậy thì bản ngã chúng ta bao lớn ?

- To vô kể ! Trời đất thiên nhiên mà cũng bắt qui hướng về mình, mình muốn cái gì thì trời đất phải chìu theo cái nấy. Bởi bản ngã to, nên không thấy được lẽ thật!

Đó là thiên nhiên đối với bản ngã, bây giờ sự vật đối với bản ngã. Bởi chấp ngã nên những con vật mà chúng ta nuôi, chúng ta bắt nó phải làm bổn phận với chúng ta. Ví dụ như nuôi chó là để giữ nhà, nuôi gà trống là để gáy sáng báo thức, nuôi trâu để cày ruộng, nuôi ngựa để kéo xe v.v... Chúng ta nghĩ nuôi chó là để giữ nhà, kỳ thực khi nuôi nó, chúng ta đâu có giao ước với nó là lớn lên phải giữ nhà cho chúng ta và nó đã hứa khả. Nó hoàn toàn không biết gì về chuyện giữ nhà giữ của, đặc tính của chó thấy người lạ là sủa. Thấy chó sủa người lạ, chúng ta cho rằng chó giữ nhà cho mình. Nhà mình mình giữ là bổn phận của mình. Chó nó đâu có biết đồ mình cất chỗ nào để giữ ? Thế mà khi ăn trộm vô nhà lấy đồ, chó nó ngủ quên không sủa, thì sáng ra mắng chửi đánh đập con chó. Tại sao của mình mình không giữ, nhà mình mình không canh, khi mất đồ thì đánh chó mà không đánh mình ? Con gà cũng vậy, ở nhà quê có nhiều nhà không có đồng hồ, nhờ tiếng gà gáy đánh thức để lo công việc làm ăn. Hôm nào gà ngủ quên không gáy sáng, chủ nhà cũng ngủ quên, không dậy đúng giờ để gánh hàng ra chợ bán, rồi nổi giận chửi bới mấy con gà, mà không tự trách mình. Như vậy, có phải chúng ta đặt mọi sự vật lệ thuộc vào chúng ta một cách quá đáng không ?

Khi thấy bản ngã là trên hết, thì chúng ta không nhận định được lẽ thật, không biết cái nào hợp là hợp lý. Nghĩ nói làm rất bất công, xằng bậy, cho rằng gà vịt tôm cá v.v... sanh ra là để cho con người ăn, nuôi sống con người, nên nói: “Vật dưỡng nhơn”.

Thật sự thì các con thú có đồng ý đem mạng sống nuôi mạng người không ? Khi quí vị bắt gà làm thịt nó có giãy giụa kêu la không ? Rõ ràng con gà sợ hãi, giãy giụa tỏ thái độ phản đối, vì không muốn mất mạng sống. Nhưng vì không thể chạy thoát nên đành chịu chết, chớ nó đâu có vui lòng đem mạng sống đãi cho người ăn ! Rồi đến những con thú lớn như con heo, con bò... Khi đem nó ra giết, nó giãy giụa kêu rống, nào có vui vẻ sẵn sàng hiến thân cho người ăn đâu ! Tóm lại tất cả những sinh vật không phải tự nó muốn đem thân dâng cho người ăn. Nhưng vì nhu cầu thèm muốn của con người, nên con người bắt nó làm thức ăn, chớ không ai đặt để loài vật nuôi loài người mà nói “vật dưỡng nhơn”.

Nếu đặt ngược lại câu nói đó lại là “nhơn dưỡng vật” thì quí vị nghĩ sao ? Chắc chắn là không đồng ý. Bằng chứng là con muỗi con rệp chích người lấy chút máu để sống, thì người không cho, hoặc đuổi đi hoặc đập chết. Để thấy người không chấp nhận quan niệm “nhơn dưỡng vật”, thì loài vật nào chịu “vật dưỡng nhơn” ? Loài vật dù mạng sống nhỏ nhoi, nhưng nó vẫn ham sống sợ chết, song vì sức yếu không chống cự nổi nên đành chịu chết để loài người ăn thịt vậy. Đó là những vật yếu, nhỏ, bây giờ đến những vật có thân lớn mạnh hơn loài người, như con cọp, con sư tử, cá mập... Khi cọp, sư tử thấy người nó cho là mồi của nó nên nó vồ để ăn thịt. Người chống cự không lại trốn không thoát, thì bị nó ăn thịt để nuôi mạng sống nó. Như vậy quí vị có thừa nhận lý thuyết “nhơn dưỡng vật” thì vật cũng không chấp nhận thuyết “vật dưỡng nhơn”. Nếu thú biết nói tiếng người, chắc chắn là nói cãi lại, hoặc kiện thưa đến toà, chớ không chịu thua đâu ! Loài người bất công quá ! Loài vật đâu có thừa nhận cho loài người ăn thịt nó, vậy mà loài người tự đặt để loài vật phải nuôi loài người, để rồi ăn thịt nó cho ngon miệng, không chút lòng hối hận thương tiếc !

Trong cuộc sống này chẳng ai nuôi ai hết, chẳng qua loài mạnh dùng sức bắt ép các vật nhỏ yếu để mà ăn. Đó là một lẽ thật không chối cãi. Hiểu như vậy, thì khi bắt một con vật làm thức ăn, chúng ta phải biết rằng chúng ta đã dùng sức mạnh cướp đoạt mạng sống của nó, để lợi dưỡng cho mình, chớ không phải chính nó tự nguyện hy sinh nuôi mình. Có nghĩ như vậy, chúng ta mới giảm thiểu sự lạm dụng máu thịt của chúng sanh. Và, khi ăn cũng có chút lòng xót thương cho thân phận yếu hèn của nó. Để thấy quan niện “vật dưỡng nhơn” không phải là chân lý mà do người đặt để ra. Đó là bản ngã con người đối với thiên nhiên và đối với sinh vật.

Sau đây là bản ngã của con người đối với con người. Thế thường, con người hay coi trọng bản ngã của mình, nên khi có thế lực liền đặt ra nhiều điều luật vô lý, tạo sự bất công giữa con người với con người. Xưa ở Ấn Độ, trước thơì Phật ra đời, người Ấn Độ đặt ra luật Ma nu, luật này chia loài người ra làm bốn hạng: Giòng Bà-la-môn tức là giới tu sĩ có nhiều quyền lợi hơn hết. Kế đó là giòng Sát-đế-lợi tức là giới võ sĩ gồm vua quan. Kế nữa là giòng Vệ-xá tức giới thương mãi thợ thuyền. Thấp nhất là giòng Thủ-đà-la, gồm những người nghèo khó hạ tiện làm tôi mọi cho ba hạng người trên. Người đặt ra luật lệ đó là ai ? Có phải những người có học khôn lanh, lợi dụng thế lực sẵn có của mình mà đặt để như thế, nhằm bảo vệ cho giai cấp của mình sống yên ổn, để thọ hưởng những quyền lợi sung mãn, bắt những giai cấp bất hạnh khác phải phụng sự tôn kính mình ? Do đâu mà họ bày ra như vậy ? Có phải là do cái bản ngã của họ không ? Như vậy, tất cả mọi bất công trong xã hội đều nhằm mục tiêu thỏa mãn bản ngã của con người chớ không có lý do gì khác.

Xưa thời quân chủ phong kiến, các ông vua tự xưng là Thiên tử - con trời - Họ quan niệm trời sanh ra muôn vật, nên trời là trên hết, mà con trời thì quyền thế không ai bằng. Bởi vậy làm vua muốn giết ai thì giết, muốn phong ai làm quan thì phong, muốn cất chức ai thì cất. Không ai có thể ngăn cản, không ai có quyền làm trái lại ý muốn của vua, nếu có ai làm trái ý là phạm tội khi quân, bị án tử hình hoặc tru di tam tộc. Đó là những bất công do người có thế lực đặt ra, để khống chế những người không thế lực, chỉ vì nhằm thỏa mãn bản ngã của họ, để làm các việc mà không ai dám kêu ca, phản đối. Đó là quan niệm hết sức sai lầm do si mê chấp ngã mà ra.

Muốn phá bỏ cái mê chấp ấy, chúng ta phải làm sao ? Phật dạy con người muốn được an vui hạnh phúc phải ứng dụng lý nhân duyên vào cuộc sống. Lý nhân duyên là một lẽ thật. Từ thiên nhiên cho đến sinh vật trên cõi đời này, đều tùy thuộc vào lý nhân duyên. Người đời vì không thấy không hiểu nên sanh ra quan niệm chấp ngã sai lầm tự làm khổ mình và làm khổ người vật xung quanh. Nếu hiểu thấu lý nhân duyên thì chúng ta không còn chấp ngã nữa. Chẳng hạn như hiện tượng trời mưa là do nước bốc thành hơi, hơi nước gặp lạnh tụ lại thành mưa rơi nước xuống. Bất cứ chỗ nào đủ nhân đủ duyên như vậy thì có mưa, không lựa là biển hay ruộng hay núi rừng. Rồi như cái nhà do nhiều duyên tập hợp mà thành, như gạch, cát, ciment, tole, gỗ, công thợ v.v... tập hợp lại đúng hệ thống thì thành cái nhà. Phân tán những thành phần này ra thì cái nhà không có. Rõ ràng cái nhà không thật, nhưng vì thói quen của con người thất vật gì cũng cho là thật, rồi chấp nó là của mình của người, sanh ra mọi phiền não. Chính ngay bản thân con người cũng do nhân duyên mà thành. Dở dĩ thân này có ra là do tinh cha huyết mẹ hợp lại rồi thần thức gá vào thành thai mẹ, được nuôi dưỡng bằng tứ đại qua thức ăn nước uống hơi thở và hơi ấm của người mẹ. Khi thai nhi ra đời, cũng tiếp tục dưỡng nuôi bằng tứ đại là sữa, cơm, nước... cho đến khi trưởng thành. Người thành nhân rồi dần dần đi đến già chết, sắc thân tan hoại, tứ đại trở về với tứ đại. Vậy thân này có thật là ta không ? - Do duyên hợp mà có, duyên tan thì rã rời, không tìm thấy cái ta ở đống thịt hay ở vũng máu hay ở khúc xương... Nhưng vì chúng ta mê không thấy được lẽ thật; cho thân này là thật nên mới chấp ngã. Vì thân này không thật nên khi duyên tụ thì thành, có ta; khi duyên tan thì hoại, ta mất. Vậy mới biết : cái ta này là cái ta thuộc về duyên. Nếu thuộc về duyên thì không thật. Đó là chúng ta dùng trí tuệ quan sát thấy tất cả pháp đều do duyên. Thân người có là do duyên, vạn vật có cũng do duyên.

Kinh A-hàm Phật dạy: “Thấy được lý nhân duyên là thấy chánh pháp hay thấy đạo”, đó là người có trí tuệ. Vạn vật trên cõi đời này có ra là do nhân duyên sanh. Vì chúng ta không thấy không biết nên nhận định sai lầm, đặt nó thế này, thấy nó thế kia, rồi sống một cách mù quáng tà vạy, sanh ra bao nhiêu thứ phiền não khổ đau.

Nói thân người, thân thú, mọi cảnh vật... đều do nhân duyên sanh, tất cả đều không thật; có người hoang mang thắc mắc: Thân người không thật thì sống để làm gì ? Cảnh không thật thì làm ăn chi cho cực nhọc ? Thôi thì ngồi tréo cẳng, nhịp đùi, thổi sáo, chơi, chờ chết... Người nghĩ như thế là chưa hiểu lý nhân duyên. Lý nhân duyên chỉ cho chúng ta thấy rõ lẽ thật. Khi đã thấy rõ lẽ thật thì chúng ta có nhiều lợi ích lớn. Chúng ta sẽ làm chủ được mình, chuyển đổi con người của chúng ta từ tầm thường thấp kém trở nên cao thượng tốt đẹp, chuyển đổi hoàn cảnh từ xấu thành tốt, chuyển đổi sự vật từ dở thành hay. Ví dụ như thau nước, chúng ta muốn cho nó đọng lại thành khối thì tạo duyên lạnh, muốn bốc thành hơi thì tạo duyên nóng, muốn nước ở thể lỏng thì tạo duyên ấm, nước nó không cố định, tùy theo duyên mà nó thay đổi. Con người cũng vậy, đang là người tầm thường muốn trở nên người cao thượng, thì phải tạo duyên tốt là gần thầy sáng, bạn lành, thường đọc kinh sách, chăm chỉ tu hành. Ngược lại nếu muốn bê tha sa đọa, thì cứ la cà trà đình, tửu điếm, giao du với bạn ác thì sẽ thành người xấu, người hèn.

Như vậy, thấu suốt được lý nhân duyên thì con người không còn chấp ngã, không làm những chuyện cuồng dại nữa. Chúng ta sẽ nỗ lực vươn lên và tự tin nơi mình có khả năng tạo dựng một cuộc sống cho chính mình, và thực hiện sở nguyện của mình một cách công bằng hợp lý, đúng theo lý nhân duyên. Nếu không hiểu lý nhân duyên, thì con người sẽ cho rằng cuộc đời của ta là do trời đất sắp bày, sanh ra bởi trời đất, chết đi cũng do đất trời định đoạt. Mọi sự thăng trầm thịnh suy trong đời người đều nằm trong tay của đấng tạo hóa, con người không có quyền lực gì cả.

Lý nhân duyên rất thực tế và công bằng, nên người Phật tử phải hiểu cho rành rẻ, rồi đem ứng dụng vào cuộc sống của mình sẽ được lợi ích lớn. Không riêng người học Phật mới ứng dụng lý nhân duyên, mà chính các nhà khoa học sáng chế được những máy móc tinh vi, phát minh ra những điều mới lạ, đều ứng dụng lý nhân duyên mà thành.

Bản thân con người, Phật nói có bốn thứ là đất nước gió lửa hợp lại thành, bốn thứ này là phần căn bản. Khoa học thì phân chia thân thể con người rất nhiều bộ phận, phân tích chi ly thì thân con người có trăm ngàn muôn ức tế bào. Mỗi bộ phận mỗi loại tế bào có một chức năng riêng của nó mà hình thành nên thân người. Như vậy thân thể con người là một cố thể tập hợp các duyên, hội đủ duyên thì thành, không đủ duyên thì tan hoại, nên nó không có thực thể cũng không phải cố định. Bởi nó không có thực thể, không cố định, nên Phật nói là vô ngã, không có cái ta chủ tể, mà chỉ có cái ta duyên hợp. Do duyên hợp nên hằng chuyển biến.

Chính vì sanh mạng con người do duyên hợp và hằng chuyển biến, nên chúng ta có thể đổi thay từ xấu thành tốt được. Chẳng hạn thân thể đang suy dinh dưỡng bệnh hoạn, thì nên nghỉ ngơi, ăn uống, thuốc men bồi bổ cho nó mạnh khỏe. Con người thành tốt hay xấu, khổ hay vui, đều do mình, không ai bắt mình phải xuống địa ngục cũng không ai kéo mình lên thiên đường. Con người đóng vai trò chủ động trong việc này. Vậy, muốn lên thiên đường phải làm sao ? Phật dạy, người muốn lên thiên đường là phải tu thập thiện. Nơi thân không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm. Nơi miệng không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói ác khẩu, không nói thêu dệt. Nơi ý không tham lam, không sân giận, không si mê tà kiến. Và ngược lại thì xuống địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Những đường này chắc không ai muốn, nhưng dù không muốn, mà đã gây ra mười đều ác, thì nó vẫn là cái nhân kéo lôi con người đến những đường ác đó. Quí vị phải hiểu rõ điều này, để đừng gieo nhân lầm lẫn. Trong kinh A-hàm có đoạn ghi: Một hôm có vị Bà-la-môn hỏi Phật :

- Thưa ngài Cù-đàm, đệ tử của Ngài chết, Ngài có thể cầu nguyện cho họ lên thiên đường được không ?

Phật không đáp mà hỏi lại:

- Nếu đệ tử của các ông chết, các ông có thể cầu cho họ lên thiên đường được không ?

Bà-la-môn trả lời:

- Được.

Phật liền đưa ra một ví dụ:

- Giả sử có người đem một tảng đá lớn để trên miệng giếng, rồi thỉnh hai ba chục vị Bà-la-môn đứng xung quanh cầu nguyện cho vị ấy xô tảng đá xuống giếng, tảng đa nổi không chìm. Quí vị Bà-la-môn có cầu nguyện được không ?

Người Bà-la-môn đáp:

Cầu không được.

Phật hỏi:

Tại sao ?

Người Bà-la-môn đáp:

- Vì đá nặng, rớt xuống nước là chìm, dầu cho hàng triệu người cầu nguyện nó cũng không nổi được.

Phật lại hỏi tiếp:

- Giả sử có người đem dầu đổ xuống giếng, rồi mời các vị Bà-la-môn cầu nguyện cho dầu đừng nổi mà chìm dưới đáy giếng, các vị có cầu được không ?

Người Bà-la-môn trả lời:

- Không được.

- Tại sao ?

- Vì dầu nhẹ nên nổi ở trên mặt nước, không thể chìm dưới đáy giếng được.

Phật nói:

- Cũng vậy, nếu người tạo thập ác là cái nhân đọa vào đường ác, làm sao cầu nguyện cho họ lên thiên đường được. Người tu thập thiện đã tạo cái nhân lên thiên đường, dù cho người ác ý muốn cầu cho họ xuống địa ngục, họ vẫn lên thiên đường.

Vậy mà đa số Phật tử bây giờ tu thì không tu, cứ mãi lo làm ăn, đua đòi theo tài sắc danh lợi. Đến khi gần chết, sợ quá, thỉnh các thầy các cô cho đông, để cầu nguyện lên thiên đường hoặc về Cực lạc. Cầu nguyện có được thành tựu không ? Chắc là không thành tựu. Điều này Phật đã nói quá rõ là tạo nhân thì sẽ thọ quả. Thế nên muốn không đọa địa ngục, thì không gì hơn là trong trong hiện đời, mười điều ác phải chừa bỏ; chừa mười điều ác thì bảo đảm không xuống địa ngục, mà còn sanh về cõi lành nữa.

Đừng ỷ lại vào người khác hoặc hy vọng ở sự cầu nguyện, điều này không bảo đảm. Tôi lấy ví dụ để quí vị dễ thấy. Giả sử như quí vị muốn cho mọi người thương mến mình, thì quí vị phải ăn ở tử tế với mọi người, sẵn sàng giúp đỡ khi họ cần, niềm nở vui vẻ khi tiếp họ, như vậy mới được người thương mến. Muốn cho mọi người thương mình mà ăn nói cộc cằn, xử sự với người thô bỉ chẳng có lòng nhân giúp đỡ ai cả... Chắc chắn là không ai cảm tình. Điều này rất là cụ thể. Như vậy muốn cho mọi người thương mến, chúng ta phải tạo duyên vui vẻ, tử tế, giúp đỡ người. Thiếu những duyên ấy thì điều mình muốn không thể thành tựu. Ngược lại, nếu tạo duyên cộc cằn, vô lễ, xấu xa với mọi người, dù không muốn người ghét người vẫn ghét. Vậy mọi người thương mến mình cũng do mình tạo duyên, hoặc bị người giận ghét cũng do mình tạo duyên, chớ không do ai khác, không có Phật Trời nào can dự vào các việc này. Người hiểu lý nhân duyên trong cuộc sống hằng ngày, trong sự tương giao với đồng loại, biết cách cư xử hợp đạo lý thì mình được an người cũng được vui.

Nếu biết ứng dụng lý nhân duyên là tiến một bước mạnh trên sự vươn lên của tâm linh con người. Nhưng tiếc thay, con người chỉ ứng dụng lý nhân duyên trong lãnh vực vật chất, mà không chú trọng đến lãnh vực tinh thần. Các nhà khoa học ngày nay làm chủ được những điều mà xưa kia con người không làm được; đó là phát minh sáng chế ra phi cơ bay trên không trung, tàu ngầm lặn dưới đáy biển, xe chạy nhanh trên đường dài... Những phát minh hiện đại đều do biết được nhân, tạo thêm duyên sẽ cho ra cái quả như ý muốn. Đó là lý nhân duyên được ứng dụng trong lãnh vực vật chất. Chính vì con người chú trọng vật chất để tạo ra vật chất sung mãn rồi sanh lòng tham đắm, giành giựt cấu xé lẫn nhau, tạo cho nhau những nỗi đau khổ không thể lường. Chúng ta là người hiểu đạo, nên hướng về tinh thần, ứng dụng lý nhân duyên vào cuộc sống. Tạo cho mình một đời sống đạo đức với hướng đi lên, chuyển hóa từ con người phàm phu thấp hèn tiến dần lên hàng hiền thánh, tự mình giải thoát và giúp người ra khỏi vòng trầm luân khổ hải.

Vậy muốn giải thoát phải làm sao ? Sáu căn không đuổi theo sáu trần là giải thoát. Sở dĩ người không giải thoát được là vì mắt còn thích nhìn sắc đẹp, tai còn ưa nghe tiếng hay, lưỡi còn thích nếm vị ngon, mũi còn ưa ngửi mùi thơm... Chính các căn tự trói buộc với trần cảnh, đó là các duyên mà con người tự tạo ra, rồi lại vướng mắc vào. Nay muốn giải thoát thì chúng ta phải tự gỡ trói, chớ không ai gỡ thế chúng ta được. Vậy nên, muốn vào thì tự cột, muốn ra thì tự cởi, giải thoát hay ràng buộc đều do mình, quyền của mình.

Người hiểu được lý nhân duyên, nhìn lại bản thân mình thấy rõ nó là một hợp thể do duyên mà có, đã do duyên hợp thành, thì cái gì là ngã ? Ngã là chủ tể, là cố định, thân này là hợp thể của đất nước gió lửa không phải là một, và nó luôn luôn biến chuyển. Bởi nó biến chuyển không ngừng nên nó không có chủ tể, tức là vô ngã.

Vô ngã là không có chủ tể cố định, tuy không có chủ tể cố định, nhưng có phần tinh thần diễn tiến liên tục không dừng. Nói như vậy sẽ có một số người hoang mang: Nếu không có chủ tể, tức là không có tôi, vậy ai tạo tác, ai làm thiện và mai kia duyên tan thân thể rã rời, thì ai chịu quả báo, mà Phật nói tạo nhân phải thọ phải ? Chỗ này Phật giải thích bằng một ví dụ: Ngọn đèn thắp từ đầu hôm đến khuya, mắt thường chúng ta thấy như có một khối dầu cung cấp cho ngọn đèn cháy. Kỳ thực, mỗi lúc tim đèn chỉ rút một hạt dầu, rồi từng hạt từng hạt nối tiếp nhau, cứ như vậy mà cháy mãi, cháy mãi không dừng. Tâm thức con người cũng vậy tuy không có chủ tể cố định, nhưng có thức liên tục trôi chảy không dừng, không mất, nên nghiệp vừa tạo dẫn đến giai đoạn kế tiếp nhận chịu. Nhận chịu trong cái liên tục, chớ không phải vô ngã là không ngơ. Lý vô ngã của đạo Phật chỉ cho chúng ta thấy tâm thức và thân xác con người là một dòng biến chuyển, biến chuyển quá nhanh nên chúng ta không nhận kịp, tưởng là một. Và cũng nhờ sự biến chuyển này mà chúng ta mới tu được. Nếu cái ngã là một, thường hằng bất biến, thì dù có tu tạo duyên tốt để chuyển đổi, cũng không thay đổi được. Hiểu như vậy là biết được ý nghĩa tu của đạo Phật. Biết người vật luôn luôn biến đổi, nên chúng ta sống tùy duyên theo duyên. Tạo duyên tốt thì thăng tiến, tạo duyên xấu thì trầm luân; đủ duyên thì thân này có, duyên thiếu thì thân này rã tan... Như vậy là quả theo nhân theo duyên mà có, chớ không phải bỗng dưng mà thành. Chỗ này quí Phật tử nên lưu ý kẻo hiểu lầm, cho rằng sau khi chết linh hồn được sanh về cõi trời hoặc bị đọa xuống địa ngục... Để rồi khi thân nhân gần chết, nhờ quí thầy quí cô tụng kinh cầu nguyện cho linh hồn người thân mình được đi lên. Đức Phật có thừa nhận linh hồn không ? Đây là vấn đề rất tế nhị chúng ta cần phải lưu ý. Nếu cho rằng con người có linh hồn, thì khi người chết linh hồn người trở lại làm người, thú chết linh hồn thú trở lại làm thú. Như vậy tu vô ích, vì dù có tu cũng không thăng tiến, bởi linh hồn không thay đổi. Hiểu như vậy là sai lầm.

Đạo Phật không thừa nhận linh hồn, mà cho rằng con người có thức chuyển biến, thức ấy là cái biết phân biệt. Cái biết phân biệt này là một dòng chuyển biến không dừng. Khi nhỏ thì hiểu biết phân biệt theo trẻ con. Khi lớn thì hiểu biết phân biệt theo người lớn. Nếu có duyên được học hành nhiều thì hiểu biết sâu rộng... Tâm thức con người luôn luôn biến đổi không dừng. Còn linh hồn thì cố định. Vì linh hồn cố định, nên có học cũng không giỏi, không học cũng chẳng ngu, tu cũng không tiến.

Mục đích của đạo Phật là chỉ cho con người thấy đúng lẽ thật qua lý duyên sinh, để phá trừ mê lầm chấp ngã, chấp ngã là gốc của đau khổ bất công mà tôi đã nói ở trước. Phá được chấp ngã rồi thì mọi bất công không còn, mọi đau khổ cũng hết. Và khi chúng ta biết ứng dụng lý nhân duyên vào cuộc sống, nó sẽ giúp cho chúng ta một sức sống tích cực, để chuyển hướng cuộc đời mình từ phàm phu mê chấp trở thành thánh thiện sáng suốt, và chuyển hướng mọi sự vật chung quanh từ dở thành hay. Đó là công phu tu hành, là sức mạnh của người học Phật. Nếu chúng ta không biết được lẽ này, cứ ỷ lại vào Phật, ỷ lại vào Tăng Ni, tự mình không chịu lo tu hành, để khi hữu sự đi cầu nguyện van xin Phật Trời ban cho phước lành, việc làm đó vô ích không đi tới đâu cả. Rốt cuộc chẳng những uổng công mà còn bị chìm trong mê tối. vậy nên mong rằng quí vị cố gắng thực hiện theo lý nhân duyên mà tôi vừa nêu, để phá trừ mê lầm chấp ngã và tạo cho mình và cho người một cuộc sống an vui hạnh phúc.

]




THIỀN TÔNG VIỆT NAM

Tuesday, July 27, 2010

AN LẠC SAU KHI BỨNG GỐC KHỔ ĐAU

H.T THÍCH THANH TỪ


BÀI NÓI CHUYỆN VỚI PHẬT TỬ

XUÂN ĐINH MÃO 1987
Hôm nay là ngày Tết Nguyên Đán năm Đinh Mão 1987, quí Phật tử đến chùa lễ Phật và chúc mừng năm mới quí thầy. Để đáp lại lòng kính trọng Tam Bảo của quí Phật tử, chúng tôi sẽ có lời chúc đầu năm hơi dài dòng một chút, không chỉ một câu ngắn gọn rồi thôi, lời chúc này gồm nhiều chi tiết. Hôm nay đầu đề chúng tôi chúc là: Cầu tam bảo gia hộ cho tất cả Phật tử một năm mới hoàn toàn an lạc.

Khi nói đến an lạc, trước phải nói đến đau khổ. Nếu nói an lạc suông, quí vị lại tưởng là mình thảnh thơi lắm, rồi không cố gắng tu hành. Vì vậy khi chúc quí Phật tử một năm mới hoàn toàn an lạc, chúng tôi sẽ nói rõ nguồn gốc đau khổ của con người hiện tại và vị lai. Nếu biết được nguồn gốc đau khổ mình nhổ phăng bứt gốc bứt rễ nó lên thì an lạc sẽ đến, an lạc thật sự.

Tất cả Phật tử chúng ta là con Phật phải nhìn thấy đúng như cái nhìn cái thấy của đức Phật. Sau khi giác ngộ rồi, đức Phật thấy rõ được bản chất của con người như thế nào, Ngài đem ra chỉ dạy để chúng ta thức tỉnh biết rõ được con người mình. Khi biết rõ được con người mình thì chúng ta mới biết làm sao để hết khổ và làm sao để đến an lạc thật sự, đó là gốc của sự tu. Nếu chúng ta không biết bản chất của mình là vui hay khổ cứ sống lây lất qua ngày, đua đòi theo những hình thức vật chất, chúng ta phải tạo nghiệp thọ khổ, chẳng những đời này mà còn kéo dài không biết bao nhiêu kiếp nữa. Vì lòng từ bi, đức Phật muốn cho mọi người hết khổ, nên trước tiên Ngài chỉ rõ nguồn gốc đau khổ. Thấy được nó chúng ta mới có thể đào bới nó lên được. Nếu không thấy nó chúng ta muốn cầu vui mà cái vui không bao giờ đến, vì chúng ta có biết cái khổ đâu mà bới lên. Thành ra muốn vui mà con người cứ khổ, cái khổ cứ tràn tới mãi mãi. Chính con người ở thế gian đang là như vậy, lúc nào cũng chúc mừng nhau năm mới được an vui hạnh phúc, nhưng đến cuối năm quí vị thấy có an vui hạnh phúc không? Luôn luôn chúc nhau an vui hạnh phúc mà kết quả lại không có an vui hạnh phúc chi hết, mà trái lại nhiều khổ đau, nhiều bực bội. Chúc như vậy chỉ là chúc suông thôi.

Ở đây chúng tôi muốn quí Phật tử thật sự sang năm này là một năm quí Phật tử tạo nên một cội nguồn của sự an lạc. Muốn tạo nên cội nguồn an lạc đó trước tiên quí Phật tử phải biết nguồn gốc đau khổ là cái gì? Biết được nó rồi chúng ta mới có thể bứng gốc bứng rễ nó để thành an lạc.

Nguồn gốc đau khổ là cái gì?

Trong đạo Phật, lúc nào đức Phật cũng muốn chỉ cho mọi người thấy được lẽ thật của kiếp sống con người. Chúng ta cứ tìm những điều quanh quẩn bên ngoài mà những điều đó dù chúng ta thấy được lẽ thật của chúng, cũng là lẽ thật bên ngoài thôi; còn bản thân chúng ta chưa biết chưa thấy đó là một khuyết điểm lớn lao. Vì vậy đức Phật nói rõ bản chất của con người là khổ hay vui? – Khổ! Vừa nghe thoáng qua chúng ta cảm thấy bi quan, nhưng đó là sự thật.

Vì sao bản chất con người là đau khổ?

Đức Phật dạy: đau khổ chia ra hai phần:

1. Đau khổ do sự cảm thọ.

2. Đau khổ do lòng tham ái.

Như vậy chúng ta cần xác định lại kiếp sống con người là đau khổ, chớ không phải là an vui. Đức Phật dạy những đau khổ của con người là do:

- Sanh, già, bệnh, chết,

- Ái biệt ly khổ,

- Oán tắng hội khổ,

- Cầu bất đắc khổ,

- Ngũ ấm xí thạnh khổ.

Chúng ta ở trên thế gian này thật là khổ. Trong cuộc sống quí vị muốn một trăm điều, kết quả được bao nhiêu? Nhiều lắm là hai chục điều thôi tức là có hai chục phần trăm được như ý. Đó là tôi nói ưu đó, có khi còn chưa được như vậy nữa! Còn tám chục phần trăm là bất như ý, tức là không toại nguyện, mà không toại nguyện là đau khổ. Nhìn tổng quát, đức Phật nói cuộc đời con người là đau khổ, sanh là khổ. Đó là cái khổ thứ nhất.

Già có khổ không? Có ai nói già mà vui đâu! Già thì thân thể yếu gầy bệnh hoạn, rồi răng rụng da nhăn, chân mỏi gối dùn, đi đứng lụm cụm, đủ chuyện phiền hà, nên nói già là khổ.

Bệnh có vui không? Bệnh là khổ rồi, không ai chối được.

Còn chết thì sao? Là đại khổ!

Như vậy thử kiểm lại ở trần gian này, có người nào thoát khỏi sanh lão bệnh tử hay không? Ai cũng sanh ra rồi già đi, ai cũng phải bệnh hoạn rồi cuối cùng là chết. Không một ai thoát khỏi bốn điều này, cho nên nói kiếp người đau khổ là như vậy.

Đến ái biệt ly: thương mà xa lìa. Những người mình thương rất là thương mà xa lìa, có gì khổ cho bằng! Có người nào khỏi xa lìa thân nhân mình đâu, thân nhất là cha mẹ, vợ chồng, anh em, bạn bè, có lúc cũng phải xa lìa. Như vậy gọi là ái biệt ly khổ. Oán tắng hội khổ: ghét mà gặp mặt nhau cũng khổ. Những người mình không thích, không muốn thấy mặt mà cứ ở ngay trước mắt mình hoài thì làm sao vui được! Cầu bất đắc khổ: mong cầu mà không được như ý cho nên khổ. Cái khổ thứ tám là ngũ ấm xí thạnh khổ. Năm ấm sắc, thọ, tưởng, hành, thức cấu hợp thành thân này, luôn luôn chống đối, bất an cho nên đau khổ.

Tám điều khổ vừa kể trên, chúng ta đều phải đa mang suốt cuộc đời, không thiếu sót một điều nào. Có ai khỏi sanh già bệnh chết? Có ai không xa lìa người thương, không gặp gỡ người mình ghét? Có ai cầu điều gì được điều nấy đâu? Tám điều khổ của con người là sự thật, không chối cãi được. Đau khổ là một lẽ thật không làm sao tránh được, nó luôn luôn theo dõi ép ngặt khiến chúng ta bất an. Nếu có gượng cười gượng vui, chỉ trong giây lát rồi cũng khổ. Ví dụ như khi gặp bạn bè vui tươi chốc lát, đến lúc về nhà đau chân, mỏi lưng… cảm thấy khổ thân. Như gặp người thân thì mừng rỡ, nhắc lại người xa cách thì than khóc. Gặp người mình thích thì tươi cười, gặp người mình ghét thì bực bội. Cả ngày vui buồn thay đổi luôn luôn, điều vui thì ít, đau khổ thì nhiều. Bản chất con người là đau khổ. Đức Phật gọi đó là Khổ đế: Khổ là một lẽ thật không chối cãi được.

- Tám điều khổ do đâu mà ra? Gốc từ cảm thọ mà ra. Cảm thọ chia ra làm hai phần:

1. Cảm thọ sai biệt của sáu căn rồi chấp nê sanh đau khổ.

2. Cảm thọ do đuổi theo thú vui rồi giành giựt sanh đau khổ.

Vì sao cảm thọ sai biệt của sáu căn gây nên đau khổ? Chúng ta ai cũng có sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu căn này có những cảm thọ ngoại cảnh không giống nhau. Thí dụ như mắt chúng ta nhìn thấy sự vật, nếu vị nào có con mắt nghệ thuật, khi nhìn bình hoa đặt trên bàn thì trầm trồ khen hoa chưng đẹp mắt. Nhưng một người khác không có mắt nghệ thuật nhìn mấy nhánh hoa lưa thưa ngả nghiêng không có gì đẹp cả. Người bảo đẹp, người cho là xấu, hai người không đồng ý nhau rồi sanh bực tức tranh cãi. Con mắt xúc chạm với sắc trần, người thấy đẹp, người thấy xấu là do cảm thọ sai biệt mà ra. Như vậy ai đúng? Nếu không ai đúng thì sao lại tranh cãi? Thật là vô lý. Mỗi người có cái thấy không giống nhau. Do cái thấy khác nhau, rồi không đồng ý với nhau nên sanh cãi rầy. Nguyên do là vì chúng ta không có nhận xét đúng đắn.

Đến cảm thọ sai biệt của lỗ tai. Thí dụ hai ba người bạn ngồi chơi, một người kể chuyện phải quấy trong xóm, rồi nói: Những người nghèo thật đáng thương. Người bạn khá giả nghe nói như vậy thì vẫn bình tĩnh, trong khi người bạn nghèo cho rằng mình bị khinh khi. Cùng nghe một câu chuyện, mà một người thì không bị xúc phạm, còn một người thì bị tự ái, bị mặc cảm. Lời nói có giá trị bằng nhau, nhưng khi nghe rồi sự cảm thọ khác nhau, nên sanh vui buồn khác nhau. Một người cho rằng không có chỉ trích người nghèo, một người cho rằng mình nghèo nên bị khinh khi, hai người không đồng ý nhau nên sanh cãi vã. Đó là do sự cảm thọ sai biệt của lỗ tai.

Sự cảm thọ của mũi có giống nhau không? Như người miền Nam nghe mùi sầu riêng nói: thơm quá! Nhưng người miền Trung bảo: hôi quá! Cùng một mùi sầu riêng người nói thơm, người nói hôi. Như vậy ai đúng? Người nói mùi sầu riêng là thơm sẽ cãi với người kia. Người nói mùi sầu riêng là hôi sẽ cãi lại. Hai người sẽ đi đến ẩu đả nhau. Ai đúng? Ai sai? Người bàng quan ngoại cuộc nếu ở miền Nam thì cho rằng người ngửi thơm là đúng, nếu ở miền Trung thì cho người ngửi hôi là đúng. Do sự huân tập khác nhau nên sự cảm thọ có sai biệt. Sự tranh cãi đúng sai thật là vô ích, không khôn chút nào hết, lại làm buồn lòng nhau, chẳng phải nguồn gốc của đau khổ sao? Buồn giận nhau, không ngó mặt nhau, gọi là oán tắng hội, đau khổ từ đó mà sanh.

Sự cảm thọ của lưỡi cũng khác nhau! Thí dụ cô đầu bếp làm thức ăn. Cô nấu canh nêm nếm đàng hoàng rất là vừa ý. Nhưng vì cô quen ăn mặn nên những người quen ăn lạt chê là nêm canh quá mặn. Cô đầu bếp tức giận nghĩ mình nấu nướng kỹ lưỡng, nêm nếm vừa ăn lắm mà còn bị chê trách! Chung qui chỉ vì thói quen của cái lưỡi người quen ăn mặn, người quen ăn lạt mà thôi. Người quen ăn mặn cảm thấy vừa miệng thì người quen ăn lạt cho là mặn và ngược lại, người quen ăn lạt cảm thấy vừa ăn thì người quen ăn mặn cho là lạt. Như vậy lấy đâu làm tiêu chuẩn? Vì sao lại cãi nhau cho sự cảm thọ của mình là đúng? Mỗi người có khẩu vị khác nhau. Cùng một thức ăn, người khen ngon, người chê dở. Người thích món ăn này, người thích món ăn kia, vì mỗi người có cảm thọ riêng biệt theo thói quen của mình. Chẳng những chúng ta có thói quen đời này mà còn cả thói quen của đời trước nữa. Thí dụ có người khi cha mẹ sanh ra chỉ ăn chay lạt, không ăn thịt cá được. Vì lý do gì? Có phải là cảm thọ quá khứ còn lại, nên không thích mùi thịt cá. Lại có người cha mẹ bảo ăn chay, thì thích dùng thức ăn mặn. Như vậy là do thói quen của mọi người, hoặc ở hiện tại, hoặc đã huân tập trong quá khứ. Chúng ta không nên chủ quan bắt buộc người khác phải giống mình. Nhưng ở trên thế gian này phần đông chúng ta đều chủ quan muốn ai cũng giống mình, nhất là con cái trong nhà. Nếu con trong nhà làm khác ý cha mẹ, cha mẹ sẽ bực tức giận trách rầy la, tạo bao điều đau khổ trong gia đình. Tất cả cũng do sự cảm thọ sai biệt mà ra.

Cảm thọ của thân như thế nào? Cũng riêng biệt tùy theo mỗi người. Thí dụ: Hai người ở chung một căn phòng, một người mập béo, một người gầy ốm. Căn phòng có một cửa sổ khi trời vừa mát người gầy ốm cảm thấy lạnh vội đi đóng cửa sổ… Người mập béo nghĩ thế nào? Cảm thấy bực bội, khí trời nóng bức vừa dịu mát lại đóng cửa sổ, không giận sao được! Rồi hai người cãi vã nhau, có khi đi đến ẩu đả. Như vậy lẽ thật ở đâu? Đó là do cảm thọ sai biệt của thân nên người ta bất đồng ý với nhau rồi sanh bất hòa, đó là nguồn gốc đau khổ.

Thứ sáu là cảm thọ của ý. Điều này là quan trọng hơn hết. Cảm thọ của ý là gồm nghiệp của quá khứ và thói quen của hiện tại. Mỗi người chúng ta sống trong hoàn cảnh gia đình và xã hội khác nhau nên được sự giáo dục và hiểu biết khác nhau. Người thấy thế này là phải, người thấy thế kia là phải. Thí dụ: Một người sanh trong gia đình theo đạo Phật từ thuở bé, một người sanh trong gia đình theo đạo Chúa từ thuở bé. Hai người ngồi nói chuyện với nhau, do sự huân tập khác nhau nên có những cảm nghĩ khác nhau. Người tin Chúa cho đạo Chúa là đúng, không chấp nhận đạo Phật. Người tin Phật cho đạo Phật là hay, không chấp nhận đạo Chúa. Hai người tranh luận với nhau, có những quan điểm bất đồng, bực bội cãi vã lẫn nhau. Đó là nguồn gốc của đau khổ. Đến đời sống của vợ chồng trong gia đình cũng vậy. Người chồng có sự huân tập của người nam, lo việc rộng lớn ngoài xã hội, người vợ có sự huân tập của người nữ, lo việc tỉ mỉ trong nhà. Hai vợ chồng có hai huân tập khác nhau, nên thường không đồng ý kiến với nhau. Ai cũng thấy mình là đúng, người kia là sai, nên không ai chịu thua ai, cuối cùng đi đến ly dị, hậu quả là con phải chịu đau khổ! Nguyên do từ đâu? Chỉ do sự cảm thọ sai biệt, rồi chấp chặt cho quan niệm của mình là đúng, bắt người khác phải nghe phải thấy như mình, phải có những cảm nghĩ những hiểu biết như mình. Nếu không đồng ý nhau thì lắc đầu than thở: Sao không có ai là bạn tri kỷ với mình! Thử hỏi trên thế gian này có mấy người tri kỷ giống mình như một? Chắc là không rồi, vậy mà buộc lòng phải sống chung nhau thật là quá đau khổ!

Thế thì phải làm sao cho hết đau khổ! Chỉ đừng chấp nê là hết đau khổ! Cùng một mùi trái cây tôi ngửi cho là thơm cũng đúng, chị cho là hôi cũng đúng theo thói quen của mỗi người, như vậy hòa nhau, tránh được sự tranh cãi. Cùng một thức ăn chị nếm nghe mặn, tôi nghe lạt, cả hai đều đúng theo thói quen của cả hai, tất nhiên hòa nhau không có tranh cãi v.v… Nếu còn chủ trương sai biệt cho mình là đúng, người là sai, là còn tranh cãi, còn đau khổ. Nhận chịu sự đau khổ là khôn hay không khôn? Quả thật không khôn. Nhưng nếu ai bảo là mình ngu thì mình lại nổi giận lên, có phải là mâu thuẫn không? Nếu còn chấp nê là còn đau khổ. Hiểu như vậy rồi, chúng ta phải thông cảm với nhau, bỏ qua tất cả những sự sai biệt để sống hòa thuận với nhau từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Nếu biết chấp nê là sai quấy thì phải mạnh dạn dẹp tự ái đến xin lỗi người, làm hòa với nhau thì cuộc đời sẽ bớt được nhiều đau khổ.

Những người đến tôi để thưa kiện, đều than không ai thông cảm với mình hết. Vì chấp sự cảm thọ của mình là đúng thì làm sao có người thông cảm với mình được! Nếu buông tất cả chấp nê thì mọi người đều thông cảm với mình. Chúng ta tu phải biết rõ lẽ thật đó, bỏ tất cả sự chấp nê do cảm thọ sai biệt, thì đau khổ tự dứt. Không phải cầu Phật ban cho điều gì, không phải cầu xin nơi miếu này lăng kia, mà phải biết rõ nguồn gốc của đau khổ là do sự cảm thọ sai biệt của sáu căn, rồi chấp chặt vào đó, rồi tranh đấu, giành giật, hơn thua với nhau, cuối cùng là đau khổ. Biết như vậy chúng ta buông xả tất cả sự chấp nê là chúng ta hết đau khổ.

Nguyên nhân thứ hai của đau khổ là đuổi theo thọ lạc. Hiện giờ chúng ta đang sống, ai cũng muốn cuộc đời được hạnh phúc. Thử hỏi quí vị cái gì là hạnh phúc? Chúng ta chỉ nói đến hạnh phúc mà không biết cái gì là hạnh phúc? Được ăn ngon, mặc đẹp là hạnh phúc chăng? Được nhiều tiền của, ở nhà to rộng là hạnh phúc chăng? Được những gì mình mong muốn là hạnh phúc chăng? Quí vị thử kiểm lại những điều đó có phải là hạnh phúc thật hay không? Con người ai cũng mơ ước hạnh phúc, mơ ước mãi mà không bao giờ toại nguyện. Vì sao? Thí dụ: Khi đang đói chúng ta nghĩ có một bữa cơm ngon, hạnh phúc biết mấy! Nhưng khi được bữa cơm ngon, ăn đầy đủ rồi, hạnh phúc còn không? Hạnh phúc qua mất rồi! Như vậy hạnh phúc chỉ có trong chốc lát thôi, rồi qua mất không còn. Đang đi bộ, chúng ta nghĩ được một chiếc xe đạp đi, chắc là hạnh phúc lắm. Nhưng khi được chiếc xe đạp đi lọc cọc ba bốn hôm rồi nó hư, lúc đó có hạnh phúc không? Như vậy hạnh phúc không bền, không thật, mà thế gian cứ đuổi theo cho nó là bền là thật! Hạnh phúc qua rồi mất, đuổi theo cái qua rồi mất thì hạnh phúc ấy quả là không thật. Biết hạnh phúc không thật mà chúng ta mơ ước nó hoài, thì mơ ước đó trở thành hão huyền.

Khi chúng ta mơ ước một điều gì, nghĩ rằng khi được nó hạnh phúc biết bao! Nhưng khi được rồi, còn hạnh phúc nữa không? Có gì hạnh phúc hơn, khi làm mệt nhọc được nằm nghỉ một chốc lát, hạnh phúc biết mấy? Nhưng nếu bị bắt buộc nằm một ngày, còn hạnh phúc hay không? Nếu nằm một ngày không được đi đâu, lúc ấy cũng bực bội. Thành thử hạnh phúc không có thật, nó chỉ có trong một giai đoạn nào thôi. Thí dụ chúng ta đang gánh gồng hết sức là nặng, nếu có ai đỡ gánh dùm mình, lúc ấy chúng ta cảm thấy nhẹ bỗng lên, hạnh phúc biết mấy! Nhưng nếu hết gánh rồi đi một lúc, chúng ta không còn thấy hạnh phúc nữa. Như vậy hạnh phúc chỉ có trong chốc lát. Trong lúc khổ đau, qua được cơn khổ đau tạm gọi là hạnh phúc. Hạnh phúc là do qua cơn khổ đau, chớ nó không có thật. Cái không thật mà chúng ta tưởng chừng cả đời hưởng hoài thì làm sao có được.

Chúng ta hiện giờ mong mỏi ước mơ là mong mỏi ước mơ cái gì? Ước mơ hạnh phúc. Ước mơ hạnh phúc là ước mơ được: một là ăn ngon, hai là mặc đẹp, ba là được những nhu cầu sung túc, bốn là được tiền bạc dồi dào, năm là được gia đình sung sướng vui vẻ v.v… Những điều ước mơ đó được rồi mất, không còn nguyên vẹn mãi. Như vậy hạnh phúc có hay không? Chúng ta mong muốn những điều đó phải lâu bền mãi mãi, nhưng trên thế gian này đâu có điều gì lâu bền mãi mãi. Như vậy suốt cuộc đời mình bị chúng chỉ huy sai sử. Như mỗi sáng thức dậy, chúng ta chuẩn bị lo cho bữa ăn sáng, rồi đến bữa trưa và bữa chiều. Chúng ta chạy loanh quanh tìm kiếm những thức ăn cho vừa miệng, tức là suốt ngày chạy theo cái thọ lạc của lưỡi. Những thức ăn vừa miệng khi để vào lưỡi có cảm giác ngon, nhưng khi nuốt qua rồi cảm giác ấy không còn nữa. Như vậy mà chúng ta cứ chạy theo cái thọ lạc, chạy mãi không có ngày cùng, cho đến ngày nhắm mắt cũng chưa vừa ý.

Đến cảm thọ của lỗ mũi, lỗ tai, con mắt cũng vậy. Cái nhà nhìn thấy phải đẹp, chậu hoa, chậu kiểng phải vừa mắt v.v… Như vậy con người chạy tìm cái thọ lạc suốt cuộc đời không có ngày cùng. Thọ lạc là tạm bợ giả dối không thật. Đuổi theo thọ lạc tức là gởi gắm, hiến dâng đời mình cho cái giả dối. Vậy mà chúng ta thấy hài lòng chạy theo nó từ năm này sang năm khác, rồi cả một cuộc đời bị thọ lạc của sáu căn sai sử. Cả một cuộc đời chạy theo thọ lạc, nếu có ai ngăn chận thì nổi giận ngay. Thí dụ: Đi chợ thấy bó rau ngon, chúng ta vừa ngồi xuống lựa, chợt có người đến mua trước, thì cãi vã nhau liền. Có chậu kiểng đẹp chưa kịp hỏi giá, chợt có người khuân đi, chúng ta bực bội ngay. Chỉ vì thọ lạc của sáu căn mà chúng ta giành giựt, hơn thua, tranh đấu với nhau cả đời không dứt. Có phải thọ lạc đã chỉ huy lôi cuốn cả cuộc đời mình không? Cũng vì thọ lạc mà chúng ta phải hận thù oán ghét lẫn nhau. Cảm thọ lạc nguyên là vô thường. Vì cái vô thường đó chúng ta lại gây chuyện hơn thua, phải quấy, tranh giành với nhau, có phải là việc làm đúng chân lý hay không? Vậy mà chúng ta bị nó chi phối hoàn toàn không còn giây phút nào rảnh rỗi. Quí vị thường nói: cả ngày tôi không rảnh, là tại sao? Chỉ vì đuổi theo thọ lạc: muốn ăn mặc vừa ý, muốn thấy nghe vừa ý v.v… rồi chúng ta xoay quanh hết ngày này đến tháng kia không rảnh phút nào. Cảm thọ đã chỉ huy cả một cuộc đời chúng ta, lại gây ra bao nhiêu hận thùø đau khổ!

Ái cũng là nguồn gốc của khổ đau. Trong nhà Phật ái chia làm ba thứ:

1. Ái ngã.

2. Ái thân thuộc.

3. Ái sự nghiệp tiền của.

Ái ngã là khổ. Có ai không tự thương mình đâu, dù mình có xấu đi nữa, con mắt lệch một bên hay lỗ mũi xẹp một chút, mình cũng thương mình. Nếu biết mình đẹp, thì mình càng thương mình hơn nữa, ái ngã chặt hơn nữa. Vì thương mình nên những gì mình muốn mà không được thì khổ. Như mình muốn trẻ nghe nói già là rầu, mình muốn khỏe mạnh mà bị bệnh hoạn là khổ, mình muốn sống lâu nghe nói sắp chết lại càng đau đớn. Vì quá thương mình cho nên bị bốn cái sanh già bệnh chết làm khổ. Ái ngã là gốc của bốn khổ vậy.

Ái thân thuộc có hai cái khổ. Một là ái biệt ly khổ. Vì quá thương người thân thuộc mà phải chia lìa nên chúng ta đau khổ. Có ái thì có tắng, tức là có yêu thì có ghét theo sau. Nên người nào yêu nhiều thì ghét cũng nhiều. Vì yêu nhiều nên người mình yêu mình thương tha thiết, người mình ghét mình cũng ghét đắng cay không muốn nhìn mặt. Vì vậy mình khổ với người mình thương bao nhiêu, mình cũng khổ với người mình ghét bấy nhiêu. Cho nên ái biệt ly khổ đi đôi với oán tắng hội khổ. Đó là hai cái khổ do ái thân thuộc.

Ái tài sản sự nghiệp cũng là nguồn gốc của đau khổ. Có ai muốn gia sản của mình càng ngày càng kiệt quệ đâu! Ai cũng muốn gia sản của mình càng ngày càng to lớn. Muốn mà không được như ý thì đau khổ, tức là cầu bất đắc khổ.

Như vậy quí vị thử kiểm điểm lại có phải tám cái khổ của chúng ta đều nằm trong ái mà ra: ái ngã, ái thân thuộc và ái sự nghiệp tiền của. Ái của mình cạn thì tám cái khổ theo đó mà chết.

Thấy rõ gốc của đau khổ, chúng ta phải làm cách nào nhổ cái gốc đó lên. Trong nhà Phật dạy muốn nhổ gốc của đau khổ, nghĩa là muốn dứt khổ, chúng ta phải thấy rõ bản chất của thọ và ái cho tường tận. Thử hỏi quí vị cảm thọ khổ và cảm thọ vui có thật hay không? Cảm thọ của sáu căn qua rồi mất, đâu có thật! Thí dụ một bài hát thật là hay, khi nghe qua lỗ tai rất là thích thú, nhưng nghe hát qua rồi mất, đâu còn mãi bên tai. Một thức ăn ngon ăn rất vừa miệng, nhưng khi qua lưỡi rồi cũng mất, có còn mãi đâu v.v… Bản chất của tất cả cảm thọ là vô thường, tức là tạm bợ giả dối. Biết rõ cảm thọ là vô thường giả dối, chúng ta ưng làm tớ đuổi theo nó, hay muốn làm chủ không lệ thuộc vào cảm thọ? Nếu giành được quyền làm chủ cảm thọ thì vui, nếu bị cảm thọ làm chủ thì khổ. Quí vị nên can đảm chọn quyền làm chủ cảm thọ thì trọn một năm nay nhất định quí vị hết khổ, hoàn toàn an lạc.

Bản chất của ái có thật hay không? Ái là thương, thương yêu là nghĩ tới thân này nó lâu dài bền bỉ, nhưng bản chất của thân là vô thường. Thương yêu nó chỉ là thương yêu cái tạm bợ mà thôi. Thương yêu sự nghiệp cũng vậy, sự nghiệp là vô thường, thương yêu thân thuộc, thân thuộc cũng là vô thường. Những điều mình thương yêu đó đều vô thường, không có bền lâu. Chúng ta lại thương yêu những cái vô thường hay sao? Hay là chúng ta thương yêu cái gì lâu dài vĩnh cửu? Thí dụ khi đi chợ mua những vật cần dùng quí vị chọn những thứ bền tốt hay những thứ tạm tạm xài vài ba hôm rồi lại hư? Dĩ nhiên chúng ta lựa những vật dùng bền tốt, những gì tạm tạm chúng ta không mua. Cũng như vậy, biết thân là vô thường, sự nghiệp là vô thường, những người thân thuộc là vô thường chúng ta ôm ấp thương yêu chúng nó để làm gì? Khi những giọt mưa từ mái nhà rơi xuống nổi lên những bong bóng lóng lánh, quí vị thương chúng nó hay không? Nếu thương, chúng nó bể thì sao? Bong bóng nước cũng lóng lánh, hạt kim cương cũng lóng lánh, cả hai đều lóng lánh, quí vị thương cái nào hơn? – Thương hạt kim cương hơn, tại sao? Vì nó lâu bền. Chúng ta thương cái gì lâu bền. Như vậy thân này vô thường, sự nghiệp vô thường, những người thân thuộc của mình cũng vô thường thì mình phải thương hay không? Mình thương cái nào không vô thường, cái giải thoát không sanh tử, đó mới là cái mình thương. Những cái vô thường chúng ta thương hoài cũng không được gì, vì chúng nó sẽ hoại và sẽ mất. Chúng ta đeo đuổi cưu mang cái vô thường, hay đeo đuổi cưu mang cái thoát khỏi vô thường? Có một cái thoát khỏi vô thường chúng ta không thương, lại thương cái vô thường làm gì?

Chúng ta học đạo phải dùng trí nhận xét thấy cái gì bản chất là vô thường là tạm bợ thì cái đó không có giá trị, qua rồi mất mà có giá trị gì! Đã không giá trị, chúng ta đeo đuổi, cưu mang nó làm gì? Cái làm cho mình được mãi mãi an vui tự tại giải thoát, cái đó mới là chân thật. Biết cái vô thường rồi, chúng ta phải xoay lại cái chân thật vĩnh cửu. Khi trước, chúng tôi hay kể câu chuyện: “Cô công chúa nũng nịu.” Thuở xưa có cô công chúa rất được vua cha yêu quí. Một hôm nhân buổi trời mưa, công chúa ngồi nhìn những giọt nước từ mái nhà rơi xuống, làm nổi lên những bong bóng rất đẹp, công chúa thích quá nhưng không nói, vì bản chất hay làm nũng công chúa vào phòng nằm, mặt mày ủ dột. Nhà vua có công chúa là con duy nhất, thương con vô cùng. Đến giờ cơm, thấy con không ra dùng bữa, nhà vua nóng ruột vào phòng thăm hỏi: Con ốm hay sao, không ra dùng cơm? Công chúa không trả lời. Đến lượt hoàng hậu vào năn nỉ, công chúa cũng không đáp lại. Hỏi han nài nỉ mãi, sau cùng công chúa nũng nịu thưa: “Con muốn có xâu chuỗi bong bóng nước đeo vào cổ, con mới hết bệnh.” Vua cha chiều con rất mực. Nghĩ mình là vua muốn gì lại chẳng được, nhà vua bèn ra lịnh cho tất cả quần thần: “Ai kết được xâu chuỗi bằng bong bóng nước cho công chúa đeo thì sẽ được phong quan tước, chia đất đai cho.” Đăng bảng lâu ngày mà không ai dám lãnh. Sau cùng có một ông lão đến gỡ bảng, nhận xâu một chuỗi bong bóng nước cho công chúa đeo. Ông lão được giới thiệu với công chúa. Nàng rất đỗi vui mừng nói: “Nếu lão xâu cho tôi chuỗi bong bóng nước để đeo, tôi sẽ hết bệnh ngay.” Ông lão nói: “Thưa thật với công chúa, tôi già, con mắt lờ, nên lựa không được những hạt bong bóng đẹp. Vậy ngày mai, khi trời mưa, tôi mời công chúa ra mái hiên chọn những hạt bong bóng nào đẹp nhất, công chúa lượm đưa tôi xâu cho.” Sáng hôm sau, trời mưa, ông lão và nàng công chúa ra mái nhà, những giọt mưa từ trên rơi xuống nổi bong bóng, công chúa đưa tay vớt lấy…, vớt mãi đến trưa mà không được hạt nào! Ông lão đứng chờ, chờ mãi không có hạt bong bóng nào để xâu! Cuối cùng, quá mệt mỏi công chúa nói: “Thôi, tôi không thích bong bóng này nữa.” Nhà vua mừng quá bảo: “Để ta cho con xâu chuỗi bằng kim cương con đeo.”

Ý nghĩa câu chuyện vừa kể như thế nào?

Tất cả chúng ta có phải là công chúa đó không? Chúng ta cứ nắm bắt những ảo ảnh vô thường, nắm bắt mãi cả đời mệt nhoài mà chẳng được gì. Rồi chúng ta vào chùa cầu xin Phật cứu con. Đức Phật sẵn lòng từ bi cứu độ, cho chuỗi kim cương thứ thiệt. Chúng ta chỉ chịu nhận thứ thiệt khi nào chúng ta đã mệt nhoài với những thứ tạm bợ hư dối. Đức Phật tuy lấy ví dụ một câu chuyện rất trẻ nhỏ nhưng đúng với bệnh của chúng sanh. Chúng ta giống y nàng công chúa đó. Khi chúng ta thức tỉnh biết trở về với Phật, Phật sẽ chỉ cho chúng ta cái chân thật. Nếu chúng ta sống được với nó, cái chân thật ấy còn mãi, không bao giờ mất.

Người Phật tử muốn hết khổ phải thấy rõ bản chất của đau khổ không có thật. Bản chất của đau khổ là ái và thọ, cả hai đều không thật. Càng đuổi theo chúng càng đau khổ thôi. Nếu biết dừng lại, đau khổ sẽ bớt từ từ cho đến một ngày nào chúng ta lìa hẳn nó, không còn đau khổ nữa.

Nhân nghe câu nào trong kinh Kim Cang mà Lục Tổ ngộ đạo? Trong kinh Kim Cang, Phật dạy phương pháp an trụ tâm: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Ngay đây Lục Tổ ngộ, rồi từ đó về sau Ngài hết khổ luôn. Muốn sanh tâm cầu Vô thượng bồ-đề thì đừng dính với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sáu trần không dính là an trụ tâm. Đó là hạnh phúc tuyệt vời. Nếu còn dính với sáu trần là còn bất an, còn đau khổ. Nếu chúng ta không kẹt không chấp vào cảm thọ của sáu căn, tức là chúng ta được giải thoát.

Cũng chính trong kinh Kim Cang đức Phật có dạy: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Những gì có tướng đều là vô thường, vô thường là tạm bợ, hư dối. Nếu thấy các tướng không phải tướng là thấy Phật. Tại sao? Tỉ dụ hiện giờ thấy một món vật đẹp, chúng ta biết rõ nó là duyên hợp hư dối; một vật gì quí, nó là duyên hợp hư dối, một thức ăn ngon, nó là duyên hợp hư dối. Biết rõ được như vậy, đó là có trí tuệ giác ngộ. Trí tuệ giác ngộ tức là Phật. Thấy tất cả tướng không phải tướng tức là thấy tất cả vật đều không thật, tất cả đều là duyên hợp hư dối. Thấy rõ như thế là thấy Phật, không phải tìm Phật ở đâu xa. Nếu thấy Phật thì hết khổ.

Để kết luận chúng tôi xin nhắc tất cả quí vị, nếu muốn hết khổ chúng ta phải biết rõ bản chất của thọ và ái là vô thường, hư dối. Chúng ta phải diệt hết, nhổ sạch gốc của thọ và ái, thì ngang đó chúng ta được an lạc. Niềm vui không phải từ bên ngoài đem đến, không phải do sự giàu sang sung sướng lắm tiền nhiều của, mà vui vì biết phá bỏ những mê chấp sai lầm. Buông bỏ những sai lầm, đó là trí tuệ tỉnh giác, đó tức là Phật. Tu theo Phật cốt để giác ngộ. Giác ngộ cho nên không lầm không mê, tức nhiên không khổ. Hết ngu mê là sáng suốt, sáng suốt tức là hết khổ.

Nhân ngày đầu xuân năm Đinh Mão, tất cả quí vị đến đây lễ Phật và chúc mừng quí Thầy, quí Thầy cũng chúc tất cả quí Phật tử sang năm mới này hãy can đảm bỏ đi những chấp thọ và buông đi những ái trước. Chấp thọ và ái trước buông bỏ thì nguồn đau khổ cạn, gốc đau khổ được bứng tung lên, ngang đó quí vị sẽ hết khổ. Vì vậy chúng tôi chúc quí vị một năm mới hoàn toàn an lạc sau khi bứng tận cội gốc khổ đau.

NAM-MÔ BỔN SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT.

]




THIỀN TÔNG VIỆT NAM

Monday, July 26, 2010

Hóa giải lòng oán hận sâu nặng

Friday, July 23, 2010

08. Những Dấu Hiệu Khi Có Lục Thần Thông Thanh Tịnh--MP3

Thursday, July 22, 2010

Tùy duyên bất biến - 1

Wednesday, July 21, 2010

Buddhist Chant - Heart Sutra (Sanskrit) by Imee Ooi

Tuesday, July 20, 2010

TÁM BÀI KỆ CHUYỂN HOÁ TÂM

Diệu Thao chuyển thoát ý sang Việt ngữ từ
"THE EIGHT VERSES ON TRANSFORMING THE MIND"
by Geshe Langri Thangpa

Con quyết đạt mục đích tối thượng,
Cao quý hơn cả ngọc như ý,
Vì lợi ích tất cả chúng sinh,
Là đời đời trân quý mọi loài.

Nguyện khi tiếp xúc với chúng sinh,
Con sẽ hạ mình thật xuống thấp
Từ đáy lòng chân thật thân tình,
Thường tôn kính xem trọng mọi người.

Nguyện luôn luôn quán xét tâm mình,
Từng hành động khởi đầy phiền não,
Sẽ tàn hại con và sinh linh,
Xin nguyện thấu suốt, rồi đoạn tận.

Kìa người khó thương nhiều sân hận,
Chất chứa đầy phiền não, bi quan,
Xin được ôm họ như báu châu,
Kho tàng hiếm quý vừa tìm được.

Và đây những người từng đố kỵ,
Hành hung, vu khống cùng miệt thị,
Con xin nhận lãnh phần thua thiệt,
Nhường họ phần thắng lợi vinh quang.

Còn người được giúp đỡ tận tình,
Hoặc người con đặt trọn niềm tin,
Lại trở mặt hất hủi tàn nhẫn,
Con vẫn kính như bậc tôn sư.

Sau cùng xin dâng mọi phúc lạc,
Ðến chúng sinh gần cũng như xa,
Và xin nhận đớn đau tủi hờn,
Của chúng sinh từng là Mẹ Cha.

Con nguyện, tất cả ước nguyện này,
Không nhiễm “ tám trần cấu thế gian*,”
Nguyện thấy rõ các pháp huyễn ảnh,
Ðể buông bỏ, rời xa chấp trước.

(Con chân thành cảm tạ Thượng tọa Thích Trí Siêu đã sửa và góp ý. Công đức này của Thầy, con nguyện hồi hướng cho chúng sinh và con đều có đủ những ước nguyện trên )

Diệu Thao
Ottawa , Dec 25/04


--------------------------------------------------------------------------------

* Tám trần cấu thế gian : Atthalokadhamma. Còn được gọi là Bát Pháp hay Bát Phong. Tám pháp thế gian đó là: ÐƯỢC, MẤT; DANH THƠM, TIẾNG XẤU; CA TỤNG, KHIỂN TRÁCH; HẠNH PHÚC, ÐAU KHỔ.


--------------------------------------------------------------------------------

Monday, July 19, 2010

Phần 3 : Giải trừ nghiệp chướng

HT Tinh Khong

Pháp môn Tịnh độ, một pháp môn hiển bày bốn chữ tiện lợi dễ dàng một cách rõ rệt. Nếu quý vị không hiểu những lý luận trong kinh, cũng không thành vấn đề, vẫn có thể thành tựu. Nếu bảo không cần hiểu nghĩa lý trong kinh, chỉ một lòng thành tâm niệm Phật, mà có thể thành tựu, vậy tôi vẫn phải giảng kinh thuyết pháp nữa để làm chi ? Sở dĩ tôi vẫn phải mỗi ngày thuyết giảng không ngừng, đem những lời hay ý đẹp của đức Thế Tôn ra nói là vì mong quý vị hiểu, mong quý vị giác ngộ, bởi vì quý vị đây không đủ phước báo, suốt ngày vọng tưởng, suy nghĩ lung tung. Vậy ai là người có đủ phước báo ? Là những người thật thà chất phác, suốt ngày chỉ ôm giữ một câu A Di Đà Phật, việc gì cũng không nghĩ tưởng. Do đó công phu niệm Phật của quý vị có thể đến lúc không còn vọng niệm, chỉ còn một câu A Di Đà Phật, thì lúc đó tam tạng, mười hai bộ kinh điển mà Thế Tôn suốt 49 năm thuyết pháp đều là dư thừa, quý vị không cần đến đây nghe tôi giảng giải nữa.

Cho nên Phật độ chúng sanh có hai hạng người dễ độ : Một là những người thượng căn lợi trí. Vừa nghe qua liền thông đạt, liễu ngộ dứt sạch vọng niệm.

Hai là những người thật thà ngu dốt, họ không cần tìm hiểu nhiều. Bảo họ niệm Phật là họ cứ ngoan ngoản, thật tình chấp trì, không nghĩ tưởng điều gì ngoài niệm Phật. Còn loại Thứ ba là những người lưng chừng thích khiêng vác ôm đồm, tìm hiểu suy nghĩ lung tung. Quý vị biết không ? Chúng ta thuộc loại người thứ ba này đó, loại người nhiều rắc rối.

Cho nên đức Thế Tôn suốt trong 49 năm khổ nhọc mỗi ngày không ngừng nói pháp cũng vì những người nhiều rắc rối như chúng ta. Ngài phải đem pháp ly ác giảng nói tỉ mỉ ra cho chúng ta, mong rằng sau khi quý vị đã hiểu rõ rồi thì phải biết buông xả. Trên thế gian này, người biết buông xả, không có vọng niệm là người có đại phước báo ; tuyệt đối không phải có nhiều tiền tài, địa vị cao. người có địa vị tiền tài chỉ được hưởng thụ đời sống vật chất độ vài ba năm, sau khi chết rồi sẽ ra sao ? Tam đồ lục đạo phải chịu luân hồi, như thế có phải là phước đâu ? Nếu tâm không chút vọng tưởng, suốt ngày chỉ câu A Di Đà Phật, người này chỉ vài năm sau là đã thành Phật được rồi. Hiểu được như vậy thì quý vị mới biết công đức niệm Phật thật vô cùng thù thắng, không gì sánh bằng.

Đức Thế Tôn sở dĩ phải bày ra phương tiện nói ra ba thừa, chỉ vì muốn dẫn độ chúng sanh mà thôi. Mục đích duy nhất của Ngài là mong cho chúng ta một đời có thể thành Phật. Có người hoài nghi rằng : ỡ Tôi rất ngu si, chậm hiểu, nghiệp chướng lại sâu dày, có thể thành Phật được không ? ữ Trong kinh điển, Phật thường nói : ỡ Chỉ cần một câu danh hiệu Phật có thể tiêu trừ 80 ức kiếp sanh tử tội nặng ữ. Chúng ta thử nghĩ xem : Suốt một ngày một đêm ở niệm Phật đường, chúng ta đã niệm được rất nhiều tiếng, vậy thử tính xem tội chướng của chúng ta đã tiêu trừ được biết bao nhiêu rồi. Điều này chắc thật không sai ! Vì lời Phật nói không hề hư dối, chắc chắn có hiệu quả tốt, không thể nghĩ bàn. Thế nhưng, vì sao nhiều người niệm Phật suốt một ngày đêm mà nghiệp chướng vẫn còn đầy ? Bởi vì nghiệp chướng của người này quá nhiều. Do đó, công đức niệm Phật một ngày đêm dù giúp họ tiêu trừ đi rất nhiều, mà chưa dứt hẳn. Cho nên cần phải mỗi ngày đều niệm Phật, mỗi ngày giảm bớt đi nghiệp chướng. Phật dạy chúng ta rằng : ỡ Năng lực quan trọng nhất để giải trừ nghiệp chướng trong lúc niệm Phật là không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn ữ. Với ba yếu tố này, năng lực của không xen tạp mạnh nhứt. Nếu chúng ta giữ được liên tục, không gián đoạn trong 3 năm, cho dù nghiệp chướng sâu dày bao nhiêu của vô lượng kiếp đều có thể giải trừ hết. Làm sao biết được không còn nghiệp chướng ? Hãy nhìn lúc quý vị vãng sanh, có thể ra đi bằng cách ngồi hoặc đứng rất là tự tại. Sau khi về cõi Tây phương Cực Lạc, không phải trụ ở cảnh giới phàm thánh đồng cư, cũng không phải trụ ở tứ độ vãng sanh mà dự vào hạng thượng phẩm vãng sanh.

Câu danh hiệu Phật giải trừ nghiệp chướng thật là bất khả tư nghì. Cho nên ngài Từ Vân Quán Đảnh Pháp Sư, trong lời chú giải của bộ kinh Vô Lượng Thọ nói : ỡ Chúng sanh nào từ vô lượng kiếp tạo tội tạo nghiệp cực ác, cực sâu dày, bao nhiêu kinh luận, tất cả các sám pháp đều không thể sám trừ được, cuối cùng vẫn còn một phương pháp để có thể cứu vãn, đó là phương pháp niệm Phật ữ. Cho thấy công đức niệm Phật thật là to lớn, thù thắng vô cùng.

Pháp môn tha lực

HT Tinh Khong giang

Chỉ cần sanh về thế giới Tây phương Cực Lạc, chúng ta sẽ chứng cảnh giới tam ma địa. Tất cả cảnh bất sinh diệt này, sự chứng đắc này thật ra hoàn toàn không phải do công phu ở chính mình, mà do một phần tha lực của đức Phật A Di Đà hỗ trợ, cho nên pháp môn Tịnh độ còn gọi là pháp môn tha lực. Nói một cách rõ hơn, tự lực là năng lực của chính mình, y theo lời dạy của chư Phật mà niệm Phật để có thể hàng phục được những tập khí.

Một khi công phu niệm Phật thành khối, nhờ sức gia trì của Phật A Di Đà, sanh về thế giới Cực Lạc, vào được cảnh giới Tây phương gọi là tha lực.

Pháp môn nhị lực này là pháp môn duy nhất được chư Phật đề cập trong Tịnh độ tông. Ngoài sự chứng nhập cảnh giới tam ma địa, còn đạt nhất thiết Đà La Ni. Đà La Ni là tiếng Phạn, người Trung Hoa dịch là tổng trì. Tổng là hợp tất cả các pháp. Trì là giữ, làm theo tất cả giáo lý của Phật. Nói theo danh từ hiện nay tổng trì Đà La Ni là toàn toàn bộ nguyên tắc dạy chúng ta làm tất cả điều thiện, xa lìa các điều ác.

Hôm nay chúng ta cùng nhau tụ về nơi này để niệm Phật, cũng có thể gọi là ỡ tổng trì Đà La Ni ữ, bởi vì suốt một ngày một đêm, chỉ duy nhất giữ câu A Di Đà Phật. Tất cả những vọng niệm, suy nghĩ khác không còn nữa. Vọng niệm không còn, những việc ác không thể xảy ra, như vậy là xa lìa tất cả ác. Một câu vạn đức hồng danh thiện pháp cao tột của thế gian và xuất thế gian, chúng ta chấp trì từng câu liên tiếp không ngừng, để tăng trưởng thiện căn, đó là tất cả điều thiện. Ý nghĩa câu ỡ đắc nhứt thiết Đà La Ni ữ là như vậy. Khi bước chân vào niệm Phật đường, chúng ta đã đạt được ỡ nhất thiết Đà La Ni ữ, nhưng khi vừa ra khỏi, liền quên mất công phu niệm Phật. Tuy nhiên, một tuần 7 ngày, chúng ta có được một ngày chuyên nhất niệm Phật, đạt tâm không sanh không diệt nhất thiết đà là ni. Như vậy, chúng ta cũng đã giỏi lắm rồi !

Mỗi tuần 1 ngày đến niệm Phật, niệm liên tiếp ba năm, công phu của chúng ta đáng nể phục lắm. Khi có thì giờ rổi rảnh, mỗi ngày đều niệm Phật trong vòng ba năm thôi, chúng ta sẽ thành Phật ngay. Bao nhiêu nghiệp tội trong bao nhiêu lượng kiếp đều dứt sạch. Trong quyển Vãng Sanh Truyện, những người niệm Phật được vãng sanh ngay trong kiếp hiện tại này của chúng ta thật nhiều vô số kể. Người niệm Phật vãng sanh có nhiều hình thức : Có người đứng, có người ngồi tự biết trước giờ ra đi, không một chút bịnh hoạn, ra đi một cách vui vẻ tự tại, đẹp đẽ trang nghiêm. Kết quả vãng sanh này đều do công phu niệm Phật chuyên cần.

Phần 1 : Rộng mở tâm lượng

Pháp Sư Tịnh Không khai thị Pháp Môn Tịnh Độ


Trong việc tu học Phật pháp, muốn tự nâng cao cảnh giới của chính mình, có rất nhiều phương pháp. « Mở rộng tâm lượng » là một trong các phương pháp đó.

Trong đại thừa kinh điển, chúng ta thấy các vị pháp thân đại sĩ, tức là những người đã minh tâm kiến tánh, tâm lượng của các ngài rộng lớn như hư không, bao trùm cả pháp giới, vì thế, cái nhìn của các ngài đối với tất cả chúng sanh trong hư không và khắp pháp đều bình đẳng. Thế nào là bình đẳng ? Vô niệm là bình đẳng, còn có niệm là không bình đẳng. Phật trụ vô niệm.

Trong Kinh Kim Cang có câu : « Ưng vô sở trụ, sở trụ vô trụ » . « Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm », vô trụ tất cả là Phật trụ, mà vô trụ là vô niệm.

Chúng sanh trong chín pháp giới còn có chỗ để trụ. Ví như :

Chư Bồ Tát trụ ở cảnh giới Lục Độ.
Duyên Giác trụ ở Nhân Duyên.
Thanh Văn trụ ở Tứ Đế.
Ngạ quỷ ở cảnh giới Tham.
Địa ngục trụ nơi Sân.
Súc sinh trụ ở cảnh Si Mê.

Tâm của tất cả chúng sanh nầy đều còn chỗ để trụ, để dính mắc. Nói cách khác là tâm của chúng ta như thế nào, thì cảnh giới của chúng ta như thế đó.

Phàm phu chúng ta muốn trụ nơi cảnh giới vô trụ của Phật, là điều không thể đạt được. Tuy nhiên, Phật thường dạy cho chúng ta một phương pháp vô cùng thù thắng và tiện lợi, để có thể dự vào cảnh giới vô trụ của các ngài. Đó là pháp môn niệm Phật.

Bồ Tát trụ ở nơi lục độ ; chúng ta trụ nơi Phật trụ. Như vậy chúng ta được nâng cao hơn đẳng cấp của Bồ Tát, thế nhưng, tiếng niệm Phật của chúng ta phải tương ưng. Thế nào gọi là tương ưng ? Mỗi một tiếng niệm Phật, chúng ta phải trải lòng từ bi của mình đến với tất cả chúng sanh trong hư không và lan rộng đến khắp pháp giới. Mỗi tiếng niệm Phật đều vì lợi ích chúng sanh, đều mang lòng ban vui cứu khổ đến cho mọi loài.

Có người hỏi : « Tiếng niệm Phật của chúng ta thực tế có lan rộng đến hư không khắp pháp giới hay không ? » Khẳng định là được !

Trong kinh Phật nói : « Tướng không rời tâm, tâm không rời tướng ». Cái chân tâm của chúng ta, nguyên gốc của nó rộng khắp hư không, trùm khắp pháp giới. Sở dĩ tiếng niệm Phật của chúng ta không hoà nhập vào với hư không, là vì chúng ta còn nhiều vọng tưởng, phân biệt và chấp trước làm chướng ngại bản năng tự nhiên của mình. Nếu âm ba của tiếng niệm hoà nhập với âm ba của tâm, tức chân tâm lan rộng vào hư không, tiến sâu vào khắp các pháp giới, cho dù chư Phật thuyết pháp ở xa xôi, bất luận nơi nào, một khi tâm đã lắng động, không còn chướng ngại chúng ta vẫn có thể nghe được âm thanh lời pháp của các ngài rõ ràng, vì tâm từ bi của các ngài luôn trải rộng đến cõi Ta Bà này của chúng ta, cũng như chúng sanh ở các pháp giới khác. Đây là sự thật, không hề hư dối.

Vậy thì âm ba của Phật có thể rộng khắp, âm ba phàm phu của chúng ta cũng có thể rộng khắp, cho nên mở rộng tâm lượng trong pháp môn niệm Phật là một phương pháp rất vi diệu, rất đặc biệt thù thắng, có thể khiến phàm phu trong một kiếp được bình đẳng, được thành Phật.

Người thật sự biết niệm Phật, sự lợi ích, niềm an lạc mà họ đạt được, phàm phu chúng ta không thể nào hiểu thấu, mà họ cũng không thể giải thích rõ cho chúng ta, vì có giải thích, chúng ta cũng không hiểu. Giống như ai uống nước, tự người đó biết nóng hay lạnh, mùi vị ngọt đắng ra sao vậy. Nguyên tắc thuyết pháp của chư Phật cũng thế ! Những điều chúng sanh có thể hiểu được, các ngài mới nói ; nếu không hiểu được, tuyệt đối đều không nói.

Tóm lại, công phu niệm Phật có đắc lực hay không, chúng ta có thể thấy biết qua cảnh giới tâm lượng và sắc tướng của người đó.

Một khi công phu niệm Phật đắc lực rồi, chắc chắn trên gương mặt của chúng ta sẽ luôn tỏ ra niềm vui an lạc tự tại, trong đạo Phật gọi là pháp hỷ sung mãn.

Chúng ta đọc kinh sách thường nghe những người tu hành chứng quả A La Hán, là hàng thánh đạt tới mức chánh định, thân tâm an ổn, không còn thối chuyển. Tất cả những người do công phu thiền định mà tâm không ô nhiễm chuyện buồn lo, thân xa lià cảnh vui khổ của thế gian, đều được chứng nhập vào cảnh giới tam ma địa, tức là cảnh giới không còn sanh diệt. Phàm phu chúng ta nếu còn một phẩm vô minh chưa dứt đoạn muốn chứng vào cảnh giới cao cấp này, chỉ còn cách nương theo pháp môn tiện lợi nhất, đó là niệm Phật cầu sanh Tịnh độ.

Saturday, July 17, 2010

Nhu cầu - Ham muốn - Thiền

Những người còn chưa thỏa mãn thường mang tính cạnh tranh, họ nghĩ cuộc sống không phải ở ngay tại đây, lúc nầy, nó phải ở kia, chỗ đó . Người biết rõ niềm vui thì ở đâu cũng vui. Nhu cầu người đó rất nhỏ. Người đó Có Nhu cầu nhưng Không có Ham muốn. Nhu cầu có thể được thoả mãn, nhưng ham muốn thì không. Nhu cầu là tự nhiên, còn ham muốn là suy đồi.

“ Một khi bạn có ý niệm, hay mục tiêu nào đó thì mọi thứ đều trở thành khác. Thiền là hành trình đi đến cái - Không có ý niệm nào – Không có điều không tưởng nào - Thiền hoàn toàn thực tế" .

Khi không mang ý niệm nào trong tâm trí cả thì đây là thế giới duy nhứt, hoa hồng màu đỏ, cây cỏ màu xanh, và mọi người, mọi vật theo cách nầy cách nọ vẫn như thế. Điều nầy thật tuyệt vời !

Khánh An - Góp nhặt

Tri Thức - Bản Ngã

Tri thức là phương tiện đồng thời là cứu cánh giúp con người hiện diện trên thế giới nầy như một sinh vật hoàn hảo, có khả năng tự sống và đem lại lợi ích cho đồng loại nhờ những hiểu biết cá nhân thông qua quá trình tìm kiếm học hỏi. alt

Tri thức tốt cộng thêm sự thành thạo thì biết càng nhiều sự kiện càng tốt. Nhưng vì cái biết ấy mà quên mất điều huyền diệu của cuộc sống là rất nguy hiểm. Từ Obedience là “vâng lời” - từ gốc của chữ nầy là Obedire – có nghĩa là “ lắng nghe cho rõ”, có nghĩa “ bạn lắng nghe cho thấu đáo và vâng lời”.

Hãy nhìn cuộc sống mà không có điều kiện nào. Nhìn cuộc sống như nó vẫn thế, đang thế. Yathabhutan - Bạn sẽ liên tục được đổi mới, được làm cho tươi trẻ. Đây chính là ý nghĩa của Phục sinh. Nếu bạn hiểu điều nầy, dùng được pháp nầy bạn lập tức được tự do khỏi ký ức - vốn là ký ức tâm lý .

Ký ức là sự chết. Ký ức không phải là chân lý và mãi mãi không bao giờ có thể là chân lý được. Bởi vì chân lý bao giờ cũng sống động, chân lý là cuộc sống, ở ngay trong cuộc sống, còn ký ức là sự dai dẳng của cái không còn nữa ! Nó đang sống trong thế giới ma nhưng nó lại chính là chúng ta. Trên thực tế nó là nhà tù của chúng ta. Ký ức tạo ra cái nút, một phức hợp của cái gọi là Tôi - Bản ngã. Và tự nhiên cái thực tế “ giả tạo” được gọi là “ tôi “đó luôn luôn sợ chết. Đó là lý do tại sao bạn sợ cái mới. Bản thể không sợ hãi nhưng bản ngã thì sợ vì nó là giả tạo, là tùy tiện được gắn vào với nhau và có thể tan rã vì bất cứ nguyên nhân nào, lý do nào ! Cái mới đến sẽ làm cho nó tan nát. Nó không thể chấp nhận cái chết với niềm hân hoan. Còn bạn, hãy tự hỏi coi vì lẽ gì bạn không chấp nhận cái mới với niềm hân hoan ? Chừng nào bạn chưa hiểu, chưa tin bạn “ không phải là bản ngã “ thì bạn vẫn còn nỗi sợ hãi và cũng không thể đón nhận cái mới.

Khi bạn nhận ra bản ngã chẳng là cái gì khác hơn là ký ức của bạn, rằng ký ức như chiếc máy tính sinh học, rằng nó là cái máy, tiện dụng, nhưng sau khi dùng bạn phải tìm cách vượt ra ngoài nó. Bạn là tâm thức. Ký ức là nội dung trong tâm thức. Bạn là bản thân tâm thức. Ký ức là cuốn sổ ghi chép của bạn. Bạn là người tra sổ, cho nên bạn cần gì phải đứng ra nhìn nhận một cách sai lầm bạn là bản thân của ký ức !

Ví dụ bạn thấy ai đó trên đường, nhận ra hơi quen nhưng không nhớ tên, bạn lục ra trong ký ức nhưng không lôi ra được, tiếc quá bỏ đi ra ngoài vườn, bổng cái tên ấy hiện ra một cách hồn nhiên không chờ đợi …

Bạn là tâm thức, ký ức là nội dung của tâm thức. Thay đổi nội dung trong khi ký ức là toàn bộ năng lượng sống của bản ngã quả thật gay go, phiền phức, vì cái mới không dễ tiêu hóa ! Bạn sẽ phải đủ dũng cảm làm một cuộc “chuyển dịch”, điều chỉnh, sửa lại bản thân.

Để hòa hợp với cái “ mới “ người ta cần trở nên không đồng nhất với bản ngã, và khi không đồng nhất với bản ngã thì bạn đâu cần phải quan tâm là nó sống hay chết. Nếu nó là cái máy thì bạn hy dùng chớ đừng để cái máy dùng bạn. Bản thể là cuộc sống và nó chẳng biết gì về cái chết. Vì vậy, Chết trong bản ngã lập tức được sinh ra bản thể trong niềm thiêng liêng. Cái “mới” là sứ giả từ Sự tồn tại, là thông điệp, là cẩm nang của Tồn tại. Lắng nghe cái mới, đi cùng cái mới,cuộc sống bạn ngày một phong phú hơn, và một ngày nào, một khoảnh khắc nào đó ..bạn có thể phát ra ánh sáng huy hoàng không bị cầm tù khi bạn nhìn cuộc sống không phải bằng đôi mắt của vị quan tòa !

Mỗi vật đều như nó phải như vậy. Đơn giản nghe và thấy cuộc sống như nó đang, không phủ lên ý niệm rằng nó phải như thế nầy hay phải như thế khác. Thông điệp là báo tin, không phán xét, không so sánh. Nhìn cuộc sống bằng sự say mê thán phục, đôi khi trời đang mây là hoàn hảo, nhưng có lúc trời đang nắng là hoàn hảo, là đang như thế và rồi cái mới vẫn đang biến, là sẽ không còn như thế nửa vậy thì lúc bạn đang thấy đang nghe chính là lúc cuộc sống đang hoàn hảo ! Là hòa hợp, là phúc lành, là lòng tin, là cầu nguyện. Không phải làm sao cho nó mà chính là nhận ra nó như đang thế. Đang có ở đây rồi ! Khi bạn ở trong không gian im lặng, bạn có thể nhận ra điều vừa nói – Cái gọi là khoảnh khắc thảnh thơi - Mọi kỹ thuật, mọi con đường, mọi phương pháp đều cần được vứt bỏ hết.

Osho
Khánh An ghi.
06.12.2004

Sự lắng nghe

Quá ồn ào, tất bật với những ham muốn trên - dưới, trong - ngoài…nên con người không thể nghe được âm nhạc của riêng mình. Hãy cho rơi vào khoảng không yên lặng ! Đây là một ‘ mẹo “ chớ không phải kỹ thuật. Hãy im lặng ngắm nhìn mặt trời lên mỗi buổi sáng; hồn nhiên lắng nghe tiếng chim hót, tiếng trẻ con chơi đùa. Hãy nằm dài trên cỏ hiện hữu với trăng. Trăng sáng trên bầu trời trăng với những đám mây đến đi tan hợp bồng bềnh.

Và bạn không nghĩ gì không làm gì cả - Có gì để làm ? Có gì phải làm khi hiện hữu với những điểu vừa kể !

Phật trông rất nữ tính. Bạn có thấy thật sự cần thiết tạo dựng, làm giàu thêm cho mình những phẩm chất của sự hiền hậu dịu dàng không ? Sự xúc động, sự ân cần, sự chuẩn bị, học cách tiếp nhận phẩm chất bên trong của mỗi vật .

Đam Mê

Đam mê là năng lượng, là ngọn lửa, là sự sống, là cái duy nhứt cho thiền tồn tại. Đam mê là cây cầu, là cơn khát, là cơn đói. Càng đam mê càng có nhiều khả năng vượt thoát cái vừa mới xãy ra trong sự mạnh mẽ của khát, của đói thiền. Bất kỳ làm việc gì thiếu đam mê cũng sẽ không đạt được kết quả mong muốn. Nếu hát , hãy hát say sưa, nếu yêu hãy yêu say đắm, nếu vẽ hãy vẽ mãi mê, nếu nghe hãy nghe một cách chăm chú, nếu thiền hãy thiền một cách quyết liệt mới có thể đạt đến giải thoát. Ở đâu có đam mê nơi đó có sự tiếp xúc với điều tối thượng. Đem mê vẽ hoa, việc vẽ đó là thiền. Bạn nhảy múa vô niệm với niềm đam mê hoàn toàn, vũ công biến mất còn lại điệu vũ mang năng lượng thuần khiết - điệu vũ đó là thiền.

Khi đam mê thật hoàn toàn Bản ngã chết. Còn có gì khác !?

Khánh An ( góp nhặt )
16.12.2004



http://www.nsbachtuyet.com/library/index.php?option=com_content&view=article&catid=36:shortarticles&id=72:lng-nghe-am-me

Nẻo chánh để Tu hành (sửa mình)

Hỏi: Thưa Thầy , khi thực hành mới thấy không giản dị !
Đáp: Đừng nói không giản dị , hãy cứ làm thì sẽ thấy hết sức giản dị !
Hỏi: Song con là kẽ phàm phu cho nên ..
Đáp: Nói mình phàm phu tức là chấp trước !alt
Hỏi: Song con không có tu hành gì …
Đáp: Đừng nên nói không có tu hành ( rồi không tu ) Bạn cần phải có lòng tin rằng :” Tôi cũng có khả năng thành Phật. Tôi cũng có khả năng tu tới nơi tới chốn .” Nghĩ như vậy thì bạn mới tinh tấn hơn. Đừng nên cứ thường nói “ Tôi ..tôi ..” bởi chính “ nó “ quan niệm về cái “ tôi “ hay tác oai tác oái, làm chướng ngại bạn đấy ! Hãy cố gắng trừ sạch ngã tướng “ cái tôi “ của mình, chừng đó trí huệ mới được khai phá , khai ngộ. Người quyết sữa mình thì không chấp trước. Không chấp trước sẽ không sanh phiền não. Tiếp theo là nhẫn , nhẫn nại , nhẫn nhục đó chính là gốc rể của việc tu. Nếu mình thấy mình lúc nào cũng đúng thì lúc đó mình đã “ bịnh “ rồi mà mình không hề hay biết. Không kể chuyện mình hồi xưa , học thế nầy ; làm thế nọ ..mà phải buông bỏ mọi thứ, chỉ nhớ mỗi một chuyện là “ Quyết chí tu thân, nhứt quyết tu tâm, sửa tướng hằng ngày, hằng giờ ngay trong hiện tại “.
Hỏi: Thưa Thầy ! Tốt mỉm cười , xấu cũng mỉm cười ?
Đáp: Đúng vậy , bởi tốt do tâm mà xấu cũng do tâm phân biệt bày ra. Do đó , đừng phân biệt !
Hỏi: Thưa Thầy ! Khi gặp việc cao hứng vui vẻ …
Đáp : Hãy tự hỏi “ Ai đang vui ? “ Cũng vậy , khi có phiền não hãy hỏi “. Ai phiền não ? “ và nói “ Phiền não ! Hãy mau đi khuất ! “
Hỏi: Thưa Thầy ! Như vậy lúc nào cũng thua thiệt trước những ham muốn phân biệt phải quấy của người đời…
Đáp: Người tu ( quyết sửa mình ) phải chịu thiệt thòi thua lỗ mới tiến bộ. Thích và vui sướng làm những việc mà ít ai chịu làm: luôn dũng mãnh , tinh tấn, chứ không phải tính toán, so đo , rằng “ Việc nầy đâu phải để tui làm ! Hay làm những việc có ích cho người cho đời mà không mang về cho riêng mình mối lợi nào đó là một trong những cách tu phước huệ. Điều tốt góp nhặt để học , điều chưa tốt để qua một bên, biết đúng biết sai để tự sửa mình mà không phân biệt đúng sai để tranh cãi hơn thua. Xưa có hai người đồ đệ cùng tọa thiền, một người ngồi rất nghiêm trang , một người ngồi lúc nào cũng nghiêng qua ngả lại Nhưng sư phụ của họ lại lấy roi quất người ngồi nghiêm trang. Nếu là người đời nay thì chắc đã nổi giận sân sanh phiền não mà bỏ tu rồi , song người đệ tử ấy vô cùng xấu hổ, thỉnh vấn sư phụ khai thị dạy bảo : “ Tu hành không phải tranh chấp “ Đúng với sai ! “ Tu hành cần công phu nhẫn nhục, dù mình đúng mà bị trách oan là sai, mình cũng tập nhận chịu một cách vui vẻ. Nếu thật có lòng muốn tu học để tự sửa mình thì những lúc như vậy chính là lúc phước huệ của bạn tăng trưởng hơn bao giờ hết.
Hỏi: Khờ khạo mà tu hành, ngốc nghếch mà ăn uống, niệm Phật cho nhiều. Thưa Thầy ! Thầy đã dạy như thế !
Đáp: Đúng vậy. Hôm nay là hôm nay , ngày mai là ngày mai ! Khi tu thì cứ tu, cần gì phải suy nghĩ , tính toán nào là học Phật lấy bằng cấp, làm chuyện nầy không làm chuyện nọ . Những thứ đó đều không phải chuyện tu hành. Áo quần , ăn uống, chỗ ở cần giản dị , áo thô , cơm lạt..Khi nào coi nhẹ việc ăn, mặc , ở , thì mới trừ nổi tham , sân , si !
Hỏi : Thưa Thầy ! Những thứ ăn , mặc , ở quá sung túc thì sẽ thế nào ?
Đáp : Sẽ là đầu mối của dục vọng bùng lên không kếm chế nổi, lòng tham muốn ngày càng cao ngất. Nhất là phải chú ý nhắc nhở mình gặp chuyện tốt hay xấu cũng không để hiện ra ngoài mặt. Như bạn sanh bệnh thì cứ lo trị nhưng đừng để kẻ khác biết mình bệnh mà khiến cho người lo lắng . Lúc nào cũng giữ Trung Đạo. Đừng quá gấp, đừng quá chậm. Phải như “ thế thủy trường lưu”. Nước chảy từ từ mà không chỗ nào ngừng !

HT Quảng Khâm
Khánh An góp nhặt
08/2008

Chăm Sóc - Quan Tâm

“Thường nhân trọng của cải
Kẻ sĩ liêm khiết trọng danh
Hiền tài trọng khí tiết
Thánh nhân trọng tinh thần”


Con người cũng như mọi vật khi đã vô tình hay hữu tình hiện diện cái sắc tướng trong đời thì ai, vật nào cũng cần điểm tựa. Điểm tựa của thai nhi là bụng mẹ, điểm tựa của đứa bé là cha mẹ, điểm tựa của người lớn là vị trí, chỗ ngồi, chỗ đứng, chỗ nằm. Điểm tựa của người già là con cháu , điểm tựa của người chết là huyệt mộ. Điểm tựa của huyệt mộ là đất….Vậy dùng thứ gì để cho bất cứ thời gian nào, không gian nào, thời điểm nào điểm tựa cũng an toàn vững chãi?

Xin thưa đó là “Đức”. Dùng đức trước sau mọi thứ đương nhiên điều hòa.
Thánh nhân dạy khi dùng được đức thì tính bao dung xuất hiện mọi nơi, mọi chỗ ta người đều dung thông, tự tại. Thường ta nghe nói lời thiện, nghe đọc chuyện thiện, nghe làm việc thiện, lập tức hai chữ “nhân đức” xuất hiện.
Ở đâu nhân đức xuất hiện (nhân đức tức là người có đức độ, hay gọi là đức độ của con người) thì ở đó có Đạo. Vậy khi con người đối xử với nhau hài hòa, trước sau, mạnh yếu, suy thịnh đều giữ một mực tin kính thủy chung thì gọi là “Nghĩa”. Khi đã có được Đạo - Đức làm nền tảng thì hồn nhiên hiển bày Nhân – Nghĩa .

Gió thổi vi vu , suối reo chim hót …đều là nhạc. Con người vui buồn, sướng khổ, sầu thương đều bày tỏ bằng nhạc. Âm thanh mang hình tướng và hình tướng tự nơi tâm mà sanh. Nên gọi là Âm nhạc – âm nhạc giúp con người cũng như mọi sinh vật trở nên thuần khiết, trở về với bản tính tự nhiên của mình. Khiêm cung, chân thành, nghiêm chỉnh, bao dung, trí tuệ trong hành vi, trong ý nghĩ , trong lời nói, cử chỉ khoan thai, đoan trang sáng rỡ dung mạo. Từ đó chúng ta nhận ra lời hoa mỹ dùng che đậy nội dung trống rỗng luôn làm hại cái chất phát và sự học rộng mà không đi được cùng chánh pháp sẽ làm chìm đắm tâm linh. Con người biết bảo toàn thân mình thì sẽ không dùng lời lẽ phù hoa để tô điểm cho trí tuệ. Khi được trao danh phận nên nhìn cho kỹ, suy cho cạn cùng xem có hợp với thực tế hay không! Trước khi nhận làm tròn một bổn phận nào cần phải nhìn trước ngó sau xem mình có khả năng, có thích nghi ! Bởi vì nói cho cùng thì khi thuận với bản tính thì Đức đương nhiên phát sinh mà dùng Trí không thôi thì trước sau cũng đi đến sát sinh , tàn hại.

Tóm lại, ai trong chúng ta cũng cần học để biết cách dùng cái “kho báu” của mỗi người. Đừng ém cái tự nhiên, đừng bao giờ vô tình hay cố ý diệt thiên tính ở con người ! Công dụng của chữ nghĩa nhằm mục đích chuyển tải phần nội dung trọng yếu hàm chứa ý sâu bên trong, học cái hay cái đúng là học được sự thật mà chữ nghĩa dùng diễn tả. Phân tích từng câu, từng chữ có thể coi như là công việc vô ích dành để thỏa mãn tri thức thế gian. Phát huy sự thấy đúng như thật khác với vọng thức, bởi vọng thức không hề giúp giải quyết tốt đẹp mọi sự mà còn là rào cản, chướng ngăn con đường đến với Đạo – Đức làm vật – làm người.


Khánh An
(Góp nhặt cát đá)

05/02/2010