Monday, December 21, 2009

Lục hòa

November 10 2009

A Mở Ðề

1. Tai hại của sự bất hòa:

Trong sự sống chung đụng hằng ngày, không có gì tai hại bằng sự bất hòa. Sự bất hòa làm ung độc cuộc sống chung và bắt buộc người ta phải xa nhau, nếu không muốn ở gần nhau để làm khổ cho nhau. Trong gia đình, anh em không hòa, thì tình cốt nhục chia ly. Vợ chồng không hòa, thì gia nghiệp chẳng thành, con cái phải bị đau khổ, vì gần cha thì phải xa mẹ; gần mẹ thì phải xa cha. Xóm làng không hòa thì hay sinh ra rầy rà, kiện cáo, chém giết lẫn nhau. Quốc gia không hòa thì sanh ra giặc giã loạn lạc, dân chúng khổ sở. Nhân loại bất hòa, thì chiến tranh tiếp diễn, nhân sinh điêu đứng, suy tàn.

2. Sự quan trọng của nhu hòa:

Ðã thấy sự bất hòa như thế nào, tất nhiên cũng phải thấy đức tánh nhu hòa là cần thiết như thế nào cho đời sống tập thể.
Chúng ta thường nghe nói: "Dỉ hòa vi qúi" (lấy hòa làm quý). Bốn chữ giản dị ấy có một công dụng ích lợi vô cùng. Những ai lấy nó làm phương châm, thì bất luận việc lớn việc nhỏ đều thành tựu dễ dàng. Trái lại, những ai khinh thường nó, thì công việc chung không bao giờ có kết quả. Sách Nho cũng có nói: "Thời thế thuận, không bằng địa thế lợi; địa thế lợi, không bằng nhân tâm hòa" (thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hòa). Xem thế thì đủ biết: yếu tố hòa là quan trọng hơn hết trong mọi việc, mọi tổ chức. Gia đình hòa thì gia đình có hạnh phúc; nước nhà hòa thì nước nhà được thạnh trị; nhơn loại hòa thì thế giới an lạc. Hiểu biết hơn ai hết sự quan trọng của đức tánh nhu hòa trong đời sống tập thể, đức Phật đã chế ra pháp "Lục hòa" cho hàng Phật tử.


B. Chánh Ðề

I. Ðịnh Nghĩa: Lục hòa là sáu phương pháp cư xử với nhau cho hòa hợp từ vật chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm. Hòa ở đây là hòa với mục đích tiến tới sự cao đẹp, đến con đường giải thoát, toàn thiện toàn mỹ, chứ không phải hòa một cách nhu nhược, thụ động, ai nói quấy cũng ừ, ai nói phải cũng gật. Hòa ở ở đây cũng không phải là phương tiện trong giai đoạn để rút thắng lợi về mình, rồi lại chiến. Hòa ở đây nhằm mục đích làm lợi cho tất cả, gây hạnh phúc cho tất cả, trong ấy có bóng dáng "tự và tha" không có so đo "ta và người".

II. Lục Hòa Là Những Gì Lục hòa gồm có sáu điểm sau đây: 1. Thân hòa cùng ở (Thân hòa đống trú): Nghĩa là cùng nhau ở dưới một mái nhà, trong một phạm vi, một tổ chức, hôm sớm có nhau, cùng ăn cùng ngủ, cùng học cùng hành. Khi đã sống chung đụng hằng ngày như thế, thì phải hòa thuận với nhau, không dùng sức mạnh, võ lực để lấn hiếp, đánh đạp nhau. Nếu là anh em, vợ chồng, con cái trong một gia đình, thì phải trên thuận dưới hòa, anh ra anh, em ra em, chồng ra chồng, vợ ra vợ, chứ không được lộn xộn vô trật tự, hiếp đáp, sát phạt nhau. Nếu là những Phật tử, cùng ở với nhau học tập dưới một mái chùa, thì tuy là không phải ruột thịt, nhưng cũng là những người con chung của đức Phật, cùng một lý tưởng mục đích, thì cũng phải lấy cái hòa khí làm đầu, không được chia phe phái, ỷ mạnh hiếp yếu, ỷ thế hiếp cô, mạnh ai nấy được. Nếu là đồng bào, cùng chung sống trong một quốc gia xã hội, thì phải lấy sự đoàn kết làm đầu, không được gây cảnh nồi da xáo thịt, chia năm xẻ bảy, làm thành giặc chòm, giặc xóm; sát phạt nhau, chém giết nhau. Người nước ta có câu ca dao rất có ý nghĩa: "Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn". Khác giống, mà sống chung trên một giàn, còn phải hòa thuận, thương yêu nhau; huống chi là cùng một dân tộc, một giống nòi ! Cũng thế, đã là nhân loại, cùng chung sống trên quả địa cầu nầy, thì dù là da trắng, da đen, da vàng hay da đỏ cũng là "Tứ hải giai huynh đệ" cả. Ðã là giống người như nhau mà lại đem nhau ra chiến trường bắn giết nhau, tàn sát nhau, làm mồi cho súng đạn vô tri, thì thật là vô cùng phi lý. Tóm lại, đã cùng chung sống với nhau trong một địa vị, một giới hạn, một hoàn cảnh, thì bao giờ cũng phải hòa hảo với nhau. 2. Lời nói hòa hiệp, không tranh cãi nhau: Muốn thân không đánh đạp nhau, không đối chọi nhau, khi ở bên cạnh nhau, thì lời nói phải giữ gìn cho được ôn hòa nhã nhặn; trong mọi trường hợp, nhất thiết không được rầy rà, cãi cọ nhau. Có người thân hòa mà khẩu không hòa, ăn thua nhau từng câu nói, tìm cách mỉa mai, châm thọc nhau, hạch hỏi nhau từng tiếng một, cuối cùng sanh ra ấu đả nhau. Trong một gia đình, cũng vì một lời nói không hòa, mà nhiều khi anh em xa lìa nhau, vợ chồng ly tán nhau, cha con không thấy mặt nhau, trở thành những kẻ xa lạ, thù hằn nhau. Trong xã hội, cũng vì một lời nói không hòa, mà nhiều khi quốc gia phải lâm nạn chiến tranh, nhân loại phải bị đẩy vào lò sát sanh thảm khốc. Bởi thế, nên thân thể hòa chưa phải là đủ, mà Phật dạy phải hòa cả miệng nữa. Nghĩa là người Phật tử phải nói lời dịu dàng, hòa nhã với nhau, nhất thiết không được cãi lẫy, gây gỗ nhau. Nếu có gì thắc mắc, cần phải bàn cãi cho ra lẽ, thì tuyệt đối phải dùng lời nói ôn tồn, hòa nhã mà bàn luận. 3. Ý hòa cùng vui (Ý hòa đồng duyệt): Duy thức học có nói: Ý là hệ trọng hơn hết, nó là động cơ thúc đẩy miệng và thân. Kể công thì nó đứng đầu, mà kết tội, nó cũng đứng trước (công vi thủ, tội vi khôi). Bởi thế cho nên, trong một gia đình, một đoàn thể, mỗi người cần giữ gìn ý tứ, tâm địa của mình. Nếu ý tưởng hiền hòa, vui vẻ thì thân và lời nói dễ giữ được hòa khí. Trái lại nếu ý tứ bất hòa, thường trái ngược nhau, ganh ghét nhau, thì thân và khẩu khó mà giữ cho được hòa hảo. Dù có cố gắng bao nhiêu, để thân và khẩu được hòa khí, hay vì sợ một uy quyền gì trên, mà phải ăn ở hòa thuận với nhau, thì sự hòa thận này cũng chẳng khác gì một lớp sơn đẹp đẽ, tô lên một tấm gỗ đã mục. Một khi sự xung đột bên trong đã đến một mức độ không thể chịu đựng được nữa, tất nó sẽ nổ tung ra trong lời nói hay trong những cái đấm đá; cũng như tấm gỗ khi đã mục quá rồi thì thế nào lớp sơn bên ngoài cũng rạn nứt, đổ bể. Ðức Phật đã thấu rõ như thế, nên Ngài dạy phải có tâm ý vui vẻ hòa hiệp trong khi chung sống với nhau. Muốn được tâm ý hòa hiệp, phải tu hạnh Hỷ Xà. Hỷ xả nghĩa là bỏ ra ngoài những sự buồn phiền, hờn giận, không chấp chặt trong lòng những lỗi lầm của kẻ khác. Có như thế, tâm hồn mới thư thái, vui vẻ được, và ý nghĩ mới trong sáng, thanh tịnh được. Vậy Phật tử chúng ta hãy cố gắng tu hạnh hỷ xả mới được. 4. Giới hòa cùng tu (Giới hòa đồng tu): Trong một tổ chức, một đoàn thể nào có trật tự, tất đều có kỷ luật qui củ hẳn hoi. Trong đạo Phật, mỗi Phật tử, tùy theo địa vị cấp bậc tu hành của mình, mà thọ lãnh ít hay nhiều giới luật. Người tại gia thì thọ Ngũ Giới; người xuất gia thì thọ 10 giới nếu là Sa Di, thọ 250 giới nếu là Tỳ kheo, thọ 348 giới nếu là Tỳ kheo Ni v.v... Khi Phật tử hội họp lại, hay khi cùng chung sống để tu học, mỗi ngày tùy theo cấp bậc của mình mà giữ giới. Ðã cùng một cấp bực với nhau, thì tất phải thọ giới và giữ giới như nhau, chứ không được lộn xộn, giữ giới nầy, bỏ giới kia, giữ giới kia, bỏ giới nọ, mỗi người mỗi thứ. Nếu có sự vô kỷ luật nầy thì lẽ tất nhiên tổ chức ấy sẽ tan rã. Vì thế, đức Phật dạy: khi Phật tử đã chung sống với nhau, thì triệt để phải cùng nhau tu những giới luật như nhau, giữ đúng những giới luật của cấp bực mình. Nói rộng ra, trong một trường học, một gia đình Phật tử, một hội chẳng hạn, bao giờ cũng lấy kỷ luật làm đầu. Trong trường, nếu học sinh không giữ kỷ luật của trường, ai muốn ra cứ ra, ai muốn vào cứ vào, ai muốn học cứ học, ai muốn chơi cứ chơi, thì trường ấy ắt phải sập. Trong gia đình Phật tử, đoàn sinh mỗi người mỗi làm theo mỗi ý riêng mình, không tuân năm điều luật của gia đình, không làm theo huấn lệnh của Huynh trường, thì gia đình Phật tử ấy sẽ tan rã. Một hội viên không tôn trọng điều lệ của hội, phân chia giai cấp, tự cho mình sang không cần giữ giới như người hèn, tự cho mình giàu, không giữ giới như người nghèo, tự cho mình có học thức không giữ giới như người vô học; nếu có tình trạng như thế tất hội ấy sẽ tan rã. Nói tóm lại, trong một đoàn thể, đạo hay đời, nếu không cùng nhau gìn giữ giới điều, kỷ luật, quy tắc, thì chúng ta không bao giờ sống chung với nhau được. Vật Phật tử, muốn hòa hợp cùng nhau để tu tập, thì mỗi người cần phải gìn giữ giới luật như nhau. 5. Thấy biết giải bày cho nhau hiểu: (Kiến hòa đồng giải): Trong sự sống chung, mỗi người hiểu biết được điều gì, khám phá được điểu gì, phải giải bày, chỉ bảo cho người khác hiểu. Như thế trình độ hiểu biết mới không chênh lệch, sự tu học mới tiến đều về tinh thần bình đẳng, mới dễ giữ vững giữa những người cùng ở một đoàn thể. Khi ta khám phá ra được một điều gì mới lạ, hay có một ý kiến gì hay ho, nếu ta không giải bày cho người chung quanh, thì không những ta là một kẻ ích kỷ, mà còn tạo ra một sự tắc nghẽn giữa sự thông cảm với những người khác. Lòng ích kỷ và sự tắc nghẹn ấy là mối dây của sự chia rẽ, bất hòa, xung đột. Trước một vấn đề, mỗi người sẽ nghĩ, sẽ thấy mỗi cách, và do đó, sẽ gây nghi ngờ, hoang mang trong đoàn thể, vì phần đông không biết tin vào ai. Nhất là trong kinh sách Phật, vừa nhiều, vừa cao siêu, vừa đủ loại, mỗi Phật tử có thể khám phá ra một khía cạnh khác nhau, tìm ra một ý nghĩa có thể đúng, mà cũng có thể sai. Trong những trường hợp ấy, mà không gấp rút giải bày quan điểm, ý kiến của mình cho mọi người trong đoàn thể hiểu biết, thì khó mà có thể sống hòa hiệp với nhau. 6. Lợi hòa cùng chia cân nhau (Lợi hòa đồng quân): Về tài lợi, vật thực, đồ dùng phải phân chia cho cân nhau hay cùng nhau thọ dụng, không được chiếm làm của riêng, hay giành phần nhiều về mình. Trong khi sống chung, nếu có người đem cho vật thực, y phục, mền chiếu, thuốc thang v.v...thì phải đem quân phân tất cả, nghĩa là chia cho đều nhau, không vì tình riêng, kẻ ít người nhiều, kẻ tốt người xấu, nhưng phải lấy công bằng làm trọng. Giữ được như thế, thì dù ở chung nghìn người cũng vẫn hòa vui. Trái lại, nếu vì tính tư, ý riêng tham tài ham lợi thì dù chỉ có vài ba người chung sống với nhau, cũng không thể hòa được. Trong xã hội sở dĩ có sự xung đột dữ dội, phân chia giai cấp, cũng do vì thiếu sự "Lợi hòa đồng quân" cả. Người giàu thì giàu quá, kẻ nghèo thì nghèo xơ, kẻ dinh thự nguy nga ruộng đất cò bay thẳng cánh, có kẻ không có một chòi tranh vách đất. Do đó, không thể có hòa bình được: người vô sản xung đột với kẻ hữu sản, nước nghèo đói sanh sự với nước phú cường. Nếu nhân loại thâm hiểu rằng: cuộc giàu sang phú quý trong nhân gian, như hạt sương đọng trên cành hoa, công danh vinh hiển trên đời như bọt nước nổi trên mặt biển, thì chắc sự chênh lệch giữa giàu và nghèo sẽ bớt đi nhiều lắm, và nhân loại sẽ bớt xung đột nhau hơn. Với một tinh thấn bình đẳng lợi tha, từ bi cứu khổ, với một trí huệ soi thấu rõ sự vô thường, giả tạm của cuộc đời, Ðức Phật đã dạy: "Có tài lợi, nên tùy phận chia sớt cho nhau", hay triệt để hơn nữa: "Lợi hòa đồng quân". Bây chúng ta đã là Phật tử, phải nên cố gắng thực hành cho được lời dạy ấy. C. Kết Luận Ðể có một ý niệm tổng quát về Lục hòa chúng ta hãy ôn lại một lần nữa, những ý chính trong 6 điều chỉ bảo của đức Phật:

1) Hãy chung sống với nhau một cách hòa hợp, hãy chung lưng đấu cật, đùm bọc nhau, chứ không nên dùng võ lực để đàn áp nhau.
2) Hãy nói năng với nhau một cách dịu dàng, hòa nhã; nếu có điều gì thắc mắc cần bàn cãi, thì cũng phải bàn cãi trong ôn hòa, lễ độ.
3) Hãy nuôi dưỡng ý tốt đẹp đối với nhau, hãy trau dồi đức hỷ xả; đừng bao giờ thù hiềm, ganh tỵ nhau.
4) Hãy giữ đúng giới luật như nhau, hãy lấy kỷ luật làm đầu. Vô kỷ luật thì không một đoàn thể nào có thể tồn tại được.
5) Hãy giải bày những sự hiểu biết, những ý kiến của mình cho người chung quanh. Người thông hiểu nhiều, phải có bổn phận chỉ bày cho người hậu tiến và dắt họ đi kịp mình.
6) Hãy chia đồng đều tài lợi thu thập được cho những người cùng sống chung với mình, để mọi người đều được thỏa mãn, vui vầy. Sáu điều dạy trên đây, nếu chúng ta thực hiện một cách triệt để thì trong gia đình, cha mẹ vợ chồng, anh em, đều được hòa thuận yên vui, gia nghiệp mỗi ngày một thịnh đạt; quốc gia được hùng cường thịnh trị, thế giới hòa bình an lạc. Riêng về trong giới Phật tử chúng ta, nếu áp dụng đúng đắn pháp "Lục hòa", thì sự tu học của chúng ta mau được tiến bộ, con đường giải thoát được gần hơn, và cảnh giới Cực lạc không phải chỉ là một ước vọng. Vậy xin khuyên các Phật tử mỗi người sau khi học hiểu rõ Lục hòa, phải thật hành cho được và khuyên mọi người thật hành theo, để cùng hưởng hạnh phúc chung.


Cố HT Thích Thiện Hoa(Trích trong Phật Học Phổ Thông)

Buoi noi chuyen Tang Ni lop giang su

Sunday, December 20, 2009

Khen và Chê

Buổi sinh hoạt hôm nay, chúng tôi sẽ nói về tinh thần khen chê trong đạo Phật. Trong đời sống thường nhật ít ai vượt qua được sự khen chê hoặc không bị khen chê làm bận lòng. Cho nên người tu Phật nhất định không để mất thì giờ vì việc tầm thường này.Thường khi được khen người ta vui, khi bị chê người ta buồn. Chính cái vui buồn ấy làm trở ngại việc tu của chúng ta. Người thật tu phải tỉnh, phải khắc tiến, phải vươn lên, vượt qua tất cả những việc tầm thường ấy để thực hiện cho được chí nguyện cao thượng của mình. Dù Phật tử tại gia hay hàng xuất gia, chúng ta đều là con Phật, tu Phật, có duyên với Phật nên cùng học Phật, theo đúng chánh pháp của Như Lai mà tu hành.Xưa nay đâu có người nào bị chê hoàn toàn hay được khen trọn vẹn. Cho nên khen chê chẳng qua chỉ là những đánh giá bên ngoài, không có giá trị cố định, nó tùy thuộc vào cái nhìn cái nghĩ của mỗi người. Hiểu như thế chúng ta sẽ bình thản vượt qua tất cả khen chê. Người làm chủ được mình không bị khen chê suy suyễn, làm chùng bước tu tập. Công phu này đòi hỏi ở chúng ta một sức tỉnh mạnh mẽ. Nếu không thế chúng ta rất dễ bị ngã gục bởi những lời nói, hành động khen chê bên ngoài.Trong sinh hoạt hằng ngày, ít khi nào chúng ta được bình yên với những sự kiện chung quanh. Trong đó, những điều bất như ý lại nhiều nhất. Như một trăm điều mong ước chưa chắc được đôi ba điều. Mong ước thì quá nhiều, nhưng đạt được như nguyện thì chẳng bao nhiêu. Ví dụ chúng ta cầu nguyện lúc nào mình cũng được khỏe mạnh, nhưng cứ đau yếu hoài. Trời nắng gắt là nhức đầu, vài hột mưa rớt xuống là sổ mũi, thật không bao giờ toại nguyện trăm phần trăm.Nếu tỉnh giác, lúc nào cũng biết cuộc sống vốn là bất như ý, thì ngay hiện đời ta giảm thiểu được nhiều sự mong muốn. Mong muốn không có thì khổ cũng không còn, rõ ràng như vậy. Chúng ta sáng suốt kiểm soát những hành động, ngôn ngữ, ý nghĩ của mình, đừng để nó phóng ra ngoài, chạy theo ham thích này, mong muốn nọ, nhất định chúng ta sẽ có đời sống ổn định. Không ai có thể mang phước báu đến cho mình khi ta vẫn si mê lầm lạc, tạo tác các nghiệp không tốt. Ngay cả mong cầu khấn nguyện với trời Phật cũng phí công vô ích. Ta không tỉnh, để cho ba nghiệp thân miệng ý lẫy lừng thì chuốc quả khổ là điều đương nhiên, Phật cũng không thể cứu được.Người tu không bao giờ để những ý nghĩ xấu, những ngôn ngữ không đúng, những hành động sai trái xảy ra. Vì sao? Trước nhất những ý nghĩ, những hành động đó phát tiết ra ngoài làm mất đi tư cách của người tu Phật. Càng tu càng hiểu đạo, càng gìn giữ tư cách, càng hành trì lời Phật dạy. Chúng ta càng được an lạc trong chánh pháp chừng nào thì càng thận trọng giám sát lời nói hành động của mình. Nhờ thế mà tâm được yên. Dù tu pháp môn nào, trong công phu cũng phải giữ điều này, nhất định sẽ bớt phiền não, tu tiến và có lợi lạc thiết thực. Ngược lại, chúng ta không tỉnh, không làm chủ được ba nghiệp của mình, cứ hành động bừa bãi, nói năng tùy tiện, suy nghĩ lung tung, nhất định sẽ chuốc hậu quả xấu thôi. Người Phật tử phải ý thức tự gầy dựng sự an lạc cho chính mình, chứ không mong cầu ở ai khác.Có khi một lời nói hoặc hành động sơ suất, thiếu tỉnh giác, chúng ta phạm phải sai lầm có thể tha thứ, thậm chí làm mất đi tình bằng hữu thâm giao. Do đó người tu Phật phải kiểm soát từng ý nghĩ lời nói hành động thật vi tế. Phàm làm người, không ai hoàn bị, được cái này thì thiếu cái kia, do đó chúng ta phải có cái nhìn cảm thông tha thứ. Nhìn như thế gọi là chánh kiến, thấy đúng như thật. Mình không bắt buộc người ta phải như vầy như kia, mà mình có sự hiểu biết, cảm thông, tha thứ. Từ đó ta sống bình yên vui vẻ.Những kẻ xấu xa thì được hạng người xấu xa khen ngợi, tán đồng. Do vậy có những việc không nên xảy ra trong xã hội mà vẫn cứ xảy ra đầy tràn như cướp bốc, xì ke ma túyv.v… Khi thủ lãnh cướp được của, đem về chia cho đàn em thì họ cũng được sự tán tụng hoan hô rầm rộ chứ. Rồi nhóm người khác không đồng ý những việc làm của nhóm này nên cực lực chống đối đã kích… nên mới có tổ chức luật pháp trừng trị, giáo dục vạch bày những lỗi lầm nguy hại của nhóm trước. Đó là sự kiện cho chúng ta thấy xấu tốt không có lẽ thật.Ví dụ chúng ta là người tu hành, làm những việc tốt. Đối với huynh đệ trong tông môn thì đó là tốt, nhưng chưa chắc người đời đã đồng ý. Như trường hợp chú thanh niên, con của một gia đình khá giả nọ, không biết lý do gì chú chạy lên thưa với tôi: - Thưa thầy, bây giờ con muốn tu, xin thầy cho con xuất gia.Tôi hỏi: - Năm nay con bao nhiêu tuổi? - Dạ mười sáu tuổi. - Học tới đâu rồi? - Dạ tới lớp mười một. Tôi bảo:- Không được, con phải về học hết lớp mười hai. Muốn tu ít ra bố mẹ hoặc anh chị con phải đến đây, đồng ý thì thầy mới dám nhận. - Thưa thầy con muốn tu, con nhất định ở đây thôi, về nhà con không sống nổi. - Sao vậy? - Con chán lắm. - Chán gì? - Thưa thầy, thầy đừng hỏi chuyện đó, con chán lắm. Chỉ xin thầy cho con ở đây, cho về là con chết tức thì. Nghe thế, tôi cũng cho ở tạm. Ít ngày sau cha mẹ chú tới khóc lóc: - Thầy ơi, con không thể nào xa con của con được. Tôi nói: - Con của quí vị, quí vị cứ đem về chứ tôi đâu có giữ. Tại nó tới lạy tôi xin tu, tôi sợ nó đi bậy nên cho ở tạm vậy thôi. Chú về nhà đâu vài hôm lại vọt lên, xin tu nữa. Tôi bảo: - Cha mẹ con không đồng ý, thầy không dám nhận. Chú thưa:- Thưa thầy, việc đi tu có phải là việc tốt không? Đi tu có phải là phúc thiện không? Quí thầy lập đạo tràng hướng dẫn mọi người đi con đường sáng, thành Phật thành tổ, tại sao thầy không cho con đi tu? Tôi giải thích:- Không phải thầy không cho, nhưng cần phải có sự đồng ý của cha mẹ con. Trong lúc tuổi con chưa trưởng hành, sự quyết định còn ở nơi cha mẹ. Con muốn ở đây tu không khó khăn gì, nhưng cha mẹ con nói không thể xa con được, nhất là không thể cho con đi tu nên thầy không thể làm khác hơn. Vài hôm sau, cha mẹ chú lại tìm lên thưa với tôi:- Thú thật với thầy chúng con là Phật tử sao lại không muốn cho con nó tu. Nhưng đường tu lâu dài, nhiều thử thách mà con của con chay lạt không nổi. Thầy cho nó tu, vài hôm nó cũng sẽ chán và đòi đi nơi khác nữa. Chúng con là cha mẹ nên biết ý con, thật tình vì nó chưa thể tu được, chứ không phải chúng con khó khăn gì.Tôi kể câu chuyện này để thấy một đường hướng tốt còn phải tùy đối tượng, tùy hoàn cảnh, không phải ta cho tốt là nó tốt với tất cả mọi người trong mọi thời mọi lúc. Ví dụ trong đạo tràng này tổ chức tu hành, mà có người không chịu nổi, không kham gìn giữ bảo vệ qui chế ở đây, người đó làm sao tu hành được.Với tinh thần người con Phật, chúng ta không mong cầu được khen hoàn toàn và cũng không sợ bị chê hoàn toàn. Bởi vì giữa cuộc đời này sự khen chê chỉ có giá trị tạm thời, không chân thật. Khen đó rồi chê đó, hôm nay đồng ý thì khen, ngày mai có điều bất như ý thì chê, đó là chuyện thường. Người tu chúng ta là người vượt lên trên những khen chê, không bận lòng ở việc tầm thường như thế. Có gan dạ, có vượt qua, có chấp nhận, có sống thực được như vậy chúng ta mới vững vàng tu tiến.Những sự khen chê đối với cá nhân, đối với pháp môn, đối với tôn giáo của mình, nhiều thứ lắm. Như ai đó chê vị thầy mà mình hoàn toàn cung kính, mình nương tựa để tu hành, chúng ta nghĩ sao? Có bỏ qua được không, hay mình cảm thấy bị xúc phạm, cần phải lên tiếng này nọ. Nghĩ như vậy là đã mắc mứu rồi, đã thua cuộc rồi đấy. Chúng ta có nhiều lý lẽ để chạy theo thị phi ở đời. Đôi khi ta cho rằng ai khen chê mình cũng được, nhưng đừng đụng đến thầy tổ mình, đừng đụng đến cha mẹ mình. Tưởng nghĩ thế là không nhớ đến mình, nhưng thật ra nếu không có “cái ta” thì thầy tổ cha mẹ đâu còn của mình nữa. Cho nên không khéo, chúng ta chỉ tự lừa dối và đưa mình vào cái bẫy khen chê như thế nhân vậy thôi.Có câu chuyện thế này. Một Thiền sư muốn kiểm nghiệm lại trong môn đệ xem người nào thật sự thâm hiểu Ngài, có thể tu hành đến nơi đến chốn. Sáng sớm Ngài gọi thầy tri sự đến bảo: “Sắm cho tôi một mâm rượu thịt, bữa nay đám giỗ ông già tôi”. Thầy tri sự y lời sắm rượu thịt đem về. Hòa thượng dọn lên cúng kiến xong, Ngài bảo thị giả xuống mời mấy thầy lớn lên hết, chung mâm với Ngài một bữa. Ông thị giả hoảng vía, thầy mình chắc không ổn rồi, nhưng vì Hòa thượng rất nghiêm nên không dám cãi. Sau khi các vị đệ tử lớn đã có mặt đầy đủ, Hòa thượng nói: “Bữa nay tôi sắm được một mâm rượu thịt cúng ông già tôi, mời quí thầy cùng ăn một bữa cho vui”. Chư đại đệ tử đều chưng hửng, nhiều người tự động rút lui. Về liêu các thầy tự nghĩ: Thầy mình bất ổn rồi, bây giờ ở đây không xong, thôi mỗi người mỗi gói mà đi. Thế là hàng môn đệ kéo nhau đi gần hết. Sau sự vụ đó, Hòa thượng nói: “Ta chỉ cần một mâm rượu thịt mà tống cổ được một số người không ra gì”.Quả là chỉ có những bậc siêu xuất mới dám làm việc ấy. Qua đó để thấy chúng ta không thể đặt khen chê ở hình thức bên ngoài. Nếu thấy biết của mình chưa tới nơi, chưa chính xác mà đặt vấn đề khen chê là hỏng tất cả. Cho nên đối với khen chê ta cứ giữ tâm bình thường. Nếu chê đúng ta sửa, khắc phục để tu tiến, nếu chê chưa đúng thì ta cám ơn, rồi cho qua vì điều ấy không cần thiết. Khen cũng như thế. Nói tới đây tôi nhớ một bài kinh trong A Hàm kể lại. Có hai thầy trò ngoại đạo nọ đi theo Phật, người đệ tử thì khen từ tướng đi dáng đứng của đức Phật, còn ông thầy thì chê từ đầu tới chân, quái lạ như vậy. Thấy các thầy Tỳ-kheo ngạc nhiên, Phật nói: Khen cũng chưa tới, mà chê cũng chưa tới. Như Lai đối với những lời khen chê ấy không động, không dính dáng gì cả.Chúng ta nếu hiểu biết và sống được tinh thần như vậy thì việc học đạo tu đạo chắc chắn sẽ thành tựu không khó. Nên biết việc khen chê giữa cuộc đời này không đáng để ta bận lòng mà hãy sống hợp với đạo, thì tự nhiên tâm không vướng mắc việc khen chê. Nhớ được công phu tu hành nghĩa là chúng ta làm chủ, an nhiên giải thoát ngay giữa cuộc đời này.Giải thoát của nhà thiền nói không có nghĩa là bay lên hư không, mà giải thoát là bình thản an nhiên không vướng mắc không lệ thuộc bất cứ sự kiện gì. Chúng ta làm chủ mình từ cái ăn cái mặc… mọi thứ, làm chủ để được giải thoát. Giải thoát về ăn, giải thoát về ngủ, giải thoát về mặc, giải thoát về tiền tài, giải thoát về danh vị… Hành công phu liên tục để phát huy, làm chủ tinh thần giải thoát của mình. Muốn được như vậy, bản thân chúng ta phải dám nhìn, dám thấy, dám làm chủ, không sợ sệt rụt rè bất cứ chướng duyên hoặc trở ngại nào. Không có việc gì để sợ, không có gì để rụt rè, không có việc gì khiến ta phải bỏ cuộc rút lui. Đó là tinh thần của người có công phu tu Phật, đặc biệt là tu thiền.Tại sao chúng ta phải làm chủ mình? Vì có những sự việc nếu thiếu đức tự chủ, chúng ta sẽ mất mình, sẽ chao đảo. Mất mình chao đảo thì bị phiền não lôi đi, tu không được. Có rất nhiều người ham tu mà không tiến được, vì thiếu đức tự chủ. Thành ra tôi nhấn mạnh việc làm chủ lấy mình để trí tuệ tỉnh sáng, sống hợp với đạo lý thì công phu tu hành mới tăng tiến được. Người tu thì phải đầy đủ ý chí, phát huy cho được trí tuệ tỉnh táo sáng suốt mới là thật lòng tu hành.Trong Chứng Đạo Ca ngài Huyền Giác cũng nói: Mặc tình cho người hủy báng, biếm nhẻ. Khen lời Phật dạy cũng không tới nơi tới chốn, mà chê lời Phật dạy cũng không dính dáng gì. Tất cả những việc làm đó chẳng khác đem lửa đốt trời, hoặc phun nước miếng lên hư không, kết quả kẻ ấy tự chuốc mà thôi. Đó là những việc làm của người không có trí tuệ. Chúng ta tu hành không làm những việc như thế.Ở đây, công phu hằng ngày của chúng ta, dù việc lớn nhỏ gì cũng phải tập trung trong chánh niệm, không bận lòng đến việc khen chê, được mất, thành bại… Được vậy, dù không muốn chúng ta cũng vẫn tự tại giữa cuộc đời như thường. Như tôi đã nói cuộc đời này những chuyện bất như ý nhiều hơn như ý, chúng ta tu đúng chánh pháp thì ngay nơi những sự việc ấy mà tỉnh thức, để nhận ra niềm an vui có sẵn nơi mình, không lệ thuộc bên ngoài. Trong kinh, Phật Tổ nói rất nhiều về điều này để chúng ta nhận được chỗ bình ổn đó, sống an vui giữa mọi trở lực trước mắt. Hiểu và hành như vậy thì công phu tu hành mau tiến. Công phu tiến được, ta có lợi lạc thiết thực, đó chính là phần thưởng lớn nhất cho mình rồi, đâu phải đợi chờ trông ngóng ai ban cho.Điểm thứ hai tôi muốn nói về cảm nhận của chúng ta trước sự đổi thay vô thường. Ở trên là khen chê không bận lòng, thì đến vấn đề cảm nhận cũng cần phải biết. Từ sự cảm nhận, chúng ta có thể tu tiến được, nhưng cũng có thể lui sụt. Cổ đức xưa có lời răn nhắc thế này: Ngày nay đã qua, Mạng sống giảm dần, Như cá cạn nước, Nào có vui gì.Đại chúng hãy siêng năng tu hành Như cứu lửa cháy đầu,Cẩn thận chớ có buông lung.Đó là lời dạy mà hầu hết người con Phật chúng ta nghe qua, cảm nhận đến cuộc đời và đến công phu tu hành hằng ngày của mình. Sự đổi thay nhanh chóng giữa cuộc đời, ngày nay còn ngày mai mất, danh từ nhà Phật gọi là vô thường. Hình ảnh mạng người như cá cạn nước và gấp tu như cứu lửa cháy đầu nói lên tính trung thực và khẩn cấp đối với mạng sống và sự nỗ lực tu tập của chúng ta. Chư Tổ quả thật đã có những phương tiện rất khéo để đánh thức sự mê lầm sâu nặng như chúng ta.Với người tu chúng ta, những sự kiện đó nếu có một cái nhìn cảm nhận được lý vô thường thì chúng ta tu rất tiến. Bởi vì mình không còn đắm luyến thân này nữa, mà lo gầy dựng một sự nghiệp khác, đó là sự nghiệp giác ngộ giải thoát cho chính mình. Thân dù đẹp, dù giàu sang, nhà cửa rộng lớn, quyến thuộc đông vầy… tất cả rồi cũng bỏ lại, không có gì đem theo được ngoài nghiệp mình đã gây tạo trong sinh hoạt hằng ngày. Biết rõ như thế, tự nhiên chúng ta không còn muốn bám víu cái gì nữa, chỉ nỗ lực tu tập để làm chủ được mình trước giờ ra đi.Một hôm nói về mạng sống dài ngắn, Phật hỏi một vị Tỳ-kheo: - Mạng sống của con người trong bao lâu? - Bạch Thế Tôn, mạng sống con người trong vài mươi năm. Phật nói: - Ông chưa thấy đạo. Phật gọi một thầy Tỳ-kheo khác, thầy đó đáp: - Bạch Thế Tôn, mạng sống con người trong khoảng vài năm. Phật bảo: - Ông cũng chưa thấy đạo. Rồi các Thầy lần lượt đứng lên thưa mạng sống con người trong khoảng vài tháng, vài ngày, vài bữa cho đến một bữa. Tất cả đều bị Phật quở: “Cũng chưa thấy đạo”. Cuối cùng có một vị đứng lên thưa: - Bạch Thế Tôn, mạng sống con người chỉ trong hơi thở. Phật gật đầu: - Ông mới là người thấy đạo. Chúng ta ai dám thấy mạng sống của mình trong hơi thở. Nếu thấy được như thế thì đâu có cất nhà lầu mua xe hơi làm chi. Sự sống đổi thay nhanh chóng một cách thần tốc khốc liệt đến nổi trở thành bản án đối với con người thì có gì để ta ham thích đuổi theo nữa. Cho nên thấy được thực chất của vô thường là thấy được thực chất lẽ sống chết của con người. Từ đó chúng ta có tinh thần chuẩn bị, để khi ra đi không cảm thấy hoảng sợ, lo âu trước một sự việc tất yếu như vậy.Ngay bây giờ ai làm chủ được, bình thản đối với sự được mất hơn thua, không vướng mắc bất cứ thứ gì giữa cuộc đời này, người đó có thể gọi là Thiền sư, là Bồ-tát, là Phật. Cái nhìn của người tu hành là cái nhìn như thật, thấy ngay bản chất của sự vật. Nó thành như thế nào, trụ như thế nào, hoại như thế nào, không như thế nào. Cho nên không còn chạy theo các pháp bại hoại nữa. Tất cả đều được thành tựu trong sự kết hợp của nhân duyên, riêng nó không có chủ. Duyên hợp tạm có, duyên hết hoàn không. Nhận định thấy rõ như vậy với tâm tỉnh sáng thì công phu tu hành chúng ta vững.Có nhiều huynh đệ nói tu thì tu chứ sao không thấy vững. Tại sao? Vì thấy đẹp còn thích, thấy ngon còn ưa, thấy hay còn khen, thấy dở còn chê… thì làm sao tu vững được. Phải công phu như thế nào để trị được cái thích, cái ưa, cái khen, cái chê, không vướng mắc, không chạy theo nó thì mới mong nói đến chuyện tu hành. Người con Phật đối với tất cả sự kiện trước mắt, chung quanh luôn thấy rõ nó đổi thay từng phút từng giây. Ngay thân của mình cũng vậy, không lúc nào đứng yên một chỗ. Thấy thế để thức tỉnh, không ỷ lại ta còn trẻ, tuổi đang mạnh khỏe, gấp gì việc tu hành. Một sáng nào, anh hay chị thấy được như vậy sẽ toát mồ hôi hạn. Vì rằng tất cả sự đổi thay nhanh chóng ấy luôn đem đến cho ta những bất ngờ không trở tay kịp. Nếu không có sự chuẩn bị thường xuyên, chắc chắn ta sẽ không đủ lực để tự chủ, và bị nghiệp dẫn là chuyện đương nhiên thôi.Nói tóm lại, người con Phật thứ nhất không nên buông lung. Buông lung là mặc tình phóng ý, chạy theo, thả trôi đối với tất cả những sự việc bên ngoài. Thứ hai phải tỉnh để thấy thật chính chắn bản chất không thật của tất cả các pháp. Có được hai điều kiện này thì công phu chúng ta vững, trên đường tu không còn bị lầm nữa. Vì thế có thể nói rằng không có thứ gì kéo lôi chúng ta được. Đã thế chúng ta dễ nỗ lực, dễ tha thứ, dễ tạo được sự đoàn kết, an vui để tu tập. Vì ta không có tâm cố chấp, khó khăn hoặc tâm muốn ôm giữ cho mình. Ta không đủ thời giờ để tu hành có đâu chạy theo những chuyện không thật ấy.Chư Tổ nói chớ để một đời trôi suông, cần phải cố gắng. Cố gắng như thế nào? Ví dụ trong số các Phật tử đây, tháng này đi học đạo nghe Hòa thượng giảng dạy như vậy, nếu thấy bản thân hoặc trong huynh đệ có gì yếu kém, mình tự nhắc hoặc cùng động viên nhau khắc phục những điểm yếu ấy, để tháng sau ta không còn cảm thấy hổ thẹn vì những khuyết tật của mình nữa. Hướng đến một con đường tu tập như thế thì rất tốt.Điều quan trọng là chúng ta làm chủ được, chứ không phải chối bỏ hiện cảnh. Nghe nói cố gắng, buông bỏ tất cả Phật tử đòi bán nhà lầu, cất nhà lá cũng không được. Hiểu như vậy không được, nằm trong rừng mà bị đắm trước, bị mắc mứu ở những chuyện xung quanh cuộc sống, cũng không phải là người giải thoát. Có người ở trong nhung lụa, nhà lầu xe hơi mà tinh thần không vướng mắc các thứ đó cũng có thể gọi là giải thoát. Đó là pháp học chúng ta phải học, đó là pháp tu chúng ta phải tu. Có tu có học như thế mới thấy được giá trị thiết thực của lời Phật dạy.Phật tử có duyên nên mới gặp Phật pháp để tu hành thì đừng bỏ lỡ cơ hội. Có người nói con nghèo quá tu không được, có người nói con bận rộn quá tu không được v.v… Về điểm này chúng ta phải hiểu tại mình chưa thực sự muốn tu thôi, chứ nghèo tu cũng được, mà giàu ráng tu cũng được. Nghèo giàu đâu có dính gì tới chân tánh của chúng ta. Sống trong hoàn cảnh nào cũng vậy, hễ mê là mất mạng, tỉnh là qua sông lên bờ thảnh thơi. Việc mê tỉnh chủ yếu nơi định lực, nơi trí tuệ, nơi ý chí tu hành bên trong của mình, có liên hệ gì tới hoàn cảnh chung quanh. Cho nên mượn lý do này lý do nọ để không tu được là một sai lầm lớn.Chúng ta có Phật pháp giữa đời thường bận rộn là có được kim chỉ nam để thành công rồi đó. Bởi không thần linh nào có thể đưa chúng ta qua được dòng sông sanh tử, chỉ chính chúng ta tự lội qua thôi. Phật dạy phải tu trong mọi lúc mọi thời, chứ không phải chỉ có tụng kinh, ngồi thiền, niệm Phật mới gọi là tu. Làm sao chuyển hóa được phiền não, khen chê thành an vui hạnh phúc là ta tu được, là giải thoát ngay trong suộc sống hiện tại của mình. Là Phật tử mà không hiểu về điều này thì thật là hiểu quá ít về Phật pháp.Thật ra Phật pháp thì ta có hiểu mà hành thì chưa tới nơi tới chốn. Bây giờ hãy xem những gì ta đã học hiểu như là một chiếc phao cuối cùng. Nếu chưa qua sông được mà vội buông phao thì chết chìm thôi. Quí vị hiểu nhiều hiểu ít, hiểu về Phật pháp như thế nào đó tùy, quan trọng là hiểu đúng và hành đúng là quý nhất. Lời Phật dạy giống như chiếc phao là phương tiện giúp ta qua sông. Qua được rồi mới được bỏ phương tiện, lên bờ thảnh thơi tự tại. Chừng ấy ngay cả pháp Phật cũng không cần thiết, nói gì đến các thứ khác.Học pháp mà không hành, Phật nói giống như kẻ đếm của báu cho người, mình không được một đồng xu. Cho nên đối với pháp Phật, tu pháp nào cũng được miễn có tu và tu đúng mới đạt được lợi ích thiết thực. Chúng ta không cố chấp, không bài bác nhau, chỉ chuyên tâm thực hành pháp nào ra pháp ấy cho tới nơi tới chốn, nhất định ta sẽ thành công. Chớ chỉ hiểu và nói suông thôi thì không khác kẻ đếm của báu cho người, mình chẳng có chút lợi lạc gì. Một điểm nữa là trong đời sống tu hành, chúng ta phải ngay thẳng chân thật. Có những việc nhỏ nhưng nếu không cẩn thận sẽ tạo thành nghiệp. Đã có nhân thì có quả. Trong một ngày, chúng ta kiểm lại xem mình gây bao nhiêu nhân. Không tỉnh thì không sao kiểm nổi. Cho nên thành thật thẳng thắng đối với bản thân, để không tạo những nghiệp nhân xấu, cản trở bước tu tập của mình. Bắt đầu công việc trong một ngày, ta phải luôn xét nét từ ý nghĩ cho tới lời nói, hành động của mình, cái nào không tốt, cái nào vì bản ngã của mình mà làm thì loại nó đi. Thường xuyên tu tập như vậy là người hiểu được Phật pháp và biết tu Phật.Chúng ta phải nghiêm chỉnh với bản thân mới có thể làm chủ ba nghiệp của mình. Đây là pháp tu hết sức bình thường mà có kết quả cụ thể, ai cũng tu được. Chúng ta tỉnh táo tu hành, thấy rõ thành quả của mình như thế, nhất định có đầy đủ niềm tin nơi mình và niềm tin với mọi người. Từ đó ta không còn hoảng sợ trước mọi thứ, kể cả sống chết. Càng tu càng thấy đúng hiểu đúng, chúng ta càng nỗ lực, càng có niềm vui chân thật.Lời chư vị thiện hữu tri thức đã nhắc, địa ngục là nơi khổ sở của chúng sanh bị tội, nhưng nếu chúng ta không là người tiên phong phát nguyện vào địa ngục để nhắc nhở, để cảnh giác cho anh em huynh đệ bị khổ trong đó thì ai làm việc này? Người tu Phật là người tiên phong vào những chỗ thống khổ với lời nguyện thế này: Nguyện thay tất cả chúng sanh chịu những khổ sở đó, chỉ mong sao mọi người thức tỉnh đừng gây nhân xấu, hãy hướng về con đường thiện lành tu tập để nhận ra ông Phật của chính mình. Đó là lời nguyện của những người hành Bồ-tát đạo. Muốn thế những vị ấy phải có đầy đủ trí tuệ và từ bi, phải xong việc của mình trước khi độ người. Chúng ta là con Phật thì phải ý thức điều này, tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn là công hạnh, là sở nguyện của tất cả các đức Như Lai, trong đó không loại trừ chúng ta.Buổi nói chuyện hôm nay chúng tôi muốn nhắc người con Phật, tu theo Phật chớ để lòng mình bị vướng bận bởi những việc khen chê. Chúng ta tỉnh sáng làm đúng theo pháp học, được như vậy thành quả, giá trị công phu tu hành của chúng ta nhất định sẽ thành tựu. Ta được như thế rồi thì động viên các bạn đồng tu cùng hướng về con đường ấy, mới gọi là thực hiện trọn vẹn chân tinh thần Phật dạy.
Hòa Thượng Thích Nhật Quang

Saturday, December 19, 2009

Trồng hoa trên đá

November 16 2009

Chúng ta có bao giờ nghe nói “Trồng hoa trên đá”? Trên đá mà trồng được hoa mới là chuyện lạ, nhưng không lạ vì ta có thể thực hiện được ngay trên mảnh đất tâm của mình. Trồng hoa trên đá là mấy từ mượn trong hai câu thơ của Thiền sư Đạo Giai Phù Dung.
Gặp sắc gặp thinh như trồng hoa trên đá,Thấy lợi thấy danh như bụi rơi trong mắt.Quanh quẩn qua lại trong đời sống của chúng ta không có gì ngoài sắc thinh danh lợi. Chúng ta đã từng chạy theo và đã từng khổ đau với những thứ này. Khổ đau chỗ nào thì phải gỡ chỗ đó, té ở đâu thì đứng lên ở đó. Người chết nơi sắc, danh thì phải đứng lên từ sắc, danh, kẻ chết nơi âm thinh, hương vị, sắc đẹp… thì phải từ đó mà thoát ra.Nói về trồng hoa trên đá, chúng ta chưa nghe qua bao giờ. Vì hoa chỉ có thể trồng trên đất, chớ trồng trên đá làm sao sống được. Thế nhưng thiền sư bảo gặp sắc gặp thinh như trồng hoa trên đá. Hoa cắm vào đá thì không thể dính rồi. Cũng thế, khi mắt thấy sắc, ta không dính nghĩa là không khởi yêu thích chạy theo hay ghét bỏ ruồng rẫy. Do không khởi nên không dao động, không tạo nghiệp, không khổ. Con mắt là một cơ quan, chức năng của nó là để chúng ta nhìn thấy. Có người nhìn thấy sanh chuyện, có người nhìn thấy không sanh chuyện, khác nhau ở chỗ tâm phan duyên. Cũng một cành hoa, cũng một chiếc vòng vàng mà có người nhìn nó, tâm không yên. Như bên nam thấy xe cộ máy móc thì kẹt ở đó, bên nữ thấy vòng vàng hay rau cải, thóc lúa thì kẹt ở đó. Như vậy tùy theo nghiệp của chúng sanh mà vướng mắc vào các duyên trần. Do vướng mắc nên bị nó xiết chân và hơn thế nữa là xiết luôn cả cái tâm.Tâm là tiếng Tàu, dịch qua tiếng Việt là tim. Vì là tim nên nó quyết định mạng sống của mình. Chỉ cần tim ngừng đập là chúng ta chết. Thế nên chúng ta rất kinh nghiệm trong việc đứng tim khi chạy theo tài, sắc, danh, thực, thùy. Càng theo đuổi nó càng trắng tay, càng mệt mỏi. Dù được hay không được, cuối cùng cũng mất hết mà thôi, bởi vì bản chất của nó vô thường. Nắm được ngũ dục trong tay cũng chưa chắc là có hạnh phúc đâu. Đôi khi còn khổ hơn chưa nắm. Thử tưởng tượng ta nắm một cục nước đá trong tay, khi nó còn mình lạnh buốt, khi nó tan mình trở lại trắng tay. Thế thôi. Có gì để thích thú? Hợp tan là luật của duyên sinh vô thường, không phải là chuyện cho ta nắm giữ đeo mang.Thế nhưng con người vẫn mong muốn còn mãi cái mà nhất định phải mất. Mất mát của cải, danh vọng, người thân… là luật. Chúng ta thấy có ai không mất cha mẹ, anh chị em… đâu? Mỗi lần mất như vậy là đau khổ. Đâu chỉ có khổ mất nhau vì chết, mà còn có cả nỗi khổ mất nhau khi đang sống. Thương càng nhiều khổ càng lắm. Nếu mình thương nhiều người nữa thì nỗi khổ được nhân lên nhiều lần. Như vậy thế gian được để mà khổ, chớ không phải được để mà vui. Mỗi lần được cái gì thì chắc chắn sẽ có mất. Hiểu điều này rồi chúng ta đừng ham muốn được nữa thì hết khổ. Nói thì nói vậy, chớ ai cũng muốn làm sao có tiền, quý vị trẻ thì muốn có công danh sự nghiệp với đời, muốn có gia đình hạnh phúc… Tất cả đều nuôi dưỡng mong muốn. Mong muốn mà được thì phải có mất. Một lần được là một lần mất, khi mất đau hơn khi được, được vui có một mà mất đau tới mười. Tại sao? Tại được rồi thì nắm giữ, nuôi dưỡng, chấp thủ của mình. Thời gian nắm giữ càng lâu chấp thủ càng lớn, nên lúc mất đi thật là đau. Có nhiều vị than khóc “Con không nghĩ tới giờ này con khổ như vậy?”. Nhất là những vị có gia đình, “không ngờ ở với nhau bao nhiêu năm mà bây giờ lại đổ vỡ?”, bắt đầu ngồi đó mà nhớ. Lẽ ra mất rồi khỏi giữ khỏe quá, nhưng ngược lại đau gấp mấy lần?Phật nói cái đau này chỉ là ảo giác, không trường tồn, không thật có. May thay nó là ảo giác, nếu nó là cái đau thật sự, cửu trụ nơi đời thì chúng ta không thể sống nổi. Chỉ là ảo giác thôi mà nhân loại khổ ngất ngư, nếu nó cố định thì không cách nào chúng sanh tu được. Ngẫm mà xem, cái ảo mà mình đau mới thật cay đắng, thật vô lý. Chuyện còn mất theo duyên mà có, tâm là cái biết về sự còn mất ấy, chớ không phải là cái còn mất. Nhưng chúng ta đồng hóa mình với sự còn mất nên luôn khổ vui biến đổi. Người tu không như thế, còn thì biết và sống theo duyên còn, mất thì biết và sống theo duyên mất, không bận lòng nên không xao động bất an. Thật ra các pháp tựu tán không làm cho chúng ta khổ, mà tâm tham ái chấp trước làm mình khổ. Tất cả các pháp trên thế gian là vô thường mà ta muốn nó còn hoài là ta đi ngược với luật vô thường. Chống lại một quy luật không thể chống là tự đưa mình vào con đường cùng, vào nỗi khổ lớn. Chúng ta biết thực tướng của các pháp, sự sinh khởi của nó, nắm vững quy luật nhân quả, bao nhiêu đó cũng đủ dứt trừ các thứ tập nghiệp nhiều đời. Trong kinh Kim Cang, Phật dạy: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Nghĩa là không nên trụ sắc sanh tâm, không nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia. Tôi tạm diễn nghĩa câu này gần gũi với đời sống của người Phật tử tu tại gia như sau: không nên trụ nhà lầu, xe hơi, vợ đẹp, con ngoan, công danh, sự nghiệp mà sanh tâm, nên không có chỗ trụ mà sanh tâm. Nếu sống được như vậy là chúng ta đã trồng hoa trên đá. Thực tập chỗ này không phải đổ mồ hôi sôi nước mắt, nhưng đôi khi lại quá sức đối với chúng ta? Tại sao lạ vậy? Tại nghiệp lôi mạnh quá. Chúng sanh quen chạy theo những thứ ấy rồi, bây giờ bảo đừng chạy theo không phải chuyện dễ. Cần rất nhiều công phu, chịu khó sửa lại thói quen, dĩ nhiên là cực hơn chạy theo thói quen. Không nên trụ tức là không nên kẹt. Không nên trụ sắc sanh tâm, là không nên mê thích sắc rồi sanh tâm muốn nó thuộc về mình. Người thế gian khi thấy sắc đẹp liền thích, muốn sắc đó thuộc về mình. Muốn không được thì đau khổ, thất vọng. Muốn được lại càng khổ hơn vì phải gìn giữ. Nếu nó mất đi nỗi khổ cứ thế nhân thêm lên. Đang thanh thản an nhiên, bỗng dưng chuốc khổ vào thân vì một chút sắc bên ngoài, rồi đổ thừa ngũ dục lôi. Hỏi kỹ lại, ta lôi ngũ dục hay ngũ dục lôi ta? Ta lôi ngũ dục. Vậy thì khổ do mình chuốc lấy, chớ đâu phải tại ngũ dục. Phật dạy nếu muốn hết khổ thì không nên trụ sắc, thanh, hương… sanh tâm.Việc tu sửa thật ra không phải quá sức chúng ta, nhưng vì mình ít làm, hoặc không quyết tâm làm, thành ra thấy khó. Con người khi đã muốn rồi, không có việc gì làm không được. Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ này nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở. Mình thương ai mình biết, ghét ai mình biết, như vậy ta biết rất rõ mấu chốt nằm ở chỗ nào nên ta là người tháo gỡ gọn nhất.Trong vận mệnh này chúng ta toàn quyền quyết định, tự hạ lệnh cho mình và tự hành lệnh một cách nghiêm chỉnh. Nếu không nghiêm chỉnh thì tự nhận phạt bằng cách thọ khổ. Có thế thôi. Ngày nào chúng ta chưa hết khổ là ngày đó chưa hành chánh lệnh quyết liệt, không nên đổ thừa cho ai, cũng không nên kêu cứu ai, mà phải tự mình cứu mình. Có một Phật tử hỏi tôi: “Thưa cô, con khổ quá chừng. Con bất hạnh trong đời sống gia đình, có chồng nhưng không hạnh phúc, tụi con đã chia tay. Bây giờ có người cũng gãy gánh như con, muốn cùng con xây dựng gia đình mới. Cô thấy có nên không?” Tôi thật vô cùng lấy làm lạ, đã khổ muốn chết rồi mà còn hỏi có nên không. Vã lại, với một nhà tu mà hỏi câu đó thì không cần phải tham khảo kinh điển nào, nhắm mắt cũng có thể nói “không”. Nhưng làm được hay không lại là chuyện của Phật tử. Thật ra khi hỏi câu đó, quí vị cũng muốn phiêu lưu một lần nữa, chứ nếu dứt khoát không thì chẳng cần phải hỏi ai cả. Tuy đã rất khổ về việc này, nhưng ái nghiệp không thắng nổi, nên đương sự mới lưỡng lự như vậy. Chuyện ân oán duyên nợ của chúng sanh thật không mối mang, con người cứ phải gặp gỡ để trả nợ cho nhau, nên cuộc đời là bể khổ. Chúng sanh khóc hết nước mắt vì sự bất hạnh này chồng chất lên bất hạnh khác, mà họ chưa đủ sức thoát ra. Vì vậy Phật mới dùng câu “thật đáng thương xót lắm thay!” Về đời sống thế gian với những nỗi khổ trần ai, chúng tôi chỉ thấy nghe qua hoàn cảnh của người khác, còn bản thân mình không có những trải nghiệm ấy nên không biết rõ. Riêng về đời sống của một người xuất gia không có gia đình, tôi thấy ít khổ hơn, ít rắc rối hơn người đời. Chúng tôi tuy không có gia đình mà chưa bao giờ cảm thấy cô đơn, cảm thấy buồn vì không có những thú vui thế gian. Ngược lại còn thấy hạnh phúc, an lạc khi được sống một mình, sống yên tỉnh. Mỗi người có phước nghiệp riêng nên phù hợp với những cuộc sống riêng. Nhiều vị sợ đối mặt với chính mình, sợ sống trong chùa, sợ cảnh vắng vẻ yên tịnh, sợ thiếu vắng người thân bên cạnh… Với quí vị này nếu bắt tu, người ta sẽ không chịu, sẽ thấy khổ. Cũng có người muốn được sống cảnh nhàn tịnh nơi chùa chiền nhưng lỡ đeo mang gia duyên, muốn rứt rứt không được. Có một cụ bà kể: “Con sống mấy mươi năm, từ ngày có chồng đến giờ, chưa có một ngày hạnh phúc, khổ lắm cô ơi. Con ráng chờ gả xong con Út rồi đi tu”. Đã biết con đường ấy khổ, nhưng cũng ráng gả cho xong con Út. Thật là lối cũ vòng quanh, không thoát ra được. Nhiều vị con có chồng thì vui vẻ, con đi tu thì khóc hết nước mắt. Đi tu cũng xa, có chồng cũng xa, tại sao có chồng lại chịu, đi tu lại không chịu? Có lẽ họ nghĩ có chồng sẽ hạnh phúc, còn đi tu sống đời kham khổ. Nhưng cuối cùng đứa con nào sướng? Thực tế cho thấy đi tu sướng về tinh thần và sau này còn lo trả hiếu cho cha mẹ nhiều hơn người không tu. Nhưng với điều kiện người đi tu phải tu cho đàng hoàng, tu đúng chánh pháp. Người đời mê khổ đã đành, còn Phật tử chúng ta học đạo, hiểu đạo, biết hết mọi lẽ đúng sai mà vẫn khổ mới lạ. Thế gian không biết con đường khổ nên đi theo, mình biết rất rõ tại sao lại không tránh, không nhắc nhở người thân cùng tránh. Mỗi lần ta phiền não là tạo nghiệp, gặp cảnh tham, sân, si là tạo nghiệp. Tạo nghiệp thì chuốc quả khổ, biết chắc chắn như vậy, tại sao không tự khắc phục mình, không tự ra lệnh cho mình đừng dính với cảnh. Nếu không dính thì mình không khổ, biết như vậy mà làm không được, mới tức mình. Chúng ta khổ là do vướng vào, gá tâm vào các duyên rồi chấp kẹt nơi đó. Bây giờ đừng gá nữa, hoặc lỡ gá thì gỡ từ từ, đằng này chúng ta không gỡ mà còn cố cột thêm. Như vậy biết bao giờ mới hết khổ. Muốn càng nhiều thì khổ càng lắm. Bốn đại quay cuồng không điều hòa là khổ về thân. Tâm vọng tưởng lung tung, niệm niệm không dừng khiến ta luôn bất an là khổ về tâm. Năm ấm sắc, thọ, tưởng, hành và thức, lừng lẫy nhấp nhô như từng cơn sóng trào làm chúng sanh đảo điên, ăn không được ngủ không được, gọi là năm ấm xí thạnh khổ. Bây giờ chúng ta hiểu được nguyên nhân gây khổ từ sự mê lầm chấp chặt của mình, thì phải tháo gỡ, không nên trói cột nữa. Hồi chưa học Phật, chưa là Phật tử, chúng ta khổ mười, bây giờ giảm bớt còn tám, sáu, năm, ba, hai, một, chứ không thể hồi trước khổ một bây giờ khổ hai ba. Như vậy không được, không phải là người Phật tử. Việc tu không phải gắng sức như đưa gánh nặng ngàn cân lên vai hay bươn chải kiếm sống. Người tu cốt dùng trí tuệ và ý chí nghị lực bên trong. Trí tuệ là căn bản, tại sao phải có thêm ý chí nghị lực?Chúng ta học hiểu biết ứng dụng, nhưng việc thực hành không phải ba bữa là xong. Như mình biết sân là nghiệp xấu, là nhân đọa vào địa ngục, nên gặp điều bất như ý thay vì la toáng lên mình dằn bớt. Đó là tu sửa, tuy nhiên chuyện này không phải làm một thời gian ngắn là thành tựu mà phải tu sửa suốt đời. Không phải khi gặp chuyện mới tu, khi không gặp chuyện vẫn tự nhắc mình tỉnh.Phải có thói quen tự nhắc mình tỉnh thức trong mọi sinh hoạt. Nhờ có độ tỉnh trước, nên khi gặp cảnh chúng ta đang ở tâm tỉnh, thành thử phiền não không đột nhập được. Tỉnh nghĩa là sáng. Sáng thì không si, không si nên cũng không tham, sân. Như vậy cách tu cụ thể là thường xuyên nhắc nhở mình tỉnh giác. Tuy nhiên chỗ này hành giả phải khéo. Bởi ta đang sống tự nhiên mà nhắc “tỉnh, tỉnh” sẽ trở thành mất tự nhiên, dẫn đến tình trạng nặng nề, căng thẳng. Vì vậy khi khởi niệm nhắc, nhắc xong liền buông niệm nhắc. Thời gian tỉnh kéo dài bao lâu tùy mỗi người, sau đó sẽ quên. Quên ta lại nhắc, vừa nhắc liền buông. Cứ thế thực tập, khéo léo nhẹ nhàng, công phu miên mật nhưng không làm mình mệt mới đúng.Ngược lại là sai. Chỗ cứu kính không lời và cũng không nhọc nhằn như vậy, nhưng trên bước thực tập bắt buộc phải thế thôi, không có cách nào khác. Bao giờ chúng ta quen, dụng công nhẹ mà tỉnh lực nhiều, tự nhiên không cần nhắc, ta vẫn tỉnh. Đó là công phu đã khá rồi. Cho nên muốn tỉnh liên tục, bên cạnh trí tuệ đòi hỏi phải có ý chí. Như người nghiện rượu, muốn bỏ rượu đâu phải dùng trí tuệ không, mà còn dùng ý chí nữa. Có thể nói ý chí đóng vai trò quyết định. Nhận ra được đúng sai là phần của trí tuệ, nhưng vấn đề chuyển đổi tập khí phải dùng tới ý chí. Đây là đi vào lãnh vực thực tập, chớ không phải vấn đề lý thuyết, cho nên phải nắm vững thủ thuật. Trên căn bản lấy trí tuệ làm sự nghiệp, trên công phu lấy ý chí làm chỗ tiến thủ để đi đến thành công. Ngoài ra cũng cần đến yếu tố tinh tấn. Có tinh tấn làm bạn đồng hành với ý chí, bền bĩ liên tục, nhất định sẽ thành tựu đạo nghiệp. Chúng ta tu thấy khó quá không phải vì thiếu trí tuệ mà là thiếu ý chí và sự bền bĩ liên tục. Khi gặp buồn khổ la trời, chừng đó mới nhớ tới Phật, mới tu. Bình thường hí hửng dạo phố, mặc tình thả lỏng sáu căn, khi gặp trở ngại khó khăn liền sanh phiền não. Phiền não quá chịu không nổi mới cầu cứu Phật, mới chịu tỉnh. Lúc không đụng chuyện, ta thấy như bình an, nhưng đó là sự bình an trong cái không tỉnh, bình an mà trôi theo cảnh. Vì vậy gặp việc cũng trôi luôn. Nếu bình thường không tỉnh, gặp duyên sân tới chúng ta sân, gặp duyên tham tới chúng ta tham. Tùy theo tập khí mỗi người tham nhiều hay sân nhiều mà tương ưng với ngoại duyên. Ở đây Tổ dạy “Trồng hoa trên đá” là làm tất cả việc mà không dính, tức là làm trong tâm tỉnh giác. Muốn thế phải có đạo lực rất mạnh. Nếu tâm không tỉnh chúng ta sẽ tạo nghiệp, trước tiên là tạo nghiệp trên tư tưởng. Trong ba nghiệp, một khi ý đã dấy rồi mà không có sự tỉnh giác, thì sẽ dẫn tới cái miệng, miệng nói chưa đủ sẽ dẫn tới tay chân. Thế là tam giới mở ra, ba cõi sáu đường đồng hiện trước mắt. Chuyện này ai tạo? Mình tạo. Tại sao tạo? Tại bất giác. Nếu chúng ta tỉnh giác, an ổn trong cái thấy nghe của mình thì đâu có việc gì. Người đẹp đi ngang cứ đi, ta vẫn ngồi tịnh lặng thấy biết vậy thôi. Hay quá chừng! Tại sao đứng ngồi nhấp nhổm, động đậy con mắt, rọ rạy cái tâm, làm mất hết cái hay của mình. Thật đáng tiếc. Người ta đẹp, mình ngồi yên nhìn, mình cũng đẹp. Nhưng nếu mình đứng dậy đi theo là hết đẹp, tự nhiên kỳ liền. Ai cũng muốn đẹp chớ đâu muốn xấu, nhưng ta quên khi tác ý rồi thì trở thành xấu, cho nên nhà Phật nói “tâm ư trung xuất hình ư ngoại”. Ý đã xấu thì hiện tướng cũng xấu theo. Thế nên một người con Phật phải biết bảo dưỡng, nuôi nấng chủng tử Phật. Chủng tử Phật thì phải được nuôi bằng Phật chất, không thể nuôi bằng chúng sanh chất. Chủng tử Phật là thanh tịnh thì không thể nào lấy ô nhiễm nuôi nó. Cho nên từng giờ từng phút từng giây chúng ta phải lấy Phật chất để trưởng dưỡng Phật tâm, như thế mới có thể thành Phật, mới sống thanh tịnh được. Niềm vui chân thật rất sâu sắc, rất vắng lặng, không có gì thương tổn, xâm phạm được. Niềm vui này khiến cho mình sống rất đẹp rất hay. Nó nằm sẵn nơi chúng ta, chỉ cần mình nhớ và nhận lại là vui ngay. Ai cũng muốn sống vui thì tại sao chúng ta không chọn niềm vui vĩnh cửu, mà lại chọn niềm vui ngắn ngủi mong manh? Nhiều vị nghĩ ngồi yên sẽ buồn, không vui. Đó là vì chúng ta ngồi yên chưa đúng mức, chỉ ngồi chớ không phải yên. Ngồi mà tư tưởng không yên thì dĩ nhiên là buồn rồi, giống như ai cột trói mình vậy. Ngồi yên đúng mức sẽ rất thích, khi tâm lắng lặng mới thấy không có niệm lăng xăng nào sánh nổi với cái bất động. Bất động mà hằng sáng, năng lực chiếu soi của tâm là vô tận, không thể nói buồn hay vui ở đây được. Phật tử còn vướng víu việc mưu sinh, đời sống gia đình nhiều bận rộn, không có điều kiện công phu như các thầy cô. Tuy nhiên khi chúng ta đã có tâm niệm tu hành, đã hướng về Phật pháp là trong lòng đã có khuynh hướng. Khuynh hướng này nhất định sẽ được thực hiện một cách triệt để tùy theo duyên của mỗi vị. Song không cần thiết phải đợi đến một thời gian nào, ta mới bắt đầu tu, mà có thể tập tu ngay trong hoàn cảnh riêng của mình. Chúng ta tập buông bớt duyên, Phật tử biết được các pháp duyên sinh nên không phải khổ vì sự hợp tan của nó, đừng để nó làm chủ mình mà mình phải làm chủ nó. Để cho duyên sai sử là ta bị lệ thuộc vào nó, lệ thuộc vào ngũ dục, lệ thuộc vào nghiệp. Phật tử muốn tu hành, không đợi già mới tu, tu như thế sẽ không kịp, mà ngay bây giờ tập từ từ. Tập buông việc bớt, đừng sợ. Buông sẽ tốt hơn chớ không xấu hơn đâu mà sợ. Tại vì quí vị già rồi, không có khả năng nắm việc như hồi còn trẻ. Đã không nắm được mà muốn nắm, nhất định sẽ tuột mất. Nếu sáng suốt giao cho con cái nắm, trước khi mình làm tuột mất, có phải hay hơn không? Trong nhà thiền có câu chuyện ăn trộm dạy con rất hay. Một tên ăn trộm con nói với ăn trộm cha: “Tía à, tía già rồi mà không truyền nghề cho con, mai mốt tía không đi ăn trộm nổi, làm sao con ăn trộm được”. Ăn trộm cha nghe có lý nên quyết định truyền nghề cho con. Một hôm ông rủ thằng con “Bữa nay hai cha con mình sẽ đục vách nhà này”. Vì là ăn trộm chuyên gia nên ông đục vách rất thành công, chủ nhà không phát hiện được. Trộm cha khoét vách tới đâu, trộm con đứng nhìn tới đó. Các công đoạn đã được thực hiện gọn gàng, hai cha con chui vô tới kho mà chủ nhà vẫn không hay. Vào được kho, ông khoét rương đựng vàng. Rương này rất to, mở ra thấy vàng bạc loé mắt, trộm con mừng quá nhào vô hốt, không ngờ trộm cha đẩy một cái mạnh, trộm con lọt tỏm vào rương. Trộm cha nhanh tay đóng nấp khóa lại, rồi vừa chạy vừa tri hô lên có trộm. Bấy giờ người trong nhà xông ra, thấy vách tường bị khoét, họ dò dẫm khắp nơi và chạy vào trong kho. Trộm con điếng hồn, nằm chết cứng trong rương, lúc này nó chỉ tính đường thoát thân nên cũng không hơi sức đâu nghĩ đến chuyện tại sao cha nó lại làm như vậy? Chủ nhà nhìn thấy mọi vật còn nguyên, kể cả cái rương cũng được khoá kín, nên an tâm là trộm chưa vào tới đây. Trộm con nghĩ, nếu người ta phát hiện mình nằm trong rương cũng chết, mà không phát hiện ra mình cũng chết. Trong lúc cái chết chỉ còn trong đường tơ kẻ tóc, trộm con bỗng nảy sinh ý tưởng, phải làm sao cho họ mở rương, may ra mình còn con đường sống. Thế là nó giả tiếng chuột kêu. Chủ nhà ngạc nhiên, cho mở nắp rương. Nắp rương vừa bật lên, nó cầm ngọc ngà châu báu ném vào mặt chủ nhà, rồi chạy thật nhanh. Dĩ nhiên người ta rượt theo. Nó chạy bán mạng, lúc đó không nghĩ gì hết ngoài cái mạng của mình thôi. Tiếng la hét rượt đuổi gấp ở phía sau, càng khiến nó chạy nhanh hơn. Đến gần một cái giếng, nó mừng quá ôm nguyên tảng đá liệng xuống cái rầm, rồi bò vô lùm cây trốn. Trong đêm tối, nghe tiếng đá rơi xuống giếng, mọi người không nhận dạng rõ nên tưởng tên trộm đã rơi xuống đó. Họ xúm quanh miệng giếng xỉ vả một hồi, ngó quanh ngó quẩn không thấy tên trộm đâu, mọi người đinh ninh thằng nhỏ đã tiêu đời, nên kéo nhau về. Nhờ thế nó thoát thân về nhà. Chạy về tới nhà, người đầu tiên trộm con tìm chính là cha nó. Trận này định bụng dứt tình cha con luôn, nên nó đùng đùng tống cửa xông vô, thấy cha ngồi thư thả uống trà, còn nói: mừng con đã về. Nó tức lên ruột lên gan, chẳng còn lễ độ: - Ông thấy hả dạ lắm sao? Trộm cha đáp: - Hả dạ lắm chứ. Trộm con chưa kịp nói thêm câu nói, trộm cha chậm rãi từng lời:- Chỉ có cách này con mới rành nghề nhanh nhất và tự tin ở khả năng ăn trộm của mình, còn hơn cả cha nữa. Trộm con từ từ hiểu ra thủ thuật dạy con táo bạo và thần kỳ của trộm cha. Từ đó trộm cha trao hết tay nghề cho con, gác kiếm giang hồ, sống đời thảnh thơi.Trong nhà thiền thường lấy câu chuyện này để dụ cho khả năng tự ngộ, tự tu, tự chứng của hành giả tham thiền. Mỗi người đều có một con đường riêng để xuất cách, để kinh nghiệm và để viên mãn công phu. Phương tiện truyền đạt chỉ có giá trị giới hạn, đi đến chỗ cứu cánh viên mãn phải là tự thân của chúng ta phát minh sáng tạo. Cái đó mới thật của mình. Quý Phật tử không có cái gan nhả ra, vì sợ con hư, sợ sự nghiệp tiêu tan thì mãi mãi bị trói chặt trong đó. Đồng ý chúng ta có giáo dục, tinh thần trách nhiệm, nhưng đến lúc nghỉ là nghỉ, đừng nắm níu làm gì. Để cho con cái có cơ hội phát tiết tinh hoa chứ! Gò ép trong khuôn khổ của mình hoài, làm sao nó phát huy được cái riêng của nó. Không chừng thả con ra, lặng lẽ cố vấn cho nó, quí vị sẽ rất thú vị khi phát hiện ra con còn giỏi hơn mình. Quí vị lo quá thì không còn chỗ đâu cho con nó lo. Quí vị không thèm lo nữa, tự động nó biết lo. Con người có bản năng sinh tồn mà. Con hư thì đã hư trong tầm tay của quý vị rồi. Chúng ta thấy có nhiều đứa con hư từ lúc còn nhỏ, tuy cha mẹ cưng chiều, thương yêu vô cùng mà nó vẫn hư. Ngược lại, có những đứa bất hạnh, bỏ cù bơ cù bấc mà nó không hư, về sau lại rất hữu dụng cho đời. Cho nên muốn tu thì chúng ta phải gan, sắp xếp cho gọn, để còn nhẹ tay nhẹ chân mà tu chứ.Trong kinh Kim Cang, Tôn giả Tu Bồ Đề hỏi Phật: Làm sao hàng phục tâm và an trụ tâm? Phật dạy: Muốn hàng phục tâm thì ở trong không có vọng tưởng, tức là đưa tất cả chúng sanh vào tịch diệt mà không thấy có chúng sanh nào được diệt độ. Bên ngoài mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị đừng chạy theo, đừng mê đắm, đó là an trụ tâm. Lục Tổ cũng dạy: Ở trong không loạn là định, ở ngoài không động là thiền, đây gọi là thiền định. Sơ Tổ Trần Nhân Tông đi theo tông chỉ này, có làm bốn câu kệ: Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,Đói đến thì ăn mệt ngủ liền, Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.Căn cảnh không dính nhau, đó là thiền, cũng là trồng hoa trên đá. Việc này không chỉ dành riêng cho Tăng Ni, Phật tử tu thiền, mà dành cho tất cả mọi người có Phật tánh, sống trong cuộc đời này.
Hạnh Chiếu

http://thienviendaidang.net/news.php?readmore=72

Tìm Thầy không dễ

December 16 2009

Có một vị quốc vương, một hôm cảm thấy đời sống sao vô vị quá, chẳng còn gì vui thú. Rồi ông nghĩ: Ta nên tìm một vị thầy dạy cho mình cách sống hạnh phúc, tự tại.Thế là quốc vương xuất cung, đi khắp nơi tìm kiếm một vị thầy ưng ý nhưng xem ra chẳng có ai làm ông hài lòng. Theo ông thì vị thầy lý tưởng phải là một người có phong cách giải thoát, tự tại, nội tâm lúc nào cũng an lạc. Tiếc thay, hễ các thầy vừa biết rõ ông là vua thì lập tức họ mất bình tĩnh ngay, không còn vẻ an lạc tự tại vốn có.Hằng ngày mỗi khi xuất cung vi hành, quốc vương thường gặp vị tu sĩ ăn mặc rách rưới ngồi yên bất động, gương mặt bình thản điểm nụ cười mỉm thâm trầm dưới tàng cây ven đường.
Mới đầu, quốc vương chẳng thèm dòm đến ông, nhưng sau một thời gian dài mỏi mắt kiếm tìm mà không có kết quả, chẳng chấm được ai, quốc vương đành ngó vị ẩn sĩ cho đỡ buồn. Bị nụ cười thâm trầm lôi cuốn, vua xuống ngựa, ngỏ ý: - Này ẩn sĩ, ta đang muốn tìm một vị thầy, ông có chịu làm thầy ta không?- Nếu ngài chịu cư xử theo lễ thầy trò thì ta đồng ý!Quốc vương cảm thấy thích thú, liền rước thầy về cung. Thầy ngự trong cung điện cao sang, được cung phụng không thiếu thứ gì, tận lực thờ kính thầy, vua hy vọng sẽ được truyền diệu pháp.Lạ thay, những gì quốc vương hậu đãi, thầy hưởng tất tần tật song chẳng hề dạy quốc vương điều gì, suốt ngày thầy cứ yên lặng, gương mặt vẫn bình thản, cười mỉm thâm trầm.Thời gian trôi qua, quốc vương thất vọng và cảm thấy phiền lòng, hết chịu nổi bèn “tống” thầy ra khỏi vương quốc bằng cách bí mật đưa thầy đến biên ải. Trên đường, thầy vẫn giữ vẻ mặt thản nhiên với nụ cười mỉm thường nhật.Đến nơi, quốc vương hết nhịn nổi, tuôn ra những bất bình:- Này lão ăn mày kia! Hồi xưa, thấy lão ngồi dưới gốc cây ăn mặc rách rưới, ta ngỡ lão là bậc Thánh nhân đắc đạo nên mới có bộ dạng khác người. Ai dè khi lão về hoàng cung, lão chỉ biết hưởng thụ xa hoa như ta, chẳng có gì hay! Trước khi “lặn” mất, lão hãy nói xem: Giữa lão và ta có gì khác biệt? Có bí quyết gì sống an lạc hạnh phúc hay không?Vị thầy lúc này mới “khai khẩu” tạ từ và trả lời: Ðiểm khác biệt giữa ngài và tôi là thế này, ngài có một vương quốc, ngài phải bám víu và sống chết vì nó. Còn tôi, tôi không có vương quốc nên đi đến đâu thì chỗ đó là vương quốc tôi. Khi tôi ở gốc cây, gốc cây là vương quốc, khi tôi ngụ tại hoàng cung, thì hoàng cung là chỗ của tôi. Thật sự thì hoàng cung hay gốc cây, đối với tôi không có gì khác biệt. Và bí quyết để sống an lạc ư? Chỉ có tâm tư giải thoát, an tĩnh hoàn toàn mới có thể sống hạnh phúc.Nói xong, thầy bước thẳng và khuất dạng trong rừng sâu.(Kể theo Truyện ngụ ngôn của Lâm Thanh Huyền)

BÀI HỌC ĐẠO LÝ:

Khi được người tôn làm thầy, đặt ở vị trí cao, nhận sự kính ngưỡng, quy phục của người thì tất nhiên ta phải xứng đáng bậc thầy, đạo sư, dẫn đường chỉ lối giúp người thoát mê, dứt khổ. Thầy phải có tuệ giác, từ bi, quảng đại, bao dung và sức chịu đựng vô bờ… mới giáo hóa thành công. Trách nhiệm của thầy rất lớn song đó chỉ là những điều kiện Tuy nhiên trong thực tế, một vị thầy chỉ cần bồi đức lập hạnh, hoàn thiện mình đã là tốt rồi.Người thầy trong câu chuyện dù minh triết nhưng lại không chỉ giáo. Hành xử như thầy không dễ kiếm, “khát pháp” như quốc vương cũng khó tìm, chỉ tiếc là vua và thầy chưa đủ duyên. Giả như vua gặp được Phật, các bậc Thánh hoặc vị thầy xứng danh, ắt hẳn sẽ được thỏa lòng.Cho nên, tìm được minh sư tuy khó nhưng hội đủ những phước duyên để thầy giáo hóa cho mình đạt đến viên mãn cực kỳ khó hơn! Vậy mới hay tìm thầy không dễ!

Friday, December 18, 2009

Ngũ ấm ma - 7

Ngũ ấm ma - 6

Ngũ ấm ma - 5

Ngũ ấm ma - 4

Ngũ ấm ma - 3

Ngũ ấm ma - 2

Ngũ ấm ma - 1

Tuesday, December 15, 2009

Mưa Lâu Thấm Đất (Tác giả: Nguyễn Trần Diệu Hương)


Diệu Hương là tác giả đã hai lần được tặng giải thưởng viết về nước Mỹ. Với bài "Chương Kết Của Cuộc Đời", cô nhận giải danh dự 2001. Sau 4 năm liên tục góp thêm bài viết mới, cô nhận giải vinh danh tác phẩm Viết Về Nước Mỹ 2005, với bài viết về một cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà trong dịp 30 lần thứ Tư tại Mỹ. Tác giả hiện cư trú và làm việc tại vùng San Jose. Bài mới của cô viết về Mẹ, nhân mùa Vu Lan đang tới.Thế hệ của Ba Mẹ không còn "cổ hủ" như thế hệ ông bà, cho nên chỉ thỉnh thoảng bầy con mời được nghe những câu răn dạy bằng văn vần rất dễ nhớ từ bà nội hay bà ngoại, chẳng hạn:"Trai thời trung hiếu làm đầuGái thời đức hạnh làm câu trau mình"
Nhưng Ba Mẹ, đặc biệt là Mẹ có lối dạy con kiểu "mưa lâu thấm đất", nghĩa là lập đi lập lại hoài đến một lúc nào đó, tự nhiên những điều giáo huấn sẽ thành "chân lý" trong lòng bầy con Mỗi lần Ba Mẹ khuyên răn, anh cả, chỉ khoảng mười tuổi lúc đó, vẫn lén lút thì thầm với bầy em là đã đến giờ nghe "kinh nhật tụng".
Hồi nhỏ xíu, Mẹ dạy chung cả bầy con mổi giờ ăn trưa hay ăn tối:-Phải cố gắng học hành cho giỏi. Ba Mẹ không có nhiều của cải để lại cho tụi con, chỉ biết hết sức lo cho các con ăn học nên ngượi. Phải học hành đến nơi đến chốn thì đời sống mới khá được, và mới giúp đỡ được người khác.
Bầy con, chưa đứa nào qua khỏi ngưỡng cửa Tiểu học, nghe thì nhiều nhưng hiểu chẳng đươc bao nhiêu, Nhưng vẫn cố gắng học hành vì những gói phần thưởng bọc giấy kiếng màu đỏ mỗi cuối niên học hơn là vì hiểu lời Mẹ dạy..
Lâu lâu Mẹ mở rộng "kinh nhật tụng" với những lời khuyên bảo "cao xa" hơn:- Anh em như thể tay chân, phải biết đoàn kết bảo bọc cho nhạu. Phải biết kính trọng người già yếu và biết giúp đỡ nguời tàn tật.
Điều này còn mơ hồ hơn chuyện "phải học giỏi", nhưng bầy con vẫn giữ thói quen khoanh tay chào người lớn (vì Ba Mẹ nhắc), và thỉnh thoảng đặt những đồng tiền cắc năm đồng có hình bông hoa (là cả một "gia tài vĩ đại" với con nít lúc đó) vào tay những người ăn xin tàn tật. Tuy vậy, lâu lâu vẫn húc cùi chỏ vô đứa ngồi bên cạnh, hay gõ đầu em khi Ba Mẹ vừa quay lưng.
Lâu lâu cãi nhau với hai anh em bạn hàng xòm, con trai chạy về nhà kéo thêm đứa em chạy ra để ... "biểu dương lực lượng", đễ yên tâm mình không bị "một chọi hai" chứ thật sự cũng chưa hiểu rõ "kinh nhật tụng" mỗi ngày nghe từ Mẹ lớn hơn một chút, Mẹ phân chia con trai, con gái riêng biêt.
Với con trai, Mẹ khuyên răn:-Làm gì cũng phải suy nghĩ, Không bao giờ đành nhạu Giải quyết mọi chuyện bằng cái đầu, không phải bằng tay chận Phải nhớ một sự nhịn là chín sự lành.Với con gái, Mẹ thì thầm mỗi ngày:-Con gái phải có ý tứ, đi đứng nằm ngồi gì cũng phải ngó trước ngó sau. Ăn nói phải giữ ý giữ tứ, không cười to nói lớn ở nơi công cộng.Mẹ dạy kỹ như vậy, mà lâu lâu, con trai vẫn chia phe chơi đánh nhau với bạn bè; lúc đầu đánh chơi; sau hăng quá, đánh thiêt. Tàn "cuộc chiến", anh em kéo nhau về nhà, lấy quần áo dài tay ra mặc, để che "dấu tích chiến tranh" trên bắp đùi, trêm khuỷu tay; và hậu quả của chuyện không nghe lời cha mẹ.
Con gái thì lúc vui quá vẫn thoải mái cười to, phơi bày cả hàm răng sữa vừa mới mọc hãy còn lởm chởm chưa đều, và ăn to nói lớn không kém gì tụi con trại Còn tệ hơn, lúc chơi đánh thẻ bằng mười chiếc đũa tre thì ngồi bệt dưới đất, hai chân duỗi dài xòe ra thành một góc chín mươi độ, không còn nết na cần phải có của đàn bà con gái.
Nhưng đúng là "mưa lâu thấm đất", mãi về sau này, lúc lênh đênh trên chiếc ghe mong manh giữa đại dương, nôn mửa đến cả mật xanh đắng nghét con gái vẫn ngồi ngay ngắn đàng hoàng vì ghe vượt biên chật cứng, mà cũng vì ngay cà giữa hiểm nguy, lời Mẹ dạy vẫn vâng vẳng bên tai "con gái đi đứng nằm ngồi phải giữ ý".
Thời gian Ba bị "học tập cải tạo" không biết ngày về, Mẹ vừa làm cha, vừa làm mẹ, như con gà mái, dù nhọc nhằn xác xơ, vừa xù lông che chở cho đàn gà con, vừa bương chải kiếm sống (với sự đỡ đần của ông bà ngoại và bà nội), không còn cò dịp dạy dỗ, khuyên răn các con mỗi ngày. Bữa ăn lúc đó, buồn bã, không có tiếng cười, tiếng nói như thời nhỏ dại. Và khi mất rồi mới thấy quý, cả bầy con bỗng nhớ ;kinh nhật tụng" hơn bao giờ hết.
Không biết vì "bần cùng tất biến", tự nhiên khôn ra mà không đợi lớn, hay vì mưa lâu đã thấm đất, lời khuyên răn của Ba Mẹ thấm vào tâm hồn tự lúc nào không biết, cả bầy con già trước tuổi, chửng chạc ra vì thấy sự vất vả của Ba Mẹ, vì thấy mình không còn dược học thêm lễ nghĩa từ học đường, nên những điều Ba Mẹ dạy năm nào thời thơ dại ngày càng rõ nét, hằn sâu vào tâm hồn
Bẵng đi rất lâu, một mình Mẹ xoay sở lo toan mọi thứ, không có giờ "đọc kinh nhật tụng" mỗi ngày cho con cái Đến lùc bầy con vào tuổi niên thiếu, không còn chọn lựa nào khàc, phải đi xa, băng qua cả một đại dương, Trước lúc ra đi, Mẹ dặn dò từng đứa . Lần này, không còn là điều nói công khai trong bữa ăn có đông đủ cả Ba Mẹ và các con như năm xưa, mà là tiếng Mẹ thân yêu thỏ thẻ bên tai mỗi đứa con bên ngọn đèn dầu buổi tối, ảm đạm đen tối như tương lai con cái những người tù chính trị thập niên 80.
-Nếu đến được quê người bình yên, phải lo học hành thành người, phải luôn nhớ lời Ba Mẹ dạy. Anh chị em ở xa, không có Ba Mẹ bên cạnh lại càng phải đoàn kết, đùm bọc thương yêu nhau nhiều hơn. Làm gì cũng phải suy nghĩ kỹ càng
Chỉ có vậy và chỉ được nghe một hay hai lần trước lúc ra đi, không còn phải nghe hàng ngày như thời thơ ấu, nhưng ví lớn hơn, có trí khôn, ý thức được hoàn cảnh của xã hội, của gia đình nên "mưa rào vẫn thấm đất".
Nhờ Mẹ thành tâm cầu nguyện, và hình như cả Phật lẫn Chúa chỉ trao cho con người gánh nặng mà con người đủ sức gánh, nên anh chị em nối tiếp nhau, lần lượt từng đứa đến được quê người, "vô sản” về của cải vật chất, nhưng giàu có vê tinh thần nhờ những lời khuyên "mưa lâu thấm đất" của Ba Mẹ năm nào.
Những năm đầu ở xứ sở tự do, không có quan hệ ngoại giao giữa hai quê hương, nên tưởng như không còn có ngày về, không biết đến thủa nào mới gặp được Ba Me. Nhưng nhờ bận rộn, đầu tắt mặt tối với học hành và kiếm sống từ khởi điểm zéro, nên cả bầy con chỉ nhớ Ba Mẹ mà không buồn lắm. Nhửng lúc gặp khó khăn thì tự nâng mình lên bằng "kinh nhật tụng" của Ba Mẹ suốt thời thơ dại.
Thập niên cuối cùng của thế kỷ hai mươi, quan hệ ngoại giao Mỹ Việt được tái lập, mặc dù vẫn không được ở gần Ba Mẹ nhưng đường dây điện thoại viễn liên đã đem được tiếng nói và lời khuyên của Ba Mẹ đến các con. Lúc này nhửng lời giáo huấn, dù ngắn ngủi như mưa rào hay lê thê như mưa dầm đều có mang màu sắc tôn giáo vì Ba Mẹ đã ở ngưỡng cửa tuổi già.- Mỗi năm cho Ba Mẹ xin một ít tiền, tùy lòng hảo tâm của mỗi dứa để Mẹ mua gạo cho người già, mua sách vở cho các em bé mồ coi Mình có chén cơm ăn thì nên chia xẻ cho người khác vài muỗng cháoLúc đầu, mổi đứa gởi tiền về như yêu cầu của Me. vì muốn Mẹ vui, nhưng nhờ "mưa lâu thấm đất", những năm sau này, việc gởi tiền về giủp người không may ở quê nhà không chỉ là do "đơn đặt hàng" của Me. mà là tự nguyện, mà còn là niềm vuiKhi Ba Mẹ qua Mỹ thăm các con, lại có lời khuyên mới rất "hơp thời trang", đi trước cả luật lệ:- Lái xe phải cẩn thận, ngó trước ngò sau. Khi lái xe thì không làm việc gì khác, không nói chuyện diện thoại...- Có sống ở đâu đi nữa cũng phải giữ lễ nghĩa Việt Nam của mính, con người ai cũng có gốc, gốc phải tốt thì ngọn mới xanh dươc. Đừng sống đua đòi quá đáng khì chung quanh mình nhiều người vẫn còn khổ...Bên cạnh đó vẫn là những câu "kinh nhật tụng" cũ rích nâm xưa:- Anh chị em phải biết thương yêu đùm bọc nhau.
Nhưng ở tuổi nửa đời người, cả bầy con đều thích nghe, đều hết sức trân trọng những lời khuyên bảo được lập đi lập lại từ lùc có trí khôn đến tận bây giờ. Những lời dạy quý báu mở đầu bằng động từ "phài" đã thấm vào tâm hồn từng đứa con tự lúc nào và đã giữ cho cả bầy con không bao giờ đi chệch về bên "trái"Cũng ở tuổi nửa đời người, cả con trai lẫn con gái đều nhận ra rằng sau lưng mỗi người đàn ông thành công, không những chỉ có một người vợ khôn ngoan mà còn có cả một bà Mẹ tuyệt vời, kỳ quan đứng trên tất cả mọi kỳ quan đẹp nhất trên đời.
Nguyễn Trần Diệu Hương(Với lòng biết ơn Ba Mẹ của 5H - Vu Lan 09)
Read more:
http://nmaddp2.blogspot.com/2009_09_01_archive.html#ixzz0ZintUwmc





Sunday, December 13, 2009

Khi Người Ta Không Thích Quý Vị --- Hòa Thượng Tuyên Hóa

Trong khi tu Đạo, thỉnh thoảng quý vị có thể thấy quý vị không thể tìm thấy được Đạo, quý vị không biết làm thế nào để tu tập. Quý vị có thể gặp ngã ba đường và quý vị không biết đường nào để đi. Lúc đó quý vị cần phải có trí huệ và định lực. Quý vị cũng phải giữ giới.
Khi quan hệ giao tiếp với người, thỉnh thoảng quý vị có thể rất tốt với một số người, nhưng họ ngược lại không thích quý vị dù quý vị tử tế với họ. Quý vị càng tốt với họ, họ sẽ càng tệ bạc với quý vị. Khi hoàn cảnh này xãy ra, quý vị phải buông bỏ sự dích mắc của quý vị. Sự dính mắc nào? Sự dính mắc muốn đối xử tốt với người khác! Khi quý vị càng tốt với người khác, họ càng tệ bạc với quý vị, họ chính là thiện tri thức “nghịch duyên” của quý vị. Họ đang giúp quý vị học cách buông bỏ khi nghịch duyên xãy đến. Điều này dựa vào kinh nghiệm tu tập của chính tôi. Trên mỗi bước chân trên con đường tu tập, tôi đã từng phải đương đầu với các kiểu đối xử tệ hại và thử thách như thế này. Các kiểu đối xử tồi tệ và thử thách này xãy đến chỉ để xem quý vị sẽ tiếp tục tiến lên hay quý vị sẽ thối lui. Nếu quý vị thật sự hiểu chúng, lúc đó trong các cảnh giới thuận duyên hay nghịch duyên, quý vị cũng sẽ đều tinh tấn như nhau. Có câu nói rằng:
Nếu ý tưởng bạn không thành hiện thực,
Hãy nhìn lại chính mình.
Nếu bạn tử tế với người khác nhưng họ không đền đáp lại,
Hãy nhìn lại sự tử tế của mình.
Nếu bạn ra lệnh người, nhưng họ không phục tùng
Hãy nhìn lại mệnh lệnh của mình.
Nếu bạn tôn kính người, nhưng người không tôn kính bạn
Hãy xem lại tư cách của chính mình.
Giả sử quý vị rất tốt với ai đó, nhưng họ không muốn gần gũi quý vị. Trong trường hợp này, quý vị phải hồi quang xem coi sự tử tế của quý vị có thật sự là tử tế hay không. Nếu đó là sự tử tế thật sự, dần dần quý vị sẽ ảnh hưởng họ để họ trở thành người tốt. Nếu người ta không nghe theo sự chỉ bảo của quý vị, quý vị hãy hồi quang và nghĩ, “Có thể do mình áp đặt quá nhiều quyền lực vào họ?” Nếu quý vị gật đầu hay xá chào người khi quý vị nhìn thấy họ, nhưng họ vẫn làm ra vẻ như họ thậm chí không nhìn thấy quý vị, một lần nữa quý vị phải hồi quang: Quý vị có thật sự tôn kính họ hay không? Nếu quý vị có thể luôn luôn hồi quang, quý vị sẽ không còn xa Đạo. Quý vị đang trên đường đến với Đạo. Nói thì rất dễ, nhưng thực hành thì rất khó!
Theo “Treasure Trove”, trang 121http://www.dharmasite.net/sf/teach/teach3-5.html

Saturday, December 12, 2009

Khai Thị Ngộ Nhập

Tự mình sanh phiền não, tự mình phải giải mở. Hãy đem lời Sư Phụ khai thị ra áp dụng.Sư Phụ khai thị nhiều như vậy, giờ đây xem bạn thọ trì ra sao.Kẻ biết nghe, khai thị mới có ích. Kẻ không biết nghe, khai thị cũng vô dụng.Nghe giảng khai thị, không luận là nghe nhiều hay nghe ít, mà là coi xem nghe vào hay không vào (tâm). Nghe vào tâm rồi thì phải biết áp dụng.Bạn nghe lời khai thị của Sư Phụ hay quá. Song hay là Sư Phụ hay (chứ không phải bạn hay). Vẫn phải cần bạn đem thực hành.Các bạn lạy tôi làm Thầy; tôi dạy các bạn Phật Pháp. Khi tôi không còn ở đời, các bạn phải theo thứ Pháp này mà tu hành thì Ðạo tâm mới kiên cố, con đường xuất gia mới viên mãn.Khi học Phật Pháp, bạn nghe Sư Phụ khai thị cho một câu thì tự mình phải làm sao Giác ngộ, lãnh hội được câu ấy. Không phải cần nhiều lời. Khi lời nhiều thì các bạn vẫn còn bị xoay chuyển.Hỏi: Sau khi Sư Phụ viên tịch, nếu chúng con tưởng nhớ Sư Phụ thì phải làm sao?Một Thầy (Thầy Truyền Văn) phát biểu: “Chính Phật tánh của Sư Phụ nói Pháp, khai thị cho chúng ta; chứ không phải là cái thân giả hợp của Ngài. Có nhớ tưởng tới Ngài thì mình hãy phát tâm dũng mãnh, tinh tấn tu hành!”Lời tôi giảng là nhắm thẳng vào các bạn. Ðừng nghĩ rằng tôi nói lỗi xấu của riêng bạn hay của người nào đó, rồi sinh ra phiền não, bực bội.Nếu bạn có lỗi thì hãy tự thừa nhận, sám hối, phản tỉnh, sửa đổi tánh nết, hành vi.Cứ thường chấp trước thì dễ sinh phiền não. Bạn có phiền não, rồi lại ảnh hưởng, làm kẻ khác cũng bực bội, rồi cả đại chúng đều sinh loạn. Thế thì làm sao “thống lý đại chúng” làm cho mọi người hoà hợp? Phải sửa mình, tề gia trước, rồi sau mới trị quốc, sửa người được.Kẻ có tánh thẳng thắn thì tuy lời nói không êm tai, không dễ nghe cho cho lắm, song bạn chớ cho là lời xấu ác. Có kẻ ăn nói hay ho lắm, song tâm thì không tốt gì cả. Do đó, bạn phải chú ý, phải hiểu suốt tâm lý nhân tình.Nhiều khi kẻ trực tâm lời nói không có ý xấu gì cả, song người nghe thì cong vạy, khúc mắc, xuyên tạc; thậm chí còn cho rằng anh ta suy nghĩ phức tạp lắm nữa!Ðừng nên nghe người bừa bãi. Ðừng nghe bên này nghe bên nọ rồi không biết ai đúng ai sai. Khi tâm bạn không tự làm chủ thì dễ thành tán loạn, dấy vọng tưởng, sinh phiền não.Nghe cũng phải biết cách: cần nghe Phật Pháp, chớ nghe chuyện thế tục.Nghe Phật pháp thì được giải thoát, không còn ngã tướng, không còn cái “tôi”. Nghe chuyện trần tục tức là có chuyện thị phi, phát sinh ra tướng ngã (có “tôi”, có “anh”; có “đúng”, có “sai”). Ðó là chủng tử xấu, về sau khó tẩy trừ.Lời nói đúng sự thật thì bạn mới nên nghe. Lời không đúng chân lý mà bạn nghe vào, thì có thể gieo ảnh hưởng xấu cho kẻ khác, mà tự mình phải gánh chịu quả báo.Kẻ biết nghe, thì chỉ một hai lời nói là y hiểu ngay; không cần phải kể lể rườm rà.Khi xưa mấy Thầy giảng kinh, họ đều dành lại một phần để người nghe tự tìm hiểu và thể hội. Họ không giảng hết, cũng không kể chuyện cổ tích dài dòng.Kẻ có căn cơ, thì bạn nói gì là y nghe ngay. Kẻ không có căn cơ thì khi nghe bạn nói, y liền tán dóc, lép nhép không ngừng.Tự mình phải Giác ngộ bản lai diện mục của mình. Nghe (giảng khai thị) chỉ là cảnh giới của Lục trần mà thôi.

Pháp Ngữ

Hỏi: Mỗi ngày trì Chú, lạy Phật, lại tu thêm Pháp Hoa Tam Muội, song tâm vẫn còn lăng xăng, tạp nhạp là vì sao?Ðáp: Mình không tự chủ thì không xong. Chuyên tâm niệm Phật, trì Giới, lạy Phật là đủ!Hễ công việc, sự tình càng nhiều thì bạn càng chấp trước, tâm càng không an định. Ðừng chấp trước vào cái hay cái tốt của kẻ khác. Kẻ có căn cơ thì khi nhìn điều xấu xa của người, y biết vận dụng (tránh phạm cùng lỗi) để tu tiến bộ hơn. Kẻ không có khả năng thì chỉ sinh thêm phiền não.Muốn định tâm, rất khó. Do đó phải tìm cái tâm bất sanh bất diệt, đừng tìm những thứ sanh diệt bên ngoài. Cần tìm cái mà xưa nay tự tánh sẵn có. Tất cả mọi thứ nghe được, thấy được, ở bên ngoài, đều không dính dấp gì tới mình (chân tánh) cả.Hình tướng người Tỳ Khưu là hình tướng Phật. Hễ thấy Thầy Tỳ Khưu tới, bạn nên lập tức chắp tay đón chào, lễ lậy. Không cần phải phân biệt, đánh giá Thầy này có tu hành, Thầy kia không tu hành.Biết tụng niệm, gõ khánh, đánh chuông là việc rất tự nhiên; không cần để tâm học tập. Khi Trí tuệ khai mở thì tự nhiên bạn biết làm ngay.Trong Tam Giáo (Nho, Lão, Phật), thì Nho giáo dạy đạo đức, lễ, nghĩa, trung, hiếu. Lão giáo tuy cũng dạy tu Ðạo, song không dạy Phật lý (chân lý cứu cánh), nên không giải thoát. Cuối cùng chỉ có quy nạp về Phật môn Tịnh Ðộ (của Phật giáo), cầu vãng sanh, thì mới liễu thoát sanh tử.Phật giáo và Lão giáo (Ðạo giáo) rất khác biệt nhau. Tu đạo Phật là vì liễu sanh tử. Tu đạo Lão là để trường sanh bất lão. Song, dù sống tới trăm ngàn tuổi vẫn không phải cứu cánh, vì không thoát được sanh tử.Trong đạo Lão cũng có nhiều người tu rất tinh tấn, chứng được thân La hán (như Lã Ðông Tân, Hán Chung Ly); song, thân La hánh của họ không phải cứu cánh. Các vị La hán bên Phật giáo thì đã đoạn được hai thứ kiến hoặc và tư hoặc (Kiến và Tư hoặc là hai thứ si mê của cái nhìn và của tâm tư khiến mình không thấy được Phật tánh. Hai thứ si mê này rất thâm sâu vì được hình thành và nuôi dưỡng từ nhiều đời nhiều kiếp bởi thói quen và chủng tử ô nhiễm lầm lẫn rằng thật có cái “ta” và vạn pháp), siêu thoát luân hồi. Bên Ðạo giáo, nhiều vị được thân La hán cũng không phải chết, có khi họ sống trong núi đến hàng trăm năm.Chúng ta cốt yếu cần tu để giải thoát sanh tử. Do đó, mình cần phải xả thân, đừng sợ cái thân này cực khổ. Phải nhớ rằng, tu đạo Phật là tu để ba nghiệp (thân, khẩu, ý hành động, lời nói, ý nghĩ) được thanh tịnh, Sáu căn được trong sạch, thoát khỏi cái khổ cả sanh, già, bệnh, chết.

http://tuvienhuequang.com/phap-thoai-giang-luc/hoa-thuong-quang-kham-phap-thoai-giang-luc/cam-nang-tu-ao-6.html

Thời Ðại Ðã Thay Ðổi Rồi!

Thầy giáo ngày nay và ngày xưa khác nhau xa lắm.Thời Hán, Thầy giáo thì kính trọng đạo đức, lễ, nghĩa, liêm, sỉ. Thời nay, Thầy giáo bản thân không làm xong (không đủ đức độ). Phật học ngày nay cũng kém xa ngày xưa.Hồi xưa ai cũng coi trọng lễ, nghĩa, liêm, sỉ; do đó mới có bậc Thánh Nhân xuất hiện.Ðời nay không ai những điều ấy là giá trị, vì vậy xã hội ngày càng hỗn loạn. Do đó mình phải có thái độ cung kính đối với kinh điển.Ngày xưa có người họa sĩ có thể vẽ hình mặt trời hệt như thật, đến độ người ta có thể đem lúa ra phơi dưới bức tranh! Có kẻ vẽ con chim vô cùng sống động, đến độ nó có thể bay thật sự! Sở dĩ họ làm như thế được là do tu luyện mà ra.Người thời nay ai mà vẽ được con chim biết bay thực sự? Ai ai cũng ỷ lại vào kỹ thuật máy móc hoặc hóa học chế biến cả!Hiện nay, Phật giáo trên toàn Thế giới đại thể thì có hoằng Pháp, truyền bá. Song le, tuy đạo Phật phổ biến như vậy, nhưng lại rất khó tìm được kẻ chân chánh tu hành. Cũng có kẻ sớm đến với Ðạo, thiện căn khá tốt; song, kẻ xuất gia thì vẫn ít.Xưa kia, ở Chùa bên Ðại Lục (Trung Quốc), việc xuất gia không có dễ dàng đâu. Hễ vừa đi tu là bạn phải làm việc lao động tay chân ở Chùa một thời gian (khổ công như cày ruộng, cuốc đất..), rồi sau đó mới được phép làm những việc nhẹ trong Chùa.Ở Ðài Loan (Trung Hoa), việc xuất gia rất phổ biến, rất bình thường; và phần lớn là căn cứ theo học vấn mà xét việc xuất gia.Ở Ðại Lục xưa kia, xuất gia là để liễu thoát sanh tử: do đó, tu hành cực khổ, học cái khổ hạnh của Phật, Bồ tát để tu luyện bản thân. Tại Ðại Lục, kẻ xuất gia phải chịu làm việc lao tác cực khổ (khổ hạnh) trong ba năm; có chịu cực khổ thì mới giải thoát được!Người nay và người xưa khác nhau xa: cổ nhân, Ðạo tâm có mười phần; người đời nay, Ðạo tâm chỉ có một phần.Người tại gia hay xuất gia đời nay sinh hoạt sung sướng, tốt lắm. Khi cuộc sống quá sung sướng thì sẽ sinh ra nhiều tai nạn. Chấp trước vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thì bịnh hoạn cũng sẽ nhiều hơn.Ăn cơm đạm, mặc áo thô: tu hành là cứ ở đây mà dụng công. Song hiện tại, ai ai cũng nghiên cứu việc ăn ngon, mặc đẹp. Cả ngày bận rộn vì mấy chuyện ấy. Mình nguyện muốn tiêu nghiệp chướng, nay biến thành tiêu hao mất phước huệ; rồi thì nghiệp chướng cũng theo đó mà ùa tới thôi.Xưa kia cơm, canh, rau cải, thật giản dị cứ việc bỏ hết vào luộc là xong (gọi là La hán thái). Giờ đây, ai cũng chú ý, kén chọn việc ăn uống đến độ người xuất gia ăn còn ngon hơn cả kẻ thế tục nữa!Hồi xưa, ở Ðại Lục, các Thầy tu ở Chùa mặc thì mặc áo vải bố (thứ vải mặc làm đám tang) nhuộm thành màu xám; ăn thì ăn cháo lỏng như nước lã (do đó chén bát không cần phải rửa kỹ), cộng thêm một chút đồ ăn giản dị; chứ không phải như các bạn bây giờ được ăn cơm trắng, lại có đủ món, nhiều món ăn như vậy.Chùa chiền ở Trung Hoa xưa kia, hễ ai để đồ đạc bừa bãi thì Chùa đều gom góp, tịch thâu lại, bất kể là của ai. Nếu bạn muốn tìm đồ mình mất thì phải đi hỏi Thầy Quản lý.Ở Chùa bên Trung Hoa khi xưa, khi có ai phạm lỗi lầm, Thầy Quản lý không cần phải nói dông dài gì cả, mà chỉ việc viết tên người ấy lên bảng bố cáo; người ấy đọc được là tự động rời Chùa ngay.Thời nay, Thầy Quản lý có tới nói lỗi lầm của bạn (để mời bạn cuốn gói), bạn (chẳng những không thèm nghe) lại còn tranh chấp cãi vã với Thầy ấy nữa; thật là sai lệch quá xa!

Tâm Chúng Sanh

Vọng tưởng không có chủ tể. Phật (mới là bậc) có chủ tể.Tu làm sao mà về già càng tu càng không quái ngại. Hễ muốn vãng sanh thì chỉ nhắm mắt như ngủ là đi ngay. Chúng ta đêm nào ngủ cũng tựa như cái xác chết, chẳng biết chuyện gì xảy ra xung quanh. Sáng tỉnh dậy, mở mắt ra là lập tức bắt đầu tiến trình chấp trước; nhìn cái này là “của ta”, thấy cái kia là “của mình”...Các bạn không thể thấy được những thứ vô hình hài, vô sắc tướng; do đó không có hứng thú, không thích chúng. Vì vậy, các bạn chỉ ham thích truy cầu thứ có sắc tướng mà thôi.Lúc cha mẹ sinh bạn, bạn nào hay biết gì. Khi lớn lên một chút thì bạn bị “dính bụi trần”, chấp chặt quan niệm về cái ngã liền. Hễ chấp trước quan niệm về cái ngã thì sẽ có phiền não ngay. Song le,“Xưa nay không một vật,Làm sao dính bụi trần?”Những vị ở cõi trời thấy chúng ta giống hệt như mấy con giòi đen, thứ giòi ở trong cầu tiêu. Ðức Phật A Di Ðà phát 48 đại nguyện là để tiếp độ mình tới Thế giới Cực lạc; song mình cứ một mực tham luyến cõi Ta bà, cho khổ là vui, hệt như mấy con giòi đen (cho cầu tiêu ô uế là nơi đầy thú vị)!Mình thấy cầu tiêu hôi hám không chịu nổi nên muốn vớt mấy con giòi ra, thả chúng vào chỗ nước trong trẻo. Song lũ giòi ấy lại tham luyến cái cầu tiêu ô uế hơn mọi thứ, thà chết chứ không chịu đi đâu cả!Con người ta học làm điều xấu thì rất dễ; còn học làm chuyện tốt thì khó lắm!Bốn loài chúng sanh hễ ăn no rồi thì ngủ, tâm lúc nào cũng tán loạn.2/ Thói Quen, Tập KhíKẻ thẳng thắn dễ khai mở Trí tuệ.Cá tánh của mỗi người rất quan trọng.Tánh tình tốt, hiền hòa, thì đi tới đâu cũng hòa đồng được với mọi người, tùy thuận được người khác. Song tùy thuận cũng có hạn lượng; bởi vì đối với kẻ làm việc xấu thì mình không thể tùy thuận làm theo, mà phải kiên định lập trường, nguyên tắc hành động.Bản thân con người thì không xấu ác gì; chỉ có thói quen, tập khí là hư xấu. Ai cũng có thói hư tật xấu, chỉ khác là kẻ ít người nhiều mà thôi. Chỉ cần bạn hướng tâm tu Ðạo là đủ. Hễ bạn có thể tha thứ cho ai, thì hãy tha thứ ngay. Ðừng bao giờ cho người ta là hư xấu.Anh A có thói hút thuốc, đi đâu cũng phì phà khói thuốc. Anh B thì có thói đa nghi, lúc nào cũng nghi ngờ này nọ. Có lần A hút trước mặt B. Anh B tức giận, nghi rằng anh A khinh khi mình; thế là hai đàng sanh ra cãi vã, xung đột. May có anh C biết thói quen của hai người, nên đến giải hòa; khiến đôi bên từ đó sửa đổi, bỏ thói hút thuốc, bỏ tánh đa nghi.Bởi vậy, thói xấu mà mình không tự nhận biết để sửa đổi, thì chỉ gây phiền não cho kẻ khác. Tâm đa nghi chỉ hại mình, chướng ngại việc tu. Khi thấy ai bất hòa, xung khắc, thì bạn chớ đổ dầu vào lửa khiến sự tình thêm rắc rối; mà phải luôn tìm cách giải hòa!Có kẻ hay phê bình, chỉ trích, hoặc nói xấu người khác. Thật ra, y không tự hiểu việc làm của y là sai, mà y cũng không cố ý muốn chỉ trích, nói này nói nọ. Chẳng qua là do thói quen xấu mà y đã huân tập từ vô lượng kiếp về trước thúc đảy, khiến y bất giác làm vậy.Trước kia có một người, khi nói chuyện với ai anh ta cũng luôn nhìn ngang liếc dọc, làm ra vẻ thần bí; khiến người khác khi nhìn anh ta thì họ có cảm giác như anh ta đang nói xấu ai đó. Kỳ thực, nào phải vậy! Ðó chỉ là thói quen xấu mà thôi.Do đó, làm việc gì bạn cũng phải tự tại, tự nhiên; nếu không, bạn có thể rước đủ thứ phiền hà vô ích vào thân!3/ Danh Lợi Và Chậm ChạpMỗi người, ai cũng đầy một bụng phiền não.Xưa kia ở Ðại Lục (Trung Hoa), hễ người nào càng cố công tu hành, càng có căn cơ, thì càng bị thử thách nhiều lắm. Có kẻ cố ý dùng đủ thái độ vô lý lại chèn ép, khiêu khích người ấy. Hoặc có kẻ thấy người ấy gần hoàn thành một công trình gì đó thì tới phá hoại cho sụp đổ tan tành. Tuy nhiên, phải xem căn cơ của người ấy thế nào rồi mới thử thách đặng. Nếu thử thách kẻ không có căn cơ, bản lãnh, thì y sẽ sanh phiền não.Ở Ðài Loan thì khó mà thử thách ai. Bởi vì hầu hết các Ni cô đều xuất thân từ mái nhà ấm cúng của cha mẹ, quen thói nhõng nhẽo; cho nên đối với họ, chỉ phải dùng toàn phương pháp thế gian mà thôi.Ðời xưa, có vị Sư Phụ muốn thử coi công phu tu hành của đệ tử. Ngài bảo đệ tử mang ngược dép lại.Kẻ có căn cơ, Trí tuệ, liền quỳ xuống; thì Sư Phụ Từ bi chỉ dạy. Kẻ ngu si thì quả thật mang dép ngược lại ngay. Còn kẻ không có căn cơ thì lập tức nổi đóa, sinh phiền não; cho rằng Sư Phụ sai lầm, cố ý làm cho y phiền não.Khi kẻ có căn cơ nghe bạn nói về y (phê bình, chỉ trích, mắng nhiếc), thì y biết rằng đó chính là lời Sư Phụ y đang dạy dỗ; do đó, y biết cầu sám hối.Khi kẻ thiếu căn cơ nghe bạn nói về y, thì y lập tức đấu khẩu, hỏi gặng vì sao bạn dám nói động đến y; và rồi y sanh lòng tức tối, phiền não. Y sẽ nghĩ tới mái nhà ấm cúng của cha mẹ y, nào là được ăn ngon, mặc đẹp, lại được đi học..., những tấn tuồng cũ kỹ khiến y sẽ đọa lạc mãi trong luân hồi.Hễ việc gì tới mà mình tỉnh ngộ, thấu triệt, thì mình là kẻ có căn cơ. Kẻ không có căn cơ thì việc gì (trái ý muốn, trái sở thích) đến với y, y đều sanh phiền não, bực bội.Kẻ không có căn cơ thì phiền não cả đống. Dù bạn cố ý giải thích, y cũng không thể hiểu.Không trừ phiền não thì chánh niệm (sự suy tư đúng với chân lý hay Phật lý) không thể hiện tiền.

Xả Bỏ Tâm Phân Biệt

Con đường tu cần phải trải qua gian khổ; như vậy mới có thể khai ngộ. Không nên hy vọng mọi người đối với mình tốt; nếu người tu chẳng vậy thì không khác gì kẻ thế tục.Tu hành thì phải chịu thiệt thòi, thua lỗ; có vậy tu mới tiến bộ.Tu hành là làm những việc mà không ai chịu làm; luôn dũng mãnh, tinh tấn, chứ không phải tính toán, so đo rằng: "Việc này đâu phải để tôi làm!"; bởi đó là thái độ chẳng khác người đời.Làm những việc mà kẻ khác không làm, đó là cách tu phước huệ. Tu hành không phải là làm việc tính toán so đo; không cần phải toan tính, sắp đặt.Ðiều tốt thì góp nhặt để học; điều xấu thì vất qua một bên. Tự mình trong lòng thông hiểu là đủ rồi; thuận theo đây mà tu hạnh Nhẫn-nhục Ba-la-mật. Tu thì đừng hỏi "đúng" với "sai", đừng kể "hữu lý" hay "vô lý."Tu thì đừng nói thị phi, ai đúng ai sai. Dù mình đúng lý mà người khác nói mình sai, mình cũng cứ tiếp nhận ý kiến ấy. Hễ bạn tự nhận mình sai - dù mình đúng - thì phiền não sẽ không khởi; bằng ngược lại, tâm bạn sẽ không an, phiền não sẽ kéo tới.Trên đường tu, có rất nhiều thứ không giống với đường đời, thế tục; do đó, đừng nên tranh chấp "đúng" với "không đúng."Xưa, có hai người đồ đệ cùng tọa Thiền, một người ngồi rất nghiêm trang, còn người kia thì nghiêng qua ngả lại; nhưng Sư-Phụ của họ lại lấy roi quất người ngồi nghiêm trang. Nếu là người thời nay thì có lẽ y đã nổi giận, sanh phiền não rồi; song người đệ tử ấy thì lại vô cùng xấu hổ, thỉnh vấn Sư-Phụ khai thị dạy bảo.Tu hành không phải là tranh chấp "đúng" với "sai." Tu hành cần phải có công phu nhẫn nhục; dù mình đúng mà bị trách là sai, mình cũng phải nhận chịu.Nếu bạn thật có lòng muốn tu, thì đó chính là phước của bạn; do vậy cần tu cả phước lẫn huệ. Mỗi người cần trừ sạch hết những nghiệp chướng đã tạo xưa kia, rồi đừng tạo thêm nghiệp mới nữa; như vậy thì phước, huệ sẽ tăng gia.(Phương pháp: Niệm Phật, lạy Phật, phát tâm làm việc lao tác ở chùa, không tính toán. Hễ tính toán thì sanh phiền não, tức là tạo thêm nghiệp mới.)

III. KỆ KIẾN TÁNH:

Một điểm rỗng rang thể vốn không,

Muôn điều tạo hóa ấy cơ đồng.

Bao la thế giới ngoài trời đất,

Lặng ánh hàn quang cõi cõi trong.

Ở Thánh chẳng thêm phàm chẳng bớt,

Vuông tròn tùy món mặc dung thông.

Nghìn sông nước lắng trăng in bóng,

Hoa nở khắp nơi rực sắc hồng.

Âm :

Nhất điểm hư vô thể bổn không,

Vạn ban tạo hóa giá cơ đồng.

Bao la thế giới càn khôn ngoại,

Trạm tịch hàn quang sát hải trung.

Tại Thánh bất tăng phàm mạc giảm,

Phương viên tùy khí nhậm dung thông.

Thủy trừng nguyệt hiện thiên giang ấn,

Sắc ánh hoa khai đại địa hồng.

Trước khi học bài kệ Kiến Tánh tôi giải sơ về từ Kiến Tánh Thành Phật cho quí vị hiểu. Có nhiều người nghe nói kiến tánh thành Phật lầm cho rằng: Kiến tánh thì thành Phật, nên đâm ra hoang mang. Tại sao ngày xưa đức Phật tu hành khổ hạnh đến ba vô số kiếp mới thành Phật, ngày nay chúng ta tu kiến tánh là thành Phật liền ? Chữ kiến tánh với chữ thành Phật đi liền với nhau hay có một ẩn ý nào trong đó ? Nếu ngày nay chúng ta tu mà kiến tánh thành Phật liền thì trái với giáo lý của Phật. Vì trong Kinh có ghi, sau khi đức Phật Thích Ca ra đời ở thế giới Ta bà, này trải qua một thời gian thật lâu dài mới có đức Phật Di Lặc ra đời. Hiện tại Phật Di Lặc chưa ra đời, người tu Thiền nói kiến tánh liền thành Phật thì Phật ra đời nhiều lắm. Như vậy thì trái hẳn với giáo lý Phật dạy. Nếu chúng ta không hiểu tường tận ý này thì sẽ lúng túng.

Chữ Kiến tánh đây là nhận được tánh Phật của chính mình, tánh Phật là Phật nhân, nếu mình nhận được Phật nhân thì tương lai sẽ có Phật quả, nên nói thành Phật. Phật gọi tánh Phật đó là Phật nhân, hay nói cách khác là Phật pháp thân. Còn Phật thành đạo dưới cội Bồ-đề hay trong hội Long hoa mai kia là Phật quả hay là Phật báo thân. Như vậy kiến tánh thành Phật là nhận ra Phật nhân, nhưng đến Phật quả thì phải còn nhiều đời nhiều kiếp tu nữa mới được thành, chớ không phải kiến tánh liền thành Phật. Nếu kiến tánh liền thành Phật thì chư Tổ gọi là Phật chớ đâu gọi là Tổ. Bây giờ chúng ta gọi Tổ Đạt Ma, Tổ Huệ Khả, chớ đâu gọi Phật Đạt Ma, Phật Huệ Khả... Như vậy các Ngài kiến tánh là nhận được Phật nhân, nhưng phải vô số kiếp tu hạnh Bồ-tát mới thành Phật quả. Hiểu như thế chúng ta mới không hoang mang về việc chư Tổ kiến tánh mà không thấy vị nào thành Phật. Tôi tạm ví dụ cho dễ hiểu: Người nông dân có một số lúa giống thì nhất định sẽ có lúa ăn. Sẽ có lúa chớ không phải có lúa ăn liền, vì có lúa giống còn phải cày cấy gieo mạ, bón phân,lúa ra bông, lúa chín rồi mới có lúa ăn. Như vậy người nông dân có lúa giống thì biết chắc rằng sẽ có lúa ăn, nếu người ấy siêng năng cày cấy đúng cách. Lúa giống ví dụ như Phật nhân, có Phật nhân thì sẽ có Phật quả, vì từ Phật nhân đến Phật quả, phải trải qua một thời gian khó nhọc tu hành, chớ không phải thành Phật liền trong hiện tại.

Như vậy nội dung quyển Kiến tánh thành Phật chỉ thẳng mọi người chúng ta có tánh Phật, người nhận được tánh Phật gọi là kiến tánh. Tại sao nói kiến tánh ? Nếu không khéo chúng ta lại mắc kẹt trên ngôn ngữ. Theo nghĩa thông thường kiến là thấy, như tôi thấy cây viết, thấy bình hoa, thấy đồng hồ v.v... nhưng tôi có thấy được con mắt, thấy được cái mặt của tôi không ? Con mắt cái mặt còn không thấy, huống là các bộ phận bên trong. Như vậy tánh Phật không thể dùng mắt thấy được mà sao đây nói kiến tánh ? Kiến tánh ở đây không phải thấy bằng mắt, mà chữ kiến dùng đây như chữ chánh kiến, tức là nhận định chân chánh, nên nhận được tánh Phật gọi là kiến tánh. Nhưng tại sao lại dùng chữ kiến ? Ví dụ tôi thấy cái hoa hồng này là màu đỏ, có người khác nói cái hoa hồng này màu trắng hay màu đen, tôi có chịu không ? Tôi thấy tận mắt cái hoa này màu đỏ thì dù có ai dùng bao nhiêu thứ lý luận cũng không thay đổi được cái thấy của tôi. Cũng vậy, khi chúng ta nhận được bản tánh của mình rồi không còn ngờ vực gì nữa, thì dù ai có dùng lý luận khác để lay chuyển cũng không được, đó gọi là kiến tánh.

Ngài Đại Mai Pháp Thường đến tham vấn Mã Tổ, Sư hỏi:

- Thế nào là Phật ?

Mã Tổ đáp:

- Tức tâm là Phật.

Ngay câu đó Ngài liền lãnh hội. Ngài về cất am ẩn tu ở núi Đại Mai.

Sau này Mã Tổ nghe Sư ở núi, bèn sai vị Tăng đến hỏi:

- Hòa thượng gặp Mã Tổ đã được cái gì về ẩn núi này ?

Sư đáp:

- Mã Tổ nói với tôi “tức tâm là Phật” tôi bèn đến ở núi này.

Vị Tăng:

- Gần đây Mã Tổ nói phi tâm phi Phật.

Sư đáp:

- Ông già lừa người chưa có ngày xong, mặc ông phi tâm phi Phật, tôi chỉ biết “tức tâm là Phật”.

Vị Tăng về thuật lại với Mã Tổ, Mã Tổ tuyên bố giữa đại chúng: - Trái Mai đã chín.

Như vậy là chính ngài Đại Mai nghe Mã Tổ nói và Ngài đã nhận ra rồi, nên sau này Mã Tổ nói khác đi cũng không lay chuyển được niềm tin của Ngài. Câu chuyện trên cho chúng ta thấy rằng, khi một người đã nhận được bản tánh của mình, lòng tin đã vững chắc rồi, dù có bao nhiêu ngôn ngữ lý luận nói khác đi cũng không làm cho người ấy lay chuyển đổi thay, đó gọi là kiến tánh. Kiến tánh là nhận ra tánh Phật chân thật của mình không còn ngờ vực gì nữa. Nên nhớ rằng kiến tánh không phải thấy bằng mắt, vì tánh Phật của mình con mắt không thể nhìn thấy được, mà chính cái nhận định của mình đúng đắn tường tận không nghi ngờ thì gọi là kiến tánh.

Như vậy bài kệ Kiến tánh là bài kệ nói về việc nhận ra bản tánh Phật:

Một điểm rỗng rang thể vốn không, muôn điều tạo hóa ấy cơ đồng. Nghĩa là nơi chúng ta ai ai cũng có một điểm sáng, nó không có hình tướng cho nên rỗng rang không giới hạn, thể của nó vốn không, nơi mọi người đồng nhau không khác. Những hiện tượng tạo hóa lập bày ở thế gian, đứng trên bản thể rỗng rang sáng suốt mà nhìn thì nó đồng nhau không khác.

Bao la thế giới ngoài trời đất, lặng ánh hàn quang cõi cõi trong. Người đời thường nói trời đất trùm cả muôn sự muôn vật, nhưng ở đây nói cái điểm rỗng rang hay Phật tánh của mỗi người trùm cả trời đất, chớ nó không ở trong trời đất cho nên nói “bao la thế giới ngoài trời đất”. Sát hải chỉ cho thế giới nhiều như biển cả, cũng không ngoài cái tánh rỗng rang của chính mình. Cái điểm sáng đó là ánh sáng mát mẻ soi khắp muôn cõi.

Ở Thánh chẳng thêm, phàm chẳng bớt, vuông tròn tùy món mặc dung thông. Điểm linh quang này ở Thánh chẳng thêm ở phàm chẳng bớt, nơi Bồ-tát cũng như nơi phàm phu cái tánh sáng đó cũng như vậy không tăng không giảm. Nhưng tại sao các Ngài thì sáng suốt thành Thánh còn chúng ta thì mê muội phàm phu ? Bởi vì các Ngài nhận được tánh sáng đó và hằng sống với nó nên thành Thánh, chúng ta thì có mà quên đi nên là phàm, chớ chẳng phải không có hoặc kém hơn các Ngài. Tánh giác thì dung thông không ngăn ngại, tùy theo món đồ vuông thì nó vuông, tròn thì nó tròn, tùy theo món đồ mà nó hội nhập. Món đồ là ví dụ, chớ sự thật thì tánh giác ở nơi trời, nơi người thì nó như trời như người, ở nơi con vật thì nó giống như con vật. Tùy hình tướng chúng sanh phàm phu thấp kém, hay Thánh hiền nó vẫn bao dung trong đó, nó không nhỏ lại hay lớn hơn mà dung thông, tùy theo nghiệp của chúng sanh mà ứng hiện.

Nghìn sông nước lắng, trăng in bóng, hoa nở khắp nơi rực sắc hồng. Một nghìn con sông mà nước lóng trong thì có một nghìn cái bóng trăng hiện. Nhưng dưới nước có nghìn mặt trăng mà trên chỉ có một mặt trăng. Như vậy mặt trăng là một mà bóng mặt trăng thì có cả nghìn cả muôn, để nói rằng pháp thân thì không hai mà ứng hóa thân thì vô số.

Giống như hoa nở nơi này nơi nọ, cũng chỉ một sắc hồng hoặc sắc trắng. Cũng vậy, pháp thân thì không hai mà ứng thân, hóa thân thì đầy khắp, mọi nơi đều có. Đó là nói về tánh giác. Tánh giác này có nhiều tên, có Kinh còn gọi là Phật tánh, nhà Thiền thì gọi là tánh, tánh này là tâm thanh tịnh bất sanh bất diệt chớ không có gì khác. Qua bài kệ này Ngài chỉ cho chúng ta biết ai cũng có sẵn tánh giác, chỉ tại chúng ta mê không chịu nhận mà thôi.

Hỏi: - Thế nào là Phật ?

Đáp: - Phật là tiếng Phạn ở Ấn Độ, Trung Hoa dịch là Giác. Giác tức là bản tánh linh giác. Song bản tánh linh giác này vốn chân thật rỗng rang và trong lặng (chơn không trạm tịch), tròn đồng với thái hư, nghiễm nhiên sáng rỡ, trùm khắp cả pháp giới. Bản tánh ấy, hay ứng cơ tiếp vật, nhướng mày chớp mắt, giơ tay dở chân, chỉ một thể tròn sáng, mà sáu căn vận dụng thì tánh giác này ứng hiện.

Hỏi thế nào là Phật ? Ở đây giải thích Phật là Giác, Giác là bản tánh linh giác của mỗi người, bản tánh ấy rỗng rang trong lặng... Đoạn này ngài Chân Nguyên chỉ thẳng không giấu giếm tí nào hết. Bản tánh đó ai cũng có nhưng làm sao biết được ? Ngài Chân Nguyên nói rõ: hay ứng cơ tiếp vật, hay nhướng mày chớp mắt, giơ tay dở chân đều gốc từ tánh linh giác mà ra. - Như vậy trong chúng ta ai cũng biết nhướng mày chớp mắt, đưa tay lên dở chân bước đi, là đã có tánh linh giác rồi. Tuy nhiên ai ai cũng có tánh linh giác nhưng ít ai dám nhận, người không dám nhận là thiếu, có mà không nhận thì coi như không có. Chúng ta biết ăn biết nói biết đi biết đứng là do có tánh linh giác, nhưng khi nói năng đi đứng chúng ta lại không nhớ tánh linh giác của mình, chỉ nhớ cái suy nghĩ tính toán thôi ! Nếu chúng ta đi từ đầu đường đến cuối đường, không một vọng niệm nghĩ suy dấy lên, thì lúc đó chúng ta đang sống với cái linh giác; vì có linh giác mới biết đi, nếu không, làm sao biết đi ? Thế mà chúng ta lại không chịu, khi đi mà trong đầu cứ lẩm nhẩm chuyện hôm qua hôm kia, tính toán đủ thứ chớ không nhớ mình đang đi. Nếu đi biết mình đang đi thì chúng ta thấy rõ ràng cái lăng xăng lộn xộn đó không thật, cái biết đi mới là thật. Thế mà chúng ta nhận cái lăng xăng lộn xộn, bỏ cái biết đi. Ngài Chân Nguyên lại nói thêm, sáu căn vận dụng thì tánh giác ứng hiện. Như vậy trong chúng ta ai nói rằng mình vô phần ? Nếu vô phần thì hết ăn hết nói hết cử động, đó là một điều hiển nhiên rõ ràng. Ngài tâm đắc Kinh Lăng Già, nên Ngài dẫn ra đây.

Vì vậy, trong Kinh Lăng Già quyển hai, Phật bảo Đại Huệ và các Bồ-tát rằng: “Pháp tánh không tịch, vốn không có ngôn thuyết. Ngôn thuyết đều do bốn thứ tướng vọng tưởng mà dấy lên”. Thế nào là bốn thứ vọng tưởng ? Phật bảo Đại Huệ: Một là tướng ngôn thuyết. Hai là mộng ngôn thuyết. Ba là quá vọng tưởng kế trước ngôn thuyết. Bốn là vô thủy vọng tưởng ngôn thuyết.

Đoạn này Ngài dẫn Kinh lăng Già. Phật dạy rằng tánh linh giác vốn rỗng lặng không có ngôn thuyết, ngôn thuyết là do bốn thứ vọng tưởng dấy lên. Sau đây mới giải thích bốn thứ ngôn thuyết:

- Tướng ngôn thuyết, nghĩa là từ chính mình vọng tưởng chấp trước nơi sắc tướng mà sanh.

- Mộng ngôn thuyết, nghĩa là cảnh giới đã trải qua ở trước, rồi theo đó nhớ nghĩ lại mà sanh, từ khi thức dậy rồi, cảnh giới không tánh mà sanh.

- Quá vọng tưởng kế trước ngôn thuyết, nghĩa là do oán hận mà tạo nghiệp ở trước, theo đó nhớ nghĩ lại mà sanh.

- Vô thủy vọng tưởng ngôn thuyết, nghĩa là từ chủng tử tập khí do lỗi chấp trước hư ngụy từ vô thủy mà sanh.

Nhân có bốn thứ tướng ngôn thuyết vọng tưởng mà sanh khua môi uốn lưỡi, rồi động đến hai mảnh da khiến phát ra lời nói. Nếu không có bốn thứ tướng vọng tưởng ngôn thuyết, tức là cội nguồn thường lạc ngã tịnh, một tánh tròn sáng, muôn đức đầy đủ.

1- Tướng ngôn thuyết: Sở dĩ chúng ta có nói năng là y cứ nơi sắc tướng mà phát ra ý nghĩ, do ý nghĩ rồi phát ra ngôn ngữ. Như vậy lời nói là do ý nghĩ tưởng tượng về hình sắc mà nói. Ví dụ nói người này đẹp, người kia xấu là căn cứ trên sắc tướng mình thấy rồi đặt ra từ ngữ xấu đẹp. Những sắc tướng khác cũng như thế, đều từ mắt thấy hình tướng, tâm khởi vọng tưởng, từ vọng tưởng khởi ra tướng ngôn thuyết.

2- Mộng ngôn thuyết: Có hai thứ: Một là những chuyện xảy ra tháng trước hay năm trước, bây giờ chúng ta ngồi tưởng tượng ôn lại rồi kể ra, cũng giống như chuyện trong mộng. Thế nên nói cảnh giới đã trải qua ở trước, rồi theo đó mới nghĩ lại mà sanh ra. Hai là chúng ta nằm mộng, như đêm hôm mộng thấy người vác cây rượt đánh mình, sáng dậy kể lại cho bà con nghe. Như vậy cảnh giới qua mất rồi bây giờ kể lại chỉ còn là tưởng tượng, nên nói là mộng ngôn thuyết. Cảnh giới chúng ta thấy hồi hôm, bây giờ thức dậy kể lại cho người khác nghe, cảnh giới ấy không còn nên nói cảnh giới không tánh mà sanh, không tánh là không có thật, vì khi thức dậy rồi cảnh ấy đâu còn.

3- Quá vọng tưởng kế trước ngôn thuyết: Quá là lỗi lầm, do chấp chặt những lỗi lầm đã tạo, khi nhớ lại rồi sanh ra ngôn thuyết. Ví dụ ngày hôm qua có ai chọc tức, mình cãi lộn với họ, chuyện đó qua rồi nhưng mình còn ấm ức trong lòng nên sanh ra oán hận. Do ôm sự oán hận trong lòng, nên vài hôm sau gặp lại người đó mình liền bực tức và nói ra những lời nặng nhẹ hoặc nhát gừng. Đó là do oán hận tạo nghiệp ở trước rồi theo đó nhớ nghĩ mà sanh ra. Hoặc có người đi đâu gặp ai làm gì phiền giận, khi về nhà thuật lại cho người thân nghe, đó cũng gọi là quá vọng tưởng kế trước ngôn thuyết.

4- Vô thủy vọng tưởng ngôn thuyết: Nghĩa là ngôn thuyết theo cái tập khí cũ của mình. Ví dụ người tu, Phật dạy phải giữ oai nghi, nói nhẹ nhàng đi chậm rãi. Nhưng có người vào chùa tu vẫn quen thói cũ, nói thì nhanh, hoặc to tiếng gắt gỏng, đi thì vội vàng hấp tấp, lúc nào cũng như có việc gấp, đó là do tập khí cũ. Đáng lý người tu không có những cử chỉ hành động thô tháo, nhưng vì tập khí cũ chưa hết phải tu lâu nó mới tiêu mòn, chớ không phải mới tu là hết liền. Do đó chúng ta thấy có người tu đi đứng nghiêm trang, nói năng ôn hòa nhã nhặn chậm rãi, cũng có những người tu đi nhanh như chạy, nói nặng nề khó nghe, đó là do tập khí từ vô thủy vọng tưởng mà có.

Như vậy để thấy rằng vọng tưởng của chúng ta có nhiều loại, vọng tưởng của cái tưởng, vọng tưởng của cái mộng, vọng tưởng của những lỗi lầm, vọng tưởng từ vô thủy mà sanh ra ngôn thuyết.

Nhân có bốn thứ tướng ngôn thuyết vọng tưởng mà sanh ra lời nói. Nếu không có bốn thứ vọng tưởng ngôn thuyết tức là cội nguồn của Thường Lạc Ngã Tịnh, hay là cội nguồn của Niết-bàn. Như trước tôi nói nếu chúng ta đi trên đường, từ đầu đường đến cuối đường, trong tâm không có dấy một vọng tưởng nghĩ suy. Nhưng mắt vẫn thấy tai vẫn nghe, mũi vẫn thở, thân vẫn cảm giác gió mát, chân bước đi đều đều, đó là chúng ta đang sống với tánh giác, đang hưởng Niết-bàn hiện tại. Nhưng chúng ta không chịu như thế, cứ tưởng tượng suy tư nên tâm lúc nào cũng bất an. Như vậy tu dễ hay khó ? Đi một cây số chúng ta không nghĩ gì hết, cứ sống an nhiên với trời đất là chúng ta đang ở tại Niết-bàn. Rất dễ tại sao chúng ta không chịu ? Đi một cây số đường tâm an nhiên không khởi vọng tưởng an nhiên là Thường, tâm an nhiên thì mặt mình vui là Lạc, đang sống với cái biết hiện hữu của mình là Ngã, tâm không dấy động là Tịnh. Như vậy trên một cây số đường có Thường Lạc Ngã Tịnh, nếu chúng ta đi hai ba chục cây số mà không vọng tưởng thì cũng đang sống ở Niết-bàn. Giả sử, đi cả ngày thì cũng ở trong Niết-bàn cả ngày. Đi giữa thế gian trần tục đầy khổ lụy mà vẫn ở trong Thường Lạc Ngã Tịnh của Niết-bàn đâu khó. Song, đi mà tâm lo nghĩ đủ điều chắc chắn là bất an, dù đang đi trong chốn già lam thanh tịnh. Nói rộng ra, bất cứ chúng ta làm việc gì như nhổ cỏ nấu cơm... mà tâm thanh tịnh là đang ở Niết-bàn. Nhưng có nhiều người than rằng khi nấu cơm phải tính nấu món này món kia, làm sao không vọng tưởng ? Cuốc đất nhổ cỏ thì dễ chớ nấu cơm hơi khó hơn. Theo tôi thì không khó, trước khi nấu cơm quí vị bỏ ra năm mười phút, tính bữa nay nấu món gì rồi ghi vào tờ giấy để trên bàn. Chúng ta cứ theo thứ tự mà làm, thì trong khi làm tâm vẫn thanh tịnh. Tại chúng ta có thói quen vừa làm vừa nghĩ tính liên miên, không bao giờ để cái đầu trống, cho nên bị bất an hoài. Như vậy người tu Thiền có Niết-bàn ngay trong sanh tử, chớ không tìm kiếm ở đâu xa, chỉ cần buông vọng tưởng, làm cái gì biết cái đó, đừng cho vọng tưởng khởi thì cả ngày sống trong Niết-bàn. Và, người ta gọi cõi Ta bà khổ, trái lại chúng ta gọi Ta bà vui.

Tôi thấy cái khổ không thật mà nhiều khi chúng ta lại cố tình tạo ra. Như có người được tin ở Thành phố thân nhân nhắn về, nếu nghe như thế mà không thêm một ý nghĩ nào khác thì không khổ sở bất an. Nhưng chợt nghĩ có lẽ ba má mình bị bệnh, hay gia đình có điều gì quan trọng xảy ra, tự khởi lên một chục thứ có lẽ thì tâm lo lắng bất an, đêm nằm lăn qua trở lại không ngủ được. Như vậy cái khổ đó từ đâu tới ? Chẳng phải từ người nhắn tin làm cho ta khổ, mà khổ là tại mình đa sự vọng tưởng đủ điều. Lại nữa, giả sử có người thân đi đâu hẹn chúa nhật về, nhưng không đúng hẹn, thì bắt đầu trông ngóng, đặt vấn đề; người thân đi đường bị tai nạn, bị bệnh, bị mất tiền... có nhiều vấn đề như thế đầu óc chúng ta thảnh thơi không ? Không thảnh thơi là bắt đầu khổ. Cái khổ đó do ai tạo ? Tại người về trễ tạo hay tại chúng ta ? Nhiều khi người đi ra đường phải giải quyết bao chuyện rắc rối, khó khăn nên về trễ. Đã về trễ lại bị người thân rầy rà, cằn nhằn, do đó sanh chuyện vui buồn với nhau. Lý đáng người thân về trễ chúng ta để cho họ nghỉ ngơi rồi từ từ hỏi lý do, sau đó họ kể lý do cho nghe thì đâu có chuyện gì xảy ra. Con người thường tự tạo cho mình cái khổ, khổ là do vọng tưởng làm mình khổ chớ không ai khác làm cả. Như vậy để thấy rằng những nỗi khổ không phải tự có mà do mình vọng tưởng gây ra. Nếu chúng ta đi đâu, làm việc gì mà không vọng tưởng là đang sống trong Niết-bàn khỏi cầu về Cực lạc; ở ngay cõi Ta bà mà không vọng tưởng thì không khổ đau. Do đó Niết-bàn hay Cực lạc ở ngay thế gian này chớ không ở đâu xa.

Lại Phần Giải Ký nói: Đây là tướng ngôn thuyết vọng tưởng. Nghĩa là vọng thấy hình dáng nam nữ, thân thể, vẻ mặt, thanh sắc tốt xấu, và tất cả của cải, đồ đạc, mọi tướng đẹp xấu v.v... vọng khởi phân biệt mà có ngôn thuyết, gọi là tướng ngôn thuyết. Lại nhân mộng thấy cảnh giới đã trải qua ở trước, sau khi tỉnh dậy nhớ nghĩ lại, vọng chấp phân biệt việc lành dữ, tốt xấu, hơn kém,... gọi là mộng ngôn thuyết. Song do nhớ nghĩ mình người, oán thân, yêu ghét, lấy bỏ ở trước mà tạo thành nghiệp, rồi vọng sanh phân biệt mà có ngôn thuyết, gọi là quá vọng tưởng kế trước ngôn thuyết. Hoặc từ vô thủy đến nay, thức thứ tám gồm chứa tự tướng hí luận, chủng tử tập khí, kích thích mạnh mẽ nên sanh phân biệt, gọi là vô thủy vọng tưởng ngôn thuyết. Tất cả ngôn thuyết chẳng ra ngoài bốn thứ này. Do vọng tưởng làm nhân cho ngôn thuyết, nên lìa ngoài bốn thứ này thì không có nói năng, không chỗ nói năng, tức là chân thật đệ nhất nghĩa đế. Đệ nhất nghĩa đế tức là chân không vô tướng, tròn đồng thái hư, lặng lẽ vô sanh.

Đoạn này Ngài dẫn phần Giải Ký của Kinh Lăng Già giải rộng về bốn thứ ngôn thuyết.

Tướng ngôn thuyết vọng tưởng là do đối duyên xúc cảnh hiện tại như thấy hình dáng nam nữ, vẻ mặt thanh sắc... tất cả hình tướng tốt xấu khởi phân biệt mà có ngôn thuyết. Mộng tưởng ngôn thuyết là thấy cảnh trong giấc mơ, sau đó thức dậy nhớ nghĩ vọng chấp phân biệt lành dữ tốt xấu rồi nói ra. Quá vọng tưởng kế trước ngôn thuyết là do thương ghét buồn giận tạo thành nghiệp. Thành nghiệp rồi suy nghĩ phân biệt nói ra theo nghiệp mình đã tạo. Vô thủy vọng tưởng ngôn thuyết là do từ vô thủy thức thứ tám chứa tự tướng hí luận, tức là chứa chấp những hí luận có tính cách đùa cợt không đúng chân lý, không đúng chánh pháp, thành chủng tử tập khí, từ chủng tử tập khí kích thích mạnh mẽ phát ra ngôn thuyết. Như vậy chúng ta nói năng là do căn cứ trên bốn điều này. Một là căn cứ trên sắc tướng thấy nghe hiện tại, hai là căn cứ trên cảnh trong mộng, ba là căn cứ trên lỗi lầm đã tạo, bốn là căn cứ trên những tích lũy ở trong tàng thức từ vô thủy mà phát ra ngôn thuyết. Tóm lại tất cả ngôn thuyết là do những phân biệt suy tính của hiện tại, quá khứ và những điều chứa chấp ở trong nội tâm mà phát ra, nên nói tất cả ngôn thuyết chẳng ngoài bốn thứ này. Như vậy vọng tưởng làm nhân cho ngôn thuyết, nếu không vọng tưởng thì không có ngôn thuyết (nói năng), đó là chân thật đệ nhất nghĩa đế. Đệ nhất nghĩa đế là chân không tức là chỉ cho tánh linh giác của chúng ta. Nếu chúng ta không vọng tưởng là đang sống với tánh linh giác của chính mình, có đầy đủ bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của Niết-bàn như trước đã nói.

Như vậy ở đây đã chỉ rõ cái gốc sanh ra vọng tưởng, chúng ta biết tu thì phải buông xả vọng tưởng, tiêu ma nó, không chạy theo nó, dần dần đi đứng nằm ngồi hằng sống với cái bất sanh bất diệt sẵn có của mình.

Bấy giờ ngài Đại Huệ và các Bồ-tát đem nghĩa này hỏi Thế Tôn: Ngưỡng mong Thế Tôn nói thêm về cảnh giới do ngôn ngữ vọng tưởng hiện ra. Thế nào là chỗ nhân duyên chúng sanh vọng tưởng mà có ngôn thuyết sanh ?

Phật bảo ngài Đại Huệ và các Bồ-tát: Nghĩa là từ tám chỗ: đầu, ngực, cổ họng, mũi, môi, lưỡi, lợi, răng hòa hợp mà phát ra tướng âm thanh ngôn thuyết.

Lại Phần Giải Ký nói: Đây là chỉ bày tướng ngôn ngữ âm thanh. Nghĩa là ngôn ngữ của chúng sanh phát ra, do bốn thứ vọng tưởng trước làm nhân và tám thứ đầu, ngực, cổ họng, mũi, môi, lưỡi, lợi, răng ở sau làm duyên, nên có ngôn thuyết.

Ngài Đại Huệ và các Bồ-tát bạch Phật hỏi thêm về chỗ phát xuất ra ngôn ngữ vọng tưởng. Tại sao vọng tưởng phát ra ngôn ngữ, ngôn ngữ nó phát ra bằng cách nào ? Đức Phật trả lời là ngôn ngữ phát ra từ tám chỗ: đầu, ngực, cổ họng, mũi, môi, lưỡi, lợi, răng. Trong tám cái này thiếu một cái thì không có ngôn thuyết, nhất là thiếu cái đầu, không có đầu thì không có miệng lấy gì nói năng ? Phần Giải Ký nói bốn thứ vọng tưởng làm nhân, tám thứ đầu, ngực v.v...làm duyên nên sanh ra ngôn thuyết.

Nhưng theo Lão Tử thì nói: “Trong khoảng trời đất, giống như ống bể lò rèn, rỗng mà chẳng cong, động thì càng phát ra”. Đây là nghĩa vọng tưởng duyên khí, gió thức thổi động, vô cớ mà phát ra. Hiện thấy ở thế gian, trong việc ứng dụng hằng ngày, một niệm vọng khởi thì ba nghiệp khắp dấy lên, mười điều ác hăng làm thì tám gió thổi bay, nói năng kia đây trùng trùng điệp điệp.

Để rõ thêm ý nghĩa vọng tưởng duyên khí Ngài dẫn lời Lão Tử nói trong Đạo Đức Kinh.

Kế đến Ngài nói trong việc ứng xử hằng ngày, hễ một niệm thương ghét sân si dấy lên thì ba nghiệp đều dấy lên. Một niệm tốt khởi thì ba nghiệp đều tốt, một niệm xấu khởi thì ba nghiệp đều xấu, ba nghiệp xấu thì mười điều ác hằng làm, mười điều ác hằng làm thì tám gió thổi bay (tám gió: lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc) khi đó nói năng kia đây trùng trùng điệp điệp. Tóm lại, động cơ sanh ra nghiệp là vọng tưởng, hễ một niệm khởi thì ba nghiệp tạo nghiệp thiện hoặc nghiệp ác, khi tạo nghiệp rồi thì tám gió thổi rung rinh và đủ thứ phiền phức xảy ra sau đó.

Xét theo đó thì biết, tướng ngôn ngữ ở trong cõi chúng sanh là từ bốn thứ vọng tưởng mà sanh, rồi kia đây sân si cũng từ ngôn thuyết như thế.

Đến như thần thông của Phật, thì lời nói tợ âm thanh tiếng trống trời, ngay thẳng từ bi, vi diệu hòa nhã. Ngài diễn nói pháp có sáu mươi bốn thứ tiếng Phạm âm, vang xa khắp cả mười phương, mọi chúng sanh đều vui thích, nghe tiếng ngộ đạo, đồng được giải thoát, tức chẳng phải lời nói từ bốn thứ vọng tưởng.

Ngài nói rằng xét theo trên để biết tất cả ngôn ngữ trong thế gian, đều do bốn thứ vọng tưởng mà sanh ra, cho đến thương ghét hay sân si cũng từ vọng tưởng mà ra không có gì thật cả. Tuy nhiên, nói tất cả ngôn ngữ từ vọng tưởng sanh ra, vậy đức Phật thuyết pháp cũng từ vọng tưởng sanh ra sao ? Đây đáp rằng, lời Phật giảng dạy không phải từ bốn thứ vọng tưởng, mà tiếng nói đó phát xuất từ tâm từ bi ngay thẳng đã thấy được chân lý, đã sống đúng chánh pháp mà phát sanh, nên nói tiếng Phật thuyết pháp âm thanh vang xa như tiếng trống trời, tiếng nói đó phát xuất từ tâm ngay thẳng từ bi, nên mọi chúng sanh nghe đều được ngộ đạo giải thoát.

Phật bảo ngài Đại Huệ: Không tánh mà làm thành ngôn thuyết. Nghĩa là như lông rùa sừng thỏ..., thế gian hiện thành ngôn thuyết. Đại Huệ ! Chẳng phải tánh, chẳng phải phi tánh, chỉ có ngôn thuyết thôi. Như điều ông nói, ngôn thuyết có tánh, có tất cả tánh, luận ông ắt hoại.

Phần Ký nói: “Đây là nói các pháp tuy không, mà chẳng ngại ngôn thuyết”.

Đoạn này Phật bảo ngài Đại Huệ: Không tánh mà làm thành ngôn thuyết, nghĩa là ngôn thuyết người nói ra không có thực thể. Phật ví dụ như lông rùa sừng thỏ. Rùa không có lông, thỏ không có sừng, vậy mà người ta đặt điều nói đây là lông rùa kia là sừng thỏ, đem ra nói với nhau, như những chuyện không đâu cộng thêm những câu nói vô nghĩa mà người ta vẫn đặt thành câu nói. Những câu nói như vậy không có thực thể, chẳng qua là người ta tưởng tượng đặt ra, cho nên nói ngôn thuyết không có tự tánh, tức là không cố định. Nếu cho rằng ngôn thuyết có thực thể thì lý luận ấy ắt hoại, vì đó là luận lý không đúng lẽ thật. Nên đoạn kế Phần Ký nói tuy nói các pháp không mà chẳng ngại ngôn thuyết.

Đời Đường lại dịch là: “Tuy không các pháp, mà cũng có ngôn thuyết. Đâu chẳng hiện thấy lông rùa, sừng thỏ, con của người thạch nữ v.v..., ở trong đó người đời đều khởi ra ngôn thuyết. Nó chẳng phải có chẳng phải không, mà chỉ có ngôn thuyết thôi. Như điều ông nói, vì có ngôn thuyết nên có các pháp, nếu không có các pháp thì không có ngôn thuyết. Hiện nay sừng thỏ... tuy không có mà chẳng ngại có lời nói. Xét theo đó thì nghĩa của ông chẳng thành”. Vì vậy nói luận của ông ắt hoại, tỏ ngộ các pháp vốn không, do duyên tụ hội mà sanh. Đã do duyên hội mà sanh, thì sanh vốn không, dù nói nhân nơi duyên kia sanh, cũng là giả danh. Đây là pháp tánh vô sanh, ngôn từ cùng lặng, năng sở đều quên, trong lặng thường trụ, không có lời nói.

Tuy không các pháp mà cũng có ngôn thuyết như lông rùa sừng thỏ, con của người thạch nữ; đó là những chuyện không có mà người ta tưởng tượng nói ra. Như vậy những cái không có mà người đời họ cũng nói được chớ không phải đợi có họ mới nói. Đó chỉ là ngôn thuyết đặt ra chớ không phải sự thật. Kế đến là đức Phật bác lý luận của ngài Đại Huệ. Vì theo ngài Đại Huệ thì có các pháp thật nên có ngôn thuyết. Như có cái bàn, người ta mới kêu tên cái bàn, có cái hoa hồng người ta mới nói tên hoa hồng. Nhưng Phật bảo rằng xét như thế thì nghĩa của ngài Đại Huệ không thành, vì như lông rùa sừng thỏ, con của người thạch nữ, không có mà vẫn có ngôn thuyết vậy.

Tóm lại, tất cả pháp tánh nó là vô sanh, nhưng người đời tùy theo nhân duyên mà đặt tên cho nó, nên có tên gọi, có ngôn ngữ nói năng... chớ không có thật. Đến chỗ tất cả ngôn từ lặng, năng sở quên thì trở về chỗ thường trụ, tịch tĩnh không còn ngôn ngữ.

Thế nên đức Thích Ca Thế Tôn lên pháp tòa, tự tại không lời, im lặng giây lâu, chính là yếu chỉ trên đây. Đại sư Đạt-ma chín năm ngó vách, ngồi nghiêm trang không nói, cũng đúng như lý này. Người trí quán sâu liền chứng nơi chân thật không tịch. Do đó, thế ngàn non đến đỉnh thì dừng, muôn sự tiêu về thể thì bình.

Như chúng ta đã biết tất cả ngôn ngữ nhân nơi vọng tưởng mà sanh, hay vọng tưởng là cái nhân sanh ra ngôn ngữ, song vọng tưởng không thật nên ngôn ngữ cũng không thật. Như vậy muốn chỉ cái chân thật không cần ngôn ngữ, cho nên đoạn này nói đức Thế Tôn lên pháp tòa tự tại không lời, im lặng giây lâu rồi cầm cành hoa đưa lên, ngài Ca-diếp nhìn mỉm cười. Xong ! Không có lời nào mà Phật đã chỉ cái chân thật. Cái chân thật là cái không lời, có lời thì không thật. Sau đây dẫn thêm Tổ Bồ-đề-đạt-ma chín năm ngồi xây mặt vào vách không nói là nhằm ý này. Như vậy để thấy rằng chỗ cứu cánh chân thật thì không có lời nói, vì lời nói là từ vọng tưởng hư dối. Người trí quán sâu chỗ này liền chứng được chỗ chân thật không tịch. Như ngàn cái núi mà lên đến đỉnh thì hết lối đi, muôn sự vật ở thế gian trở về thể thì bình đẳng như nhau.

Thế Tôn lại bảo ngài Đại Huệ và các Bồ-tát: “Chẳng phải tất cả cõi nước đều có dùng ngôn thuyết. Ngôn thuyết là Như Lai tùy theo chúng sanh ở cõi Ta bà. Bởi giáo thể ở phương này dùng âm thanh và nghe, nên giả tạm làm ra văn tự,ï chương cú, ngôn từ thì kinh giáo mới được an lập. Ngoài ra những thế giới của chư Phật khác, thì diệu lý của Phật pháp chẳng liên quan đến văn tự, chẳng dùng ngôn thuyết. Hoặc có cõi Phật dùng mắt nhìn xem mà hiển bày tỏ ngộ pháp tánh. Hoặc có cõi làm ra tướng, hoặc có cõi nhướng mày, hoặc có cõi chớp mắt, hoặc có cõi mỉm cười, hoặc có cõi hơi há miệng, hoặc cõi cười nói, hoặc cõi nhớ nghĩ cõi nước, hoặc cõi lay động... dùng những pháp như thế mà bày cơ lộ tánh, thảy đều là Phật sự, tiếp hóa chúng sanh”.

Đức Phật lại bảo ngài Đại Huệ rằng chẳng phải tất cả cõi nước đều dùng ngôn thuyết, mà tùy theo cách giáo hóa của mỗi nơi mà dùng hay không dùng. Như cõi Ta bà của chúng ta vì dùng âm thanh và nghe âm thanh nên mới dùng ngôn thuyết để nghe mà ngộ đạo. Còn các cõi khác thì dùng phương tiện khác như nhướng mày, chớp mắt, há miệng, cười nói v.v... không cố định. Tất cả đều là bày cơ lộ tánh thảy đều là Phật sự để giáo hóa chúng sanh.

Đời Đường lại dịch: “Hoặc có cõi Phật trừng mắt nhìn mà hiển bày pháp, hoặc cõi hiện tướng khác, hoặc nhướng mày hoặc chớp mắt, hoặc hiện mỉm cuời, hoặc hơi há miệng, cười nói nhớ nghĩ, lay động... dùng những việc như thế mà hiển bày pháp, khiến mọi quần sanh tỏ ngộ bản tánh.”

Đoạn này nói thêm để hiểu được ý ở trước.

Phật lại bảo Bồ-tát Đại Huệ: “Hãy xem thế giới này những loài chúng sanh như ruồi, muỗi, trùng, kiến v.v... không có ngôn thuyết mà đều làm xong việc, đâu đợi có ngôn thuyết mới hiển bày pháp ư ?”

Điều đó chứng tỏ, chẳng những các pháp không tánh, hơn nữa ngôn ngữ cũng tánh không. Nghĩa là tướng các pháp vốn tịch diệt, chẳng thể dùng lời nói tỏ bày. Phật Tổ từ trước đến chỗ cùng cực, chỉ bốn mắt nhìn nhau, im lặng ấn chứng. Đạo vô ngôn được truyền ra, bắt nguồn từ chỗ thấy như trên. Vì vậy, ngài Lâm Tế, Đức Sơn gậy hét truyền dạy. Ngưỡng Sơn tướng tròn, Thạch Củng giương cung, Đạo Ngô múa hốt... Các vị Tổ Sư đều cùng chung chứng đến chỗ sâu xa. Đây là chánh định lìa lời nói. Nghĩa là núi sông quả đất chung chuyển pháp luân căn bản, loài vảy, mai, lông, cánh khắp hiện sắc thân Tam-muội. Thế nên trong chỗ thường dùng hằng ngày của chúng sanh, thì cửa sáu căn đều là chỗ nhập lý ngộ đạo, đâu hoàn toàn phải đợi ngôn thuyết ! Nên đức Thế Tôn đưa cành hoa chỉ cho chúng, ngài Ca-diếp khế hội tâm Phật mỉm cười. Phật trước Phật sau chỉ dùng tâm truyền tâm, chẳng lập văn tự.

Qua đoạn này chúng ta thấy rằng không phải chỉ có ngôn thuyết mới truyền đạo, mới thấu suốt bản tâm mà chính là những hành động, vì tất cả hành động hiển bày được tâm. Hơn nữa ngôn thuyết là phát nguồn từ vọng tưởng mà vọng tưởng là cái nghĩ suy phân biệt không thật, nó không phải tâm thể chân thật, nó không phải là linh giác mà tất cả những hành động như nhướng mày chớp mắt, cử động tay chân... cái nào cũng có hàm ẩn linh giác. Do có linh giác nên mọi hoạt động mới sanh khởi, mà linh giác là tâm. Thế mà lâu nay hễ nói tới tâm là chúng ta nhận cái suy nghĩ là tâm. Song, nhướng mày chớp mắt, co tay duỗi chân nếu không có tâm thì mấy cái đó làm sao hoạt động ? Như vậy, tâm là cái biết trùm hết cơ thể này, con người này, chớ không phải chỉ có cái suy nghĩ. Cái suy nghĩ chỉ là vọng tưởng không thật. Như vậy cái chân thật hiển lộ ở nơi sáu căn, chớ không phải chỉ ở ý căn. Do đó dùng phương tiện nào của sáu căn cũng có thể chỉ bày cái chân thật. Cho nên một tiếng hét, một cái đánh, bốn mắt nhìn nhau đều hiển bày cái chân thật. Không phải kêu lại bảo: Tôi cho ông cái này, giảng nói điều kia, mới là chỉ cái chân thật, mà cái chân thật hiện sẵn ở các giác quan của chính mình. Hiểu như thế mới thấy trọng tâm của Phật của nhà Thiền là, trước sau chẳng lập văn tự dùng tâm ấn tâm.

Hỏi: - Nếu chẳng lập văn tự, lấy gì làm tâm ?

Đáp: - Ông hỏi tôi tức đó là tâm ông. Tôi đáp ông, tức là tâm tôi. Nếu ông không tâm, nhân đâu biết hỏi tôi ? Nếu tôi không tâm, nhân đâu biết đáp ông ? Chính ngay khi ông hỏi tôi, tức là tâm ông. Tâm này từ vô thủy kiếp cho đến hiện giờ, mọi hành động, tạo tác, ở trong tất cả thời cũng như ngay đây, đối diện hiện dùng, tùy cơ thu buông, đối đãi thưa hỏi, chẳng phải tánh là gì ? Cái gì thưa hỏi đây ? Nói năng đó là cái gì ? Cái gì hay biết hỏi ? Đây chính là tánh linh giác căn bản nơi chính mình của mọi người. Tánh tức là tâm, tâm tức là Phật, Phật tức là đạo, đạo tức là Thiền. Thiền nghĩa là kiến tánh. Vì vậy đưa cành hoa mỉm cười, hội được tông yếu đó là Thiền. Bốn mắt nhìn nhau, lãnh nhận ý chỉ, đó là Thiền. Thiền là lặng lẽ, lặng lẽ nhưng thường soi sáng, soi sáng nhưng thường lặng lẽ, thanh tịnh trong lặng nhiệm mầu, tròn đồng thái hư, trọn không một vật, ứng dụng tự tại; thể tự không tịch, gọi đó là Thiền, gọi đó là Giác.

Đoạn này Ngài chỉ rất là tường tận chúng ta phải khéo nhận ra để khỏi cô phụ Ngài.

Hỏi: Nếu chẳng lập văn tự lấy gì làm tâm. Đáp rằng: Ông hỏi, tôi đáp, tức là có tâm rồi. Thật vậy, nếu không có tâm làm sao biết hỏi, nếu không có tâm làm sao biết đáp. Biết hỏi biết đáp đó là tâm, cần gì văn tự !

Ngài Huệ Hải đến tham vấn Mã Tổ. Mã Tổ hỏi:

- Đến cầu việc gì ?

- Đến cầu Phật pháp.

- Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì.

- Thế nào là kho báu nhà mình !

- Chính cái ông hỏi ta đó.

Chính cái hỏi đó là kho báu, nó sẵn đó chớ có tìm kiếm đâu xa. Vậy có ai trong chúng ta mà không biết hỏi đáp; dù hỏi đáp cái gì. Hễ biết hỏi đáp là có tâm, là có kho báu rồi. Vậy chúng ta tìm kiếm tâm ở đâu, trèo non vượt núi để kiếm tìm Phật tâm của mình phải không ? Nó sờ sờ ở sáu căn, tìm kiếm làm gì ? Đọc đoạn này chúng ta thấy ngài Chân Nguyên thật là tâm Lão bà, nói hết những gì cần nói để cảnh tỉnh mọi người. Ngài nói từ thuở nào đến giờ mọi hành động tạo tác như hỏi đáp, thu vào buông ra, tất cả mọi động dụng nói năng đều là tâm tánh của chính mình. Tánh là tâm, tâm là Phật, Phật là đạo, đạo là Thiền. Tánh Phật Đạo Thiền ngay nơi mình sẵn đủ. Nhưng nói tới Thiền là nói tới kiến tánh. Kiến tánh là nhận được bản tánh của chính mình. Như Phật đưa cành hoa sen ngài Ca-diếp nhìn mỉm cười, đó là nhận tâm yếu, là kiến tánh, là Thiền. Thầy trò nhìn nhau cảm thông đó là Thiền. Như vậy nhận được bản tâm là ngộ lý Thiền, là nhận ra cái chân tâm của mình, từ chân tâm đó phát ra ngôn ngữ, phát ra thưa hỏi, phát ra hành động. Nếu chúng ta nói năng hành động mà đừng chạy theo vọng tưởng là chúng ta biết trở về với Thiền, ngộ được lý Thiền.

Do tâm thường giác nên gọi Đại Giác Thế Tôn, cũng gọi Giác Vương Như Lai hay gọi là chủ hư không. Tức tâm là Phật, trọn không có Phật khác. Tức Phật là tánh, trọn không có tánh khác. Như nắm tay làm thành do bàn tay, tợ nước thành sóng. Sóng tức là nước, bàn tay tức là nắm tay.

Do tâm thường giác, nên gọi Đại Giác Thế Tôn tức là Phật, cũng gọi là ông vua Giác, cũng gọi là chủ hư không, vì hư không trùm hết mà tâm thể này trùm cả hư không, cho nên gọi là chủ hư không. Chính cái tâm này là Phật không có ông Phật nào khác. Nhưng nhớ tâm đó không phải tâm vọng tưởng, nếu vọng tưởng là tâm chúng sanh. Vậy quí vị muốn thành Phật hay muốn làm chúng sanh ? Chúng sanh thì mê, Phật thì giác đều ở nơi tâm mình chớ không ở đâu khác. Kiểm lại coi nơi mình cái gì là tâm mê ? Cái gì là tâm giác ? Vọng tưởng là tâm mê, cái biết hiện tiền không dấy vọng tưởng là tâm giác. Chúng ta tu là bỏ vọng tưởng để sống với cái biết hiện tiền thanh tịnh. Vậy tu Thiền là bỏ mê sống với giác chớ không có gì lạ hết. Hiểu rồi chúng ta thấy rõ ràng trước mắt, chớ không phải chuyện xa lạ. Ở đây Ngài nói tức tâm là Phật, tức tâm là tánh, cho nên ba từ: Tâm, Tánh, Phật tên gọi tuy khác nhưng không phải khác. Cả ba đều chỉ cho thể chân thật. Ngài đưa ra ví dụ, sở dĩ có nắm tay là do bàn tay co lại, bỏ bàn tay không có nắm tay. Hoặc, sóng từ nước mà có, rời nước tìm sóng không có. Bàn tay là cái gốc, là cái thể, nắm tay là ngọn, là cái dụng. Cũng vậy nước là thể, sóng là dụng, tất cả cái dụng không rời cái thể mà có. Như vậy mọi cái nghĩ suy phân biệt đều từ cái thể linh giác mà ra, song phải buông hết vọng tưởng mới trở về với tánh linh giác.

Nên Kinh Hoa Nghiêm nói:

Nếu người muốn rõ biết,

Ba đời tất cả Phật.

Nên quán tánh pháp giới,

Tất cả chỉ tâm tạo.

Âm :

Nhược nhơn dục liễu tri,

Tam thế nhấùt thiết Phật.

Ưng quán pháp giới tánh,

Nhất thiết duy tâm tạo.

Đến đây Ngài dẫn bài kệ của Kinh Hoa Nghiêm. Ý kệ nói rằng: người nào muốn biết rõ ba đời chư Phật thì phải quán pháp giới tánh, tất cả đều do tâm tạo.

Lại nói: Tâm, Phật và chúng sanh, ba thứ này đều không sai khác. Tất cả Phật pháp, tự tâm sẵn có, thôi đem tâm tìm kiếm bên ngoài, bỏ cha chạy đi lang thang. Tiếng Phạn gượng gọi Phật, Trung Hoa nói là tánh giác. Tánh này chẳng lìa thân ta, nếu người đốn ngộ được cội gốc, người này sẽ chóng được thành Phật.

Tâm, Phật và chúng sanh ba thứ đều không khác, đều cùng cái thể chân thật đó thôi. Phật pháp đã sẵn có nơi tự tâm, đừng đem tâm tìm kiếm bên ngoài, đừng làm kẻ cùng tử ở trong Kinh Pháp Hoa bỏ cha đi lang thang đói khổ ở xứ người, thời gian sau mới sực nhớ trở về. Ngài lại nói Phật là tánh giác, tánh giác đó là nguồn cội của con người, nếu quên nguồn cội khởi vọng tưởng là chúng sanh, nếu trở về nguồn cội là giác ngộ là Phật.

Thế nào là cội gốc ?

Chỉ dạy rằng: - Cội gốc chính là tâm tánh linh giác của mọi người. Tâm này là cội nguồn của chư Phật, là đất tánh của chúng sanh. Đất thì sản sanh muôn vật, ngàn muôn cây cối, cành lá hoa quả, mỗi mỗi đều nhân nơi đất mà sanh. Tâm bao gồm muôn pháp, trăm khéo ngàn hay, huyền cơ diệu lý, mỗi mỗi đều từ tâm dựng lập. Tâm là biển của muôn pháp, từ nơi thật tế mà ứng hóa ra. Tánh là gốc của muôn hạnh, tùy nơi một tâm mà biến dùng. Huệ giải tròn thông, linh minh đầy đủ, gồm trọn muôn pháp chỉ một lý, xuyên suốt muôn thuở chỉ một tâm.

Hỏi thế nào là cội gốc ? Ngài giải thích cội gốc là tâm tánh linh giác của người; mà tâm tánh linh giác này là tâm của chư Phật. Tâm đó là cội nguồn là gốc rễ của tất cả. Giống như đất sanh ra muôn vật, hay như biển cả trùm hết các loài trong nước. Tánh là gốc của muôn hạnh, tùy nơi một tâm mà biến dùng. Như vậy tâm là gốc, tâm là nguồn cội tất cả pháp.

Buông ra thì lấy một làm nhiều, thu lại thì lấy nhiều làm một. Nên lập một tâm làm tông, mở ra thì có nhiều cửa vô tận. Mới nói: “Ba cõi chỉ là tâm, muôn pháp chỉ là thức, một niệm chẳng sanh, các duyên chóng dứt”. Ngộ diệu lý nơi bản tâm thì tội phước đều không, mê viên minh của tự tánh thì thiện ác đều ngại.

Vì tâm là gốc của tất cả sự vật nên nhà Thiền gọi là Phật tâm tông. Ở đây nói lấy tâm làm tông, mở ra thì có nhiều cửa nhiều pháp môn không thể kể hết. Cho nên nói ba cõi từ tâm hiện ra, muôn pháp từ thức mà phân biệt sanh, nếu một niệm không sanh thì các duyên chóng dứt. Như vậy chúng ta tu chỉ cần làm sao đi đứng nằm ngồi một niệm không sanh thì muôn duyên theo đó dứt sạch. Ở đoạn này có câu: Ngộ diệu lý nơi bản tâm thì tội phước đều không, mê viên minh của tự tánh thì thiện ác đều ngại. Chúng ta phải hiểu chỗ này cho kỹ kẻo lầm. Sở dĩ chư Tổ nói không tội phước, không thiện ác là vì các Ngài đã ngộ được diệu lý của tâm. Tâm không có tướng sanh diệt thì nói gì tội phước thiện ác ? Ngược lại nếu mê chơn tánh tức là mê bản tâm thì thiện ác tội phước đều có thật. Thế nên đối với người mê, Phật dạy bỏ mười điều ác làm mười điều thiện v.v...

Ngàn dòng sông riêng khác mà đồng nguồn, muôn xe sai biệt mà đồng lối mòn; tất cả muôn pháp đều về một tâm, tâm sanh thì mọi thứ pháp sanh, tâm diệt thì mọi thứ pháp diệt. Do đó các ngôi sao đều chầu về hướng Bắc, muôn dòng sông trọn chảy về Đông, hà sa diệu pháp thảy ở nguồn tâm, đạo pháp hiện tiền, một tâm đầy đủ. Nên biết, ngàn pháp muôn pháp, Phật Phật, Tổ Tổ từ trước chỉ lấy tâm truyền tâm, chữ bát mở toang; lấy tâm ấn tâm, bốn mắt nhìn nhau, hơn năm ngàn tám trăm quyển, tám mươi bốn ngàn pháp môn, mọi thứ phương tiện, đều từ một chữ tâm ấy lưu xuất, dựng lập. Dù đem tre bằng núi Tu Di làm bút, lấy nước bốn biển cả làm mực, viết một chữ tâm nầy vẫn chẳng hết.

Kế đến Ngài đưa ra hình ảnh ngàn dòng sông riêng khác chỉ có một nguồn. Nói cho dễ hiểu là ngàn dòng sông ở khắp mọi nơi đều chảy ra biển. Muôn xe riêng khác cùng đi một lối mòn, tức là cùng đi trên một lằn xe đi. Tất cả muôn pháp gốc từ tâm mà ra. Nếu tâm sanh thì muôn pháp sanh, nếu tâm lặng yên thì muôn pháp diệt, vì gốc từ tâm. Nói muôn pháp gốc từ tâm, tâm đó là tâm gì ? - Là tâm linh giác. Còn cái tâm sanh là tâm vọng tưởng; vì là tâm vọng tưởng nên có sanh có diệt, chớ tâm linh giác đâu có sanh diệt. Chỗ này rất tế nhị, quí vị học phải hiểu cho kỹ, kẻo lầm lộn.

Ngài lại đưa ra một ví dụ nữa: Tất cả ngôi sao đều hướng về phương Bắc, các nguồn sông đều chảy về phương Đông, nói lên cái ý tất cả đều về một hướng để nói rõ cái nghĩa muôn pháp đều trở về tâm. Do đó nên Phật Tổ lấy tâm truyền tâm chớ không truyền cái gì khác, truyền tâm bằng cách bốn mắt nhìn nhau. Song đứng về mặt truyền bá rộng rãi thì năm ngàn tám trăm quyển kinh, tám muôn bốn ngàn pháp môn, mọi thứ phương tiện đó đều từ tâm lưu xuất dựng lập. Tất cả phương tiện gốc từ tâm, chỉ cần trở về tâm là đủ. Cho nên chữ tâm rất là to lớn, dù có lấy tre bằng núi Tu Di làm bút, lấy nước biển làm mực cũng không viết hết chữ tâm này. Chữ tâm sao to quá vậy ? Vì tâm thể sanh muôn pháp, tâm trùm khắp tất cả, cho nên không thể diễn tả được nó.

Kinh nói: “Diễn nói một chữ mà cả biển mực khó chép hết”. Vô lượng thu lại làm một, một buông ra thành vô lượng. Song thái hư dù rộng mà chẳng thể bao gồm thể kia; mặt trời, mặt trăng tuy sáng mà chẳng thể sánh với ánh sáng kia. Tâm ấy rộng bao cả thái hư; tánh ấy, lượng trùm khắp pháp giới, tròn lặng sáng rực, không có Đông, Tây, Nam, Bắc, không có bốn phía, trên dưới, không vật có thể sánh, gượng gọi là tâm. Buông ra thì lớn không gì ngoài, thu lại thì nhỏ không gì trong. Bởi tâm vương ẩn hiện, gồm chứa tất cả người vật, trước trời đất, suốt xưa nay, một mình tồn tại, một mình chiếu soi, không hình không tướng, không xanh, vàng, đỏ, trắng, không vuông tròn, dài ngắn, không đầu đuôi trước sau, không kiếp số, bờ mé, giống như hư không, không có mặt mày có thể nói phải quấy. Tuy không xanh, vàng, đỏ, trắng, vuông tròn, dài ngắn, nhưng hay hiện ra xanh vàng đỏ trắng, vuông tròn dài ngắn.

Kinh nói rằng một chữ tâm mà bút mực khó chép hết. Vô lượng tức là muôn pháp thu về một tâm, và từ một tâm lưu xuất ra muôn pháp. Song thái hư dù rộng mà chẳng thể bao gồm được tâm, ánh sáng của mặt trời mặt trăng chẳng bằng ánh sáng của tâm. Tâm rộng lớn ấy bao hàm cả thái hư, nhưng tạm gọi nó là tâm. Cả một đoạn văn dài ở trên nói lên ý nghĩa tâm thể của chúng ta trùm khắp và tùy theo duyên ứng hiện. Tuy ứng hiện theo tất cả pháp nhưng không lệ thuộc vào tất cả pháp, nó là chủ mà nó cũng không rời tất cả pháp của nó hiện ra.

Cho nên Thiền sư Xuyên Lão nói:

Ma-ha Đại pháp Vương,

Không ngắn cũng không dài.

Xưa nay không đen trắng,

Tùy chỗ hiện xanh vàng.

Âm :

Ma-ha Đại pháp Vương,

Vô đoản diệc vô trường.

Bản lai vô táo bạch,

Tùy xứ hiện thanh hoàng.

Ma-ha Đại pháp Vương là chỉ cho tâm thể lớn nhất, nó không ngắn không dài không đen không trắng, không cố định ở một hình tướng, tùy duyên ứng hiện nên có sai khác.

Nhắc lại lần nữa, ngài Chân Nguyên chỉ cho chúng ta biết rõ rằng nơi mọi người ai cũng có sẵn tâm linh giác, chớ không riêng một người nào. Nếu chúng ta không đuổi theo vọng tưởng mà để cho nó hiện trong mọi sinh hoạt, là biết sống với tâm linh giác, thì khỏi phải nhọc công leo núi, lội sông để tìm kiếm, mà nó hiển hiện ở lúc mở lời nói năng, cử động tay chân, nhướng mày chớp mắt v.v... Lúc nào nó cũng hiện hữu không hề thiếu vắng. Câu chuyện của ngài Văn Hỷ đối đáp với ông già ở núi Ngũ đài cho ta rõ thêm ý nghĩa này.

Ngài Văn Hỷ lên núi Ngũ đài tìm ngài Văn Thù, nhưng chỉ gặp ông già dắt trâu đi, mời Ngài vào động. Sau khi hỏi thăm, ông già rót nước mời uống. Ông đưa chung trà lên hỏi ngài Văn Hỷ:

- Ở phương Nam có cái này không ?

Ngài Văn Hỷ trả lời:

- Dạ không .

Ông già hỏi:

- Hằng ngày lấy cái gì uống trà ?

Ông già muốn hỏi “cái biết uống trà”, tức là tâm linh giác, chớ đâu có hỏi cái chung trà. Nhưng ngài Văn Hỷ không nhận ra, lại thấy cái chung trà đẹp quá, xứ mình không có nên trả lời không. Nếu không thì làm sao biết ăn biết uống ? Hỏi phương Nam có cái này không ? Trả lời có thì không bị lừa, còn trả lời không thì không nhận ra cái mà ông già muốn chỉ.

Ngài chỉ cho chúng ta thấy, trong tất cả mọi cử động đều hàm ẩn tâm linh giác, nên các Thiền sư muốn chỉ cái ấy cho chúng ta, hễ gặp phương tiện nào là sử dụng phương tiện đó. Ở đây Ông già đưa chung trà, ở hội Linh Sơn đức Phật đưa cành hoa, đều nhằm chỉ cho chúng ta nhận ra tâm Phật sẵn có nơi mình. Chúng ta thật là người có phước lớn mới biết nơi mình có sẵn ông Phật. Nếu thiếu phước thì đâu biết mình có Phật. Nhưng phước này ai cho ? Tất cả chúng ta đều có sẵn. Song, nếu được chỉ thì biết, không được chỉ thì quên.

Như vậy chúng ta tu là có kết quả trước mắt chớ không tìm kiếm đâu xa. Đừng nghĩ rằng tu không biết bao giờ mới thành công, khéo ứng dụng là có kết quả. Trong mọi sinh hoạt hằng ngày, đi, đứng, nói năng, làm việc, quét nhà, nấu cơm v.v... không khởi vọng tưởng là chúng ta đang sống trong Niết-bàn. Chỉ tại chúng ta không khôn ngoan, làm việc này, mà tưởng chuyện khác mê nên luôn sống trong điên đảo lầm. Tự mình chuốc khổ rồi kêu Phật cứu khổ, khổ đó do ai làm mà kêu Phật cứu ? - Tự mình làm thì tự mình giải chớ không ai giải khổ thế cho mình được. Chẳng hạn người thân đi xa chưa về, mình lo sợ ngồi đứng không yên, đầu óc rối bù, bèn đến đốt nhang cầu Phật gia hộ cho người thân đi đường được bình yên, tai qua nạn khỏi v.v... Tại mình vọng tưởng quá rồi đâm ra hoảng hốt, cầu xin khấn vái chớ chắc gì người thân mình gặp nạn ! Đó là một trong những chuyện mà chúng ta tự tạo khổ cho mình. Biết được như thế, hằng ngày chúng ta luôn luôn sống trong tỉnh giác yên lặng thì cuộc sống được bình an tốt đẹp.

Pháp tánh vốn tùy duyên, sắc không đều chẳng ngại. Vào sông thì tùy khúc uốn quanh; nước thì thuận theo vật vuông tròn. Như hạt châu ma-ni, ánh hiện ra năm màu, tùy loại đều hiện, trọn chẳng biến đổi. Dù không hình tướng mà hay hiện thành tất cả tướng, chân không mà diệu hữu, bất biến mà tùy duyên. Chân không là ban đầu của tánh, diệu hữu là ban đầu của khí. Nên biết, núi sông, quả đất, sum la vạn tượng, tình với vô tình, cho đến niệm thô, niệm tế, pháp nhiễm, pháp tịnh, không một vật, một trần nào ra ngoài tâm vương. Đây là diệu hữu.

Đoạn này Ngài giải thích về pháp tánh tùy duyên. Chúng ta suy gẫm câu tùy duyên mà bất biến để hiểu sâu thêm phần này. Đây nói pháp tánh vốn tùy duyên, nên nó hiện ra hình tướng mà sắc và không đều chẳng ngại nhau. Sắc là hình tướng, không là chỉ cho thể tánh, hai cái đó nó không ngại nhau. Pháp tánh ví như nước, nước ở sông thì tùy theo con sông mà ngay thẳng hay quanh co. Nước ở bình chai, tô chén tùy theo bình chai, tô chén mà vuông hay tròn, không nhất định. Như vậy thể của nước thì bất động, tùy theo duyên mà nước quanh co hay vuông tròn. Lại ví như hạt châu ma-ni vốn trong sáng, nhưng ở bên ngoài óng ánh màu đỏ, màu xanh, màu vàng... thì hạt châu ẩn hiện màu đó. Như vậy hạt châu không có màu, do bên ngoài có màu gì thì thấy hạt châu hiện màu ấy. Hạt châu trong sáng là bất biến chỉ cho pháp tánh, hạt châu có màu là tùy duyên biến đổi. Qua những ví dụ trên ngài Chân Nguyên muốn chỉ cho chúng ta pháp tánh sẵn có nơi mọi người, nhưng nó tùy duyên, ở mắt thì duyên theo sắc, ở tai thì duyên theo tiếng, ở mũi thì duyên theo mùi... Bởi nó tùy theo sáu căn duyên với sáu trần mà có muôn hình vạn trạng, có nhiều thứ chuyển biến tốt xấu thương ghét đủ thứ. Nguyên pháp tánh thì không có một thứ nên nói là chân không, nhưng tùy duyên thì có đầy đủ muôn sự muôn vật. Thể bất biến thì không đổi mà tùy duyên nên có khác. Do đó Ngài nói chân không là ban đầu của tánh, diệu hữu là ban đầu của khí. Chân không diệu hữu là lý của nhà Phật, chân không là cái thể không tướng mạo bất di bất dịch không đổi thay. Nhưng khi nó theo duyên biến hiện đủ thứ thì gọi là diệu hữu. Ở đây Ngài lấy tinh thần của Lão Trang để phối hợp với ý nghĩa chân không diệu hữu của nhà Phật. Theo tinh thần của Lão Trang nói về tánh và khí thì, cái tánh của Lão Trang ví như cái chân không của nhà Phật, cái khí của Lão Trang ví như diệu hữu của nhà Phật.

Sau đây tôi dẫn một đoạn trong sách Trang Tử để rõ cái ý nghĩa đó. Về Trang Tử Tri Bắc Du có một đoạn viết: “Nhân chi sinh, khí chi tựu giả, tựu tắc vi sinh, tán tắc vi tử. Nhược tử sinh vi đồ, ngô nhược hà hoạn”. Dịch: “Sự sống của con người do khí tựu mà có. Khí tựu thì sống, khí tan thì chết. Nếu sống chết là đôi bạn đồng hành thì ta còn bận tâm làm chi ?”. Như vậy chữ khí chỉ cho sự sanh, khí tựu thì sanh, khí tan thì diệt, sự sống chết tùy theo khí tựu và tán, giống như bên nhà Phật nói diệu hữu. Diệu hữu là tùy theo duyên, đủ duyên thì thành sự vật, thiếu duyên thì không.

Lại một đoạn của Hoài Nam Tử - Bản Kinh Huấn viết: “Thiên địa chi hòa hợp, âm dương chi đào hóa, vạn vật giai thạnh nhất khí dã”. Dịch: “Sự hòa hợp của trời đất, sự đào luyện biến hóa của âm dương, đối với vạn vật đều nhờ vào nhất khí”. Như vậy khí là sự tụ tán mà thành thiên hình vạn trạng, cho nên ngài Chân Nguyên dùng chữ tánh và khí của Lão Trang để phối hợp với cái chân không và diệu hữu của nhà Phật. Ngài nói thêm rằng từ vạn vật hữu tình vô tình trên thế gian này cho đến các tâm niệm thô tế đều không ra ngoài tâm vương, tức là ngoài cái tánh giác hay cái chân không. Từ cái chân không theo duyên mà hiện có đủ thứ gọi đó là diệu hữu. Đó là ý nghĩa chân không diệu hữu theo cái nhìn của ngài Chân Nguyên.

Lại nói: - Chẳng phải không, chẳng phải sắc, ứng hóa thành muôn thứ mà chẳng lìa một chân thật. Tâm vương là thể như như, trong lặng thường trụ; vốn tự viên thành, dường như hư không; ứng vật hiện hình, như trăng trong nước. Nghĩa là tâm vương hay ứng hiện vào trong các loài, nên nói là thức hòa hợp. Bản tánh tâm vương như gương tròn lớn hiện các thứ hình sắc. Tâm vương vốn không hình tướng, tuy không hình tướng mà hay hiện thành tất cả các tướng, nhưng lại chẳng nhiễm tất cả các tướng. Tướng đến thì hiện, tướng đi thì mất, tướng tụ thì có, tướng tan thì không; tướng tuy có đến đi, tụ tan mà tâm vương vốn tự trong trẻo thường lặng lẽ. Như gương tròn lớn hay hiện tất cả vật, tuy hay hiện tất cả vật mà chẳng nhiễm tất cả vật; vật đến thì hiện, vật đi thì mất, vật có đến đi hiện mất, nhưng gương vốn tự sẵn vậy chẳng động. Vì vậy đem gương tròn dụ tâm vương. Song tâm vương chẳng nhiễm các vật, xưa nay thanh tịnh, trong lặng thường trụ, sạch trọi trơn, bày trơ trơ, không một vật, không thể nắm bắt. Nên nói pháp thân thanh tịnh tức là tánh của mọi người, báo thân viên mãn tức là trí của mọi người, hóa thân ngàn trăm ức tức là hạnh của mọi người.

Đoạn này Ngài giải thích thêm về tâm vương. Ba tên chân không, tâm vương, pháp thân tuy khác, nhưng đều chỉ cho cái thể, đều là một gốc. Cho nên gọi tâm vương, chân không, pháp thân gì cũng được. Bởi đứng về mặt tâm thì nói tâm vương tâm sở. Tâm vương là tâm thể không sanh diệt, còn tâm sở là tâm duyên theo cảnh phân biệt nên nó sanh diệt. Đứng về mặt thân thì gọi là pháp thân. Vì cái thân tứ đại của chúng ta là cái thân hiện tượng có đi lại, có nói năng, hoạt động, cái thân đó không phải là cái thân bất sanh bất diệt. Như vậy thân của chúng ta là cái thân theo nghiệp báo mà có chớ không phải là pháp thân. Pháp thân thì không hình tướng, nhưng bất sanh bất diệt nên gọi là pháp thân. Gọi là chân không là vì pháp thân này không có hình tướng, không một vật, một pháp mà người thế gian có thể thấy nghe nắm bắt được, tuy nhiên không tướng nhưng mà hằng hữu. Tóm lại, chân không, pháp thân hay tâm vương cũng đều chỉ cho cái thể đó. Ở đây ngài Chân Nguyên nói tâm vương ví như tấm gương tròn sáng chiếu soi sự vật, nếu vật dơ thì nhìn cái bóng trong gương dơ, nếu vật sạch thì nhìn cái bóng trong gương sạch. Vật đen thấy đen, vật trắng thấy trắng. Vật ở ngoài thế nào thì nó hiện vào gương thế ấy. Tuy nhiên gương hiện bóng dơ sạch mà gương có dơ sạch không ? Bản chất của gương thì không dơ không sạch. Như vậy để thấy rằng tâm vương có thấy nghe hay biết tất cả mọi cảnh vật. Nó thấy sắc nghe tiếng rất là rành rõ, nếu không thêm một niệm phân biệt của tâm sở thì tất cả cảnh vật không làm cho tâm vương dơ sạch hay phân biệt tốt xấu rồi khen chê. Ngài ví tâm vương như cái gương để biết rõ rằng nếu hằng ngày chúng ta thấy, nghe, ngửi nếm, xúc chạm... mà không thêm niệm phân biệt của tâm sở thì tâm vương không dính mắc. Như vậy chúng ta tu không phải tìm kiếm nơi nào, trốn tránh ở đâu, mà ngay trong khi tiếp xúc với mọi sự vật tâm không nhiễm dơ dính mắc, tâm không nhiễm dơ dính mắc thì không có niệm khen chê thương ghét, đó là cái gốc của sự tu.

Theo cái nhìn của ngài Chân Nguyên pháp thân tức tánh giác của mọi người, báo thân là trí của mình, hóa thân là hạnh của mình. Như vậy tánh giác trí tuệ và công hạnh của chúng ta là đủ ba thân. Trong chúng ta có người nào thiếu ba cái này không ? Chắc chắn là ai cũng có đủ. Vậy trong lúc tu chúng ta khéo sử dụng trí tuệ để đạt đến sự giác ngộ chân thật. Sử dụng công hạnh để làm lợi ích cho mọi người, hai điều này được viên mãn thì chúng ta đầy đủ ba thân.

Pháp thân thanh tịnh là sẵn thanh tịnh như vậy, là chí tôn từ bao thuở, thấy biết rất nhiệm mầu, không gì sánh ngang, trong lặng chân thật thanh tịnh, không hình không tướng, gọi đó là pháp thân thanh tịnh. Pháp thân tuy không hình không tướng mà hay hiện tất cả hình tướng. Đã thành các hình tướng thì gọi đó là ứng thân. Ứng thân thì có thiện ác, tốt xấu, tùy theo nghiệp báo mà thọ lấy thân. Nghiệp báo thiện tức có tướng tốt, nghiệp báo ác tức có tướng xấu. Tùy nơi nghiệp báo mà thọ lấy thân, gọi là báo thân. Báo thân, nghĩa là thân nghiệp báo một đời. Còn ứng thân tức là thân ứng hiện ra. Sao gọi là thân ứng hiện ra ? Tức nhân nghiệp báo cảm thành mà ứng hiện ra có thân, gọi đó là thân báo ứng. Nghĩa là pháp thân hay ứng vào sắc thân, ứng nơi mắt thấy sắc, ứng nơi tai nghe tiếng, ứng nơi mũi ngửi mùi, ứng nơi lưỡi đàm luận, ứng nơi thân cảm xúc, ứng nơi ý biết pháp, cho đến giơ tay động chân đều là ứng thân.

Đoạn này Ngài giải thích về pháp thân thanh tịnh. Pháp thân thanh tịnh là thanh tịnh từ thuở nào, chớ không phải do dụng công tu hành mà nó được thanh tịnh nên nói chí tôn từ bao thuở. Bởi vì mọi sự vật trên thế gian đều là tướng vô thường sanh diệt, còn pháp thân là bất sanh bất diệt nên nói nó là chí tôn. Chí tôn là nó quí hơn tất cả. Cái thấy biết của Pháp thân rất nhiệm mầu. Thấy biết nhiệm mầu không phải thấy biết khôn ngoan lanh lợi khéo léo, mà như trước ví dụ tấm gương sáng cái gì cũng hiện rõ hết, mà khi đem vật đi thì không dính lại một cái gì cả. Đó là nhiệm mầu, cũng đừng lầm tưởng nhiệm mầu là nó có phép lạ huyền bí v.v... Nó chỉ là cái thể trong sáng hiện đủ các hình tướng mà không bị các hình tướng làm nhiễm dơ. Pháp thân ấy không gì sánh bằng, nó trong sáng thật là lặng lẽ thanh tịnh chỉ có người dụng công tu mới cảm nhận được và mới hiểu được những lời giải thích này. Như khi chúng ta ngồi thiền tâm không có một niệm nhỏ nhiệm dấy lên, chỉ thuần trong sáng thanh tịnh nên một tiếng động nhỏ cũng nghe, những hình ảnh trước mắt đều thấy, những gì xảy ra chung quanh đều biết rõ ràng. Đó gọi là không hình tướng mà luôn luôn được thanh tịnh. Do thanh tịnh mà không hình tướng nên mọi sự vật có hình tướng như núi sông, quả đất v.v... đem so sánh với pháp thân đều không bằng. Bởi những vật có hình tướng thì vô thường sanh diệt, pháp thân thì không vô thường sanh diệt. Nếu chúng ta hằng sống với pháp thân thanh tịnh thì không bị ngoại cảnh làm nhiễm dơ, như vậy có giải thoát không ? Pháp thân không hình tướng thì dính mắc vào đâu, cái gì trói buộc được ? Và, không còn một niệm nhỏ nhiệm thì đâu có dấy động, không động nên không sanh diệt, không sanh diệt là giải thoát sanh tử. Vì còn theo niệm là còn tạo nghiệp, còn đi trong sanh tử luân hồi. Không có một niệm nhiễm dơ là sống với pháp thân thanh tịnh là được giải thoát sanh tử luân hồi. Giải thoát là pháp thân giải thoát, cho nên ai sống được với pháp thân là sống với cái thể giải thoát.

Kế đến Ngài nói pháp thân không hình tướng mà nó hay hiện hình tướng. Như tấm gương sáng nếu trước nó không có người vật thì trong gương không có hình tướng người vật, nếu trước gương có người vật thì bóng người vật hiện đầy đủ trong gương. Giả sử có tấm gương rộng một thước vuông để ở đàng kia thì hai trăm người ngồi trong giảng đường này có hiện bóng trong gương không ? Sao diện tích nó nhỏ mà chứa được hai trăm người ? Để thấy rằng tấm gương trong sáng không dính bụi nên hình ảnh người vật hiện trong gương không chướng ngại. Nếu tấm gương bị phủ một lớp bụi đen dày thì hình ảnh người vật không thể nào hiện được. Gương trong sáng không dính bụi nên hiện được tất cả hình tướng, cũng vậy Pháp thân trong sáng không hình tướng mà hiện ra muôn ngàn hình tướng đó là theo duyên mà ứng hiện. Nhưng khi thành các hình tướng thì gọi là Ứng thân chớ không gọi là Pháp thân. Theo ngài Chân Nguyên Ứng thân thì có nghiệp báo tốt xấu, từ Pháp thân mà ứng hiện ra Báo thân có mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm v.v... đó gọi là Ứng thân. Theo nghiệp lành nghiệp dữ thọ thân tốt xấu, giàu nghèo v.v... đó là Báo thân. Như vậy Ứng thân, Báo thân và Pháp thân không rời nhau. Ứng thân là do Pháp thân ứng hiện ra cái thấy nghe hiểu biết gọi là Ứng thân. Cho nên từ nơi thấy nghe hiểu biết chúng ta nhận ra Pháp thân. Đó là chỗ mà các Thiền sư dùng mọi phương tiện để đánh thức chúng ta nhận ra ngay nơi thân này Pháp thân luôn luôn ứng hiện, cho nên mắt thấy sắc, tai nghe tiếng là do Pháp thân ứng ra nơi mắt nơi tai, các căn khác cũng thế. Như vậy sáu căn tiếp xúc với sáu trần đều có Pháp thân ứng hiện nơi sáu căn. Muốn chỉ Pháp thân chúng ta làm sao chỉ ? Ví dụ trong hư không có gió, có người hỏi gió ở đâu, làm sao chỉ ? Nếu thấy cái màn phất phơ bảo đó là gió thì đúng hay sai ? Gió không phất phơ, song bản chất của gió là động, do đó thấy cái màn phất phơ chúng ta biết có gió. Gió ở khắp chỗ nhưng gió không tướng mạo làm sao chỉ ? Cho nên chỉ là chỉ cái mà gió tác động như cái màn phất phơ. Gió tác động vào cây thông, chúng ta thấy cành thông đong đưa. Chúng ta nương vào tướng lay động của cành thông mà biết có gió. Cũng thế ngay nơi sáu căn Pháp thân ứng ra thấy, nghe, ngửi, nếm v.v... mà biết bản thể đang hiện hữu, không nên tìm kiếm ở đâu xa.

Hội rằng :

Vốn là một tinh minh. Chia thành sáu hòa hợp. Thu sáu hòa hợp lại, vốn là một tinh minh.

Lại nói: Sao gọi là hóa thân ? Đã vào ứng thân, đi đứng nằm ngồi, thấy nghe hiểu biết, làm mọi thứ việc lành, cho đến trăm ngàn pháp môn, phương tiện diệu hạnh, tùy cơ biến hóa, ứng dụng không cùng, gọi đó là hóa thân. Tuy riêng có ứng và hóa, cũng đều từ pháp thân lưu xuất, nên nói: Ba thân vốn chính là một thân. Kinh nói: “Hàng thượng căn rõ được một, thì muôn việc đều xong”. Nếu như còn ngờ vực, hãy nghiệm xét cho tường tận nơi lý.

Đoạn này Ngài dẫn Kinh Lăng Nghiêm. Trong Kinh Lăng Nghiêm Phật gọi sáu căn là sáu hòa hợp, sáu hòa hợp đó gốc từ một tinh minh, một tinh minh chia thành sáu hòa hợp, từ sáu hòa hợp trở về vốn là một tinh minh (Pháp thân). Cho nên trong khi tu, tâm chúng ta kẹt ở cái thấy, cái nghe, cái ngữi... thì nó thuộc về một trong sáu hòa hợp. Khi tâm chúng ta an định rồi thì không còn mắc kẹt ở căn nào, mà nó trùm hết. Thấy nghe hiểu biết hiện tiền không kẹt ở căn nào là trở về một tinh minh. Như vậy một tinh minh nếu kẹt thì thành sáu hòa hợp. Sáu hòa hợp nếu biết gở thì trở về một tinh minh. Nói một chớ thật ra khi sáu đã gỡ thì một cũng không còn.

Trước nói ba thân: Pháp thân, Ứng thân, Báo thân chớ chưa nói Hóa thân. Đoạn này giải thích về Hóa thân. Hóa thân là trong mọi hoạt động đi đứng nằm ngồi, làm tất cả việc lành, tu tất cả các pháp môn đều là diệu hạnh của Hóa thân. Hay nói cách khác tùy cơ ứng hóa thì gọi là Hóa thân. Tuy có ứng hóa riêng khác nhưng đều từ Pháp thân lưu xuất. Pháp thân ứng ra theo Báo thân, tùy theo Báo thân mà ứng ra sáu căn, tùy theo sáu căn mà hành động những điều hay điều tốt, như sự tu hành v.v... là Hóa thân. Như vậy Hóa thân là ngọn của Ứng thân, mà gốc của Ứng thân lại là Pháp thân. Cho nên hàng thượng căn nhận được Pháp thân thì rõ Ứng thân, Báo thân, Hóa thân cũng đều gốc từ đó mà ra.

Bởi Chân Phật thì không hình, Chân kinh thì không quyển, bao la pháp giới, tròn đồng thái hư, chẳng thêm chẳng bớt, không thiếu không dư, người người sẵn đủ, kẻ kẻ viên thành, bản tánh Di Đà, Chân kinh Bát-nhã, kho báu nhà mình, nguyên là vật tự có. Song tánh đạo không khác, sắc và không nhất như, viên dung cả pháp giới, đối diện ở trước mắt, ứng vật hiện hình như trăng trong nước.

Ngài nói thêm về cái thể thênh thang của pháp tánh. Chân Phật chỉ cho Pháp thân không hình tướng, Chân kinh chỉ cho pháp tánh chân thật không tướng mạo, nên nói không quyễn nhưng nó bao trùm cả pháp giới nó không thiếu, không dư, ai ai cũng tròn đủ hết. Như hiện giờ thân tứ đại của chúng ta, người ốm thì ba, bốn chục ký, người mập thì sáu bảy đến tám chín chục ký, còn chiều cao thì cao lắm là hai thước. Nếu người nào to lớn thì bằng hòn đá lớn trong núi là cùng. Nhưng chúng ta có một cái thể trùm cả pháp giới, trùm cả hư không thì to cỡ nào ? Như vậy, sự to lớn của thân tứ đại thì có chừng mực, có giới hạn, còn sự to lớn của tâm thể thì không giới hạn vô tận vô biên, không thể tính lường. Thế mà chúng ta lại quên chỉ nhớ cái thân mấy chục ký, cao một vài mét, rồi cho là thật là quí. Cái thân mấy chục ký này chỉ sống mấy chục năm, còn Pháp thân thì tuổi thọ vô lượng vô biên. Nếu chúng ta là người ham sống thì nên sống với thân nào ? Cái thân sống mấy chục năm có nghĩa lý gì đối với Pháp thân bất tử ? Vậy mà có nhiều người chẳng chịu sống với cái thân bất tử, mà chỉ thích sống với cái thân tạm bợ, lúc nào cũng lo gìn giữ lo sợ mất nó. Quên thân tuổi thọ vô lượng rộng lớn vô biên, mà bám víu và hài lòng thỏa mãn với cái thân tạm bợ để tiếp tục gây tạo nghiệp khổ, bỏ thân này thọ thân khác, đi mãi trong luân hồi sanh tử. Do đó chư Phật thấy thương chúng ta ngu muội có cái thể to lớn bất hoại mà không nhớ, chỉ nhớ lo cho cái thân bé nhỏ tạm bợ vô thường, chớ không phải Phật thương chúng ta thiếu thốn về ăn mặc hay dáng vẻ lùn xấu. Thế nên Phật dạy tu để trở về với cái thể trùm khắp bất sanh bất diệt của chúng ta, thể ấy còn gọi là Niết-bàn vô sanh. Không còn sanh thì đâu có tử nên gọi là giải thoát sanh tử. Song giải thoát sanh tử là giải thoát cái gì ? Là không vì cái thân tạm bợ mà tạo những nghiệp nhân sanh tử. Khi dứt hết những mầm sanh tử rồi chúng ta hằng sống với Pháp thân bất sanh bất diệt của mình gọi là giải thoát sanh tử. Nên biết cái không sanh tử ở ngay nơi mình chớ không phải tìm kiếm ở đâu xa, cho nên nói bản tánh là Di Đà tức là chỉ cho tự tánh không sanh diệt, Chân kinh Bát-nhã là chỉ cho trí tuệ sẵn có của mình, kho báu nhà mình sẵn đủ vậy đi tìm kiếm ở đâu cho nhọc. Cái tự tánh ấy là không sắc, do không sắc nên sắc và không không hai. Tùy theo vật hiện hình, ví như mặt hồ nước trong thì bóng mặt trăng hiện.

Kệ nói :

Chẳng biết báu trong áo,

Vô minh say tự tỉnh.

Trăm hài đều rã tan,

Một vật vững sáng mãi.

Âm :

Bất thức y trung bảo,

Vô minh túy tự tỉnh.

Bách hài câu hội tán,

Nhất vật trấn trường linh.

Chẳng biết báu trong áo, vô minh say tự tỉnh. Nghĩa là không biết mình có hòn ngọc báu ở trong túi áo của mình, đó là vì vô minh say mê, nhưng khi thức tỉnh mới biết trong áo mình có hòn ngọc quí. Ý hai câu này dẫn Kinh Pháp Hoa ví dụ anh chàng say được người bạn cho hạt châu cột trong chéo áo để đem ra dùng xài. Nhưng anh chàng vẫn cứ say không tỉnh, không biết mình có hạt châu trong chéo áo, nên vẫn nghèo đời khổ sở. Sau gặp lại bạn chỉ trong chéo áo anh có hạt châu, anh lấy ra dùng hết kiếp nghèo đói.

Trăm hài đều rã tan, một vật vững sáng mãi. Trong thân tứ đại do tất cả các phần gân, xương... kết hợp lại, một ngày nào đó nó sẽ tan nát không còn, nhưng trong đó có một vật trong sáng không bao giờ hoại.

Ý bài kệ nói nơi chúng ta có hòn ngọc quí, vì chúng ta mê say quên hòn ngọc quí có sẵn nơi mình. Cũng như thân này là thân tạm bợ nhưng trong cái tạm bợ đó có cái trong sáng còn hoài không mất.

Áo là sắc thân, báu là tự tánh. Trước kia Lục Tổ Huệ Năng đốn ngộ tự tánh, tâm châu linh bảo, bèn đáp với Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn rằng: “Tất cả muôn pháp chẳng lìa tự tánh !”

Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh !

Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng tự sanh diệt !

Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ !

Đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp !

Đây nói áo là sắc thân, viên ngọc báu là tự tánh. Cho nên Lục Tổ Huệ Năng mới nói tất cả muôn pháp chẳng lìa tự tánh và khi nghe Ngũ Tổ giảng Kinh Kim Cang đến câu ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, Ngài liền đại ngộ, và la lên:

Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh !

Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng tự sanh diệt !

Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ !

Đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp !

Lục Tổ do nhận được tự tánh của mình vốn tự thanh tịnh, chẳng sanh chẳng diệt, đầy đủ tất cả, hay sanh tất cả, nên Ngũ Tổ ấn chứng cho Ngài đã ngộ được bản tánh; ngộ được bản tánh tức là kiến tánh. Bản tánh sẵn có mà lâu nay quên, bây giờ chợt nhận ra nên Ngài dùng chữ đâu ngờ. Như vậy người tu mà nhận ra được bản tánh của mình thì từ đó về sau sự tu hành mới được an ổn.

Hội rằng : Tánh đủ mọi lý mà ứng với muôn sự.

- Hỏi đáp đó là gì ? - Chỉ là tự tánh.

- Tham học đó là gì ? - Chỉ là tự tánh.

- Tụng kinh đó là gì ? - Chỉ là tự tánh.

- Niệm Phật đó là gì ? - Chỉ là tự tánh.

- Nói năng đó là gì ? - Chỉ là tự tánh.

- Gậy hét đó là gì ? - Chỉ là tự tánh.

- Cơ duyên đó là gì ? - Chỉ là tự tánh.

- Thế Tôn giơ cành hoa đó là gì ? - Chỉ là tự tánh.

- Ngài Ca-diếp mỉm cười đó là gì ? - Chỉ là tự tánh.

- Lâm Tế hét, Đức Sơn đánh, Ngưỡng Sơn tướng tròn, Thạch Củng giương cung, Đạo Ngô múa hốt, cơ duyên của chư Tổ đó là gì ? - Chỉ là tự tánh.

Hội rằng nghĩa là hiểu rằng. Tự tánh của con người đủ ở mọi lý, ứng hiện với muôn vật. Đây giải thích cho thấy tự tánh con người xuất hiện từ chỗ nào qua các câu hỏi. Hỏi đáp đó là gì ? Tức là biết hỏi biết đáp đó là ai ? Đáp: Chỉ là tự tánh. Do tự tánh ứng ra mới biết hỏi biết đáp. Rồi tham học tụng kinh, niệm Phật, nói năng là do tự tánh ứng hiện mới biết tham học, tụng kinh, niệm Phật, nói năng. Nếu không có tự tánh (tánh giác) thì không có ai ứng hiện để làm những việc đó, thân người chỉ là một khối máu thịt vô tri không biết làm gì cả. Bây giờ xa hơn một chút là: gậy hét, cơ duyên, Thế Tôn giơ cành hoa, ngài Ca-diếp mỉm cười, Lâm Tế hét, Đức Sơn đánh, Ngưỡng Sơn tướng tròn, Thạch Củng giương cung, Đạo Ngô múa hốt, đều do tự tánh (tánh giác) ứng hiện, nên Phật và chư Tổ mới hành xử như thế. Tất cả đều lưu xuất từ tự tánh. Tự tánh là Phật, thiền Tăng hỏi thế nào là Phật, Tổ đánh một cái đau điếng là chỉ ông Phật đó. Vì có ông Phật mới biết hỏi, có ông Phật mới biết đánh, có ông Phật mới biết đau. Chủ yếu của các Thiền sư là chỉ thẳng nên không giải thích dông dài. Cũng vậy, hỏi thế nào là Phật ? Hét một tiếng là chỉ ông Phật đó, vì có ông Phật mới biết hét. Tất cả những hành động khác cũng như thế, các Ngài nhằm chỉ thẳng cho chúng ta nhận ra cái chân thật (tánh giác). Từ lâu chúng ta quen nhận cái giả trên tướng mạo ngôn từ nên thấy các Thiền sư chỉ cái thật qua hành động không ngôn ngữ, chúng ta đâm ra ngờ vực. Bây giờ học hiểu kỹ chỗ này rồi, đọc sách Thiền chúng ta mới không thấy lạ và hết nghi ngờ. Ngày xưa đọc câu chuyện Thiền sư Đả Địa, mỗi khi có người đến hỏi thế nào là Phật ? Ngài lấy gậy đập xuống đất một cái, không trả lời. Hỏi gì Ngài cũng lấy gậy đập xuống đất, do đó người đời gọi Ngài là Hòa thượng Đả Địa. Đả địa là đánh đất. Tôi có bình một câu thế này: “Muốn thấy mặt nước phẳng trước khi cá ăn mống”. Vì vừa khởi niệm đập một cái là đã thấy rồi. Mặt nước không dấy động tức là mặt nước phẳng, nếu dấy động thì từ mặt nước mà ra chớ không ở đâu xa hết. Như vậy tất cả hành động của các Thiền sư hoặc đánh hay hét... đều nhằm chỉ thẳng tự tánh cho mình.

- Bốn mắt nhìn nhau đó là gì ? - Chỉ là tự tánh.

- Trưởng Lão Câu Chi đưa ngón tay, giơ nắm tay đó là gì ? - Chỉ là tự tánh.

- Lâm Tế phủi tay áo liền đi đó là gì ? - Chỉ là tự tánh.

- Khai hoa kết ấn đó là gì ? - Chỉ là tự tánh.

- Đi đứng ngồi nằm đó là gì ? - Chỉ là tự tánh.

- Thấy nghe hiểu biết đó là gì ? - Chỉ là tự tánh.

- Ăn cơm ăn cháo đó là gì ? - Chỉ là tự tánh.

- Uống nước uống trà đó là gì ? - Chỉ là tự tánh.

- Đắp y ôm bát đó là gì ? - Chỉ là tự tánh.

- Nói năng hỏi đáp đó là gì ? - Chỉ là tự tánh.

- Tạo tác, làm việc đó là gì ? - Chỉ là tự tánh.

- Im im xét tư duy, nói nói động miệng đó là gì ? - Chỉ là tự tánh.

Qua một đoạn dài trên Ngài cũng chỉ thẳng tự tánh hiện đầy đủ trong mọi hành động, mọi nói năng mọi cử chỉ, không có gì ngoài tự tánh. Cho nên các Thiền sư không tốn lời giải thích mà chỉ cần biểu hiện một cử chỉ để chúng ta nhận ra tự tánh.

Vậy ở đây có ai thiếu tự tánh không ? Không thiếu mà chưa dám nhận, đó là điều đáng tiếc. Tự tánh là tâm vương là vua lại không dám nhận, cứ nhận mấy thứ đạo tặc buồn giận thương ghét và kết thân với chúng, cho nên bị khổ suốt đời. Xét kỹ chúng ta thông minh hay mê muội ? Cái chân thật không dám nhận, lại ôm giữ cái giả dối tạm bợ rồi than khổ. Song sự khổ đau ở thế gian này chúng ta xét kỹ thấy nó như trò hề, chớ có đáng gì đâu. Thế mà lắm người cũng khóc lên khóc xuống vì những chuyện phiền não vớ vẩn không đâu, gặp ai cũng than đời tôi sao khổ quá ! Tuy nhiên, nếu xét kỹ mỗi người chúng ta đều có một cái không bao giờ khổ, biết như thế rồi thì tự tại vô cùng, sống ở giữa cõi trần này không có gì đáng làm cho mình phiền lòng, không phiền lòng thì có gì khổ sở. Giả sử có ai sân si nói bậy bạ thấy họ là người ôm đạo tặc là người đáng thương, người ấy có vị pháp vương mà không chịu nhận, lại đi rước đạo tặc vào nhà để cho nó phá hết gia sản. Người sân giận nói bậy bạ là người đáng thương chớ đâu đáng buồn, vì trước hết là họ hao tổn khí lực, kế đến là họ hao tổn tâm lực. Như vậy họ lỗ lã rất nhiều chớ có được gì đâu ? Thế nên chúng ta biết tu thì đối với những người làm phiền mình, mình thông cảm thương họ chớ không nên buồn họ. Hơn nữa hằng ngày chúng ta gặp biết bao điều không như ý xảy ra, nếu không buông bỏ mà cứ đeo mang những thứ đó để phiền não khổ tâm than trách thì biết bao giờ chúng ta mới giác ngộ ? Bởi vì đó là những thứ làm che mờ khuất lấp cái tánh linh giác của chính mình. Xét kỹ trong chúng ta khi phát tâm tu, ai cũng muốn giải khổ, tại sao vào chùa một thời gian chúng ta lại cột trói những thứ lỉnh kỉnh không ra gì vào lòng cho nó khổ thêm. Như vậy muốn hết khổ thì những cái không giá trị như thị phi, phải quấy tốt xấu, buông bỏ hết thì chúng ta mới hết khổ. Chúng ta hết khổ mới mong cứu khổ cho người, còn mình ôm một khối khổ mà nói chuyện đạo lý, khuyên người hết khổ thì không được bảo đảm. Giả sử có người thấy bạn mình phiền não bèn dùng lời đạo lý khuyên họ đừng giận hờn, giận hờn là đau khổ. Nhưng khi gặp chuyện trái ý mình nổi giận la om sòm, như vậy người ấy có khổ không ? Thế nên chúng ta phải hiểu cho thật thấu đáo điều này, tự mình phải hết khổ mới chỉ dạy nhắc nhở cho người, đó là đúng tinh thần cứu khổ chúng sanh của đạo Phật.

?


[mucluc][p1][p2-c1][p2-c2][p2-c3]

[p3-c1][p3-c2][p3-c3-a1][p3-c3-a2][p3-c3-a3][p3-c3-a4][p3-c3-a5]

[Trang chu] [Kinh sach]