Friday, August 27, 2010

Vài Nét Về Thượng Tọa Trụ Trì Thích Tuệ Giác

MAI NỞ VƯỜN XƯA
MỘT THỜI ÁO TRẮNG
SỰ CHUYỂN HÓA NỘI TÂM
THỜI GIAN CHUYÊN TU TẠI THIỀN VIỆN TRÚC LÂM

*********

MAI NỞ VƯỜN XƯA
Thưa các bạn, nói về mình quả thật là điều không nên, hay đúng ra đó là điều mọi người không thích. Thế nhưng ở đây chúng tôi muốn trình bày một sự thật, mà sự thật đó do chính bản thân tôi đã thực hành và thể nghiệm qua. Một chứng minh đích thực ở nơi tự thân mình, với kết quả tốt đẹp mà chính tôi cũng không ngở rằng mình có thể thực hiện được điều đó. Điều đã đem đến cho tôi một niềm tin vững chãi thanh tịnh, nguồn phúc lạc vô biên trong niềm vui đạo vị. Ôi Phật Pháp nhiệm màu và cao quí lắm thay! Chúng tôi xin chia sẽ với các bạn nguồn vui chân thật ấy.

Chúng ta hãy xem đây như là một chứng tích, một sự kiện lịch sử của đời người đã đem lại niềm tin chân xác, để sách tấn cho nhau trên bước đường tu tập. Kể lại sự kiện này cho những ai còn hoài nghi lưỡng lự, còn do dự ngập ngừng hãy mạnh dạn tiến bước. Bảo sở ở trước mặt, Phật Tổ không bao giờ lừa dối chúng ta. Hãy phá tan lớp mây mờ của mọi sự hoài nghi, sợ hãi. Chúng ta phải gan dạ can đảm, một phen buông sạch hết và đừng tiếc nuối hay bám víu một cái gì cả, hãy hoàn toàn vô tác và bản ngã phải được triệt tiêu. Phải một lần chết đi để muôn đời được sống lại. Hãy buông thỏng hai tay và toàn thân nhẹ nhỏm nhảy thẳng vào vực thẳm không đáy.

Và kìa!
Trước mắt vườn xuân một đóa hoa
Linh Sơn pháp hội diễn bày ra
Nụ cười thầm lặng rền như sấm
Chấn động ngàn sau nhịp sống hòa.
(Đầu trang).

*********

MỘT THỜI ÁO TRẮNG

Tôi sanh ra đời tại vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, thuộc miền tây nam nước Việt Nam , trong một gia đình nông dân nghèo đông con. Ông bà thân sinh (ba má) tôi là người có đạo đức, lại là Phật Tử tại gia, nên sự giáo dục con cái trong gia đình rất nghiêm túc. Thuở còn thơ ấu, chúng tôi đã được cha mẹ dạy dỗ thành người tốt, biết lễ phép, khiêm nhường, sống trên thuận dưới hòa và yêu kính mọi người.

Trong nhà có Bà tôi là tu sĩ tại gia, ăn trai trường, tu theo pháp môn Niệm Phật. Bà thân sinh của tôi là người rất mộ đạo, hiền từ. Có lần đi chùa lễ Phật, sám hối vào ngày rằm, bà dắt tôi theo. Trong chùa thờ rất nhiều hình tượng, nhưng không hiểu vì sao tôi chỉ thích lạy duy chỉ có tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi giữa chánh điện.

Ở nhà mỗi lần bà thân sinh tôi đọc kinh cho Bà Cố tôi nghe, tôi thường ngồi kế bên. Tuy còn nhỏ không hiểu gì, nhưng tôi rất thích giọng đọc kinh êm dịu của bà.

Năm mười hai tuổi, tôi được đọc cuốn sách lịch sử ghi lại cuộc đời của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tôi rất cảm động và vui sướng đến rơi nước mắt khi biết được đời sống cao thượng, đẹp đẽ và giải thoát của Đức Thế Tôn. Lúc đó tôi phát nguyện trong tâm rằng: “sau này tôi cũng sẽ đi tu, đắc đạo và sống đời sống cao đẹp như đời sống của Đức Phật.” Từ đó, hình ảnh cao thượng của ngài lúc nào cũng ngự trị trong tâm tưởng của tôi.

Lớn lên trong đất nước loạn ly, quê hương chìm trong máu lửa. Chiến tranh, súng đạn, chết chóc, sự sanh ly tử biệt và hoàn cảnh khổ chung quanh, đã làm cho tôi sớm ý thức được sự vô thường của cuộc đời.

Sau biến cố sôi động năm 1975....

Khi ấy tôi mới học xong lớp tám phổ thông, tôi xin Ông Thân Sinh tôi cho phép tôi được nghỉ học để đi tu nhưng không được người đồng ý. Tuy thế, tâm nguyện, ý chí xuất gia lúc nào cũng thôi thúc và nung nấu trong tôi.

Sau khi học xong hết trung học phổ thông, thi tốt nghiệp cấp ba xong, vì hoàn cảnh gia đình khó khăn sau chiến cuộc năm 1975 kết thúc, cả nước đều lâm vào tình trạng nghèo đói... Hơn nữa tôi đã có ý định đi tu nên không tiếp tục thi đại học. Tôi ở nhà làm việc phụ giúp gia đình một thời gian. Lúc bấy giờ tôi có làm quen được nhóm Cư Sĩ bạn đạo. Chúng tôi thường tới lui thăm viếng, học hỏi và trao đổi kinh sách qua lại để nghiên cứu. Những quyển sách tâm đắc hướng dẫn cho tôi biết được pháp môn tu thiền, đi đúng con đường chánh pháp, và chọn được Minh Sư sau này đó là các quyển kinh: Kim Cang Bát Nhã, Bát Nhã Tâm Kinh, Pháp Bửu Đàn Kinh, và Yếu Chỉ Thiền Tông v.v...

Năm 1986, tôi quyết định từ giã những người thân trong gia đình, để thực hiện theo chí nguyện xuất gia của mình đã từ lâu ấp ủ mong đợi, cùng với người em chú bác chung chí nguyện là Tuệ Minh bây giờ. Ông Thân Sinh tôi cũng qua đời trước đó vài năm.

Thầy Giác T là thầy Bổn Sư truyền Tam Quy, Ngũ Giới và cũng là người hướng dẫn cho tôi đến Thiền Viện Thường Chiếu. Ở đây làm công quả một năm, đến ngày mồng tám tháng mười hai năm một ngàn chín trăm tám mươi sáu, nhân duyên đầy đủ, chúng tôi được Hòa Thượng Tôn Sư làm lễ Thế Phát Xuất Gia và truyền Sa Di Thập Giới.

Sau khi được xuất gia, tôi được phân công làm phụ tá Tri Khách hai năm. Sau đó, tôi xin được vào chúng, để được gần gũi sống chung tu học với quí thầy. Từ khi được vào chúng tôi được thầy Trụ Trì (Thích Nhật Quang) phân công làm chuyên viên ruộng ba năm.

Năm 1990, chúng tôi được gởi đi thọ giới Cụ Túc (Tỳ Khưu) và Bồ Tát Giới tại giới đàn chùa Long Thiền, Tỉnh Đồng Nai.

Năm 1991, Hòa Thượng Tôn Sư vì sức khỏe kém, nghĩ dạy một thời gian, giao việc lại cho quí thầy lớn có trách nhiệm điều hành mọi sinh hoạt tu học của viện, để Ngài được nghỉ ngơi làm người vô sự.

Lúc bấy giờ, mười ngôi thiền thất cũng được dựng lên để trong Tăng Chúng quí thầy thay phiên nhau nhập thất, chuyên thực hành công phu thiền tập sau thời gian học hỏi, hiểu rõ đường lối và nắm vững pháp tu.

Đầu năm 1992, tôi xin phép nhập thất ba năm được Hòa Thượng đồng ý.

Đến tháng 3 năm 1993, Hòa Thượng dạy xả thất theo Ngài lên cao nguyên Đà Lạt để góp công vào công trình xây dựng Thiền Viện Trúc Lâm. Lúc đó tôi cũng vừa đang nhập thất một năm. Vì Hòa Thượng có dạy trước khi vào thất rằng: “Mấy chú xin tôi nhập thất ba năm, nhưng tôi bớt đi một năm, chỉ cho nhập hai năm thôi, và tôi cho hay trước là nếu thủ tục giấy tờ xây dựng Thiền Viện Trúc Lâm được nhà nước chấp thuận, thì chừng đó tôi kêu mấy chú phải ra thất, theo tôi lên Đà Lạt bất cứ lúc nào tôi cần. Bây giờ cứ vào an ổn mà nhập thất.”

Sau một năm ráo riết, khẩn trương xây dựng. Bắt đầu làm lễ đặt đá khởi công ngày mồng tám tháng tư năm 1993, cho đến ngày mồng tám tháng hai năm 1994, toàn bộ khu ngoại viên và nội viện Tăng Ni của Thiền Viện Trúc Lâm đã hoàn thành phần căn bản. Lễ khánh thành xong Hòa Thượng bắt đầu cho vào chuyên tu (Đầu trang).

*********

SỰ CHUYỂN HÓA NỘI TÂM

Sau đây tôi xin ghi lại những cảm ngộ, những chuyển biến quan trọng trong quá trình công phu tu tập, hay nói đúng hơn đó là sự chuyển hóa nội tâm mà đích thân tôi đã thực nghiệm được qua thời gian tu học, và những giai đoạn nhập thất chuyên tu, lúc còn ở Thường Chiếu cũng như khi ở Thiền Viện Trúc Lâm.

Thật ra tôi không muốn kể lại làm gì, vì e rằng không khéo nó sẽ trở thành sự khoe khoan lố bịch. Thế nhưng, để làm chứng tích cho bạn đồng hành và những người sau, trên bước đường tu tập, đừng mặc cảm rằng đời mạt pháp tu không kết quả. Vì thế cho nên, tôi xin mạo muội ghi lại đây những dòng chữ này, để làm minh chứng sát thực cho sở hành của thiền giả, trong cuộc hành trình trên đạo lộ hoàn nguyên bổn xứ. Kết quả đó không dành phần riêng cho hạng người nào, dù nam nữ già trẻ, không phân biệt Tăng Ni Đạo Tục hay kẻ trí người ngu, mà cho bất cứ ai. Một khi chúng ta đã vững niềm tin, hiểu đúng đường lối, pháp tu rõ ràng, với sự hướng dẫn cẩn thận của bậc Minh Sư, cộng thêm ý chí nỗ lực và lòng quyết tâm tha thiết, thì lo gì việc tu không thành đạt. Chúng ta cũng đừng quên rằng, cuộc đời tu hành không phải lúc nào cũng xuôi buồm thuận gió, cũng đẹp đẽ vinh quang như ý ta tưởng, mà phải trải qua biết bao chông gai, trắc trở, dù khó khăn gian khổ thế mấy cũng quyết chí vượt qua. Có ý thức được những điều như thế, chúng ta mới không nản lòng chùn bước khi gặp phải nghịch cảnh chướng duyên. Nhìn lại gương sáng của người xưa với ý chí và nghị lực phi thường, xả thân cầu đạo như Tổ Huệ Khả tự chặt đức cánh tay của mình, để thể hiện lòng quyết tâm tha thiết. Như Tổ Huệ Năng vì pháp quên thân, phải đeo đá giã gạo (vì thân gầy ốm không đạp nổi cái chày phải đeo thêm đá), và còn bao nhiêu tấm gương cao thượng khác nữa.... Huống chi chúng ta ngày nay sống trong phương tiện vật chất đầy đủ, chỉ gặp chút ít khó khổ như thân bệnh, hoạc ngồi thiền đau chân, hoặc những thử thách nho nhỏ khác chẳng thắm vào đâu đã vội thối lui bỏ cuộc. Than ôi! Người tu đạo như thế, ngục sanh tử biết chừng nào ra khỏi, biển trầm luân bao kiếp mới thoát thân.

Giờ đây, trước khi kể lại những cảm ngộ của mình. Thiền giả xin có đôi lời hoài cảm, tán thán, ca ngợi và tri ân ơn đức của vị Đạo Sư tôn kính, người đã dầy công giáo dưỡng, thắp sáng ngọn đèn chánh pháp và khai mở tuệ nhãn cho tôi.

Xưa kia tôi thường mặc cảm và tự nghĩ rằng: Mình là con người tội lỗi, sống trầm luân xa đọa không biết bao đời kiếp, lang thang trong lục đạo luân hồi, đắm mê trong biển khổ sanh tử trầm luân từ vô lượng kiếp, mãi cho đến đời mạt pháp này tưởng chừng như không bao giờ ra khỏi. Nhưng thật phước đức thay, vinh hạnh thay, sung sướng thay cho chúng tôi không đến nỗi phải tuyệt vọng. Từ trong bóng đêm vô minh hắc ám đầy khổ não thê lương, chúng tôi đã bắt gặp được ánh sáng chân lý soi rọi lại. Ánh sáng ngọn đèn chánh pháp của Đấng Từ Phụ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni còn lưu truyền lại từ vị tôn sư kính yêu.

Tuy ra đời không gặp Phật, nhưng chắc nhiều đời cũng đã từng gieo căn lành, trồng cội phúc, cho nên gặp được Hòa Thượng là bậc chân sư sáng đạo, một vị thiện tri thức hiếm có và là một vị đạo sư lỗi lạc. Nhờ duyên lành huân tập nhiều đời, tôi được thọ ơn pháp nhủ của Ngài. Người mà tôi nguyện đời đời kiếp kiếp tôn thờ kính trọng không bao giờ quên. Hạnh nguyện và ơn đức của Ngài như non cao biển rộng. Đối với tôi thật không có bút mực, lời lẽ nào có thể ghi tả cho hết được.

Ôi ân đức bao la như vũ trụ
Như Hy-Ma-Lay-A sừng sững ngất mây mù
Như Thái Bình dào dạt dạ từ dung
Như nhật nguyệt không trung luôn rạng chiếu.
Ân đức ấy sâu dầy khôn xiết tả
Xin ghi lòng tạc dạ chẳng hề phôi
Xin nguyện cầu lên Tam Bảo ba ngôi
Cho người được bình an vui vẽ mãi...

Hòa Thượng đã bao năm gian khổ nhọc nhằn mở đường chỉ lối cho chúng tôi ra khỏi rừng mê, đã bao năm nếm trải bao đắng cay thử thách, chịu đựng bao gió dập sóng dồi của ngoại duyên đưa đến, Ngài vẫn vững niềm tin thản nhiên trước mọi biến cố của cuộc đời, khéo léo lèo lái chiếc thuyền từ, hướng dẫn cho chúng tôi ra khỏi biển khổ tìm về bảo sở. Nhờ sự chỉ dạy và dẫn dắt tận tình đó mà chúng tôi không bị sa hầm, sụp hố, hay bị lạc lầm vào những con đường hiểm nạn. Ngài thật từ bi hết lòng chỉ dạy, không nệ tấm thân già yếu, nhọc nhằn, dịch kinh, viết sách, giảng dạy. Lại tạo lập đầy đủ phương tiện cho nhập thất. Bên cạnh đó còn có sự ủng hộ hết lòng, hết sức nhiệt tình của các Phật Tử. Chính những động cơ ấy tạo thành sức mạnh và năng lực chủ động thúc đẩy cho chúng tôi nỗ lực tiến tu. Chúng tôi cũng hằng tự nghĩ rằng: Ngày xưa chư vị Tổ Sư là những bậc đại căn thắng sĩ, khi tu hành, chỉ nghe qua một câu kinh, một lời nói, một hành động liền được khai ngộ. Hoặc có vị tham thiền đắc lực trong một tuần lễ hay hai tuần lễ cũng phát minh đại sự. Ngày nay chúng tôi sinh ra trong đời mạt pháp, phước mõng, nghiệp dầy, căn trí lại ám độn cùn lụt, không thể sánh với các Ngài. Tuy nhiên, không vì thế mà chúng tôi mặc cảm, vì sau bao năm học hỏi chúng tôi đã hiểu rõ đường lối và nắm vững pháp tu. Hơn nữa, bên cạnh chúng tôi còn có Hòa Thượng Tôn Sư luôn luôn theo dõi, nhắc nhở, chỉ dạy thì còn lo gì nữa mà không quyết tâm hạ thủ công phu. Chúng tôi tự tin rằng, với thời gian dài hai năm nhập thất, nguyện quyết chí đem hết tâm lực vào việc hạ thủ công phu để làm sáng tỏ việc lớn của chính mình, thì ắt có ngày việc lớn thành tựu. Vì Phật Tổ thường dạy: “Kia là trượng phu, ta cũng trượng phu vậy, chớ có tự khi mình.” Tổ Động Sơn Lương Giới cũng dạy: “Thân này chẳng sẵn đời này độ, lại đợi đời nào độ thân này.” Có được như thế mới có thể đền đáp được công ơn sâu dày của Thầy Tổ và nợ cơm áo của tín thí đàn na.

Với lời chân thành phát nguyện và lòng quyết tâm tha thiết tu hành. Trong thời gian nhập thất, tôi dồn hết tâm lực vào việc hạ thủ công phu, vì nghĩ rằng, mấy thuở trong đời tu lại có cơ hội thuận tiện được nhập thất với thời gian dài hai năm, tất cả mọi duyên sự bên ngoài đều có quí thầy lo liệu. Trong thời gian độc cư hành thiền đó, tôi ít ăn bớt ngủ, tọa thiền mỗi ngày đêm bốn thời theo thời khóa tự mình qui định, mỗi thời hai giờ làm tiêu chuẩn, có khi nhiều hơn hoặc ít hơn. Ngoài những giờ khác, lúc đi, đứng, nằm, ngồi; khi ăn mặc, giặt giũ, tiểu tiện, đều ở trong trạng thái miên mật tỉnh giác. Mỗi niệm khởi lên đều không lầm lẫn, không để cho vọng tưởng lôi cuốn, luôn giữ chánh niệm và tĩnh giác trong mọi hành động “tri hành hợp nhất”. Chỗ gọi là “nắm chặt đầu dây giữ lập trường”, không để lơi lõng. Cho đến một hôm tôi chợt khởi nghi: “Biết vọng hoài đi đến đâu? Ngoài biết vọng còn có thêm gì nữa không?” Ngay lúc đó tôi chợt nhớ lại lời Phật dạy trong kinh viên giác: “Biết huyễn liền lìa, đâu cần phương pháp. Lìa huyễn tức liền đó giác ngộ giải thoát, cũng đâu có lớp lang tuần tự gì.” Lạ thay! Ngay lúc đó tâm tôi bỗng dưng lắng đọng, dừng bặt, liền khi ấy, tôi biết được đường vào. So lại phương pháp tri vọng mà Hòa Thượng Tôn Sư chỉ dạy, với yếu chỉ tri huyễn trong kinh viên giác không có gì sai khác. Khi xưa chúng tôi hiểu lầm rằng, ngoài cái vọng riêng có cái biết. Nhưng thật ra biết và vọng không có hai, hễ “biết thì không vọng, vọng thì không biết”, vậy thôi. Bởi do bất giác nên cái biết tròn sáng bị phân tán, chuyển thành vọng tưởng lăng xăng, vừa sực tỉnh thì bao nhiêu vọng tưởng liền tan biến trở về với tánh biết tròn sáng, khỏi phải ra sức dẹp trừ. Vọng và không vọng chỉ chuyển đổi trong một niệm nhớ và quên mà thôi. Nhận ra yếu điểm này mới sáng tỏ lời dạy của Lục Tổ Huệ Năng là: “Vọng tưởng tức chân như, phàm phu tức Phật, phiền não tức bồ đề”, và lời dạy của Ngài Huyền Giác trong Chứng Đạo Ca:

"Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân,
Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân,
Vô Minh thật tánh tức Phật tánh,
Huyễn hóa không thân tức Pháp thân..."

Từ chỗ nhận ra yếu chỉ công phu tu, chúng tôi phát minh bài kệ tri vọng:

"Tri thời tịch tĩnh nguyên vô vọng,
Đương vọng hà tằng liễu đắc tri,
Tri vọng lưỡng đầu phương giả lập,
Nhị biên ly tận nhập vô vi."

Nghĩa:

"Khi tri tĩnh lặng nguyên không vọng,
Lúc vọng đâu từng sáng được tri,
Tri vọng đôi đường phương giả lập,
Hai bên lìa, rõ đạo huyền vi."

Thời gian sau đó, do tâm được an định phần nào, tôi bị hôn trầm dữ dội. Cứ mỗi lần tréo chân lên bồ đoàn là hôn trầm kéo đến, không thể cưỡng lại được, chỉ còn có cách là lạy Phật sám hối và đi kinh hành. Có lúc đi kinh hành vẫn lại bị hôn trầm, thật là kỳ lạ!

Sau đó tôi dùng phương pháp quán để trị bệnh ngủ gục, tôi tự hỏi: “Hôn trầm từ đâu đến” và tôi chú tâm tĩnh lực truy nguyên coi hôn trầm bắt đầu phát xuất từ đâu, nó đến bằng cách nào? Nhờ sức tĩnh lực kiên cố nên lần lần hôn trầm bị đẫy lùi. Do đó tôi thấy ra rằng, vì ở trong cái lặng lẽ mà thiếu sự chiếu soi, sự tĩnh giác không liên tục nên rơi vào hôn trầm. Khi quán sát thật kỷ, tôi nhận thấy rõ ràng, trong hôn trầm vẫn có vọng tưởng vi tế lăng xăng sanh diệt như một dòng thác đổ liên tục, chỉ vì ở trong trạng thái mù mờ nên vọng tưởng không rõ ràng, không kiểm soát được đó thôi. Và tôi bắt đầu truy nguyên coi vọng tưởng là gì? Khi nhận định thấu đáo, thấy rõ tâm mình không lúc nào dừng nghĩ. Nếu không vọng tưởng về quá khứ, thì cũng vọng hướng về tương lai. Chính những tư tưởng quá khứ vị lai ấy cùng với sự phân biệt hay dỡ, tốt xấu, rồi theo đó khởi yêu ghét, mừng giận, v.v... làm cho con người hiện tại bất an. Như vậy, muốn cho tâm được bình an, phải dừng những vọng tưởng lăng xăng sanh diệt ấy.

Thế thì vọng tưởng từ đâu đến? Nếu là quá khứ thì quá khứ ở chổ nào? - Những gì đã qua là thuộc về cái chết, có ai sửa được quá khứ bao giờ. Không ai có thể đi ngược thời gian, trở lùi trong quá khứ để tìm lại ngày hôm qua đã mất. Vậy thì tất cả những gì xa xưa hãy để nó lùi đi trong dĩ vãng, nhường bước cho cái mới đi lên, và hãy để tự nó chết đi trong quên lãng, mắc mớ gì ta phải bận tâm về những tâm niệm lăng xăng vô ích đó. – Còn tương lai là gì? - Tương lai là những cái gì chưa đến hay sẽ đến. Mà nào ai có thể đi đến được tương lai, dù cho đó là ngày mai gần đây nhất hay một lát nữa đây. Như vậy, tại sao ta cứ để cho những tư tưởng viễn vong xa rời thực tế đó lôi kéo mình làm gì chứ. Chính những tâm niệm quá khứ vị lai ấy làm cho chúng ta quên mất đi cái hiện tại. – Mà hiện tại là gì? - Ạ! Thì ra hiện tại cũng không thật có nốt, vì có cái gì cố định và đứng yên một chổ đâu mà gọi là hiện tại. Tất cả đều đang ở trong vòng chuyển biến vận động liên tục không dừng nghĩ, vừa mở miệng nói hai chữ hiện tại thì hiện tại đã là quá khứ. Rõ ràng ba thời không thực có. Chính ngay lúc ấy đã hiện lên trong tâm trí tôi lời dạy của Đức Phật trong kinh Kim Cang Bát Nhã: “Này Tu Bồ Đề! Quá khứ bất khả đắc, hiện tại bất khả đắc, vị lai bất khả đắc.” Và cũng chính trong thời gian ấy, thân tâm tôi bỗng dưng dừng lặng, tư tưởng ngưng đọng lại, một lúc cùng với ngoại cảnh đồng thời bỗng dưng mất hút và tan biến trong khoảng không mênh mông vô tận, và tôi đã trực nhận được thể tánh rỗng lặng bất sanh, bất diệt. Cái chưa từng bị thời gian chi phối và bị hạn cuộc bởi không gian. Một cái thực tại nhất như trong mọi thời điểm, vô thỉ vô chung. Thấy rõ thân này chỉ là một sự nương gá tạm bợ, là vô thường huyễn hóa, duyên hợp, hư dối, không thật có, chẳng phải mình. Thấy rõ những tâm niệm lăng xăng sanh diệt chỉ là những bóng dáng do phân biệt ngoại cảnh mà có, chẳng phải mình. Thấy rõ những cảnh vật sai biệt bên ngoài, tất cả đều là những giả tướng phân biệt không có thật thể, “sắc tức là không”.

Qua lần kinh nghiệm đó, đời người đã được chuyển hóa. Tôi có cảm tác bài kệ nói lên chỗ thấy biết đó.

Thì ra:

"Xưa mê chấp thực pháp cùng nhân,
Tham ái thân tâm đắm cảnh trần.
Rõ ra tự tánh nguyên không lặng,
Ba đời sanh tử quyết dừng ngăn."

Từ nguồn an lạc vui sướng trong đạo vị đó, tôi có cảm tác nên bài ca tĩnh thức....(Đầu trang).

*********

THỜI GIAN CHUYÊN TU TẠI THIỀN VIỆN TRÚC LÂM

Sau một năm ráo riết xây dựng khẩn trương. Thiền Viện Trúc Lâm, khu ngoại viện và nội viện Tăng Ni đã hoàn thành phần căn bản.

Lễ khánh thành xong Hòa Thượng cho vào chuyên tu. Vì đã trải qua những lần kinh nghiệm trong thời gian nhập thất ở Thiền Viện Thường Chiếu, nên công phu chúng tôi không bị gián đoạn. Mặc dầu đa đoan công việc, trong thời gian xây dựng phải tiếp duyên xúc cảnh nhiều, nhưng việc tu hành không bị trở ngại, ngược lại rất nhẹ nhàng thoải mái. Càng ở trong chổ ồn ào thời càng hiện rõ mình hơn. Không phải dụng công nhiều mà vẫn không bị mất chánh niệm, vì luôn thực hành tâm xả. Từ khi được vào chuyên tu, công phu lại càng đắc lực hơn.

***

Vào một buổi thiền khuya. Khi thân tâm hoàn toàn yên tĩnh, yên tĩnh và trong sáng lạ thường. Giống như vần trăng rằm mùa thu tỏa rạng giữa đêm thanh vắng, trên nền trời quang đãng không một gợn mây. Tất cả đều chìm lặng, chìm lặng, tư tưởng ngưng động lại trong sự tĩnh táo dị thường và ý thức hoàn toàn vắng bóng. Mọi trạng thái diễn biến đều ở trong cái rõ biết cực tịnh, cái yên tĩnh tịch nhiên khó tả. Không biết lúc đó tôi có thở hay không vì không thấy có thân. Lúc đó chỉ có trạng thái tịch mặc tràng đầy sự an lạc. Bỗng dưng như người đang đứng trên đỉnh núi cao chót vót, hốt nhiên hụt chân, chới với rơi vào một vực thẩm sâu không đáy. Lại cũng giống như người lặng dưới đáy hồ sâu ngàn thước, từ từ trồi lên mặt nước. Lúc đó tôi không có phản ứng nào hết, cứ để cho nó tự rơi, tự trồi một cách tự nhiên. Bất chợt, tôi tan biến vào một cảnh giới ngập tràn ánh sáng rực rỡ vô biên. Một thứ ánh sáng mầu nhiệm không có ánh sáng nào có thể so sánh được. Không phải ánh sáng của mặt trời mặt trăng hay các vì sao, nó cũng không giống một thứ ánh sáng nào của các ngọn đèn điện. Một thứ ánh sáng vi diệu mát mẻ tràn đầy an lạc và tôi đã tiêu dung trong ánh sáng đó, hay nói đúng hơn ánh sáng đó chính là tôi.

Từ trong vầng ánh sáng vô biên đó, lại ánh ra muôn ngàn chùm ánh sáng chói lọi, mỗi mỗi chùm ánh sáng lại ánh ra vô số những tia sáng, mỗi mỗi tia sáng lại biến hiện ra muôn sự muôn vật, muôn hình tướng thiên sai vạn biệt. Mỗi mỗi hình tướng sai biệt lại tự phóng chiếu ra hằng hà sa số vầng hào quang sáng chói đủ muôn màu sắc. Tất cả đều dung nhiếp lẫn nhau thành một thể bất biến vô phân biệt, vô sai biệt, và vô sanh diệt. Từ trong thể dung nhiếp đó lại đột nhiên phát ra một tiếng nổ lớn, vang động như tiếng sấm và tất cả đều tan loãng, tan loãng theo tiếng rền vang ấy. Đồng thời tôi cũng ra khỏi cơn thiền định, trở về với thực tại với một trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, một sự tĩnh lặng tuyệt vời, với trí tuệ trong sáng tràn đầy sự linh mẫn. Tất cả mọi cảnh vật đều thức dậy dưới ánh triêu dương rực rỡ, chim ca mừng ngày mới, bình minh tỏa chiếu khắp muôn phương.

***

Một hôm trong thời tọa thiền ở thiền đường. Đang lúc ở trạng thái tâm rỗng lặng vô niệm, bỗng dưng vị thầy ngồi kế bên bất chợt kéo mạnh bức màng treo cửa sổ đánh soạt một tiếng, ánh sáng ập vào, trong sát na đó, một sự thể nhập hoàn toàn đến với tôi. Đồng thời tôi thét lên một tiếng làm vang động cả thiền đường làm cho tất cả mọi người phải giựt mình ngơ ngát. Tiếng rống của con mãnh sư vừa thoát khỏi kiếp chồn hoang. Khi ấy, tôi xách bồ đoàn, tọa cụ chạy ra ngoài với tràng cười kinh dị và ngẫu hứng ngâm lên mấy câu kệ:

Vẹt màng pháp giới toàn thể hiện
Một trời quang đãng sạch mây mù
Đêm vắng hồ tuyền soi bóng nguyệt
Ngày thanh núi phụng chiếu hình ô.

Khi về tăng đường tôi đặt bút lưu xuất tiếp bài kệ:

Cả đất trời tan tành sụp đổ
Bao mê lầm dứt sạch từ đây
Vẹt màng pháp giới hiện bày
Chân dung lồ lộ mặt mày xưa nay.

Sau khi xã thiền, quí thầy xúm đến hỏi thăm duyên cớ, nhưng chỉ được trả lời bằng nụ cười và sự im lặng. Suốt một tuần lễ sau đó tôi ở trong trạng thái an lạc tuyệt vời vô lượng vô biên.

Từ sự trực nhập đột biến chấn động nội tâm đó, tôi như người ngủ mê muôn kiếp được đánh thức dậy, như người lần mò trong hầm tối bắt gặp được ánh sáng mặt trời; Như người lầm lủi trong rừng gai gốc mịt mù tối tâm, bỗng gặp được con đường cái rộng thêng thang. Như chậu úp ngàn năm lật lại dưới ánh mặt trời chói chang. Tất cả những gốc rễ vô minh mê lầm đều được nhổ bật lên, thân tâm tràn ngập nguồn an lạc vô biên.

Qua sự đột biến lần thứ ba này, tôi hoàn toàn triệt tiêu hết mọi nghi lầm, trong một sát na hay ra tất cả. Dù trải qua nhiều đời nhiều kiếp nghiên tầm học hỏi cũng không thể so sánh được. Tuy không có hình tướng mà chưa từng che đậy, không có ngôn ngữ mà diễn đạt phân minh, không có văn tự mà trình bày khắp đủ. Qua đó tôi hoàn toàn thông cảm được những thủ thuật khai ngộ kỳ hoặc của các vị tổ sư. Chẳng qua vì lòng từ bi tha thiết của các Ngài, muốn cho chúng ta trực nhận lại con người chân thật, sáng tâm, thấy tánh, cái sẵn có nơi chính mình của mỗi người chúng ta, trong một sát na, phi sát na với một sự chuyển hóa toàn triệt, khỏi phải trải qua nhiều đời khổ công cầu học.

Sự thông cảm đó được thể hiện qua bài kệ:

Tiếng hét vỡ tan tam giới mộng
Phất trần phủi sạch bụi trần ai
Quơ gậy vạch mây bày Pháp Nhãn
Ba đời Phật Tổ pháp không hai.

Từ sự thể nhập qua trạng thái đột biến chấn động nội tâm đó, trí tuệ của thiền giả được phát kiến thật sâu xa...

***

Khi sáng ra được lẽ thực mới thấy được các pháp xưa nay không từng sanh chưa từng diệt, sanh trong cái vô sanh, diệt trong cái chẳng diệt, tất cả những sự sanh sanh diệt diệt đều lồng trong cái bản thể bất sanh bất diệt. Thật ra đây chỉ là một dòng chuyển biến liên tục từ một trạng thái hình thể này sang một trạng thái hình thể khác mà thôi, nhưng bản thể vẫn bình đẳng như như bất động. Vậy thì sự bình an và chân lý ấy đâu cần tìm ở đâu xa, vì nó luôn hiện hữu nơi đây, cứu cánh giải thoát là bây giờ, và chân lý tối hậu là ngay cái thực tại trước mắt. Trực nhận được cái thực tại vô sanh là đạt đến cứu cánh giải thoát.

Thôi chớ chạy tìm kiếm quẩn quanh
Ngại gì muôn kiếp tử cùng sanh
Buông tay thẳng đấy nhà liền đến
Chậm bước suy tư mất bảo thành.

Và giờ đây chắc các bạn muốn biết tôi đã thấy gì qua tiếng thét ở thiền đường.

Chổ này thật khó nói, khó trình bày, vì không có ngôn ngữ để diễn đạt. Thật khó chứng minh cụ thể, vì không có hình tướng để so sánh, nói năng chẳng trúng, suy nghĩ càng lầm. Nhưng nếu…:

Bạn muốn biết những gì tôi đã thấy,
Vâng! thưa đây lời tha thiết thật thà.

"Tôi thấy giữa trời sanh muôn cá lội,
Đáy sông khô biển cạn bóng trăng soi,
Từng bước chân mộng thế vỡ tan rồi,
Và vô vị chân nhân cười rạng rỡ.

Thế nào là vô vị chân nhân?

Ô kìa!
Hãy nhìn xem!

Cất bước đạp tan tam giới mộng
Dừng chân nắm trọn cả càn khôn
Ngồi lại phóng quang trùm pháp giới
Nằm dài duỗi cẳng giáp hư không.
Nhìn trước mặt, ở sau lưng
Xin mời xem lại gót chân.
Một vầng vằng vặt giữa trời không
Soi khắp mười phương pháp giới đồng
Không diệt không sanh qua với lại
Chớ bàn thêm bớt có cùng không.
Xoay bên hông
Rõ ràng trước mắt hỏi gì ông.
A ha! cá lội trời xanh kêu tợ sấm
Mây trầm biển bích chặng cuồng lưu
Gươm lia từng mãnh hư không rớt
Dao bầm tan nát mặt hồ bay."

Thể dụng như như, gương sáng một vừng, chẳng phiền bước tới, khỏi nhọc đi lùi, cũng chớ đứng lại, nào phải nhọc công ngó tìm quanh quẩn.

Vì sao?

Bước tới bỏ lại sau, bước lui lại lùi xa, đứng lại bị nhận chìm, ngó quanh bị cướp mất. Thẳng ngay dưới gót chân trực hạ thừa đương, về đến nhà nằm nghỉ ngơi thoải mái.

Cơm canh một nồi, tương dưa rau muối nào có thiếu gì, mặc tình thọ dụng. Được gốc rồi, củ, rễ, cành, lá theo nhau, tất cả gôm về một mối. Hương đầy trời, hoa đầy đất, hạt trái tròn đầy, bày lồ lộ chưa từng che đậy. Lục lọi tìm tòi chỉ toi công nhọc sức, nghĩ ngợi suy tư một rừng gai góc mịt mù. Khổ công tham cứu, đường xa muôn dậm ly hương. Dừng lại.

Ngay đây nếu nhận được thì cùng với chư vị Tổ Sư nắm tay nhau.

Quảy dép đạp cành lau lước sóng,
Ngược dòng gió nước thẳng Tây Thiên.
Bằng thật ngay đây chưa thấu tỏ
Câu rốt sau xin thưa nhỏ anh rằng:
“Một con thằng lằng nuốt ba con voi lớn”
-Gắp, xét lấy!

Và giờ đây mới đích thực là tiếng hót của chim phượng hoàng, mời các bạn thưởng thức.

Giải thoát chỉ có đến,
Với người trong thực tại,
Thực tại muốn chứng biết,
Tam tâm tứ tướng lìa.
Ba thân cừng bốn trí,
Ngay tự thể thừa đương,
Mắt huệ trùm pháp giới,
Thấu rõ việc xưa nay.

Thế nào là việc xưa nay?

Tất cả pháp chẳng sanh,
Tất cả pháp chẳng diệt,
Không tới lui qua lại,
Không lớn nhỏ trong ngoài,
Nào ngắn dài trên dưới,
Chẳng xanh đỏ trắng vàng,
Ngoài suy nghĩ luận bàn,
Lìa nói năng sanh diệt,
Diệt ấy chính là sanh,
Sanh ấy chính là diệt,
Đương sanh tức không sanh,
Đương diệt tức chẳng diệt,
Sanh diệt, không sanh diệt,
Bản trụ thường tạm nhiên
Vô lượng Phật quá khứ,
Hằng sa Phật vị lai,
Thực tại nhất như này,
Thảy thảy đều có mặt,
Đồng một thể vô sanh.

Hát rằng:

Một khắc trừng tâm Tuệ Giác bày,
Muôn đời dứt sạch tướng lầm sai.
Phá tan sự sản đền ơn Tổ,
Đốt sạch kinh thư đáp nghĩa Thầy.
Đập chết con trâu lòng cứu khổ,
Thằng chăn giết quách dạ ban vui,
Thân không tâm trụ vô gia nghiệp,
Dậm nát càn khôn bặt dấu hài.
(Đầu trang).


http://www.tvtlhoatu.org/ttttg.aspx

THIÊN THAI TRÍ GIẢ ĐẠI SƯ,THIỀN MÔN KHẨU QUYẾT

H.T THÍCH THANH TỪ



Đại sư dạy : Người tu pháp An Ban Thủ Ý (tham thiền quán hơi thở) phải biết hơi thở rất hệ trọng giữa thân và tâm. Ví như lửa cháy cây lên khói, nhìn làn khói trong hay đục người ta biết cây khô hay ướt. Dò xét hơi thở thô hay tế là chiếc gương soi chánh hoặc tà. Xét rõ hơi thở, là trông mây tìm bờ kiếm bến, là dùng sào dò sâu cạn, nhiên hậu chiếc đạo thuyền mới đến cứu vớt.

Thân an ý chánh tựa hồ dầu trong đèn sáng, thế nên người muốn thủ ý trước phải an thân. An thân là giữ yên thân phong, không cho các phong sự chống nghịch nhau. Sao gọi là phong sự ? Trong thân có: hành phong, hoạnh khởi phong, chư tiết phong, bách mạch phong, cân phong, lực phong, cốt gian phong, yêu phong, tích phong, thượng phong, hạ phong. Các thứ phong ấy, mỗi thứ có vị trí riêng không thể xâm loạn nhau, nếu loạn ắt sanh giặc, to thì điên cuồng bỏ bê tu tập, nhỏ thì hư thật lấn nhau; hư thì sanh ngứa, thật thì sanh đau. Thân đau ngứa đâu rảnh hệ niệm, trong dòng điên cuồng còn gì phải nói. Phàm khi động, tịnh, thi vi trước phải khởi tưởng, tưởng được hiện tiền nhiên hậu mới thực hành. Nếu không như vậy, thô tế chống nhau, mới cũ nghịch nhau, như làm lễ cấm gian thì biết bao giờ hết gian. Đây lược nêu ra một việc, các việc khác so đó mà biết. Giả sử khi sắp ngồi, trước khởi tưởng : "Ta sẽ đến chỗ kia ngồi, chỗ kia cách chỗ này độ bao nhiêu bước". Tùy khi vừa xếp chân ngồi xưống liền phóng hơi thở ra, buông xuôi thân thể, trụ phong vừa đến, hành phong lần đi. Ngoài ra, các oai nghi khác cũng như thế. Tưởng như vậy gọi là an thân.

Có bài kệ :

Tiến dừng có thứ tự,

Thô tế không trái nhau.

Ví như khéo tập ngựa,

Tùy ý muốn đứng đi.

Thường cẩn thận như thế,

Thân tâm an nhập thiền.

Đi, đứng, ngồi, nằm phải thường hệ niệm. Nếáu nằm nhiều thì hôn trầm. Đứng nhiều thì mệt nhọc. Đi nhiều thì loạn động khó nhứt tâm. Ngồi không bị các lỗi trên, vì vậy nên ngồi nhiều.

Hành giả nên ở chỗ yên tịnh, ngồi kiết già _ nếu người nữ ngồi bán già _ thân ngay thẳng bình thản. Thân thể giữ tự nhiên, tay chân để thong thả, sắp đặt các mắc xương kềm nhau, không dựa, không cong, nới rộng cổ áo và dây lưng. Nếu biết không an liền động nhè nhẹ cho nó an, cốt khiến thân thể điều hoà thích hợp. Nhẹï nhàng lấy tay trái để trên bàn tay mặt, khiến ngón trỏ tay trái giao đầu ngón cái tay mặt, đầu ngón giữa và áp út dưới vừa chí bàn tay. Từ từ hả miệng thở hơi dài bốn năm lượt, hàm răng hơi hở, êm ái cuốn lưỡi lên. Kế nhìn như thường chậm rãi nhắm mắt, không nên nhắm gấp, nhắm gấp trong con mắt sẽ động nước mắt và cay.

Như bài kệ:

Ba thời : nhập, trụ, xuất,

Như kiếp : thành, trụ, hoại.

Muốn mau là không thông,

Người không biết chừng mực.

Hơi thở có bốn thứ phải chọn lựa:

1. Phong 2. Khí

3. Xuyển 4. Tức.

Hơi thở có tiếng gọi là Phong. Hơi thở ngăn trệ gọi là Khí. Hơi thở ra vào không hết gọi là Xuyển. Hơi thở không có tiếng, không ngăn trệ, ra vào đều hết, nhẹ nhàng như còn như mất là Tức. Thủ Xuyển thì nhọc nhằn. Thủ Khí thì ngăn trệ. Thủ Phong thì tán loạn. Thủ Tức thì an định.

Ôn Sư cả nhà đều hệ niệm tại rún của mình. Chỗ chính giữa rún như cánh hoa đậu, mở y xem kỹ tướng ấy, nhiên hậu nhắm mắt, ngậm miệng, hở răng, cuốn lưỡi lên ổ gà, điều hòa hơi thở, nhất tâm quán kỹ tướng ấy. Nếu quán tưởng không thấy tướng cuốn rún, lại mở y xem thật kỹ, rồi thực hành như trước.

- Tại sao tưởng cuốn rún?

- Hơi thở xuất phát từ cuốn rún ra, vào đến rún diệt. Rún là chỗ xuất phát và tiêu diệt của hơi thở. Vì để biết lẽ vô thường nên quán tưởng rún. Rún là cội nguồn của ruột. Từ nguồn phăng lần lên tự nhiên thấy bất tịnh. Nếu thấy bất tịnh thì dứt tham dục. Trong Tứ niệm xứ, nó thuộc về Thân niệm xứ. Trong Lục diệu môn, nó thuộc Chỉ môn. Thần thức lúc mới thác sanh cùng tinh huyết tụ họp tại rún. Bởi thế, người sống là do rún gìn giữ. Nếu hành giả thấy cuốn rún rõ ràng, tự nhiên sanh nhàm chán thoát khỏi mọi sự ràng buộc. Kinh nói: "Tùy chỗ đến hệ tâm quán sát kỹ". Chỗ đến tức là rún, chỗ gốc của hơi thở ra vào vậy.

- Khi hệ niệm, hoặc đau như kim chích, hoặc gấp như dây lôi, hoặc ngứa như trùng cắn, hoặc lạnh như nước dội, hoặc nóng như lửa hơ, các xúc chạm như thế rồi tinh thần sáng suốt yên lặng.

- Ấy là điển quang định. Trong khi nầy có vô lượng việc tương tợ, hành giả lúc đó tất cả đừng đắm trước, chỉ nỗ lực nhất tâm tự nhiên mọi việc đều qua. Nếu không tinh tấn thì phải thối đọa.

- Tại sao khi sổ tức chợt quên số chỉ nhớ hơi thở ?

- Tâm có phần tế, gần nhất tâm nên quên số. Tiến lên sẽ thấy hơi thở là một số, một cảnh, nếu còn thấy hai là thô.

- Tại sao không biết hơi thở, chỉ biết cảnh.

- Hành giả đã trừ được quán thô, hơi thở dần dần tế nên không thấy.

- Có người nói: Tất cả lỗ chân lông đều hở, hơi thở theo đó ra nên không thấy.

Đại sư dạy : Tại hơi thở tế nên không thấy.

Ở đây nói hơi thở theo lỗ chân lông ra, đã ra lỗ chân lông tại sao không ra ở mũi ? _ Nói tế không thấy là căn cứ sự hệ niệm. Nói ra lỗ chân lông là căn cứ sự thông suốt.

Có người bảo : Hơi thở dừng không chuyển, tâm nhãn chợt sáng chói như điển quang nghi là điển quang định.

Tập giả nói : Nếu chỉ không thấy hơi thở là vì hơi thở tế. Chợt nhiên mắt sáng, người hay nói đến đây phải yên lặng, tâm từ đây về trước có chút ít tiện lợi và thân có xúc chạm, nhiều người cho là Thiền ân Hỷ Lạc.

Đại sư dạy: Đây là tâm thập thiện tương ưng, không phải là Thượng giới, qua giai đoạn này sẽ vào Thiền cảnh. Nhưng còn phải dẫm trên băng, lội xuống vực sâu mới qua được. Xúc chạm tự biết không nên nói. Các thầy đều lấy đó mà nghiệm hư thật. Nếu biết mà nói, e dòng vọng tưởng trở lại hại mình.

Nếu chợt thấy hơi thở trở lại, khởi đếm một,… như trước. Nếu ngồi lâu, khi muốn xuất định hơi thở hiện trở lại, liền theo mười hơi và đếm qua muời hơi; kế nhẹ nhẹ động hai tay, hai chân, động toàn thân như phép xoa bóp, rồi mở mắt từ từ, sau mới đứng dậy. Trong khoảng thời gian này do hằng đếm hơi thở nên chỉ còn biết phưởûng phất mà thôi, không phải chuyên cần

như trước. Cách nhập, trụ, xuất như bài kệ trước đã dạy.

Người tọa thiền hỏi các thứ bệnh, Đại sư dạy: Chỉ buộc tâm tại một cảnh không cho duyên cảnh khác thì bệnh tự lành. Dụng công như thế xa lắm là ba ngày không có bệnh nào mà chẳng lành.

- Tâm loạn dấy khởi ngang thì sao?

- Nhiếp niệm có thể lành.

- Bệnh do tứ đại tăng, giảm làm sao lành được?

- Do tâm động chuyển phát ra gió, v.v… đứng dừng lý cũng như vậy.

Đại sư dạy : Thật tâm hệ thật cảnh, thật duyên lần lượt sanh thật, sự thật đấp đổi cho nhau tự nhiên vào thật lý.

- Chứng thiền định liền được nhập lý lại có địa vị không?

- Người lợi căn tâm định liền được nhập lý không có địa vị. Người độn căn phải trải qua Cửu thứ đệ định, định hết mới hội lý.

- Ngoại đạo tu thiền định đến Phi tưởng sao không hội lý ?

- Ngoại đạo tu định đều kẹt tại tâm chấp ngã, tâm làm chướng ngại nên không hội lý.

Phàm khi đau, do loạn phong khởi cùng bên ngoài đấu tranh. Thế nào cùng bên ngoài đấu tranh ? - Nghĩa là tâm vừa đi liền kéo lôi lại. Như dạy đứa bé đi, để mặc nó đi, không được lôi kéo. Người muốn mau được cần phải dè dặt.

Cấp, tại giảo phong khởi. Do hành giả chuyên tâm thái quá, phong thế phân tán không hết gây nên. Nếu thái quá hay bất cập lỗi vẫn là một.

Ngứa, do hành giả khi hơi thở sanh cho là diệt, khi hơi thở diệt cho là sanh, ý cùng hơi thở trái nhau. Cho nên nói:" Không biết rõ ràng kỹ lưỡng, giặc từ trong sanh ra".

Lạnh, do hành giả không lấy vị làm chỗ niệm xứ nên thủy đại tăng.

Nóng, do hành giả thường hy vọng nên hỏa đại tăng.

Đại sư dạy : Người muốn tu hành cần phải có phần, nếu người không có phần không thể tu được. Thế nào là phần ? Nghĩa là tứ tâm :

1. Tâm kiên tín, tin sâu lời thầy dạy.

2. Tâm thọ dụng, thọ dụng lời thầy để tu tập.

3. Tâm tín cần, thường tự cố gắng tu tập.

4. Tâm phương tiện, vi tế hồi chuyển.

Mạch trong thân như trăm sông chảy về biển. Quả tim như câu móc vào đầu con vật, bốn miếng hợp lại thành một, mỗi miếng có mười sợi mạch chung ràng rịt, cho nên đầu quả tim có 40 sợi mạch. Dưới mỗi mạch chạy thẳng xuống rún gọi là Ưu đà na phong. Ưu đà na dịch là Trung. Vì thế gọi mạch này là Trung mạch. Hành giả khéo vi tế hồi chuyển các mạch máu cho được lưu thông.

Trong lúc toạ thiền bên ngoài có các thứ biến hình: hoặc cha mẹ, sư tăng, vua chúa, mỹ nữ; hoặc hình tượng sư tử, cọp, sói, v.v… đó là ma quỉ. Hành giả phải dụng tâm giả tưởng mình cầm đao kim cang, vừa tưởng như thế, chúng liền thối lui.

Phàm bệnh có nhiều thứ :

1- Thân bệnh

2- Quỉ làm bệnh

3- Ma làm bệnh

4- Hơi thở không điều hòa sanh bệnh

5- Nghiệp chướng hành bệnh

1. Thân bệnh :

Khi tọa thiền hoặc dựa vách, hoặc cổ áo chật sanh bệnh. Đại chúng chưa xả thiền mà mình đã nằm, tâm lười biếng này là tiện lợi của ma, chúng nhập thân làm bệnh, khiến người ở sau xương sống đau nhức, ấy là chú bệnh, rất khó trị. Hành giả phải cẩn thận. Cách trị, dùng hơi thở hít vô từ trên đầu thẳng xuống xương sống xuyên qua các mắc xương rót xuống, phải khéo dụng tâm mới có thể lành.

2. Quỉ làm bệnh :

Có người khi tọa thiền tâm nghĩ bao nhiêu việc: hoặc mong biết được cái gì, hoặc muốn biết được việc kiết, hung của người. Nhơn đó bọn quỉ Đâu ê la đến nhập trong thân người ấy, biến hiện các thứ: hoặc thấy việc kiết, hung, hoặc biết trong thân người khác, hoặc biết một nhà, một làng, một chợ, một châu, một quận, và trong một nước những việc kiết, hung, thiện, ác... hoặc tương tợ thánh nhân mà thật không phải thánh. Tất cả thứ ấy đều do quỉ làm ra không nên chấp trước. Nếu không sớm trị, lâu ngày có thể hại đến người.

3. Ma làm bệnh :

Có người khi tọa thiền tâm nghĩ việc lợi dưỡng, nhơn đó bọn ma hiện ra các thứ y phục, ăn uống, bảy báu, tạp vật để cúng dường. Phải biết đó là ma. Nếu biết cần lo trị gấp, không sớm trị, nó nhập tâm thành bệnh rất khó trị.

4. Hơi thở không điều hoà sanh bệnh :

Có người khi tọa thiền không hiểu cách điều hòa hơi thở thành bệnh, khiến thân thể khô héo ốm gầy. Người nầy không có lỗi nên dễ trị. Phép trị, dùng hơi thở khắp đầy trị. Chính là vận dụng hơi thở lưu thông khắp người nên gọi là hơi thở khắp đầy. Dụng công, dùng tâm ngưng hơi thở rồi chậm rãi hít hơi vô từ đầu chạy khắp tứ chi đều đầy dãy. Bởi người không biết vận dụng hơi thở khiến gân mạch khô khan, thân người không tươi nhuận, dạy dùng hai thứ hơi thở (khắp,đầy) điều khiển từ trên chạy xuống dưới, khiến hơi thở khắp thân nên gọi là hơi thở khắp, hơi thở đầy. Hơi thở đầy khắp nên thân thể được bình phục, sau sẽ dùng chỉ tức. Thế nào là Chỉ tức ? _ Bình tâm trực trụ không động là Chỉ tức.

5. Nghiệp chướng làm bệnh :

Toàn thân thủng phù da vàng mập bủng, người này chướng nặng khó trị, phải chuyên cần Sám hối. Pháp trị, dùng Tiêu tức và Triều tức trị. Thế nào là Tiêu,

Triều ? Hai hơi thở này không phải đem từ ngoài vào trong thân, mà phải vận dụng tâm tức khởi tưởng Tiêu (khô), Triều (nóng). Vận dụng hai thứ hơi thở này lưu thông từ đầu đến chân và lưu lại ở tứ chi, lưu thông khắp thân khiến bệnh thủng phù tiêu xọp. Sau khi xọp, lại dùng tâm tức bình tâm trực trụ, hơi thở được bình phục, cần siêng năng Sám hối. Lại có người tứ chi tê liệt không thể cử động, hai tay hai chân như muốn rớt, hoặc xuội một cánh tay. Cách trị, dùng hơi thở khắp thân và lưu lại tứ chi lâu ngày tự lành.

Nếu bị bệnh miệng giựt méo bên tả thì chú hơi thở qua bên tả, nếu méo bên hữu thì chú hơi thở qua bên hữu. Nếu méo một góc bên tả, bên hữu cũng như thế.

Nếu có các bệnh cũ, hoặc nóng, lạnh, ... dùng hơi thở xuống chân khiến bệnh tiêu diệt. Trong thân rất tế nhị, các bệnh đều dùng hơi thở trị hết. Như bệnh lạnh dùng hơi thở nóng trị, bệnh nóng dùng hơi thở lạnh trị. Pháp đối trị mỗi bệnh nên dùng hai thứ hơi thở này mà trị.

Lại khi tu hành dùng hơi thở, nếu nghe chân nhẹ đầu nặng, đó là tâm cao mạn và vọng tưởng, phải dứt tâm cao mạn, dứt vọng tưởng và đem tâm xuống. Nếu nghe chân nặng đầu nhẹ nên khởi tâm thương xót chúng sanh.

Nếu khi đi nên dụng tâm không cao không thấp, khiến hơi thở điều hòa. Điều khiển hơi thở khắp cả thân tâm, liền được nhập Thông minh quán, có thể quán tâm tánh Tam muội và thân tướng tam muội. Tâm, tướng là căn bản của sự tu tập. Kinh nói: " Biết tâm thấu suốt cội nguồn không phải là hư giả".

Phép trị bệnh kiết, an tâm dưới rún. Nếu bệnh kiết do lạnh thì dùng hơi thở nóng; bệnh kiết do nóng thì dùng hơi thở lạnh, đến bao giờ lành mới thôi.

Phép trị ho, khi cơn ho muốn phát (vừa ngứa cổ) dùng miệng nhả hơi ra ba lần, nhiên hậu an tâm quán ở giữa. Khi muốn ho liền nhả hơi ra tưởng cái ho theo ra, rồi an tâm như trước thì bệnh tự lành.

Phép trị sưng, dùng hơi thở tưởng phá chỗ sưng ra, vận dụng hơi thở cuốn chỗ sưng tan hết. Dùng tâm trụ định an trụ ngay trên chỗ sưng tưởng soi phũng một lỗ, vận dụng hơi thở ngay giữa chỗ sưng ra vào, sưng liền xọp vậy.

Phép trị ù tai, an tâm bên ngoài lỗ tai, nhẹ nhẹ dẫn hơi ra, tưởng lôi hơi ở bên trong ra hết, chốc lát bệnh liền lành.

Trị người tọa thiền hốt nhiên nghe trong cổ in tuồng có một vật dài độ một hai tấc, không thể khạc ra được. Phải dùng tâm trụ định an trụ trên vật ấy, nhiên hậu phân tâm ra bốn phía, ý nghĩ rằng: "Trong ngoài đều không, bệnh từ đâu sanh?" Nhưng cần phải hiểu tánh không, đuổi nó mới được.

Trị trong khi tọa thiền bị hơi thở ngắn, nêân trước thở hơi dài, từ lỗ mũi hít hơi vô khiến đầy khắp thân rồi mới cho ra. Sau an tâm tại chỉ tay trong lòng bàn tay, lâu lâu nó tự hết.

Phép dùng một hơi thở trị các thứ bệnh trong thân. Vận dụng hơi thở từ lỗ mũi hít vào khiến đầy khắp người, rồi nhẹ nhẹ ngậm miệng tùy hơi tự chứa trong thân, khi thở ra tâm dẫn từ trong xương thẳng xuống hậu môn ra ngoài. Khi ngủ dụng tâm dẫn hơi thở xuống bàn chân. Đi, đứng, ngồi, nằm hằng dụng tâm cũng như thế. Khi tứ chi có bệnh tạp phải dùng hơi thở nầy thở cho thông, nhiên hậu tùy chỗ bệnh mà dẫn hơi thở đến. Ngay chỗ bệnh dẫn hơi thở ra, vào không có chướng ngại là bệnh lành.

Trị bệnh lạnh dùng hơi thở nóng, trị bệnh, nóng dùng hơi thở lạnh.

Trị bệnh trong xương tủy dùng hơi thở dao. Nghĩa là tưởng mổ trên bàn chân một đường to bằng mười đầu ngón tay, vận dụng hơi thở xẻ xương bàn chân cho hơi thở ra, dần dần được lành

Trị người sưng một phần trong thân. Dùng hơi thở đao xẻ dưới bàn chân độ quá 10 ngón tay khiến hơi thở thông ra đó. Sưng khắp mình, dẫn hơi thở xuống an tại lòng bàn chân. Thân nặng dùng hơi thở nhẹ, thân nhẹ dùng hơi thở nặng.

Người sơ học tọa thiền khi đếm hơi thở dài, ngắn, ngoại thần đến lỗ mũi, tâm xông thẳng lên đảnh nghe nóng ran. Cách đuổi, ngậm miệng hít hơi hướng lên đến đảnh, lại dẫn hơi trở xuống thì bệnh tự dứt. Bệnh nầy nếu không sớm trị nó sẽ xuyên qua con mắt, hai con mắt đều mờ. Đây là bệnh gì? Nếu là quỉ thần, thần ấy tên gì? _ Quỉ thần nầy tên là Bạt Di Đa, nó duỗi tay án con mắt mở. Nên tụng chú: "Nhơn chi ba trú, tỳ ni nã ba chú, ưu tẩu ba trú". Tụng đến ba biến, con mắt liền sáng như cũ.

Người sơ học khi tọa thiền được tế tâm trụ, bị người ngoài làm xúc chạm, hơi xông lên lồng ngực và đầy bụng không thể ngồi yên, ấy là sáu thần [Sáu thần : gan, tim , phổi, lá lách, thận, âm.] trong thân đều chạy lên ngực, do đó sanh bệnh. Phép trị, trước mở áo, nới rộng dây lưng, thở ra thật dài, hít vào ngắn, độ mười hơi như vậy, sau tụng bài chú trên đến 10 biến thì bệnh lành.

Người sơ học khi tọa thiềân được tế tâm trụ, bị người ngoài xúc chạm, hơi xông lên phổi thành bệnh. Phổi đầy dẫy, quá 100 ngày sanh ụa mửa không thể ăn uống được. Đó là bị ác thần tên Bạt Di Da ở bên ngoài nhập vào thân người. Vị thần nầy da đỏ, sáu con mắt có 8 lỗ hoặc lớn hoặc nhỏ. Lại có 3 tiểu thần tên Hô Sưu Ê hoặc biến hình làm trẻ con, hoặc là thân mãng xà, da nó đỏ và đen. Thần Đâu La Ê hình hoặc lớn, hoặc nhỏ và trung, ba cách biến.

Người sơ học khi tọa thiền các lóng xương sau lưng đau nhức, tự cho là tại cong vẹo gây nên. Đây là bệnh gì ? _ Bệnh nầy tên Lục căn thông thân du hý. Không bao lâu sẽ đau khắp toàn thân thẳng lên đảnh. Phép trị, ba lượt duỗi thân thể , tụng thần chú trước là lành.

Nguời sơ học khi tọa thiền sáu thần chìm lặng bị người ngoài đến xúc chạm, sáu thần chạy ngang ra ngoài thân, mỗi lỗ chân lông có một vị thần đồng thời nhập vô thân phát sanh vui mừng. Thân thể sưng lên và sanh trở ngại không ngồi được. Phép trị, ngậm miệng hít hơi thở lên trên hai lượt đầy trong thân, lại kéo hơi xuống dưới, nhiên hậu tụng bài chú trước. Lại liệt tên ác quỉ thần: Hồ Sưu Ê, Bạt Di Đa, liền được mạnh. Lại nói hơi thở ra là an, nguời quán hơi thở chỉ nên đếm hơi thở ra.

Nguời sơ học khi tọa thiền hoặc có loạn động, không phải là bệnh lâu ngày. Phép trị, trước tụng bài chú trên, dứt loạn ngữ thì bệnh dừng.

Nguời sơ học khi tọa thiền trong thân thấy có lửa dậy, không phải là bệnh. Phép trị, người khác biết, thầm đem lửa để trong cái chậu sành, không cho hành giả biết, để chậu gần kề đầu hành giả, người kia bèn hô to: "Đây là lửa lớn !". Hành giả liền mở mắt không thấy chi cả, ba phen làm như vậy, trong thân thấy lửa liền dứt.

Nguời sơ học khi tọa thiền hoặc thấy trong thân có nước hiện, đó không phải là bệnh. Phép trị, người khác lấy chậu đựng nước không cho hành giả biết, người kia miệng ngậm nước phun vào mặt hành giả, hành giả mở mắt không thấy chi, ba phen liền dứt.

Nguời sơ học khi tọa thiền nghe vật nặng xúc chạm quả tim, có người đến gần thì kinh sợ, quả tim đập mạnh, tức thì hai tay sờ soạng bị bệnh đại, tiểu không thông. Đây là trong thân sáu thần đều chạy xuống nên sanh bệnh. Phép trị, hít hơi thở đem xuống dưới, lại kéo trở lên trên, tụng bài chú trước đến lành mới thôi. Phép dụng tâm, lúc vào nhà cầu khi đại tiểu ra, tưởng tất cả bệnh đều theo ra hết.

Hành giả tâm được chút ít khai ngộ đối thâm nghĩa Phật pháp lần lượt liễu giải, tâm sanh hoan hỷ, thích chí suy nghĩ quá sức sanh bệnh tư lao. Hành giả phải dùng trí quán xét, nếu nên Chỉ thì Chỉ, nên Quán thì Quán, Chỉ, Quán đúng pháp thì sẽ được lâu bền. Bệnh trạng tư lao rất nhiều, hoặc bị nhức đầu, no hơi... đều dùng hơi thở điều trị.

Phép trị bệnh nhức đầu, ở mũi hít hơi vô rồi, miệng thở hơi ra nhẹ nhẹ, ý tưởng hơi đau trong đầu nhẹ nhẹ theo miệng ra ngoài. Nếu khi tâm vi tế chậm rãi điều hòa, ba phen dẫn hơi ra, phải tự hít hơi mát vô, thổi hơi ấm ra nhẹ nhẹ. Hít hơi mát vô, thở hơi ấm ra, như vậy không quá 10 lần bệnh nhức đầu được lành.

Phép trị bệnh no hơi, ở mũi hít vô, ở miệng hơi thở ra nhẹ nhẹ, ý tưởng hơi đầy trong bụng theo miệng ra hết, cần phải cho ợ. Nếu khi no hơi quá ngặt, phải nằm ngửa duỗi thẳng hai tay hai chân, rồi lấy tay nhẹ nhẹ xoa lên da bụng, phải xoa năm mười vòng, cần cho ợ. Sau ngồi dậy lại dẫn hơi ra như trước. Nếu người tâm điều hòa vi tế đến 10 hoặc 20 năm thì bệnh no hơi ngăn trệ chỉ trong một ngày đêm là dứt. Do dụng tâm hơi thở điều hòa không hoãn, không cấp, thô, tế, điều hòa vừa chừng mực bệnh liền lành. Nếu dùng hơi thở thô, tế, hoản, cấp, điều hòa không vừa chừng mực thì bệnh không thể lành. Nếu thở ra có tiếng là thô, cấp; thở ra nhẹ như không liên tục là tế, hoản. Tế, hoãn thì tốt. Lại nữa , khi bị bệnh no hơi, nếu dẫn hơi ra dài lại tăng thêm bệnh. Hơi thở ra không dài, không ngắn, điều hòa thích hợp vừa chừng, bệnh ắt lành. Dùng hơi thở vừa chừng trị được tất cả bệnh trong người. Người tọa thiền điều hòa hơi thở vừa chừøng bệnh đều lành.

Người tọa thiền nhập định tâm vi tế chớ ôm lòng buồn, giận. Nếu có buồn, giận sẽ mắc chứng bệnh thuộc về hơi. Đếm hơi thở vô cũng là cái duyên cớ mắc bệnh hơi. Dùng ngũ tạng làm cảnh quán niệm, tu thiền định cũng thành bệnh. Cho đến tụng kinh liên tục không dừng, hoặc đang thở ra thình lình hít vào, đang hít vào chợt thở ra đều thành bệnh. Các bệnh nầy nên dùng phép hơi thở trước mà trị.

Lại khi bị bệnh nhức đầu không được trị bệnh no hơi, khi trị no hơi không được trị nhức đầu. Một lúc trị cả hai bệnh càng tăng thêm bệnh.

Nếu hơi nóng xông lên đầu nhiều, trị bệnh nầy dùng mũi hít hơi vào, hả miệng to thở hơi ra nhẹ nhẹ. Người ngồi nhiều, mừng nhiều thường bị bệnh hơi. Nếu bị bệnh hơi phải dùng cách mở miệng thở hơi ra trị lâu dài.

Người khi nghe răng lạnh mà tâm được điều hòa vi tế, phải dùng mũi hít hơi vào, lại dùng mũi thở hơi ra nhẹ nhẹ trị nó. Ngoài ra, tâm được điều hòa tất cả bệnh thuộc về hơi đều dùng mũi thở ra hít vào mà trị. Nếu dùng pháp Sổ tức duyên chỗ bệnh, khi hơi thở vào chớ duyên, chỉ duyên hơi thở ra..

Nếu tu Quán quá phần tâm sanh loạn động. Tu Chỉ quá phần tâm sanh hôn trầm. Hành giả độn căn phải thường tu Quán, suy xét để trị bệnh độn.

Người tọa thiền nếu điều tâm tại trong ngũ tạng ra duyên cảnh giới, hoặc định tâm tại trong ngũ tạng ra duyên cảnh giới, người ấy không bao lâu sanh bệnh. Khiến hành nhơn ngũ tạng sanh khí, mạch cùng cảnh giới liên hệ, sanh bệnh tay chân co giựt. Phép trị, khởi ý quán tưởng trong thân từ trên đến dưới trống không như cây bọng ruột, cho đến khi ngồi xuống đất đều khởi tưởng không, hơi thở trong thân điều khiển đi luồn xuống đất. Nếu tâm điều hòa thì không bao lâu bệnh sẽ lành. Nếu bệnh đã lành, dạy hành giả lấy mắt cá chân trên làm cảnh giới để quán tưởng. Lại dạy bệnh nhơn : "Người bị bệnh này do dụng tâm sai lầm. Nghĩa là tâm không ở ngoài thân, không ở trong thân, tùy chỗ duyên nó sanh khởi, ngươi phải hiểu rõ".

Người toạ thiền khi chuyên tâm vào cảnh giới, ý cho là mắt thấy cảnh ấy, đến lúc tâm trụ có ánh sáng chiếu trên cảnh ấy, không biết là do tâm quang minh, ý quang minh sanh. Từ trong ánh sáng ra, trụ trên cảnh ấy, người này không bao lâu sẽ đau tròng con mắt, khiến đôi mắt nhức mờ. Phép trị, lấy tâm duyên con mắt, tâm thấy mắt nhắm, khởi nghĩ thế này : "Pháp quán trông thấy phải mở mắt xem, nay thấy mắt nhắm biết không phải là mắt thấy. Lại khi duyên con mắt thấy con mắt rõ, hướng lên duyên mắt là tâm, tâm từ trong sáng ra, tâm này không ở trong, ngoài, chặn giữa; con mắt cũng là tâm, tùy tâm duyên chỗ nào nó sanh chỗ đó, nó cũng không phải ở trong, ngoài, chặn giữa". Khi khởi quán như thế là nương nơi tâm đánh sai lạc, khiến bệnh được dứt, con mắt được lành.

Khi tọa thiền không được cổ áo chẹt, khiến người mắc bệnh no hơi. Người toạ thiền khi được thượng địa định lúc ra không nên khởi nghĩ xét việc thiện, ác, khiến người nhức đầu, phải cẩn thận. Các bệnh như thế, phép trị như trước.

Người toạ thiền thấy cảnh giới trên có bụi dấy lên, kết đọng lại tợ hồ bánh xe tơ quay, người đó có bệnh phong không nên tu thiền định thượng địa e phát cuồng, chỉ được học thân niệm xứ, pháp quán hạnh phương tiện trị bệnh phong, bệnh lành rồi mới học tu thiền định thượng địa.

Nếu nhập thiền định bị tiếng bên ngoài xúc động, hoặc khi có việc xúc chạm vào thân, biết liền xuất định thì không thành bệnh. Nếu trong tâm ôm ấp sự nóng giận, thù hiềm, não hại thì sanh nhập thâm định thì bị tiếng to xúc động, tiếng tuy bên ngoài mà tại trong thân, hoặc tiếng do cảnh giới quán phát xuất, người ấy muốn xuất định mà không xuất được, tâm kinh hãi, tinh thần mê man, sau mới xuất được, khiến người này bị bệnh phúc trướng (bụng to), nếu nặng ra huyết. Có việc chạm vào thân sanh bệnh cũng như thế. Phép trị, cũng dùng cách điều hòa hơi thở như trước. Nếu khởi sân hận bực tức thì bệnh không thể trị, hoặc khi đến chết là khác.

Người sơ tập toạ thiền nếu đại, tiểu tiện không thông, đem hơi lên trên, lại kéo hơi xuống dưới, tụng bài chú trước bệnh liền lành.

Người sơ tập toạ thiền có những việc tốt hiện, có người đến xúc não: hoặc chê bai Phật pháp, hoặc nói tiếng lạ khiến người không hiểu, đó là ác quỉ Đâu Ê La nhập thân, tụng thần chú trước liền lành. Thần Đâu Ê La thân vàng, chợt lớn, chợt nhỏ.

Dạy người Pháp quán hơi thở ra vào trị thân đau nhức ?

- Người quán hơi thở tại sao toàn thân đau nhức.

- Một thầy nói :"Do ăn quá no đồ ăn chưa tiêu hóa, vội tọa thiền nhiếp niệm hơi thở thô, niệm tế nên sanh bệnh này. Phép trị, bớt ăn hai, ba ngày, tiết chế hơi thở khiến cho dài, duyên kỹ tướng hơi thở ra đôi ba ngày sẽ lành".

Một thầy nói: "Do nhiếp niệm gấp quá hơi thở kết đọng sanh bệnh. Phép trị, tưởng thân mình như nồi nấu cơm lên hơi, nhiên hậu tưởng có gió từ trong rún khởi ra đến miệng mỗi lúc càng to thổi tan hết hơi trong mình, sau khi tan hơi bệnh được lành. Vài ngày sau phải ăn đồ bổ, dè dặt chớ thấy gió. Lại pháp trị, khi chưa ăn cơm, ở trong thất kín không nghe tiếng động, buông thả tay chân, từ miệng điều hòa hơi thở năm lượt, đôi ba ngày tọa thiền liền mạnh.

Lại bảo: Do khi mới tọa thiền hành phong còn thạnh, không làm phương tiện liền gấp kềm thân trụ, trụ phong cùng hành phong chống nhau sanh bệnh. Phép trị, phải đi từng chậm đến mau độ chừng năm dặm, trở lại đi từ mau đến chậm rồi ngồi, thở hơi dài chừng bố năm lượt, buông thả tay chân lặng lẽ và phóng ý trong khoảng nửa giờ, lại dẫn hơi thở dài nhẹ đôi ba lượt không cho lỗ tai nghe tiếng; lại phóng ý như trước độ nửa giờ, nhiên hậu nhiếp niệm đến chỗ tọa thiền ắt lành.

]
http://thientongvietnam.net/kinhsach-thike/dirs/thienmonkhauquyet/index-unicode.html



THIỀN TÔNG VIỆT NAM

Wednesday, August 25, 2010

Hạnh phúc và đau khổ -1 MP3 HT Thích Giác Tây giảng

Hạnh phúc và đau khổ -2 MP3 HT Thích Giác Tây giảng

Niệm Phật siêu thoát luân hồi-MP3 HT Thích Giác Tây giảng

Nghiệp chướng trên đường tu- 2 MP3 HT Thích Giác Tây giảng

Nghiệp chướng trên đường tu- 1 MP3 HT Thích Giác Tây giảng

Bì chay





Vật liệu:

-1 củ khoai môn (bào sợi mỏng).
-Tàu hủ chiên( cắt sợi mỏng).
-Bún tàu(2 gói nhỏ)
-1 bọc thính.

Cách làm:

_Khoai môn bào sợi mỏng ,ngắn đem deep fried,vớt ra bỏ vào nồi nước sôi trụng sơ và trút ra rổ để ráo nước.Chú ý: Khi deep fry các bạn nên chiên lửa mạnh thì khoai môn mới khg bị nát.
_ Tàu hủ chiên mua sẵn trong siêu thị cắt mỏng.
_Bún tàu ngâm mềm,sau đó để bún tàu vào rổ dầy và dội nước sôi vào trộn qua lại chút cho vừa mềm,để ráo nước khoảng 3 giờ(nhớ cho chút dầu ăn vào để đừng bị dính nhau) , trộn thính vào bún tàu .

Trộn chung tất cả lại,nêm vào bột nêm ,đường,muối.Món ăn này phải có nước mắm chay ngon thì ăn mới hao bún .Chúc các bạn làm thành công.

Các bạn cho thêm củ sắn vào thì càng ngon hơn.


Nước mắm chay bằng nước táo(apple juice) (cách này rất ngon)

1 bình nước táo (apple juice) 2 quarts
1 thẻ đường tán
1 tới 3 muỗng canh muối (người cữ muối thì 1 muỗng)

Nấu nước táo với đường, muối cho kẹo còn lại phân nửa (1 quart, lấy chiếc đũa nhúng vô xem ướt tới đâu, nấu tới còn phân nửa phần ướt của chiếc đũa) là xong.
Khi nào ăn cho thêm ớt bằm.

Các bạn làm xong để nguội cho vô tủ lạnh tiện lắm.



Dưa chua


-1 cup đường
-2 cups nước sôi nguội
-3/4 cup dấm
-1 chúm tay tí xiú muối ( khoảng 1/5 muỗng càfê muối)

Cách này rất ngon,rất vừa ăn.

Tuesday, August 24, 2010

Niệm về cái chết -2 MP3 ( rất hay)

Niệm về cái chết -1 MP3 ( rất hay)



CN thích nhất là Thầy giảng về con tàu kỳ lạ........

Niệm về cái chết -3 MP3 ( rất hay)

Tập nói lời xin lỗi- 1 MP3 Thầy Thích Thông Phương giảng rất hay

Tập nói lời xin lỗi- 2 MP3 Thầy Thích Thông Phương giảng

Tập nói lời xin lỗi- 3 MP3 Thầy Thích Thông Phương giảng

Monday, August 23, 2010

Nỗi đợi chờ -1

Nỗi đợi chờ -2

Sống thanh thản,chết bình an -2 (Thầy Thích Thiện Thuận giảng)

Sống Thanh Thản Chết Bình An 1

Cảnh giới tái sanh - MP3 ( nên nghe trong mùa Vu Lan Báo Hiếu)

Sunday, August 22, 2010

37 PHẨM TRỢ ĐẠO - MÓN ĂN GIẢI THOÁT

BẢNG TÓM LƯỢC LỘ TRÌNH TU CHỨNG

1/ Người tu muốn đạt được TAM MINH để làm chủ SINH TỬ và chấm dứt LUÂN HỒI thì phải ở trên tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự đúng bảy ngày đêm thì BẢY NĂNG LỰC GIÁC CHI xuất hiện đủ.

2/ Người tu muốn có đủ Bảy Năng Lực Giác Chi thì phải tu tập TỨ NIỆM XỨ. Tu tập Tứ Niệm Xứ là phải TRÊN THÂN QUÁN THÂN suốt bảy ngày đêm liên tục thì mới có đủ BẢY NĂNG LỰC GIÁC CHI xuất hiện.

3/ Người tu muốn tu tập Tứ Niệm Xứ thì phải tu tập BA THIỆN HẠNH có kết quả. Ba Thiện Hạnh tức là ý hành thiện, khẩu hành thiện, thân hành thiện tức là tu tập Tứ Chánh Cần. Khi tu tập TỨ NIỆM XỨ thì tâm không còn vọng niệm, không các cảm thọ và hôn trầm, thùy miên, vô ký. Quý vị nên lưu ý lời dạy này, không nên tu tập TỨ NIỆM XỨ khi tâm còn vọng động

4/ Người tu muốn tu tập Ba Thiện Hạnh thì phải CHẾ NGỰ CÁC CĂN (Độc Cư) tức là tu tập NĂM CĂN. Vậy năm căn gồm có:
1- NHÃN CĂN
2- NHĨ CĂN
3- TỶ CĂN
4- THIỆT CĂN
5- THÂN CĂN
Muốn tu tập NĂM CĂN thì phải tin lời Phật dạy: “Ta thành chánh giác là nhờ tâm không phóng dật” Muốn tâm không phóng dật thì phải phòng hộ sáu căn bằng pháp ĐỘC CƯ

5/ Người tu muốn Chế Ngự Được Các Căn thì phải tu tập CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC. Tu tập CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC thì phải tu tập 19 đề mục HƠI THỞ và pháp môn THÂN HÀNH.

6/ Người tu muốn đạt được Chánh Niệm tỉnh Giác thì phải tu tập NHƯ LÝ TÁC Ý. Tu tập NHƯ LÝ TÁC Ý thì phải tu tập TỨ VÔ LƯỢNG TÂM.

7/ Người tu muốn đạt được pháp môn Như Lý Tác Ý thì phải có LÒNG TIN tu tập LÒNG TIN thì phải tu tập TỨ BẤT HOẠI TỊNH

8/ Người tu muốn có Lòng Tin thì phải được NGHE CHÂN PHÁP CỦA PHẬT. NGHE CHÂN PHÁP CỦA PHẬT thì nên nghe BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ ĐẠO

9/ Người tu muốn được Nghe Chân Pháp Của Phật thì phải THÂN CẬN BẬC TU CHỨNG ĐẠO, đã làm chủ sinh, già, bệnh, chết. THÂN CÂN BẬC CHÂN TU thì nên chọn những bậc GIỚI LUẬT NGHIÊM CHỈNH.
Trên đây là chín bài kinh được tóm lược các pháp để tu tập làm chủ sinh, già, bệnh và chết. Vậy ước mong sao những ai có duyên với chánh pháp này sẽ tiếp nhận được tập sách BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ ĐẠO, nó là một pháp bảo vô giá của đạo Phật.
Nếu ai đọc tập sách và tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết là đã đền đáp ơn Phật, Chúng tôi xin thành kính tri ơn những vị ấy là những người đã duy trì chánh pháp của Phật.



BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ ĐẠO

Theo chín bài pháp trên đây chúng tôi sắp xếp thành ba mươi bảy phẩm trợ đạo gồm từ pháp mới vào tu tập cho đến pháp tu tập cao hơn để chứng đạt chân lý giải thoát của Phật giáo. Bắt đầu từ:
1- TỨ BẤT HOẠI TỊNH
2- TỨ VÔ LƯỢNG TÂM.
3- NGŨ CĂN
4- NGŨ LỰC
5- TỨ CHÁNH CẦN
6- TỨ NIỆM XỨ
7- THẤT GIÁC CHI
8- TỨ NHƯ Ý TÚC

Ba mươi bảy phẩm trợ đạo có nghĩa là ba mươi bảy phương pháp tu tập giúp cho người tu hành chứng đạt chân lí. Cho nên chữ đạo ở đây không phải là đường lối, nguyên tắc mà con người có bổn phận gìn giữ và tuân theo theo trong cuộc sống xã hội. Mà chữ đạo ở đây có nghĩa là chân lý như trên đã nói.
Theo bảng sơ đồ phương php tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo thì điều kiện cần thiết cho một người muốn tu theo Phật giáo để tìm cầu sự giải thoát, có nghĩa là có năng lực làm chủ SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT và CHẤM DỨT TÁI SINH LUÂN HỒI thì trước tiên phải tìm một vị thầy chứng đạo (chứng quả A La Hán). Đây là giai đoạn thứ nhất mà người muốn tu theo Phật giáo không thể xem thường được, vì đó là một điều quan trọng hết sức không thể thiếu được. Nếu cuộc đời tu hành theo Phật giáo mà không gặp được một bậc thầy tu chứng đạo thì dù có đọc trăm kinh ngàn điển, có thông suốt tam tạng kinh điển thì sự tu hành cũng hoài công vô ích. Bởi không có một vị tu hành chứng đạo thì không được khai ngộ chân lí. Chân lí không được khai ngộ thì làm sao có lòng tin? Làm sao có đường lối tu tập? Đã không giác ngộ chân lý thì làm sao hộ trì và bảo vệ chân lý được?
Chân lí là một sự thật, chân lí không thể là một điều gian dối, lừa gạt người, nó không phải là một danh từ suông, không phải là một ảo tưởng, hư tưởng, tưởng giải và nó cũng không phải là một huyền thoại. Bởi chân lí là một sự thật của loài người. Nếu không phải là người tu chứng đạo thì không thể nào xác định chân lí đúng được. Mà xác định không đúng thì người hành trì sẽ sai và tu hành muôn kiếp cũng vẫn chịu trôi lăn trong lục đạo.

Cho nên muốn tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo thì việc chọn một bậc thấy tu chứng là một điều quan trọng và cần thiết nhất cho cuộc đời tu tập của mình.

BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ ĐẠO

Dưới đây là một bài kinh tóm lượt 37 pháp môn tu tập để làm chủ bốn sự đau khổ của kiếp người: Sinh, Già, Bệnh, Chết.
Một bài kinh rất có giá trị về sự thực hành rất cụ thể rõ ràng được xác định pháp nào tu trước pháp nào tu sau. Bài kinh có tên là “Thức Ăn Cho Các Pháp”.
Bài kinh này bắt đầu từ chỗ chứng đạo là pháp môn nào, cho đến chỗ mới vào đạo tu tập là pháp môn nào để mọi người tu hành không còn sợ tu tập sai pháp.
“Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo” là 37 pháp môn tu tập trên tám lớp (Bát Chánh Đạo):
1- Chánh kiến
2- Chánh tư duy
3- Chánh ngữ
4- Chánh nghiệp
5- Chánh mang
6- Chánh tinh tấn
7- Chánh niệm
8- Chánh định
Nghe nói 37 phẩm trợ đạo mà không thông suốt thì sẽ tu sai. Có nhiều người thuyết giảng 37 phẩm trợ đạo không căn cứ vào lời Phật dạy mà tự mình cấu kết những pháp môn có sẵn trong kinh nguyên thủy. Đó là một sai lầm hết sức. Vì thế chúng tội dựa vào bài kinh “Thức Ăn Cho Các Pháp” để quý vị biết 37 phẩm trợ đạo là những pháp môn nào.

Trước khi muốn biết rõ 37 phẩm trợ là những pháp môn nào chúng ta hãy đọc bài kinh THỨC ĂN CHO CÁC PHÁP, đức Phật đã giới thiệu: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Minh Giải Thoát (Tam Minh)? Bảy Giác Chi, cần phải trả lời như vậy”.

Lời dạy trên đây rất rõ ràng, nhưng chúng ta phải hiểu nghĩa của những danh từ này: MINH GIẢI THOÁT, BẢY GIÁC CHI. Vậy MINH GIẢI THOÁT nghĩa là gì?
MINH GIẢI THOÁT tức là TAM MINH. TAM MINH gồm có:
1- TÚC MẠNG MINH
2- THIÊN NHÃN MINH
3- LẬU TẬN MINH

a- TÚC MẠNG MINH nghĩa là gì?
TÚC MẠNG MINH là một trí tuệ phi thời gian, vì thế người tu tập có TÚC MẠNG MINH là biết được nhiều đời nhiều kiếp của mình trong thời gian quá khứ và thông suốt những điều sắp xảy ra cho mình trong tương lai.
b- THIÊN NHÃN MINH nghĩa là gì?
THIÊN NHÃN MINH là một đôi mắt phi không gian, vì thế người tu tập có THIÊN NHÃN MINH là thấy suốt cả vũ trụ không có chỗ nào trong vũ trụ mà không thấy, thấy biết sự vật như những sự vật đang đặt ở trước mắt. Đôi mắt THIÊN NHÃN MINH đó thấy biết nhân quả của từng người và của từng thời gian.
c- LẬU TẬN MINH nghĩa là gì?
LẬU TẬN MINH là một trí tuệ luôn luôn thấy biết tâm VÔ LẬU không còn một chút xíu tâm HỮU LẬU nào xen vào cả, tức là tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự.

BẢY GIÁC CHI nghĩa là gì?
BẢY GIÁC CHI còn có tên gọi là BẢY BỒ ĐỀ PHẦN. BẢY BỒ ĐỀ PHẦN nghĩa là bảy năng lực giải thoát khi một người tu tập trên pháp môn TỨ NIỆM XỨ suốt bảy ngày đêm tâm bất động sẽ thấy lần lượt BẢY NĂNG LỰC này xuất hiện. Khi xuất hiện đủ BẢY NĂNG LỰC GIÁC CHI này thì người tu sĩ đã chứng quả VÔ LẬU (A La Hán)
BẢY NĂNG LỰC GIÁC CHI là bảy trạng thái giải thoát mà người tu chứng quả A La Hán đều phải có đủ. BẢY NĂNG LỰC GIÁC CHI này gồm có:

1- Niệm Giác chi
2- Trạch pháp giác chi
3- Tinh tấn giác chi
4- Hỷ giác chi
5- Khinh an giác chi
6- Định giác chi
7- Xả giác chi

BẢY GIÁC CHI này theo thứ tự của kinh sách, chứ không phải là BẢY NĂNG LỰC GIÁC CHI như lời dạy trên đây của đức Phật. Riêng theo kinh nghiêm tu tập của chúng ta thì BẢY NĂNG LỰC GIÁC CHI theo lời Phật dạy thì phải theo thứ tự như sau:
Khi tâm “BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC VÀ VÔ SỰ” kéo dài từ nửa tiếng đến một tiếng đồng hồ thì BẢY NĂNG LỰC GIÁC CHI sẽ xuất hiện theo thứ tự GIÁC CHI này xuất hiện xong thì GIÁC CHI khác sẽ xuất hiện cứ như vậy chúng tôi ghi nhận. Khi tâm nhiếp phục trong trạng thái bất động, không còn niệm khởi thì:
1 – ĐỊNH GIÁC CHI xuất hiện, khi ĐỊNH GIÁC CHI xuất hiện đầy đủ trọn vẹn thì:
2 – KHINH AN GIÁC CHI xuất hiện, khi KHINH AN GIÁC CHI xuất hiện đầy đủ trọn vẹn thì:
3 – HỶ GIÁC CHI xuất hiện, khi HỶ GIÁC CHI xuất hiện đầy đủ trọn vẹn thì:
4 – TINH TẤN GIÁC CHI xuất hiện, khi TINH TẤN GIÁC CHI đầy đủ trọn vẹn thì:
5 – NIỆM GIÁC CHI xuất hiện, khi NIỆM GIÁC CHI xuất hiện đầy đủ trọn vẹn thì:
6 – XẢ GIÁC CHI xuất hiện, khi XẢ GIÁC CHI xuất hiện đầy đủ trọn vẹn thì:
7 – TRẠCH PHÁP GIÁC CHI xuất hiện, khi TRẠCH PHÁP GIÁC CHI xuất hiện đầy đủ trọn vẹn thì BẢY NĂNG LỰC này thành bốn lực rất mạnh trong nội thân để làm chủ sự sống chết tức là làm chủ nhân quả. Bốn lực này trong kinh sách có tên là TỨ THẦN TÚC.

TỨ THẦN TÚC gồm có:
1- DỤC NHƯ Ý TÚC
2- ĐỊNH NHƯ Ý TÚC
3- TINH TẤN NHƯ Ý TÚC
4- TUỆ NHƯ Ý TÚC.
- DỤC NHƯ Ý TÚC nghĩa như thế nào?
DỤC NHƯ Ý TÚC nghĩa là ý muốn làm cái gì thì thân tâm làm đầy đủ cái đó, không thiếu sót cái gì cả. Cái muốn của DỤC NHƯ Ý TÚC là cái muốn của tâm hết tham, sân, si, mạn, nghi, chứ không phải cái muốn của tâm còn tham sân, si mạn, nghi. Cái muốn của DỤC NHƯ Ý TÚC là cái muốn của tâm VÔ LẬU, vì chính tâm VÔ LẬU mới có DỤC NHƯ Ý TÚC.
DỤC NHƯ Ý TÚC không phải là cái muốn của tâm phàm phu mà cái muốn của những bậc Thánh nhân. Ở đây không có danh từ để giải nghĩa DỤC NHƯ Ý TÚC vì thế chúng tôi chỉ tạm dùng những từ không đúng nghĩa chính xác. Vậy quý vị cố gắng hiểu chữ: “DỤC” nó không có nghĩa lòng ham muốn của kẻ phàm phu.
- ĐỊNH NHƯ Ý TÚC nghĩa như thế nào?
Khi một người tu tập trên TỨ NIỆM XỨ thì mới có ĐỊNH GIÁC CHI xuất hiện. ĐỊNH GIÁC CHI xuất hiện đủ 7 ngày đêm trên trạng thái TỨ NIỆM XỨ thì lúc bây giờ ĐỊNH GIÁC CHI đầy đủ thần lực nên muốn nhập định nào thì thân tâm liền nhập vào định ấy. Do nhập thiền định theo ý muốn của mình nên ĐỊNH GIÁC CHI được gọi là ĐỊNH NHƯ Ý TÚC.
Khi có ĐỊNH NHƯ Ý TÚC thì mới nhập được TỨ THÁNH ĐỊNH. TỨ THÁNH ĐỊNH là thiền định của những bậc Thánh. Cho nên người tu tập chưa có ĐỊNH NHƯ Ý TÚC thì không bao giờ nhập TỨ THÁNH ĐỊNH được.
Chúng ta ai cũng biết người tu tập tâm VÔ LẬU là người đã vào dòng Thánh, mà bậc Thánh thì mới nhập được TỨ THÁNH ĐỊNH. Chính vào dòng Thánh thì tâm có ĐỊNH NHƯ Ý TÚC, nhờ ĐỊNH NHƯ Ý TÚC mới nhập được Sơ thiền, Nhị thiến, Tam thiền, Tứ thiền. Chứ khi chưa có ĐỊNH NHƯ Ý TÚC thì không bao giờ nhập bốn thiền này được.
- TINH TẤN NHƯ Ý TÚC nghĩa là gì?
Người tu tập trên TỨ NIỆM XỨ mà không còn hôn trầm, thùy miên, vô ký lúc nào cũng sáng suốt tỉnh táo biết rõ tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự. Đó là TINH TẤN NHƯ Ý TÚC tức là siêng năng như ý mình muốn.
TINH TẤN NHƯ Ý TÚC có nghĩa là siêng năng không có một chút xíu nào lười biếng. Tu tập suốt 7 ngày đêm không biết mõi mệt lúc nào cũng tỉnh giác vô cùng, chỉ duy nhất là giữ gìn và bảo vệ tâm bất động một cách cần mẫn như ý muốn của mình.
Người có TINH TẤN NHƯ Ý TÚC là không còn tính lười biếng, không còn thích ngủ nghỉ, không còn thích vui chơi theo dục lạc thế gian, không còn thích nói chuyện với bất cứ một người nào. Họ siêng năng và thích sống một mình với tâm bất động.
- TUỆ NHƯ Ý TÚC nghĩa là gì?
TUỆ NHƯ Ý TÚC có nghĩa là trí tuệ hiểu biết không có không gian và thời gian. Muốn biết điều gì thì biết ngay. Do sự hiểu biết không có không gian và thời gian nên biết được nhiều đời nhiều kiếp trong thời gian quá khứ và biết rất rõ trong thời vị lai sẽ xảy điều gì.
TUỆ NHƯ Ý TÚC là một trí tuệ hiểu biết không bị ngăn sông cách núi, nơi đâu nó cũng thấy biết rõ ràng. Đó là một trí tuệ siêu việt, nhưng mỗi người đều có khi tâm họ không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa.
Mục đích của lời dạy này rất rõ ràng, nếu muốn có được TAM MINH thì phải có BẢY NĂNG LỰC GIÁC CHI. Chính BẢY NĂNG LỰC GIÁC CHI là trạng thái giải thoát của tâm VÔ LẬU, còn TAM MINH là lực của tâm VÔ LẬU. Khi tu tập TỨ NIỆM XỨ thì BẢY NĂNG LỰC GIÁC CHI sẽ xuất hiện lần lượt trên trạng thái tâm VÔ LẬU ngoài trạng thái tâm VÔ LẬU thì không bao giờ có BẢY NĂNG LỰC GIÁC CHI xuất hiện.
Món ăn là những thực phẩm ăn để sống, nếu hằng ngày chúng ta luôn luôn sống với BẢY NĂNG LỰC GIÁC CHI thì bao giờ chúng đều có TỨ THẦN TÚC tức là MINH GIẢI THOÁT (TAM MINH).
Trong lời dạy thứ nhất này đối với 37 phẩm trợ đạo chúng ta có bốn phẩm trợ đạo, đó là TỨ THẦN TÚC.



BÀI DẠY THỨ HAI:

Chúng ta hãy đọc kỹ lưỡng lời dạy thứ hai của đức Phật: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho (Năng Lực) Bảy Giác Chi? Bốn Niệm Xứ, cần phải trả lời như vậy”.

Ở đây chúng ta cần phải hiểu nghĩa cho thông suốt. Vậy BẢY GIÁC CHI và TỨ NIỆM XỨ nghĩa là gì?

BẢY GIÁC CHI đã giải thích ở trên, còn TỨ NIỆM XỨ nghĩa là?

TỨ NIỆM XỨ là tên của một pháp môn trong 37 phẩm trợ đạo. TỨ có nghĩa là BỐN; NIỆM có nghĩa là LƯU Ý, CHÚ Ý, TỈNH GIÁC, QUÁN XÉT; XỨ có nghĩa là NƠI CHỖ.

TỨ NIỆM XỨ có nghĩa là BỐN CHỖ QUÁN XÉT. Bốn chỗ gồm có:

1- Thân.

2- Thọ.

3- Tâm.

4- Pháp.

Ở đây chúng ta phải hiểu, quán một chỗ mà thành ra quán bốn chỗ.

Ví du 1: QUÁN THÂN TRÊN THÂN, tuy rằng đang quán THÂN, nhưng THÂN, THỌ, TÂM và PHÁP là một, nó có một sự liên hệ chặt chẽ không thể tách lìa ra được. Cho nên ở đây tuy bốn chỗ nhưng chỉ là một chỗ.

Ví dụ 2: Khi đang quán THÂN có nghĩa là đang tập trung chú ý THÂN nhưng Thân có cảm Thọ thì biết ngay là có THỌ, khi biết THỌ là quán THỌ.

Ví dụ 3: Khi đang quán THÂN, nhưng TÂM có niệm khởi thì biết ngay là TÂM có niệm, khi biết TÂM có niệm là quán TÂM

Ví dụ 4: Khi đang quán THÂN, nhưng các PHÁP bên ngoài tác động vào THÂN, THỌ, TÂM thì biết ngay có các PHÁP, khi biết có các PHÁP tác động vào THÂN, THỌ, TÂM là đang quán các PHÁP. Cho nên chỉ cần QUÁN THÂN là quán đủ bốn chỗ THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP.

TỨ NIỆM XỨ là một phương pháp dùng tu tập để bảo vệ tâm VÔ LẬU bất động, thanh thản, an lạc và vô sự. Một pháp môn rất cần thiết cho những người quyết tâm tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Chỉ có tu tập viên mãn TỨ NIỆM XỨ thì mới có BẢY GIÁC CHI, xin quý vị lưu ý.

Đúng vậy “Thức ăn cho BẢY GIÁC CHI là TỨ NIỆM XỨ, có nghĩa là hằng ngày chúng ta tu tập và sống trên TỨ NIỆM XỨ thì BẢY GIÁC CHI xuất hiện. BẢY GIÁC CHI là bảy pháp trong 37 phẩm trợ đạo.

Trong bài kinh THẬP THƯỢNG dạy BẢY GIÁC CHI cần tu tập là sai, vì BẢY GIÁC CHI đâu có tu tập, mà chỉ tu tập trên TỨ NIỆM XỨ như đã nói ở trên thì BẢY GIÁC CHI xuất hiện. BẢY GIÁC CHI là là trạng thái tâm VÔ LẬU như trên đã nói, còn TỨ THẦN TÚC là một tên khác của MINH GIẢI THOÁT. Như vậy TỨ THẦN TÚC và MINH GIẢI THOÁT chỉ là một. Đó là một kết quả cụ thể cho những ai tu tập đạt được tâm VÔ LẬU, nếu tâm chưa VÔ LẬU mà mong muốn có kết quả này không bao giờ có được.

Như vậy 37 phẩm trợ đạo thì BẢY GIÁC CHI chỉ là bảy phẩm sau TỨ THẦN.

BÀI DẠY THỨ BA:

Chúng ta hãy đọc kỹ lưỡng lời dạy thứ ba của Phật: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Bốn Niệm Xứ? Ba Thiện Hành, cần phải trả lời như vậy”.

BỐN NIỆM XỨ chúng ta đã hiểu nghĩa như trên đã dạy. Vậy BA THIỆN HẠNH nghĩa là gì?

BA THIỆN HANH gồm có như sau:

1- THÂN THIỆN HẠNH

2- KHẨU THIỆN HẠNH

3- Ý THIỆN HÀNH

Nghĩa của BA THIỆN HẠNH là THÂN LÀM THIỆN, KHẨU NÓI LỜI THIỆN và Ý SUY NGHĨ NHỮNG VIỆC THIỆN. Đây là pháp môn TỨ CHÁNH CẦN ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp.

Như vậy chúng ta biết chắc chắn trước khi tu tập TỨ NIỆM XỨ thì phải tu tập TỨ CHÁNH CẦN. Khi tu tập TỨ CHÁNH CẦN thân, khẩu, ý của chúng ta hoàn toàn trong thiện pháp không còn một chút ác pháp nào cả thì đó là lúc chúng ta bắt đầu tu tập TỨ NIỆM XỨ.

Cho nên trong bài kinh này đức Phật dạy: BA THIỆN HẠNH là thức ăn của TỨ NIỆM XỨ. Nếu không tu tập BA THIỆN HẠNH mà tu tập TỨ NIỆM XỨ thì chẳng bao giờ tu tập TỨ NIỆM XỨ được. Đối với đạo Phật là một chương trình giáo dục đào tạo, nếu lớp này học chưa xong mà vội lên lớp khác học thì chẳng đủ trình độ học thì dù có học cũng chẳng có kết quả gì.

Cho nên, 37 phẩm trợ đạo là giúp cho chúng ta phải biết tu học pháp nào trước và tu học pháp nào sau, tu học phải theo thứ tự từ pháp thứ nhất đến pháp thứ 37, chứ không phải muốn tu học pháp nào là tu, xin quý vị lưu ý cho.


BÀI DẠY THỨ TƯ:

Chúng ta nên đọc kỹ lưỡng lời dạy thứ tư của đức Phật như sau: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Ba Thiện Hành? Các Căn Được Chế Ngự, cần phải trả lời như vậy”.

Trước khi muốn tu tập TỨ CHÁNH CẦN thì CÁC CĂN phải được CHẾ NGỰ, Vậy nghĩa CÁC CĂN và CHẾ NGỰ nghĩa là gì?

CÁC CĂN có nghĩa là các cơ quan trong cơ thân của con người, đó là:

1- NHÃN CĂN (hai con mắt)

2- NHĨ CĂN (hai lỗ tai)

3- TỶ CĂN (hai lỗ mũi)

4- KHẨU CĂN (cái miệng)

5- THÂN CĂN (cơ thể)

6- Ý CĂN (bộ óc).

Còn có NĂM CĂN nữa là:

1- TÍN CĂN (Tứ Bất Hoại Tịnh)

2- TẤN CĂN (Tứ Chánh Cần)

3- NIỆM CĂN (Tứ Niệm Xứ)

4- ĐỊNH CĂN (Tứ Thánh Định)

5- TUỆ CĂN (Tứ Thần Túc)

Nhưng NĂM CĂN này là căn gốc của nó là những pháp tu tập thì là sao có chế ngự được. Chỉ có chế ngự là chế ngự MẮT, TAI, MŨI, MIỆNG, THÂN. Vậy CHẾ NGỰ nghĩa là gì?

CHẾ NGỰ có nghĩa ngăn chặn là làm CÁC CĂN không cho tiếp xúc với CÁC TRẦN. CÁC TRẦN gồm có:

1- SẮC TRẦN (hình ảnh)

2- THINH TRẦN (âm thinh)

3- HƯƠNG TRẦN ( mùi hương)

4- VỊ TRẦN (mùi vị)

5- XÚC TRẦN (cảm giác)

Muốn ngăn chặn NĂM CĂN không cho tiếp xúc NĂM TRẦN thì chỉ có pháp duy nhất là giữ gìn hạnh độc cư cho trọn vẹn thì kết quả sẽ theo ý muốn là chế ngự NĂM CĂN tốt đẹp. Nếu người nào không ngăn chặn NĂM CĂN tiếp xúc NĂM TRẦN thì người ấy không thể tu tập TỨ CHÁNH CẦN được. Vì thế, chúng ta biết chắc rằng: người nào phá hạnh độc cư là người không tu tập xả tâm. Nếu người nào tu theo Phật giáo thì cứ nhìn vào hạnh độc cư là biết ngay người tu được hay không tu được. Cho nên khi thấy người nào phá hạnh độc cư nhiều lần mà không sửa thì nên lọai bỏ người đó ra khỏi tăng đoàn vì họ sẽ làm cho mọi người tu hành không đến nơi đến chốn, họ như “con sâu làm rầu nồi canh”. Bài pháp thứ tư này dạy rất rõ chúng ta muốn tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết thì nên lưu ý pháp hạnh ĐỘC CƯ, nó được xem là một BÍ QUYẾT thành công trong sự nghiệp giải phóng con người ra khỏi GIẶC SINH TỬ.


BÀI DẠY THỨ NĂM:

Chúng ta nên đọc kỹ lưỡng lời dạy thứ năm của đức Phật như sau: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Các Căn Được Chế Ngự? Chánh Niệm Tỉnh Giác, cần phải trả lời như vậy”.

Theo như lời Phật dạy này thì trước khi muốn sống CHẾ NGỰ CÁC CĂN (hạnh độc cư) thì phải tu tập CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC. Vậy CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC nghĩa là gì?

CHÁNH NIỆM là niệm thiện, niệm không làm khổ mình, khổ người và tất cả chúng sinh.

TỈNH GIÁC là tâm định tỉnh sáng suốt trong mọi thời gian hiện tại. Còn CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC nghĩa là tâm định tỉnh sáng suốt trong niệm thiện mà không có một niệm ác nào xen vào được.

Thường CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC là tâm định tỉnh sáng suốt trong niệm thiện TÂM BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC VÀ VÔ SỰ. Đó là một kết quả của TỨ CHÁNH CẦN. Nhưng ở đây CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC là để ngăn ngừa giữ gìn bảo vệ NĂM CĂN không cho tiếp xúc NĂM TRẦN. Cho nên muốn ngăn ngừa và bảo vệ NĂM CĂN thì tâm phải bình tỉnh sáng suốt từng phút từng giây khi NĂM TRẦN không xăm nhập.

Nếu tu tập NĂM CĂN thì chỉ có pháp môn CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC. Nhờ CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC nên NĂM CĂN tiếp xúc NĂM TRẦN tâm không bị dính mắc, không bị đắm nhiểm.

Ví dụ 1: Có một người bạn đến mời đi nhậu, nhĩ căn trong CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC nên ý thức tư duy suy nghĩ: rượu là chất độc dễ sinh ra nghiện ngập nên từ chối người bạn không đi nhậu.

Ví dụ 2: Có một cô gái đẹp ăn mặc hở hang khêu dâm gợi dục khi nhãn căn nhìn thấy trong CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC thì ý thức tư duy suy nghĩ biết ngay dâm dục là con đường sinh tử luân hồi muôn đời muôn kiếp trong đau khổ. Nhờ CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC như vậy nên hình dáng người phụ nữ không còn lôi cuốn được lòng ham muốn.

BÀI DẠY THỨ SÁU:

Chúng ta nên đọc kỹ lưỡng lời dạy thứ sáu của đức Phật như sau: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Chánh Niệm Tỉnh Giác? Như Lý Tác Ý, cần phải trả lời như vậy”. Muốn có CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC thì nên dùng pháp NHƯ LÝ TÁC Ý.

Muốn tu tập CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC thì chỉ có pháp NHƯ LÝ TÁC Ý theo THÂN HÀNH NỘI (hơi thở) hay THÂN HÀNH NGOẠI (đi kinh hành). Chúng tôi cho những ví dụ sau đây:

1- Tu tập CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC trên hơi thở. Tác ý câu: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra” tác ý xong liền hít vô và thở ra, khi thở ra xong liền tác ý câu: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, tác ý xong liền hít vô và thở ra, khi thở ra xong lại tác ý nữa, cứ vừa tác ý vừa hít thở như vậy đúng 30 phút xả nghỉ. Khi đến giờ thì tu tập như vậy trong một tuần lễ cho thuần thục hay tu tập nhiều hơn là phải hai tuần lễ.

Khi tu tập đề mục hơi thở này thuần thục xong trong nửa tháng rồi mới tu tập tới đề mục khác và cứ tu tập như vậy cho đến đề mục thứ 19. Xin quý vị vui lòng nghiên cứu lại tập sách tu tập ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ.

2- Tu tập CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC trên bước đi. Tác ý câu: “Đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành, chân trái bước, chân phải bước” tác ý xong rồi lại bước đi, bước đi năm bước rồi đứng lại tác ý: “Đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành, chân trái bước, chân phải bước”, khi tác ý xong rồi lại bước đi, bước đi năm bước rồi đứng lại tác ý như câu trên. Cứ tu tập như liên tục trong trong nửa tháng cho thuần thục, khi tâm đã thuần thục và nhiếp tâm trong bước đi không có một niệm nào xen vào thì tăng lên 10 bước mới tác ý một lần và khi đã thuần thục trong 10 bước thì lại tiếp tục tăng lên 20 bước mới tác ý một lần và tu tập như vậy cho đến khi tác ý một lần mà đi kinh hành suốt 30 phút không một niệm nào xen vào thì đó là kết quả tu tập CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC trên bước đi.

Đạt được CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC trên hơi thở hay bước đi kinh hành là đã chế ngự được các căn như trong lời đức Phật đã dạy trong bài học thứ sáu.

BÀI DẠY THỨ BẢY:

Chúng ta nên đọc kỹ lưỡng lời dạy thứ bảy của đức Phật như sau: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Như Lý Tác Ý? Lòng Tin, cần phải trả lời như vậy”. Trong lời dạy này của đức Phật LÒNG TIN là thức ăn cho pháp NHƯ LÝ TÁC Ý. Vậy LÒNG TIN là cái gì?

Đức Phật nói đến LÒNG TIN tức là nói đến NĂM LỰC. NĂM LỰC gồm có :

1- Tín lực (sức mạnh của lòng tin).

2- Tấn lực (sức mạnh của lòng tinh tấn)

3- Niệm lực (sức mạnh của tâm bất động)

4- Định lực (sức mạnh của tâm định tỉnh)

5- Tuệ lực (sức mạnh của ý thức hiểu biết)

Muốn pháp môn NHƯ LÝ TÁC Ý có kết quả thì phải tu tập NĂM LỰC. Vậy tu tập NĂM LỰC như thế nào?

Thứ nhất là phải đặt trọn lòng tin vào pháp môn NHƯ LÝ TÁC Ý. Muốn có lòng tin vào pháp môn NHƯ LÝ TÁC Ý thì chúng ta chỉ còn tin vào đức Phật dạy. Trong kinh LẬU HOẶC đức Phật dạy: “Có NHƯ LÝ TÁC Ý lậu hoặc chưa sinh sẽ không sinh và đã sinh thì bị diệt”. Do lời dạy này mà chúng ta thấy trong các kinh đều có dạy những câu TÁC Ý nhất là trong kinh XUẤT TỨC NHẬP TỨC dạy 16 câu tác ý.

Ví dụ: Tâm sân là một lậu hoặc, khi tâm sân chưa sinh thì TÁC Ý: “Quán ly sân tôi biết tôi hít vô, quán ly sân tôi biết tôi thở ra”; khi tâm sân đã sinh, có nghĩa là đang tức giận thì TÁC Ý câu: “Quán đoạn diệt tâm sân tôi biết tôi hít vô, quán đoạn diệt tâm sân tôi biết tôi thở ra”.

Và khi muốn từ bỏ tâm sân thì nên hằng ngày TÁC Ý câu: “Quán từ bỏ tâm sân tôi biết tôi hít vô, quán từ bỏ tâm sân tôi biết tôi thở ra” Nếu đặt trọn lòng tin nơi đức Phật thì hằng ngày chúng siêng năng tu tập thì tâm sân sẽ bị lìa ra khỏi tâm

Khi chúng ta tin lời Phật dạy nổ lực tu tập thì đó là TÍN LỰC

Khi siêng năng tu tập hằng ngày thì đó là TẤN LỰC

Khi không lìa câu tác ý thì đó là NIỆM LỰC.

Khi tâm từ bỏ tham, sân, si, mạn, nghi chỉ còn một niệm bất động thanh thản, an lạc và vô sự thì đó là ĐỊNH LỰC

Khi tâm có đủ Tứ Thần Túc thì đó là TUỆ LỰC.

Bắt đầu từ Lòng tin mà chúng ta có đủ NĂM LỰC. Năm lực là những pháp trong 37 phẩm trợ đạo.

BÀI DẠY THỨ TÁM:

Chúng ta nên đọc kỹ lưỡng lời dạy thứ tám của đức Phật như sau: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Lòng Tin? Nghe Diệu Pháp (chân pháp của Phật), cần phải trả lời như vậy”. Như trên đã nói, chỉ có lời dạy của đức Phật mới có một giá trị thiết thực lợi ích lớn cho con người. Lời dạy ấy gọi là VI DIỆU PHÁP, vi diệu pháp là pháp giúp cho con người thoát mọi khổ đau. Như lời dạy trong kinh LẬU HOẶC: “Có NHƯ LÝ TÁC Ý lậu hoặc chưa sinh sẽ không sinh và đã sinh thì bị diệt” Lời dạy này là VI DIỆU PHÁP. Vi Diệu Pháp còn có một cái tên mà ai cũng phải công nhận TỨ THẦN TÚC. Tứ Thần Túc là bốn cái lực như thần. Khi một người tu hành chứng đạo có đầy đủ TỨ THẦN TÚC lúc bấy giờ tâm muốn làm cái gì thì thân tâm phải làm theo, như muốn chết là thân chết như muốn sống là thân sống. Làm được như vậy mới gọi là VI DIỆU PHÁP của Phật giáo.

Cho nên, trong bài kinh thức ăn của các pháp thì MINH GIẢI THOÁT là bài pháp vi diệu đầu tiên trong chín pháp vi diệu của Phật giáo. Vì thế chỉ có VI DIỆU PHÁP mới đủ sức tạo lòng tin của mọi người.

Khi con người đã có đủ lòng tin thì dời non lấp biển họ cũng làm được, huống gì là việc tu hành giữ gìn tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự. Vì vậy nhà cách mạng lớn Việt Nam đã nói: “Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Chỉ có những lời của đức Phật dạy mới thực tế cụ thể ích lợi cho loài người, nó vượt qua không gian và thời gian vì thế những lời dạy của đức Phật không có lỗi thời. Bởi vậy nó mới được gọi là chân lý của con người. Còn tất cả những lời dạy khác từ xưa đến nay chỉ hợp thời trong giai đoạn này mà không hợp thời trong giai đoạn khác. Cho nên biết bao nhiêu nhà hiền triết đã để lại cho loài người một kho tàng văn hóa, trong kho tàng văn hóa ấy có rất nhiều điều đã bị lỗi thời không còn dùng được nữa.

BÀI DẠY THỨ CHÍN:

Chúng ta nên đọc kỹ lưỡng lời dạy thứ chín của đức Phật như sau: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Nghe Diệu Pháp? Thân Cận Với Bậc Chân Nhân (Bậc tu chứng đạo), cần phải trả lời như vậy”. Bài học sau cùng là một bài học rất khó khăn nhất, đó là tìm một bậc tu chứng, một bậc đã làm chủ sinh, già, bệnh, chết chấm dứt được tái sinh luân hồi đâu phải dễ tìm, nếu không tìm được bậc này thì làm sao nghe được diệu pháp.

Đức Phật dạy: “Được thân người là khó mà gặp được chánh pháp còn khó hơn” muốn gặp được chánh pháp thì phải gặp bậc tu chứng, nhưng bậc tu chứng biết tìm ở đâu ra. Từ khi đức Phật nhập diệt đến giờ là cách Phật 2552 năm có thấy bậc nào còn lưu lại những kinh nghiệm tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết như Phật không?

Chắc là không rồi phải không quý vị? Chưa có một vị sư thầy nào dám tuyên bố rằng tôi đã làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Các vị có làm chủ đâu mà dám tuyên bố. Cho nên, mới dùng lời dối trá che đậy để đánh lừa mọi người: “Còn thấy tu chứng là chưa tu chứng”. Như vậy đức Phật đã tuyên bố:

“Thiên thượng thiên hạ

Duy ngã độc tôn

Nhứt thiết thế gian

Sinh, lão, bệnh, tử”

Cho nên, bài hoc thứ chín này khó quá. Chúng ta ai cũng biết hơn 2500 năm chưa ai tìm ra một vị thầy tu chứng. Và còn bao lâu nữa mới tìm ra được? Thật là mờ mịt không thể quyết định. Mà nếu không có bậc tu chứng thì làm sao nghe Vi Diệu Pháp.

Trong thời đại chúng ta có một người tu hành đã làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sinh luân hồi. Ngài đã dựng lại nền đạo đức nhân bản – nhân quả và dạy mọi người cách tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết, thế mà mọi người được nghe VI DIỆU PHÁP lại nỡ tâm phá giới hạnh, giới đức thì làm sao tu hành đến nơi đến chốn được.
http://www.chonlac.org