Thursday, March 5, 2009

GIẢI TỎA OAN ỨC - HT.TRÍ QUẢNG

HT.Thích Trí Quảng
Nguồn: Báo Giác Ngộ số 456 & 457
(Bài giảng khóa tu một ngày an lạc lần thứ 28 tại chùa Phổ Quang, ngày 08-06-2008)
TẢI FILE PDF VỀ MÁY (Acrobat Reader)

Tất cả chúng ta sống trên cuộc đời này, ai cũng có nỗi lo, nỗi khổ, nhất là cảm giác bị oan ức là nỗi khổ lớn. Oan ức là những điều mình nên mình cảm thấy ức lòng, đau khổ. Muốn giải tỏa nỗi oan ức này, chúng ta làm cách nào?

Luận Bảo Vương Tam muội dạy rằng oan ức không cần biện minh, vì càng biện minh thì nỗi hàm oan càng lớn. Lời dạy này hơi khó hiểu. Đa số chúng ta tin rằng mình có thể giải tỏa được oan ức; nhưng sự thật càng giải nỗi hàm oan càng tăng trưởng mà tôi có cảm giác như chiếc vòng số 8, nếu càng vùng vẫy thì càng siết chặt lại, thà cứ để yên chúng ta sẽ thấy nhẹ nhàng hơn và làm sao tay chúng ta tự nhỏ lại để rút tay ra khỏi cái còng, hay ngược lại, làm sao cái còng mở ra được. Làm tay mình thu nhỏ lại chắc chắn là rất khó, hoặc làm chiếc còng mở ra được cũng không dễ; nhưng chỉ có hai cách này mà thôi.

Nếu là chiếc còng số tám thật, tra chìa khóa vô thì mở được. Còn chiếc còng oan ức siết tâm mình thì cũng phải tìm chìa khóa mở ra. Nhưng nếu không tìm thấy chìa khóa mở cửa thoát ra khỏi tam giới.

Vấn đề đặt ra ở đây là giải oan ức nhưng phải tìm oan ức này ở đâu? Có thể khẳng định rằng nỗi oan ức thật sự do chúng ta tạo nên cho chính mình. Đức Phật đã chỉ thẳng rằng tất cả mọi việc do chúng ta tự tạo ra và sự tạo dựng lớn nhất của chúng ta là tạo ngôi nhà ngũ ấm và tạo ngục tù tam giới, từ đó phát sinh tất cả khổ đau của mọi người trên thế gian này.

Đức Phật đã trao cho chúng ta chiếc chìa khóa là 37 trợ đạo phẩm để mở cánh cửa ngục tù tam giới, mở cánh cửa nhà lửa để chúng ta thoát ra. Tất cả các vị thánh La hán và chư Bồ tát đã tìm ra chìa khóa và các ngài đã thoát ra rồi, nhưng vì thương chúng sinh nên các Ngài đã trở lại nhân gian này với dạng hình con người. Chúng ta thấy trên mặt hiện tượng, Bồ tát hay La hán có hàm oan, nhưng thật sự không phải như vậy; vì các Ngài trở lại cuộc đời bằng tâm từ bi và trong tay các Ngài có vô số phương tiện hữu hiệu, đồng thời trong tâm các ngài cũng có diệu pháp, tức là đại dụng. Thầy lớn có đủ khả năng giúp chúng ta tháo gỡ những oan ức.

Trên bước đường tu nếu không nương tựa Bồ tát và La hán, người ta sẽ ở mãi trong sinh tử, không thoát được và oan ức này sẽ chồng lên oan ức khác, cho đến lúc họ phải vào địa ngục Vô gián, vì càng tháo gỡ theo kiểu phàm phu thì chiếc còng oan ức càng siết chặt họ hơn. Thật vậy, thực tế cho thấy lúc bắt đầu, sai lầm của họ không có, hay có rất ít, nghĩa là nỗi oan ức của họ không lớn, nhưng vì không nhìn đúng sự thật của vấn đề, cứ nghĩ họ đúng, họ bị oan ức và nuôi lớn nỗi oan ức đó, nên họ cứ tranh đấu hoài, thì lòng sân hận và hành động sai trái theo đó tăng dần, cho đến lúc họ không chịu nổi, sẽ kết thúc bằng tự tử. Con đường đi vào sinh tử là vậy.

Đức Phật mới mở ra cho loài người con đường giản thoát, thực tập pháp Phật đến đâu thì được giải thoát đến đó, tức là phát huy được trí tuệ theo Phật. Tát cả các pháp môn Đức Phật dạy đều kà chìa khóa mở cánh của ra khỏi ngục tù tam giới. Đức Phật đã trao chìa khóa và chúng ta chỉ cần tra chìa khóa vào là bước ra khỏi mọi trói buộc, khổ đau. Phật là vị đại Đạo sư đã chỉ dạy con đường thoát hiểm nạn trầm luân sinh tử, việc đi ra hay không là tùy ở chúng ta.

Đức Phật trao cho chúng ta chìa khóa của kinh Pháp Hoa la tam thừa giáo để ra khỏi sinh tử, ra khỏi Nhà lửa, đến bãi đất trống, nghĩa là tâm chúng ta trống sạch, được giải thoát, tát cả nỗi oan ức trong lòng không còn. Lúc đó chúng ta vẫn còn thân người nhưng là người giải thoát thanh tịnh, không phải chết mới được giải thoát, nhiều khi chết khổ hơn, vì mang thân người mới có điều kiện tốt để làm Tiên, làm Phật, còn rớt xuống làm heo gà, không tu lên được.

Trong loài người mới được Phật trao cho chìa khóa tam thừa; Ngài nói rằng trong tứ sanh lục đạo, chỉ loài người mới có điều kiện ra khỏi tam giới. Tất cả các loài khác muốn ra khỏi tam giới, phải tái sinh làm người, rồi tu lên, mới làm Tiên, làm Phật.

Khi phát tâm Bồ đề, thật sự tu theo Phật, nhìn kỹ thấy trên cuộc đời này những nỗi oan ức thường là “oan Thị Mầu”, không phải oan Thị Kính, vì Thị Kính đã lấy được chìa khóa tam thừa mở thoát ra, giải được nỗi oan. Ai cứ thấy mình oan ức là người đó đang tu theo Thị Mầu, hay tu theo Đắc Kỷ đã tu một ngàn năm, nhưng tánh ác hại người bên trong còn nguyên mà miệng cứ kêu oan.

Bước chân vào Phật pháp, an trụ trong yếu lý Phật dạy, thấy được thật tướng các pháp mà Phật nói rằng ở trong tam giời không có sinh tử, nhưng mình vì vô minh vọng kiến ngăn che, tạo nên các tội sai biệt, rồi cứ kêu oan. Tất cả mọi việc đều do chúng ta tạo, kinh Hoa Nghiêm gọi là nhứt thiết duy tâm tạo. Nếu tâm chúng ta thánh thiện sẽ tạo nên Bích chi Phật, La hán, Bồ tát; nếu tam chúng ta ác sẽ tạo thành ác ma, cao nhất là ma Ba tuần, dẫn vào thế giới ma.

Chìa khóa Phật trao cho loài người là Ngài trao cho Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát để cứu nhân độ thế. Những vị này đã có chìa khóa, đã tự mở được ngục tù cho họ rồi và cũng mở ngục tù cho mọi người thoát ra. Nếu không nương vào ba hàng đệ tử này để ra khỏi ngục tù của ba cõi, chúng ta sẽ lẩn quẩn mãi trong tam giới và tội cũ sẽ chống chất thêm tội mới, cú như vậy phải khổ triền miên, rồi nói tôi tu sao mà khổ vậy.

Chúng ta phải biết cái gì tạo khổ đây. Đức Phật nói do Thức chúng ta tạo. Đa số chúng ta sống theo vọng thức, từ bỏ chơn tâm. Vọng thức là lòng ham muốn, tánh ích kỷ của chúng ta. Chúng ta sống với vọng thức nhiều hơn mới dẫn đến khổ đau. Vì vậy, trên bước đường tu, muốn hết khổ, phải xóa võng thức. Bồ tát chuyển được vọng thức thành tuệ giác là hiểu biết, nên không bao giờ khổ.

Không biết thì thực không khổ, nhưng cảm thấy khổ. Ví dụ những người xung quanh nói xâu tôi, nhưng tôi không nghe, không biết, nên tôi không khổ. Lỡ có người nghe lời nói xấu, họ kể rằng ông A nói xấu tôi vậy đó, nghe xong tôi cảm thấy khổ. Nghĩa là do nghe, suy nghĩ, biết, mà cảm thấy mình bị oan ức rồi buồn khổ, thì đó là oan Thị Mầu, tức đã tạo tội rồi mà còn kêu oan.

Người tu xóa oan ức theo Phật dạy bằng cách không nghe, không thấy, không suy nghĩ, thì tạm cắt bỏ được vọng thức ở bước đầu; vì vọng thức này phát xuất từ thấy, nghe, suy nghĩ gọi là nhãn thức, nhĩ thức và ý thức, tạo nên hiểu biết đau khổ.

Ai nói chúng ta không nghe, ai làm chúng ta không thấy, nên tâm chúng ta không suy nghĩ. Đức Phật dạy muốn ra khỏi sinh tử, được giải thoát, phải cách ly thế sự. Vì vậy, người tu thường ở trong phòng đóng cửa lại, hoặc ở trong hang đá, ở núi rừng vắng vẻ, không liên hệ với cuộc đời, để khóa cánh cửa địa ngục, mở cánh cửa Niết bàn. Nói cách khác, cánh cửa trần gian đóng lại, mở Phật pháp bên trong là tu hướng nội khác với hướng ngoại thì nghe biết đủ thứ chuyên trên cuộc đời, nên biết nhiều khổ nhiều, không biết không khổ. Thậm chí một chút nữa trời sập, nhưng mình không biết thì vẫn tỉnh như không, còn biết trời sắp sập, dù chưa sập nhưng trong lòng cứ cảm thấy lo sợ, phải tự khổ thôi.
Trong khóa tu này, các Phật tử tập tu bằng cách không biết việc của thiên hạ, vì biết như vậy sẽ làm bẩn tâm mình, tự khổ thêm. Càng biết nhiều việc của cuộc đời, chắc chắn nỗi khổ sẽ lên đến cùng tột. Người tu không dại gì đem khổ của thiên hạ vô tâm mình để khổ. Chúng ta thấy Đức Khổng Tử chỉ có ý thức muốn bình thiên hạ mà cả cuộc đời của ông luôn lận đận lao đao. Làm sao bình được thiên hạ, việc này không thể được, nhưng ông cứ muốn như vậy mà tự khổ; tức hiểu biết đã làm ông khổ. Hạng Thác là người chăn trâu hỏi Khổng Tử trả lời được ba câu thì mới xứng đáng là Vạn Thế Sư Biểu, tức làm Thầy muôn đời. Khổng Tử đáp rằng một trăm câu cũng trả lời được, chẳng lẽ không trả lời nổi ba câu của kẻ mục đồng. Hạng Thác hỏi trên trời có bao nhiêu vì sao. Khổng Tử bảo nói chuyện trên trời làm sao biết được, hãy nói chuyện trên mặt đất. Nhưng ông cũng không trả lời được câu hỏi thứ hai là trên trái đất này có bao nhiêu người. Ông tức mình bảo phải nói chuyện trước mắt, đừng nói chuyện bao la. Vậy thì câu hỏi thứ ba là cho biết cặp chân mày của ông có bao nhiêu sợi lông. Dĩ nhiên là ông đành chịu thua.
Câu chuyện này nhằm nói rằng hiểu biết của con người có giới hạn, nhưng muốn làm chuyện quá lớn lao rồi tự khổ. Nếu Đức Khổng Tử từ bỏ ý nghĩ muốn bình thiên hạ, chắc chắn ông vẫn sống ung dung tự tại, vì với trí khôn ngoan hiểu biết ông cũng giúp được cho cuộc đời nhiều lắm chứ.

Trước tiên, Đức Phật trao chiếc chìa khóa thứ nhất cho hàng nhân thiên thoát ra khỏi khổ đau. Con người muốn hết khổ, không còn oan ức nữa, Phật khuyên chúng ta chỉ cần giữ năm giới cho tốt. Nếu đã giữ năm giới tốt, nhưng còn bị oan ức là do túc nghiệp của chúng ta, tức là nghiệp của đời trước. Nhìn cuộc sống chúng ta hiện tại mà biết được túc nghiệp mình. Nếu sanh trong gia đình cờ bạc, hút xách, chắc chắn chúng ta phải mang tất cả nghiệp của dòng họ mình. Chúng ta có nghiệp này mới sanh vô gia đình như vậy. Nếu sanh trong gia đình chiến tranh hay ở vùng biên giới không có văn minh, tự biết nghiệp của mình đời trước không tốt. Sanh ra trong gia đình nghèo đói, thân thể ốm o, rách rưới mà đến nhà sang giàu thì dễ bị hàm oan. Tôi xuất thân từ giai cấp nông dân nghèo khổ, nên nhận ra điều này rất rõ và vâng lời Phật dạy, tôi giải được nghiệp này. Nghèo nàn thì ta không nên đến chỗ sang trọng, vì dễ bị đổ oan rằng mình ăn cắp, bị đánh, bị tù tôi, bị giết chết. Nghiệp nghèo khổ đời trước đã có, đời này không muốn bị oan ức, tốt nhất là tránh những nơi giàu có. Ý này trong kinh Pháp Hoa, Ca Diếp đại diện cho các trưởng lão thưa với Đức Phật rằng người cùng tử không dám vào nhà sang trọng của ông trưởng giả, mà phải tới xóm nghèo làm thuê mướn, sau đó mời được vào ở am tranh hốt dọn phân nhơ. Nghĩa là chúng ta đến được Phật pháp, phải chấp nhận thực tế cuộc sống của mình, phải sống đúng thân phận và hoàn cảnh tương ưng với mình thì người ta mới để cho mình yên thân mà tu.

Riêng bản thân tôi, trong khoảng thời gian từ 10 tuổi cho đến 30 tuổi, trong suốt 20 năm, tôi không có một vật nào có giá trị để không bị oan ức, vì có ai mất đồ, thấy tôi sống đơn giản, chắc chắn họ không nghi tôi ăn trộm. Chỗ ở và thức ăn của mình đạm bạc tới mức tối đa, thì ai nghĩ mình ăn cắp.

Tu hành chúng ta phải nhận ra túc nghiệp của mình để giải oan. Oan ức do nghiệp đời trước mang vô thân đời này rồi, chúng ta phải tìm cách xóa sạch. Nghiệp nghèo đói do gian tham trộm cắp, nghiệp bệnh hoạn do sát sanh hại mạng, nghiệp tà dâm nên thân thể xấu xí hôi dơ, nghĩa là phải kiện toàn thân tâm mình trở thành thanh tịnh thật sự.

Chìa khóa ngũ giới mà Đức Phật đưa cho chúng ta, để thực tập đời sống phạm hạnh, không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói bịa đặt, không uống rượu. Thực tập trước năm điều tốt đẹp căn bản này, tất cả hàm oan sẽ không đến với chúng ta nữa, hoặc thực tập đến đâu sẽ giải thoát đến đó còn tham vọng lớn, đòi hỏi nhiều, tiêu xài phung phí, nợ chồng chất thì phải khổ thêm, không thể khác. Trên bước đường tu theo Phật, hãy sống với những gì mình có, hay sống dưới mức mình có càng tốt; nói cách khác làm nhiều hưởng ít, mới tích lũy được công đức, chắc chắn cuộc sống an lành giải thoát ngay, không đợi kiếp sau.

Muốn đời sống chúng ta được nâng cao hơn, Đức Phật trao chiếc chìa khóa thứ hai là thập thiện. Tu thập thiện nghiệp, tức làm mười điều lành sẽ được người kính trọng. Thập thiện nghiệp là mười giới gồm có ba giới của thân (không sát sánh, không trộm cắp, không tà dâm), bốn giới của miệng (không nói lời bịa đặt, không nói lời hung ác, không nói lời đâm thọc, không nói lời gây chia rẽ) và ba giới của ý (tham, sân, si) Thực hiện mười nghiệp thiện sẽ được lên cõi Trời là cảnh giới sống được tốt đẹp hơn cõi người.

Ví dụ đối với việc thiện của thân, chẳng những chúng ta không sát sanh mà còn có lòng từ hộ mạng chúng sinh. Vì có hộ mạng tức cứu giúp người hoặc loài vật, mình sẽ được họ thương kính, quý trọng, nghĩa là tư cách của mình được nâng cao gọi là chư Thiên. Đọc truyện Tây du ký, có ông Trần Quang Nhị đã cứu con cá vàng thoát chết. Khi ông bị người ác xô xuống sông, vì đời trước ông đã giết người này; nhưng nhờ ông đã cứu con cá vàng nên nó nhớ ơn, hiện ra cứu ông. Mình có bố thí, giúp đỡ, người mang ơn, lỡ mình sa cơ thất thế, họ sẽ giúp lại mình.

Như vậy, Đức Phật đã trao cho loài người hai chìa khóa, một chìa khóa thập thiện nghiệp để mở cửa thiên đường và một chìa khóa ngũ giới để được tái sinh làm người không còn bị hàm oan. Còn tạo nghiệp ác kiếp trước, thì sánh lại đời này thường bị hàm oan và từ đó lại tạo thêm nhiều nghiệp để phải chịu oan nữa.

Tuy hai chìa khóa này giúp chúng ta thoát những nỗi khổ đau và oan ức, nhưng chỉ là giải quyết tạm thời trên cuộc đời này, vì khi hết oan ức và hưởng hết phước, lại tạo tội, rồi rớt xuống khổ đau thì gặp oan ức nữa. Cứ như vậy mà chúng ta lẩn quẩn từ kiếp này sang kiếp khác trong tứ sánh lục đạo.

Đức Phật vì tâm đại bi muốn cho chúng ta ra khỏi sinh tử luân hồi, Ngài mới trao thêm ba chìa khóa khác mà kinh Phát Hoa gọi là ba xe, xe dê, xe nai, xe trâu, phải dùng ba xe này mới ra ngoài sinh tử và thành tựu quả vị Phật được. Đức Phật cho ba hạng người là La hán, Bích chi Phật và Bồ tát sử dụng ba xe này, tức tam thừa giáo; còn các pháp tu khác dành cho nhân thiên.

Muốn tu ba pháp Thanh văn thừa Duyên giác thừa và Bồ tát thừa để ra khỏi sinh tử, Đức Phật dạy chúng ta phải hạ thủ công phu miền mật, không phải bình thường. Đầu tiên tu Thanh văn thừa để đắc La hán, đó là pháp mà con người dễ thực tập nhất, gần nhất và nhanh nhất. Quả La hán có bốn cấp bậc: Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm và A la hán. Bốn cấp bậc này chúng ta tưởng khó, nhưng không khó lắm, vì đó là thế giới của nội tâm, tức chỉ tu tâm. Vì tu tâm, nên chúng ta thấy các vị La hán chỉ ngồi yên, không làm gì, nhưng họ đang quán sát sự vận hành của tâm và điều động được tâm, nên quả chứng của họ rất lớn, chẳng những giải sạch tất cả oan trái trên cuộc đời này, mà họ còn vĩnh viễn ra khỏi tam giới. Trong khi hàng nhân thiên giải được hàm oan này lại rơi vào hàm oan khác, tạo phước cũng trầy trật lắm, nhưng có phước rồi, được sống sung sướng ở cõi trời hưởng một lúc phá sản, lại rớt xuống, có thể rớt thẳng xuống ba đường ác, còn may mắn thì tái sinh cõi nhân gian, lại bị khổ đau hàm oan nữa.

Tóm lại, năm chìa khóa mà Đức Phật đã trao cho chúng ta để mở các cánh cửa đi vào những cảnh giới tốt đẹp, từ cõi người đến cõi Trời, cho đến những cảnh giới của hàng tứ Thánh là Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát và Phật. Chúng ta nhờ có căn lành sâu dày mới được làm đệ tử Phật, được tu học trong giáo pháp của Ngài, cầu mong rằng tất cả mọi người nỗ lực tinh tấn tu hành, tùy theo tâm lực, đạo lực, huệ lực mà từng bước trong cuộc sống này và muôn kiếp về sau, chúng ta thường ra vào tự tại những cảnh giới tốt đẹp trong mười phương Pháp giới để thành tựu viên mãn phước đức trí tuệ của Bồ tát hạnh, đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác.

phatphap.wordpress.com & phatphapnhiemmau.com

TÌNH THƯƠNG TRONG ÐẠO PHẬT

THÍCH NHUẬN HẢI

Có nhiều người cho rằng đạo Phật là đạo diệt dục, là đạo lý dạy con người diệt trừ tất cả mọi ước mơ, mọi mong muốn, mọi thương yêu, là giáo lý bi quan yếm thế… Nói như vậy quả là một ngộ nhận rất lớn và chứng tỏ là họ chưa hiểu gì về đạo Phật. Trong khi đó giáo lý về tình thương là một đề tài rất lớn mà đức Phật luôn đề cập đến trong nhiều kinh, được xem là vấn đề cốt tuỷ trong đạo Phật.


Tình thương là một loại năng lượng có thể thực hiện được nhiều phép lạ. Khi người ta thương, người ta có thể làm được những việc mà người không thương không thể làm được. Tuy nhiên có loại tình thương đem đến cho ta và người niềm vui và hạnh phúc và có loại tình thương đem đến cho ta và người sự bi lụy khổ đau. Loài người ngụp lặn trong khổ đau vì trong đời sống hàng ngày tình thương của họ còn mang nhiều tính chất của hệ lụy và vướng mắc. Vì vậy muốn vượt thoát khổ đau, chúng ta cần có được tình thương chân thật, một tình thương có khả năng đem lại hạnh phúc, an vui cho người và mình.

Giáo lý về tình thương được gọi là Tứ Phạm Trụ, Brahmavihara (The Four Abodes of Brahma). Brahma có nghĩa là Phạm Thiên hay là cao quý. Vihara là chổ ở, là cư xá, có khi được dịch là tu viện. Ðó là nơi cư trú của Phật và Bồ Tát. Nếu ta muốn hạnh phúc thì ta hãy xin vào cư trú ở đó để sống chung với Phật và Bồ Tát. Tứ Phạm Trụ tức là Từ, Bi, Hỷ và Xả mà chúng ta thường gọi là bốn tâm vô lượng. Vô lượng tức là không thể đo được, và có thể phát huy đến vô cùng. Bốn tâm không có biên giới là tâm Từ, tâm Bi, tâm Hỷ và tâm Xả.

Trước hết là tâm Từ. Chữ Phạn là Maitri, chữ Pàli là Metta. Maitri có nghĩa là khả năng hiến tặng niềm vui, hiến tặng hạnh phúc (The capacity to offer joy and happiness). Ðức Phật sắp ra đời để nối tiếp sự nghiệp của Phật Thích Ca tên là Maitreya, nghĩa là đức Phật của tình thương.

Thứ hai là tâm Bi, Karuna, có nghĩa là khả năng làm vơi đi nỗi khổ đang có mặt. Nó gồm ý chí muốn vơi đi nỗi khổ, muốn chuyển hóa nỗi khổ của con người; Và gồm cả phương pháp và khả năng chuyển hóa nỗi khổ.

Hỷ tức là Mudita, là niềm vui. Tình thương đích thực, có Từ, có Bi sẽ đem tới sự nhẹ nhõm và niềm vui tươi. Tình thương mà chứa chất sầu đau thì không phải là tình thương trong đạo Phật. Cho nên Mudita là một yếu tố của tình thương đích thực. Tình thương có thể đem lại cho người thương và người được thương hạnh phúc mới đúng là tình thương chân thật. Còn thứ tình thương mỗi ngày gây đau khổ và vướng mắc cho nhau, thì không phải là tình thương của đạo Phật. Hỷ là yếu tố thứ ba của tình thương ấy.

Và sau cùng, Xả (Upeksa) là sự nhẹ nhàng, thư thái, tự do và không kỳ thị. Thương như thế nào mà ta còn giữ được tự do cho ta và cho người ta thương thì mới đích thực là tình thương. Thương như thế nào mà hai người không dìu nhau vào ngục tù. Tình cha con, tình thầy trò, tình anh em, tình yêu nam nữ cũng vậy.

Tứ vô lượng tâm là giáo lý dạy rất đầy đủ về tình thương. Tình thương này có năng lực trị liệu. Từ, Bi, Hỷ, Xả không phải là triết lý, là mục tiêu xa xôi mà là sự thực tập. Từ không phải chỉ là ước muốn đem lại hạnh phúc cho người. Chính sự thực tập Từ đem lại hạnh phúc cho người. Có người càng thương thì càng làm cho người kia khổ. Thương như vậy chưa phải là Từ, mới chỉ có ý chí thương nhưng không có khả năng thương. Bi cũng vậy. Bi cũng là ước muốn và có khả năng làm vơi đi nỗi khổ. Hỷ là ước muốn và khả năng tạo hạnh phúc cho mình và người. Và Xả tức là ước muốn và khả năng hiến tặng sự tự do và sự không kỳ thị cho mình và cho người.

Nếu không thực tập được chánh niệm thì ta không thể thực tập được tình thương. Chánh niệm cho chúng ta thấy được nhu yếu chuyển hóa khổ đau và nhu yếu hiến tặng niềm vui. Khi một người làm cho ta khổ thì chính người đó cũng đang bất an; Phản ứng của ta chỉ làm cho người đó thêm khổ, vì thế lại làm khổ chính ta hơn. Cái khả năng giúp ta nhận chân ra sự thật đó là chánh niệm. Từ, Bi, Hỷ, Xả phải thực hiện cho chính mình trước. Nếu ta không có bốn tâm đó trong ta thì ta không thể hiến tặng nó cho người khác. Phải đầu tư, phải gây vốn cho bốn vô lượng tâm. Vốn liếng của ta là công phu thực tập Tứ Diệu Ðế. Ði thiền hành cho đúng phép, có an lạc trong từng bước chân, nuôi dưỡng từng tế bào của cơ thể bằng hơi thở chánh niệm, đó là ta đang tự thương mình. Thương mình đích thực, ta làm cho rã bớt những nỗi sầu khổ, tưới vào bản thân những niềm vui.

Nuôi dưỡng mình và nuôi dưỡng những người xung quanh bằng tình thương, đó là sự thực tập của chúng ta. Và tình thương ở đây xuất phát từ Tuệ. Nếu không hiểu biết thì không thể thương yêu. Bản chất của Từ Bi là Trí Tuệ. Thương mà không hiểu thì làm khổ người mình thương. Muốn hiến tặng niềm vui cho người, ta phải hiểu người. Con mắt chánh niệm phải quan sát. Cư xử với con cái cũng vậy, với cha mẹ cũng vậy. Chúng ta có thể nói rằng trong đạo Phật thương yêu được làm bằng một chất liệu gọi là hiểu biết. Mà hiểu biết là hoa trái của chánh niệm.

Nguyên tắc thực tập Tứ Diệu Ðế phải được thực tập ở đây.

Trước hết ta nhìn vào để thấy được những nỗi khổ. Sau khi nhận diện được sự thật thứ nhất về Khổ, ta mới tìm ra được những nguyên nhân gần xa của Khổ, tức là ta quán chiếu Tập. Và sự thực khi nào nắm được hai sự thật đầu ta mới biết con đường nào giúp người vượt qua những khổ đau, biết được Diệt và Ðạo. Thực tập Tứ Diệu Ðế là thực tập tình thương. Phật là một bậc Trí và Bi viên mãn. Thật ra, nếu Bi mà viên mãn thì Trí cũng viên mãn, và nếu Trí mà viên mãn thì Bi cũng viên mãn.Hai là một, một là hai. Trong Kinh Bát Ðại Nhân Giác nói rằng một vị Bồ Tát không đem tâm ghét những người đã làm điều ác. Những điều kiện xã hội, kinh tế, chính trị, những vô minh căm thù đã được chất chứa từ lâu đã đưa tới những hành vi ác độc. “Bất tắng ác nhân” là bốn chữ trong Kinh Bát Ðại Nhân giác. Làm sao ta hiểu được bốn chữ “không ghét người ác” nếu ta quên tình thương, nếu ta chỉ dùng trí năng khô khan để hiểu? Trí năng khô khan gọi là càn tuệ, dired knowledge. Tình thương chỉ có làm bằng chất liệu hiểu biết, bằng tuệ giác chân thật, chữ Phạn là Prajna, phiên âm là Bát Nhã. Bát Nhã là hoa trái của sự quán chiếu. Không giận mình, không ghét người. Vì thấy những nguyên do sâu xa của mọi hành động nên ta thấy thương mình và thương người. Chất liệu của Từ phát xuất từ trái tim, và tưới trở lại cho trái tim. Thực tập Từ và Bi trên căn bản hiểu biết thì không bao giờ vướng mắc vào tình thương chiếm hữu. Thương mà không hiểu chỉ giam nhau vào ngục tù, tự giam mình vào ngục tù và làm khổ lẫn nhau. Người này lập ra nhà tù nhốt người kia vào cũng chỉ vì có thiện chí. Chồng với vợ, cha mẹ với con cái, bạn bè với nhau, khi thương nhau chúng ta vẫn thường giam nhau vào ngục tù, chỉ vì ta không biết được nhu yếu sâu xa đích thực của chính bản thân ta và của những người mà ta thương.

Tình thương chân thật được làm bằng sự hiểu biết. Tình thương chân thật phải đến niềm vui vô cầu, không vị lợi. Tu không phải là từ bỏ niềm vui. Niềm vui của người tu không phải chỉ phát sanh khi thấy người khác thành đạt và hạnh phúc, mà cả khi thấy mình nhẹ nhàng, thảnh thơi và có hạnh phúc. Khi tôi bước những bước thiền hành thảnh thơi, tôi tiếp xúc với nắng, tôi tiếp xúc với tiếng chim, tôi được nuôi dưỡng, tôi thư thái, đó là niềm vui, chữ Phạn là Mudita. Tu tập đúng pháp là nuôi dưỡng thân tâm bằng niềm vui và sự nhẹ nhàng. Làm như vậy là ta đang thực tập thương yêu, đang nuôi dưỡng tình yêu chân thật cho mình và những người xung quanh.

THÂN CẬN NGƯỜI TRÍ - HT.Thích Trí Quảng

HT. THÍCH TRÍ QUẢNG
Đánh máy: Liên Hoa – Huỳnh Hoa
Nguồn: Báo Giác Ngộ số 468
( Bài giảng khóa tu Một ngày an lạc lần thứ 36 tại chùa Phổ Quang ngày 03-09-2008)

Kinh Pháp Hoa dạy rằng người tu muốn giải thoát phải từ bỏ quyến thuộc ngu si, thân cận người trí, nhiếp niệm ở núi rừng, thường nghĩ đến Phật. Có người hiểu lầm rằng từ bỏ quyến thuộc ngu si là từ bỏ gia đình. Nói tới gia đình hay cha mẹ, Phật giáo ngày báo hiếu trong mùa Vu Lan, theo đó Đức Phật dạy chúng ta cần ghi nhớ bốn ơn, mà công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ là ơn lớn nhất không được quên. Cha mẹ sanh thành khác với cha vô minh, mẹ phiền não.

Như vậy, từ bỏ quyến thuộc ngu si nói cho đúng là từ bỏ vô minh phiền não và thân cận người trí chỉ cho thiện tri thức, không thân cận thầy tà bạn ác. Nho giáo cũng dạy rằng sanh ta là cha mẹ, dạy dỗ chúng ta là thầy bạn. Không có cha mẹ thì chúng ta không thể có thân nay và không có thầy bạn, chúng ta không nên người.
Ý thức rằng cha mẹ vô minh phiền não và thầy tà bạn ác dẫn chúng ta vào đường tội lỗi, chúng ta nghĩ đến thầy hiền bạn tốt và gần gũi những người này, mới nghe được lời dạy đúng đắn, giúp chúng ta thành đạt trong cuộc sống. Thành đạt có hai hướng, thành đạt theo người thế gian là học hành đỗ đạt, làm quan, làm tướng, làm nhà kinh doanh phát đạt, v.v… thì cũng tốt; nhưng sự thành công này chỉ giả tạm, nhất thời mà thôi, nay thành mai bại, ở trong sự thành đạt sinh diệt của thế gian vô thường.

Sự thành đạt mà người đệ tử Phật cần thấy biết, quan tâm và hướng tời là các bậc tam hiền tứ quả giải thoát; vì mục tiêu của chúng ta là phấn đấu trên bước đường tu là phải đạt được sự giải thoát như các Ngài. Thật vậy, người trí là hàng tam thừa tứ quả đã giải thoát. Tam thừa là Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát. Tứ quả của Thanh văn là Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm và A la hán. Tứ quả của Bồ tát là hàng Bồ tát thập trụ, Bồ tát thập hạnh, Bồ tát thập hồi hướng và Bồ tát thập địa.

Vì vậy, sự thành đạt của chúng ta là thân cận, học hỏi và gặt hái được những tinh ba của pháp mầu từ các bậc trí nhân là hàng tam thừa tứ quả giải thoát Tăng. Từ tiêu chuẩn như vậy, chúng ta nhận thấy nếu là hàng Thanh văn, thì tối thiểu phải được giải thoát để chúng ta học theo. Nghĩa là họ không bị sự ràng buộc của thân xác và tinh thần, mà chúng ta có thể học với họ thành quả giải thoát đó. Còn người thực sự thành đạt theo thế gian như những chính trị gia, thương gia, hay đại gia, mặc dù họ nắm quyền lực tối cao về chính trị hay kinh tế, nhưng chúng ta nhận thấy cuộc sống họ toàn là khổ cộng thêm khổ, luôn bị mất ăn mất ngủ, nhức óc, mệt tim, v.v… vì phải tính toán, đối phó đủ thứ. Khi chưa thành đạt, họ phải cố tranh thủ cho được; khi thành đạt rồi thì họ phải cố giữ gìn, bảo vệ, thậm chí còn muốn bành trướng hơn nữa và đến khi mất mát, họ tuyệt vọng, khổ đau. Cuộc sống thành đạt theo thế gian như vậy, chúng ta không muốn đi theo. Thực tế lịch sử đã cho thấy người thành đạt cao nhất thế giới như nhà độc tài Hitler, ông đã huy động được sức mạnh của toàn nước Đức để tấn công các nước lân cận một cách dễ dàng, nhưng cuối cùng chấm dứt thế chiến thứ hai, ông phải chết thê thảm. Hoặc Sada Hussein từng được coi là người hùng để rồi bị treo cổ kết liễu cuộc đòi. Sự thành đạt về chính trị như vậy thật đáng sợ. Ở đất nước chúng ta, có một thời những người thành đạt về kinh tế nổi tiếng như Minh Phụng, Nguyễn Văn Mười Hai, hoặc Năm Cam, nhưng cuộc đời của họ đều kết thúc một cách thê thảm. Chúng ta gạt sang một bên, họ không phải là người trí mà chúng ta muốn thân cận.

Người trí mà chúng ta muốn thân cận không bị vật chất và tình cảm chi phối. Một nhà hiền triết Ấn Độ đã nói rằng con người chỉ đáng tôn quý khi họ chinh phục được nội giới và ngoại giới. Chinh phục được ngoại giới giống như các nhà khoa học chinh phục được các hành tinh, đạt được hiểu biết lớn lao. Nhưng chinh phục được nội giới của các nhà tu hành, như diệt trừ được tham vọng thì càng vĩ đại hơn gấp bội.

Như vậy, chúng ta có quan sát và suy nghĩ về việc làm của người trí để thân cận. Người thắng được thiên nhiên bên ngoài theo Phật là đã được quả vị Tu đà hoàn, tức vượt được sự hàn nhiệt cơ khát, không bị vật chất chi phối. Trong khi người giàu có theo thế gian tuy cuộc sống dư thừa của cải, nhưng họ luôn bị vật chất lẫn tình cảm tác hại, bị phiền não quấy rầy. Thực tế chúng ta thấy các vị Thánh La Hán không có tiền, không có vật dụng, thậm chí không lệ thuộc miếng ăn, một ngày một bữa cơm đạm bạc, hoặc hai, ba ngày dùng một bữa cũng không sao, lúc nào họ cũng an lạc, giải thoát.

Chúng ta tu học cần thân cận những người có đời sống thanh thoát như vậy. Riêng tôi hành đạo được đến ngày nay nhờ biết gần gũi người tu không đặt nặng việc ăn, mặc, ở và được giải thoát. Họ không lệ thuộc đói khát, vì đã chinh phục được thân tứ đại, làm chủ được thân tứ đại, thực tế là cả ngày họ không cần uống nước, hoặc không ăn vài ngày cũng khỏe mạnh như thường. Có vị làm việc không mệt, không cần ngủ là đã chinh phục được ngoại giới. Tôi cố gần gũi học hỏi để biết vì sao họ có cơ thể kỳ diệu mà mình thực tập theo.

Về nội giới, Đức Phật dạy chúng ta tu 37 trợ đạo phẩm và từng bước đi lên. Đối với nội giới, tâm là chính yếu. Tâm có chơn tâm và vọng thức. Chinh phục nội giới là chinh phục được vọng thức. Vọng thức chủ yếu là do sáu căn tiếp xúc với sáu trần sanh ra hiểu biết của con người. Tuy con người hiểu biết hơn các loài khác, nhưng Đức Phật dạy rằng hiểu biết này không chính xác và thường gây phiền toái cho chúng ta. Vì vậy, người ta thường nói thà không biết còn hơn, hoặc biết ít thì khổ ít, không biết thì không khổ. Người khác làm gì, mình không bận tâm; vì cái biết về người, về việc của người khiến mình bắt đầu phân biệt, phê phán và tự đau khổ. Thiết nghĩ họ làm gì là việc của họ, chẳng liên quan gì đến ta, nhưng tại sao ta lại tự rước lấy cái khổ, quả là đáng thương hại!

Chinh phục ngoại giới là vượt qua được hay làm chủ được bốn việc: đói, khát, nóng, lạnh; nhưng chinh phục nội giới là chinh phục được tình cảm của chính mình, tức tình cảm ủy mị, lúc nào cũng buồn, giận, lo, khổ.

Đi vào cửa Phật, Tu đà hoàn thuộc cấp bậc thấp nhất trong hàng đại trí, đã thoát khỏi sự chi phối của hàn nhiệt cơ khát và an trụ pháp Không, tức nhân không, pháp không và tất cánh không. Tâm họ vắng lặng, vì thấy biết rõ thế giới sanh diệt, nên không bận tâm và hướng về vô sanh, trở về chơn tâm. Khi sống với chơn tâm mà nhìn ra thế giới sanh diệt, thấy tất cả mọi người đều đáng thương.
Trong kinh Hoa Nghiêm đưa ra hình ảnh Tỳ kheo Hải Vân nhiếp niệm ở núi rừng, tức ngôi yên, vắng lặng và quán sát biển khổ trần gian, thấy đủ các loại hình chúng sinh đang bị dày xéo bởi vô số khổ đau, quy lại là khổ đau xuất phát từ tham vọng của con người. Ngài thấy rõ không có khổ, hay không đáng khổ, nhưng chúng sinh tự tạo khổ cho họ, thì thật vô lý, đáng thương hại. Nói cụ thể như quý vị tu hành ở đạo tràng này, chắc chắn không khổ gì cả, không phải lo lắng gì cả, buổi trưa có người phục vụ tận nơi cơm ăn, nước uống. Nhưng giả sử một người nào đó đang ở trong đạo tràng này, lại khởi nghĩ rằng phải như thế này như thế kia thì họ đã tự làm khổ bằng chính vọng tường điên đảo của họ.

Bậc trí trụ ở chơn tâm mà quán vọng thức, hay ở vô sanh nhìn sanh diệt, là đã đi vào lộ trình Phật dạy, sống với một phần trí tuệ của Phật. Vì vậy, đối với người tu, trí tuệ là sự nghiệp của đời họ. Trên bước đường tu, đương nhiên họ phải nhờ thiện tri thức khai ngộ, nhưng phát xuất từ thật trí, tức sự thấy biết từ vô sanh. Nếu chúng ta thân cận được người trí như vậy, mặc dù sống ở Ta bà nhiều khổ đau, chúng ta cũng cảm thấy an ổn và tiến tu được.

Bậc trí trụ an trú pháp Không là không sanh diệt, hay vô sanh. Ở dòng thác trí tuệ của vô sanh quán sát, thấy rõ có hai thế giới: thế giới sanh diệt và thế giới không sanh diệt. Thế giới sanh diệt với đầy đủ thiện và ác, thiện của sanh diệt và ác của sanh diệt. Và nếu ở vô sanh mà nhìn thế giới sanh diệt, thì gọi đó là giấc mơ, vì con người hiệu hữu và sinh hoạt trong thế giới sanh diệt chẳng khác gì người đang ở trong giấc mơ thấy mình làm đủ thứ việc to tát, nhưng đến khi thức dậy, mọi việc làm trong giấc chiêm bao đều không còn. Nhận ra yếu nghĩa này, chúng ta phát hiện rằng những người tu trên sanh diệt thì thì sanh diệt chấm dứt, coi như không tu, vì tu trong chiêm bao. Thí dụ cho dễ hiểu, thuở nhỏ tôi chiêm bao thấy mình đi thỉnh kinh ở Ấn Độ, nhưng thức dậy, tôi vẫn là cậu bé tay không, hoặc mơ thấy mình lên trời, bay được, nhưng tỉnh dậy vẫn là con người phải đi trên mặt đất.

Trên bước đường tu, bắt đầu phát hiện, thấy biết việc thiện ác của sanh diệt, chúng ta bỏ việc ác, làm việc thiện, tức tu tứ chánh cần, thức hiện bốn điều là việc thiện chưa làm thì phải làm, việc ác chưa làm thì không được làm, việc thiện đã làm thì làm phải làm nhiều hơn, việc ác đã làm thì phải dứt bỏ. Tuy nhiên, đó chỉ là phương tiện của Như Lai ở giai đoạn đầu mà thôi. Còn diệt được “cái sanh diệt” mới là việc quan trọng thật sự của người tu.

Thật vậy, kinh Niết Bàn dạy rằng sanh diệt diệt thời tịch diệt vi lạc, nghĩa là sanh diệt chấm dứt thì ở trong tịch diệt mới được an lạc. Vì tất cả việc làm trong thế giới sanh diệt đều chỉ có giá trị tương đối, thậm chí việc thiện trong sanh diệt đôi khi cũng trở thành ác. Ví dụ giúp cho người lười biếng không chịu làm việc, chỉ thích ngửa tay xin, là ta đã tiếp tay cho họ tăng thêm tánh ăn bám, lợi dụng và làm mất ý chí phấn đấu của họ. Giúp đỡ người khác như vậy việc thiện này đã trở thành ác.

Đi về vô sanh, tức sanh diệt hết, thì nguồn vui hiện hữu ở thế giới tịch diệt, là đã qua thế giới Thiền định; lúc bấy giờ, vô sanh là thiện, sanh là ác. Thực tế cho thấy biết bao nhiêu người tốt trên cuộc đời này trải qua một khoảng thời gian, họ trở thành xấu, hay nói cách khác, người đời hết làm thiện thì làm ác, sinh hoạt trong sanh tử luân hồi là như thế. Vì vậy, Đức Phật dạy phải chấm dứt sanh diệt mới có tịch diệt an lạc.

Từ quả vị Tu đà hoàn, Phật dạy hàng Thanh văn tiến lên một bậc là Tư đà hàm, lấy tâm tịch diệt là chính yếu. Tâm tịch diệt là thiện, tâm sanh diệt là ác, vì tất cả mọi việc làm của chúng ta ở thế giới sanh diệt đều là làm trong chiêm bao, thức dậy là hết. Vì vậy, bậc Tư đà hàm là người trí ở quả vị thứ hai của Thanh văn thường sống trong Thiền định, lấy tâm vô sanh làm thiện, còn tất cả tâm snah diệt là ác, cho nên việc thiện của thế gian thuộc sanh diệt cũng không cần thiết đối với họ.

Hai bậc Tu đà hoàn và Tư đà ham đi thuận chiếu từ sanh tử về Niết bàn, nhưng lên bậc thứ ba, tâm họ bắt đầu xả ly, không vướng mắc gì cả. Kinh gọi họ thường vào ra sanh từ, tức là vào ra sanh tử ở cửa tâm. Nói cách khác, trong một niệm tâm có bao nhiêu lần sanh diệt thì người thực tập Thiền quá nhận ra được. Từ vô sanh hiện sanh và từ sanh về sanh diệt, họ đang thực tập trên lộ trình này và lên đến đỉnh cao nhất, họ trụ được ở Ngũ tịnh cư Thiên. Thế giới này có năm đặc tánh là vô phiền, vô nhiệt, thiện kiến, thiện hiện và sắc cứu cánh.

Khi tâm chúng ta thâm nhập vào thế giới này thì không có phiền não, không có bực tức, nhìn cuộc đời chính xác rõ ràng, thấy như thực, cuối cùng quán sát được cùng tột của sắc chất gọi là sắc cứu cánh. Thuở nhỏ, họ điều này thấy khó hiểu, nhưng trải qua quá trình tu hành, tôi nhận thấy sự quán sát để đạt được sắc cứu cánh có nghĩa là chúng ta dùng tâm để phân tích, chia sẻ vật nhỏ lần cho đến nhỏ nhất, chỉ còn là một vi trần mà mắt không thấy, nhưng tâm thấy được. Ví dụ ở trên núi Thị Vải, tôi thấy ánh sáng xuyên qua cành cây thấy trong không khí có vô số hạt bụi nhỏ li ti, đó là vi trần mà mắt thấy được vì có ánh sáng từ trên cao rọi xuống.

Trong kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật nói rằng: trong cực vi đầu sợi lông xuất hiện trang nghiêm đủ ba cõi, mười phương trần sát các đầu lông, tôi đều thâm nhập để nghiêm tịnh. Đó là cái thấy của Phật, thấy siêu tuyệt, thấy thế giới nhỏ đến mức bằng đầu sợi lông mà có chứa đủ cả ba cõi và Ngài thâm nhập vào mười phương thế giới đó. Dĩ nhiên là Phật thấy bằng tâm và thâm nhập các thế giới cực vi đó cũng bằng tâm.

Ngày nay, cái cực vi được gọi là hạt nguyên tử có điện tử dương và điện tử âm chạy xung quanh. Đức Phật nói rằng trong một vi trần có bảy ngưu mao đầu trần, trong một ngưu mao đầu trần có bảy thố mao đầu trần ( lông con thỏ ), trong thố mao đầu trần có bảy ngân trần, trong mỗi ngân trần có bảy kim trần. Đức Phật quán sát sự hình thành thế giới, chia chẻ qua bảy lần bảy như vậy, đồng với Đức Phật nhập định trong 49 ngày và quán sát đến tận cùng ở trạng thái kim trần, gọi là sắc cứu cánh, thì thấy thân chúng ta và thân chúng sinh cùng với vật chất vô tình bên ngoài đều biến thành không, hay tất cả đều là một.

An trụ ở sự chứng ngộ như thế, đạt được thân và tâm tự tại, chứng quả vị A na hàm là hạng người trí thứ ba, tâm thăng hoa, mở rộng và cuối cùng lên đỉnh cao chứng được từ một Thất Bồ đề phần, tức bảy phần giác ngộ của Phật và kiểm tra được từ một đến bảy phần này qua lại bảy lần là con số 49 tiêu biểu cho vũ trụ quan của Phật giáo.
Từ thế giới tu chứng của A na hàm trở lại cuộc đời, thể nghiệm được Bát chánh đạo trong cuộc sống. Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định là tám điều mà vị Thánh A la hán thành tựu. Tu đà hoàn, Tư đà hàm và A na hàm thuộc Hiền vị.

Nếu chúng ta có phước duyên được sống gần những vị Hiền thánh của Thanh văn là bậc trí huệ thì tâm sẽ hoàn toàn được an ổn và không bị vật chất chi phối, vì thấy không đòi hỏi vật chất nên chúng ta thực tập theo thầy, cũng không lệ thuộc vật chất. Bậc trí của Thanh văn hay nhị thừ là như vậy. trong khi bậc trí của Bồ tát, sự chứng ngộ ở mức độ cao hơn và lên đến đỉnh cao nhất là Nhập Bất tư nghì giải thoát cảnh giới của kinh Hoa Nghiêm.

Tóm lại, Đức Phật giới thiệu các bậc trí trong kinh điển Nguyên thủy, Nikaya cho đến các bậc trí trong kinh Bát Nhã, kinh Phổ hiền để chúng ta thân cận, học theo và nỗ lực thực tập cho đạt kết quả tốt đẹp trong cuộc sống của chính mình, không phải thân cận học theo trí thế gian để bị vướng mắc mãi trong vòng sanh tử luân hồi khổ đau.

phatphap.wordpress.com & phatphapnhiemmau.com

Không vui không buồn

Quảng Tánh
Nguồn: báo Giác Ngộ số 462
Đánh máy: Liên Hoa – Huỳnh Hoa

Một thời Thế Tôn ở Safketa, rừng Anjana, tại vườn Nai. Rồi thiên tử Kakudha, sau khi đêm đã gần mãn, với nhan sắc thù thắng chói sáng toàn khu rừng Anjana, đi đến đảnh lễ, bạch Thế Tôn:

Thưa Sa Môn, Ngài có hoan hỷ không?

Ta được cái gì, này Hiền giả, mà Ta hoan hỷ?

Nếu vậy, thưa Sa môn, có phải Ngài sầu muộn?

Ta mòn mỏi cái gì, này Hiền giả, mà Ta sầu muộn?

Thật như vậy, này Hiền giả.

Làm sao, này Tỷ kheo
Ngài không có sầu muộn
Tuy vậy, Ngài cũng không
Có được sự hoan hỷ
Làm sao nay Ngài lại
Ngồi cô độc một mình
Không có được hoan hỷ
Cũng không bị dao động
Thật sự, này Dạ xoa
Ta không có sầu muộn
Tuy vậy ở nơi ta
Hoan hỷ không khởi lên
Dầu nay Ta có ngồi
Riêng một mình cô độc
Ta không có hoan hỷ
Cũng không bị dao động
Làm sao, này Tỷ kheo
Ngài không có sầu muộn
Làm sao ở nơi Ngài
Hoan hỷ không khởi lên
Làm sao nay Ngài lại
Ngồi cô độc một mình
Không có được hoan hỷ
Cũng không bị dao động
Hoan hỷ chỉ có đến
Với người tâm sầu muộn
Sầu muộn chỉ có đến
Với người tâm hoan hỷ
Do vậy, này Tỷ kheo
Không hoan hỷ, sầu muộn
Vậy nên, này Hiền giả
Ông phải biết như vậy
Đã lâu, con mới thấy
Bà la môn tịch tịnh
Vị Tỷ kheo không sầu
Cũng không có hoan hỷ
Đã an toàn vượt khỏi
Chỗ người đời đắm say

( ĐTKVN, Tương Ưng Bộ 1, chương II, phẩm Cấp Cô Độc, Phần Kakudha, VNCPHVN ấn hành, tr 124)

LỜI BÀN

Hầu hết chúng ta đều sống với những hoài niệm trong quá khứ và các sự hướng ở tương lai mà hiếm khi an trú vào hiện tại. Vì không thiết lập được chánh niệm để an trú nên tâm của chúng ta thường lang thang, chạy theo cảnh bên ngoài hoặc chơi trò trốn tìm với chính mình, buồn vui theo vọng tưởng.

Tâm lý của chúng ta luôn dao động, lẫn lộn buồn vui. Đôi khi tâm ta rơi vào trạng thái không vui cũng không buồn nhưng vì thiếu chánh niệm nên ta cảm thấy cô đơn, trống trải. Thậm chí một vài người sợ hãi khi phải đối diện với chính mình liền tìm cách chạy trốn như điện thoại tâm sự với người thân, nghe nhạc, xem phim hoặc đi ngủ.

Nên những ai chưa từng trải nghiệm thiền định, thiết lập một đời sống hướng nội, chánh niệm tỉnh giác thì khó mà hiểu được sức sống nội tại và sự an tĩnh, thảnh thơi của hành giả. Thật không dễ hình dung về cách sống bình dị, đơn độc, thanh bần, trầm lắng, xem ra chẳng có gì vui cẩ, mà người ta cứ sống vậy suốt đời.

Theo tuệ giác Thế Tôn, người ta buồn vì có vui (hết vui thì thấy buồn) và người ta vui vì có buồn (hết buồn thì thấy vui). Chỉ có những người thiết lập được sự bình an, tâm tư lắng đọng không bị cảnh bên ngoài chi phối, vượt lên sự buồn vui thường tình mới thực sự vững chải, an trú trong hạnh phúc và tịnh lạc.

phatphap.wordpress.com & phatphapdaithua.com