Người nhiều lo nghĩ phải tập pháp môn A-na-ban-na Tam-muội.
Nếu người mới tập hành phải dạy : Nhất tâm đếm hơi thở vào, ra, hoặc dài, hoặc ngắn, đếm từ một đến mười.
Nếu người đang tập hành phải dạy : Đếm hơi thở từ một đến mười và theo hơi thở vào, ra, niệm cùng hơi thở, đồng dừng tâm ở một chỗ.
Nếu người tập hành đã lâu nên dạy : Đếm hơi thở, theo hơi thở, chỉ, quán, hoàn và tịnh.
A-na-ban-na Tam-muội có sáu môn, chia làm mười sáu phần. Sáu môn là :
1) Sổ tức. - Hành giả nhất tâm nhớ hơi thở vào đến cùng, đếm một, hơi thở ra đến cùng, đếm hai. Nếu hơi thở chưa cùng mà đếm là sai. Nếu đếm từ hai đến chín mà quên phải đếm lại một. Ví như nhà toán học tính một với một là hai, hai với hai là bốn v.v… không sai một mảy.
- Tại sao phải đếm ?
- Nhân đếm hơi thở quán vô thường, dễ được dứt các lo nghĩ và được nhất tâm. Thân tâm sanh diệt vô thường liên tục tương tự khó thấy, nhân thở vào, ra sanh diệt vô thường mà dễ biết, dễ thấy được nó. Tâm buộc tại số, dứt các lo nghĩ .
Lo nghĩ có sáu thứ :
Lo nghĩ tham dục.
Lo nghĩ giận hờn.
Lo nghĩ não hại.
Lo nghĩ quê hương thân thuộc.
Lo nghĩ cõi nước.
Lo nghĩ không chết.
Người muốn cầu tịnh tâm vào chánh đạo, trước phải diệt ba thứ lo nghĩ thô, kế trừ ba thứ tế. Trừ hết sáu cái lo nghĩ này sẽ được pháp Nhất thiết thanh tịnh. Ví như người luyện vàng, trước bỏ những đá sỏi thô, sau mới bỏ bợn cát tế, lần lượt được vàng ròng.
- Thế nào là bệnh thô ?
- Nghĩ tham dục, nóng giận, não hại là ba thứ bệnh thô. Nghĩ quê hương thân thuộc, cõi nước, không chết là ba thứ bệnh tế. Trừ được sáu cái lo nghĩ này sẽ được pháp tất cả thanh tịnh.
- Người chưa được đạo, kiết sử chưa đoạn, sáu cái lo nghĩ này từ tâm khởi loạn, làm sao trừ được ?
- Tâm chán thế gian và tu chánh quán thì hay ngăn mà chưa nhổ được gốc nó, sau khi được đạo vô lậu mới nhổ hết gốc rễ của nó.
- Thế nào là chánh quán ?
- Như bài tụng :
Thấy người đa dục cầu đã khổ,
Được nó giữ gìn càng thêm khổ,
Mất đi buồn thảm khổ lại hơn,
Khi tâm được dục không mãn khổ.
Dục nhân vô thường, không, sầu thảm,
Các thứ chung hợp nên bỏ đi,
Thí như rắn độc vào nhà người,
Không gấp đuổi đi hại ắt đến.
Không định, không thật, không quí trọng,
Những thứ dục cầu vui điên đảo,
Như A-la-hán lục thần thông,
Cảnh tỉnh đệ tử giác dục rằng :
Ngươi không phá giới, giới thanh tịnh,
Không cùng người nữ chung nhà ngủ,
Rắn độc kiết dục đầy nhà tâm,
Ràng buộc vui ái không xa lìa.
Đã biết giới thân không thể phá,
Mà tâm thường cùng lửa dục chung,
Ngươi vốn xuất gia cầu đạo pháp,
Bởi đâu buông lung đến thế này ?
Cha mẹ sanh thành nuôi nấng ngươi,
Bà con quyến thuộc thương yêu lắm,
Thảy đều rơi lệ quyến luyến ngươi,
Ngươi đành xa bỏ không đoái tưởng.
Mà nay sao lại ôm lòng dục ?
Cùng dục vui vầy không chán nhàm,
Thường cùng lửa dục chung một chỗ,
Vui vẻ thích thú không tạm lìa.
Như thế các thứ quở trách tham dục và những thứ chánh quán trừ tâm tham dục.
- Thế nào diệt tâm giận hờn ?
- Như bài tụng :
Từ bào thai ra thường chịu khổ,
Chúng sanh như thế chớ giận hại,
Nóng giận khởi lên dùng Từ diệt,
Từ bi nóng giận không chung cùng.
Người nhờ Từ bi nóng giận dứt,
Ví như sáng tối không chung chỗ,
Nếu giữ tịnh giới mà nóng giận,
Người ấy tự phá pháp lợi mình.
Ví như dẫn voi xuống nước tắm,
Lại lấy bùn đất trét đầy mình,
Tất cả đều phải già, bệnh, chết,
Mọi thứ đánh đập trăm ngàn khổ.
Tại sao người lành thương chúng sanh,
Mà lại gia tăng giận não hại ?
Nếu khởi nóng giận muốn hại người,
Chưa đến người kia trước đốt mình.
Thế nên thường nghĩ hành từ bi,
Nóng giận, nghĩ ác tâm không sanh,
Nếu người thường nghĩ hành pháp lành,
Thường nghĩ pháp lành tâm vui vẻ.
Đời nay được vui, sau cũng thế,
Được đạo thường vui, ấy Niết-bàn,
Nếu tâm dồn chứa điều bất thiện,
Tự mất lợi mình, lại hại người.
Đã tự trong tâm mất thiện pháp,
Người có tịnh tâm cũng trầm một,
Ví như đạo nhân ở chỗ vắng,
Đưa tay kêu to : “Giặc cướp tôi !”.
Có người hỏi rằng : “Ai cướp ngươi ?”
Đáp rằng : “Giặc của tôi chẳng sợ,
Tôi không giữ của cầu thế lợi,
Làm gì giặc của hại được tôi.
Tôi tập căn lành các pháp bảo,
Giặc giác quán (xét nghĩ) phá tôi thiện lợi,
Giặc của đã lánh chỗ chứa nhiều,
Giặc cướp thiện đến không thể tránh”.
Như thế các thứ trách nóng giận và các thứ chánh quán trừ tâm nóng giận.
- Thế nào trừ cái nghĩ não hại ?
- Như bài tụng :
Chúng sanh luống chịu trăm ngàn thứ :
Các bệnh luôn luôn đến não hại,
Giặc chết rình chụp thường muốn giết,
Vô lượng chúng khổ tự vây quanh.
Tại sao người lành thêm não hại ?
Chê bai mưu hại không nhân từ,
Hại người chưa được tự mang họa,
Người tục mưu hại còn thể tha.
Đó là nghiệp ác của thế gian,
Cũng không tự nói ta tu thiện,
Cầu đạo thanh tịnh người xuất gia,
Mà sanh nóng giận tâm tật đố.
Trời tạnh trong mây xẹt lửa độc,
Phải biết ác này tội rất nặng,
Người ưa vắng vẻ khởi tật đố,
Có bậc La-hán được tha tâm.
Răn dạy quở rầy : “Ngươi sao dại ?”
Tật đố tự phá cội công đức,
Muốn được cúng dường phải tự tập,
Bao nhiêu công đức trang nghiêm thân.
Nếu không trì giới, thiền, đa văn,
Dối mặc áo nhuộm hoại pháp thân,
Thật kẻ ăn xin, người tệ ác,
Tại sao mong lợi được cúng dường ?
Đói, khát, lạnh, nóng trăm ngàn khổ,
Chúng sanh thường bởi các khổ này,
Thân tâm khổ ách không cùng tận,
Tại sao người lành thêm não hại ?
Ví như ghẻ lớn dùng dao mổ,
Cũng tợ tù nhân khảo chưa xong,
Khổ ách quanh mình các khổ nhóm,
Tại sao từ bi lại muốn tăng ?
- Thế nào trừ cái nghĩ quê hương thân thuộc ?
- Nên nghĩ thế này : Trong thế giới sanh tử tự nghiệp duyên ràng buộc thì đâu là thân đâu là sơ ? Chỉ do ngu si khởi tâm mến bừa, chấp cho là thân. Đời quá khứ, đời vị lai, không phải thân mà nay là thân. Đời này là thân mà quá khứ không phải thân. Ví như đàn chim chiều về chung đậu một cây, sáng ra tùy duyên mỗi con bay mỗi chỗ. Quê hương thân thuộc cũng như vậy. Sanh trong thế giới mỗi người tự có tâm khác, duyên hợp nên thân, duyên tan thành sơ, không thể có nhân duyên quả báo quyết định mãi cùng nhau thân cận. Ví như cát khô tay nắm chắc thành khối, do nắm nên hiệp, buông ra thành tan. Cha mẹ nuôi con đến khi già con đền đáp lại. Con nhờ sự bồng ẵm nuôi nấng nên phải báo đáp lại. Nếu thuận ý cha mẹ là thân, nghịch ý là sơ. Có khi thân không có ích mà trở lại hại, có khi sơ không hại mà có ích. Người do nhân duyên nên sanh ra ái, bởi nhân duyên ái nên trở lại hại người. Ví như họa sĩ họa tượng người nữ, trở lại yêu thích tượng ấy. Người yêu quê hương thân thuộc cũng thế. Tự sanh nhiễm trước, nhiễm trước những cái bên ngoài, trong đời quá khứ ngươi vẫn có quê hương thân thuộc, đời này ngươi đã làm gì ? Ngươi không thể làm lợi ích cho người thân đời quá khứ, người thân đời quá khứ cũng không thể làm lợi ích cho ngươi, hai bên đều không thể làm lợi ích cho nhau. Trong cõi thế giới không định vô biên này, có nghĩ đến người thân hay không thân cũng chỉ là nghĩ suông mà thôi. Như vị A-la-hán dạy đệ tử mới xuất gia còn luyến ái người thân rằng :
“Như kẻ hư hèn đã mửa ra rồi lại ăn vào, ngươi cũng như vậy. Ngươi đã được xuất gia tại sao trở lại ái trước ? Cạo tóc, mặc áo hoại sắc là tướng giải thoát, ngươi còn yêu mến người thân quê hương không được giải thoát, trở lại bị cái yêu mến buộc ràng. Ba cõi vô thường lưu chuyển không định, hoặc thân, không thân, tuy nay thân nhưng lâu xa cũng hết. Như thế, mười phương chúng sanh luân hồi, quê hương thân thuộc không định thì đâu không phải là quê hương thân thuộc của ta. Người khi sắp chết tâm thức không có, trực thị (đứng tròng), tắt thở, mạng sống dứt, như rơi vào hầm tối. Khi ấy quê hương thân thuộc còn đâu? Nếu khi mới sanh, đời trước không phải thân mà nay gắng gượng hòa hợp làm thân; khi sắp chết người thân trở lại không phải thân. Như một đứa trẻ một ngày chết ba chỗ, cha mẹ ba nơi đều khóc”.
Như thế các thứ chánh quán trừ lo nghĩ quê hương thân thuộc.
- Thế nào trừ cái nghĩ cõi nước ?
- Hành giả nếu nghĩ nước ấy giàu có, vui vẻ, an ổn, nhiều người tốt, thường bị sợi dây đất nước trói buộc. Phải bỏ đi cái nghĩ sai lầm như thế ! Nếu người có trí không nên mến trước. Vì sao ? Vì bao nhiêu cõi nước do tội lỗi thiêu đốt và thời tiết biến chuyển nên có đói khát khổ nhọc, tất cả cõi nước đều là vô thường không an ổn. Lại nữa, già, bệnh, chết, không nước nào mà chẳng có. Từ chỗ này thân khổ, đến chỗ kia thân cũng khổ, đi khắp tất cả nước không đâu chẳng khổ. Giả sử có nước an ổn, giàu có, vui vẻ mà còn có kiết sử tâm sanh đau khổ thì nước ấy cũng chưa phải tốt. Nếu hay dẹp được những cái xấu xa trong nước làm tiêu mòn kiết sử cho tâm khỏi khổ, ấy là nước tốt. Tất cả chúng sanh có hai thứ khổ, thân khổ và tâm khổ. Do hai thứ khổ này mà thường khổ não. Không có nước nào mà không có hai cái khổ này. Lại có nước rất lạnh, có nước rất nóng, có nước đói khát, có nước nhiều bệnh tật, có nước nhiều giặc cướp, có nước pháp nước bất công v.v… Các nước như thế, tâm chán không nên đắm mến. Đó là chánh quán trừ nghĩ cõi nước.
- Thế nào trừ cái nghĩ không chết ?
- Nên dạy hành giả, hoặc sanh trong nhà khá giả, hoặc con dòng quí phái, người có tài nghề, thế lực, tất cả đều không nên nghĩ nhớ. Tại sao ? Vì khi chết đến không lựa già, trẻ, sang, hèn, tài nghề, thế lực… Thân này là chỗ tụ hợp của các nhân duyên sầu khổ. Nếu tự thấy mình ít tuổi còn sống lâu, được an ổn, đó là người ngu si. Vì cớ sao? Chỗ nương tựa của sầu khổ là tứ đại, tứ đại gây nên hình thể cũng như bốn con rắn độc, tuy chung mà không hợp thì làm sao được an ổn ? Hơi thở ra chưa trở vào là không thể tin được. Khi ngủ chưa ắt có thức, việc ấy cũng khó tin. Từ khi sanh cho đến lúc già, cái chết lúc nào cũng rình rập bên mình, thế mà vì mong sống lâu nói rằng không chết, làm sao tin được ? Giặc chết rút đao, nắm tên tìm người giết, không có chút lòng thương xót. Người sanh trên đời cái chết là sức mạnh bậc nhất, tất cả không có cái gì thắng được sức mạnh của cái chết. Người anh hùng bậc nhất của đời quá khứ không thắng được cái chết, bậc đại trí trong đời hiện tại cũng không thắng được cái chết, không thể dùng lời nhỏ nhẹ van xin được nó, không thể dùng lời khéo léo lừa gạt được nó, cũng không thể giữ giới, tinh tấn mà đuổi được nó. Do đó nên biết, mạng người tạm bợ không thể trông cậy. Chớ có tin chắc rằng ta sẽ sống lâu. Bọn giặc chết thường dẫn người đi, không đợi già rồi mới giết. Như A-la-hán dạy đệ tử bị cái nghĩ không chết não hại rằng :
“Ngươi đã biết chán đời vào đạo, sao lại khởi nghĩ như thế ? Này ! Có người chưa sanh đã chết, có người chết trong khi sanh, có người chết trong lúc còn bú, có người chết sau khi dứt sữa, có người chết lúc còn bé, có người chết trong thời trai tráng, có người chết lúc tuổi già. Trong tất cả thời đều là cảnh của chết. Ví như cây trổ hoa liền rụng hoặc thành trái mới rụng, có khi chưa chín lại rụng. Thế nên, phải gắng sức tinh tấn cầu đạo an ổn, chung ở với bọn giặc dữ không thể tin được, bọn giặc này như cọp khéo giấu hình khó thấy. Giặc chết thường tìm giết người, mọi vật trên thế giới không thật như bọt nước, tại sao đợi già mới lo tu ? Ai có thể bảo chứng rằng người già ắt được hành đạo ? Ví như cây to đứng dựa vực thẳm, trên bị gió lớn, dưới bị nước xoi bày rễ, ai có thể tin được cây này lâu bền ? Mạng người cũng vậy, tuy tuổi nhỏ vẫn khó tin. Cha như hạt giống, mẹ như khoảnh ruộng, nhân duyên tội phước đời trước như mưa sương, con người như cây lúa, chết sống như cắt gặt. Những vị Thiên tử, Nhân vương, trí đức hưởng những thứ vui sướng cao sang, nhưng sau rồi lại rơi vào chỗ tối tăm. Bởi thế nên chớ tin mạng sống mà nói rằng : “Ta ngày nay làm việc này, ngày mai cũng làm việc này”.
Các thứ chánh quán như thế trừ quan niệm không chết.
Trước trừ lo nghĩ thô, sau trừ lo nghĩ tế, tâm thanh tịnh liền được chánh đạo, tất cả kiết sử dứt, từ đây được chỗ an ổn, ấy là quả của người xuất gia. Tâm tự tại, ba nghiệp hoàn toàn thanh tịnh, không phải trở lại thọ sanh, học rộng, đọc nhiều kinh, khi ấy được quả báo tốt. Khi được như vậy, không nhọc công phá quân ma vương mà được khen ngợi là người dũng sĩ bậc nhất, bọn giặc phiền não tự lui; tuy không gọi là mạnh mà hay trừ giặc phiền não, diệt được lửa tam độc, mát mẻ, vui vẻ, trong sạch, gối tay nằm an ổn trong rừng Niết-bàn. Ngọn gió mát thiền định, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi bốn phía thổi đến, đoái nhìn thương xót chúng sanh đang chìm đắm trong biển tam độc. Cái diệu lực như thế mới gọi là kiện toàn. Thế nên, những người tán tâm phải niệm A-na-ban-na, học sáu pháp đoạn các thứ lo nghĩ. Do đó trước phải học Sổ tức.
- Nếu trong bốn pháp - quán bất tịnh, niệm Phật v.v… - cũng trừ được lo nghĩ, vì sao chỉ nói riêng Sổ tức ?
- Vì các pháp quán kia chẫm rãi nên khó mất, pháp Sổ tức mau chóng nên dễ chuyển. Ví như người thả trâu, do trâu khó mất nên sự coi giữ lơ là, nếu thả vượn khỉ, do khỉ dễ mất nên sự coi giữ khít khao. Pháp này cũng như thế. Sổ tức chăm chú tâm và số không được một chốc nghĩ việc khác, nếu có một chốc nghĩ việc khác là số đã lộn mất. Bởi thế nên, lúc ban đầu muốn đoạn sự lo nghĩ phải Sổ tức.
Được pháp Sổ tức rồi phải thực hành pháp Tùy tức để đoạn các lo nghĩ.
2) Tùy tức – Hít hơi vào tới cùng, tâm chỉ duyên theo không đếm một, thở hơi ra đến cùng, tâm duyên theo chớ đếm hai. Ví như người thiếu nợ, chủ nợ đến đòi theo mãi bên lưng không rời. Như thế, suy xét hơi thở vào, trở ra có khác, hơi thở ra, trở vào có khác. Khi ấy biết hơi thở vào khác hơi thở ra. Vì hơi thở ra ấm, hơi thở vào lạnh.
- Hơi thở vào, ra chỉ là một. Vì sao ? Vì ra rồi trở lại vào. Ví như nước ngậm vào miệng thì ấm, nhổ ra thì lạnh, lạnh trở ra ấm, ấm trở lại lạnh cũng chỉ là một. Không phải như vậy. Do nội tâm động nên có thở ra, ra rồi liền mất, mũi và miệng hít bên ngoài thì có hơi thở vào, vào rồi diệt, cũng không có sắp ra, không có sắp vào. Nơi rún phát ra hơi thở hình như liên tục, thở ra đến mũi và miệng, ra rồi liền diệt. Ví như hơi trong quả bóng khi mở dây cột ra liền xẹp, nếu dùng nhân duyên mũi, miệng thổi hơi thở vào, ấy là nhân duyên mới mà sanh. Ví như cái quạt, do các duyên hợp lại nên có gió. Khi ấy, biết do nhân duyên nên có hơi thở ra vào, nó hư dối không thật, sanh diệt vô thường.
Suy xét do nhân duyên mũi miệng hít có hơi thở vào, do nhân duyên tâm động có hơi thở ra, mà mê lầm không biết, chấp là hơi thở của ta. Hơi thở là gió, cùng với gió bên ngoài không khác. Đất, nước, lửa, không, cũng như thế. Bởi nhân duyên ngũ đại hợp nên có thức sanh. Thức cũng như vậy, không phải là của ta. Ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới cũng như thế. Biết như vậy, theo hơi thở ra vào gọi là Tùy tức.
Đã được pháp Tùy tức phải thực hành pháp Chỉ.
3) Pháp chỉ - Sổ, Tùy tâm rất an trụ, ý dừng bên cửa hơi thở để xem nó ra vào. Vì sao phải Chỉ ? Vì dứt các lo nghĩ, dừng tâm tán động. Khi Sổ tức, Tùy tức tâm không định vì rất nhiều việc. Chỉ thì tâm nhàn rỗi ít việc, tâm trụ một chỗ xem hơi thở ra vào. Ví như người gác cửa đứng bên cửa xem người ra vào. Tâm Chỉ cũng như vậy, biết hơi thở khi ra từ rún đến hông, ngực, cổ, miệng, mũi, khi vào từ miệng, mũi đến cổ, ngực, hông, rún. Như vậy, buộc tâm một chỗ gọi là Chỉ.
4) Pháp Quán. – Trong pháp Chỉ, tâm dừng lại để quan sát, khi hơi thở vào ngũ ấm sanh diệt khác, khi hơi thở ra ngũ ấm sanh diệt khác. Như thế, trừ dẹp loạn tâm, nhất tâm suy xét cho pháp quán được tăng trưởng gọi là Quán.
5) Pháp Hoàn. - Bỏ chỗ đứng bên cửa, rời pháp quán thô. Rời pháp quán thô là nhận biết hơi thở vô thường, ấy gọi là chuyển quán. Quán ngũ ấm vô thường cũng niệm sự vô thường ra, vào, sanh, diệt của hơi thở. Thấy hơi thở vào không từ đâu đến, xem hơi thở ra không biết về đâu; do nhân duyên hòa hợp nên có, nhân duyên ly tán nên không, đó là chuyển quán.
6) Pháp Tịnh.- Trừ diệt ngũ cái và các phiền não, tuy trước được Chỉ, Quán mà phiền não chưa sạch, tâm còn tạp loạn, nay pháp Tịnh là tâm được thanh tịnh. Pháp quán trước là dị học, tương tợ hành đạo niệm hơi thở ra vào, nay là vô lậu đạo, tương tựï hành thiện hữu lậu đạo, nên gọi Thanh Tịnh.
Pháp quán trước là một phần thân niệm Chỉ, dần dần toàn thân niệm Chỉ, kế thọ và tâm niệm Chỉ, trong đó chưa phải thanh tịnh còn xa đạo vô lậu. Ở đây, trong pháp niệm Chỉ, quán mười sáu phần niệm hơi thở ra vào, được pháp noãn, đảnh, nhẫn, thế đệ nhất, khổ pháp nhẫn cho đến vô học tận trí nên gọi là thanh tịnh.
Trong mười sáu phần là :
Phần hơi thở vào có sáu hạnh A-na-ban-na.
Phần hơi thở ra cũng có sáu hạnh A-na-ban-na.
3- Hơi thở dài, ngắn. – Nhất tâm niệm hơi thở vào, ra hoặc dài, hoặc ngắn. Ví như người có việc kinh sợ, mang đồ nặng leo núi thì hơi thở lên, là hơi thở ngắn. Như người khi làm nhọc được nghỉ thì vui vẻ và như người bị giam trong khám được thả ra, thế đều là hơi thở dài. Tất cả hơi thở đều nằm hai nơi dài, ngắn, thế nên nói hơi thở dài, ngắn. Trong phần hơi thở dài, ngắn cũng niệm sáu hạnh A-na-ban-na.
4- Hơi thở khắp thân. – Tưởng hơi thở khắp thân cũng nương hơi thở vào, ra. Phải quán hơi thở vào, hơi thở ra khắp các lỗ chân lông trong thân cho đến ngón tay, ngón chân đều thở, ví như nước đổ xuống cát. Hơi thở ra cảm biết từ chân đến tóc đều thở ra, như nước đổ xuống cát. Như quả bóng hơi vô, hoặc ra đều khắp, mũi miệng hít hơi vào cũng như thế.
5- Trừ các thân hành. – Quán hơi thở khắp thân không ngại, như cọng sen dẫn nước, như lưới đánh cá. Lại không riêng mũi, miệng quán hơi thở ra vào mà tất cả lỗ chân lông và trong chín lỗ (hai lỗ tai, hai lỗ mũi, hai mắt, miệng, tiểu, đại) cũng thấy hơi thở ra vào. Thế nên, biết hơi thở khắp thân trừ các thân hành cũng niệm hơi thở ra vào.
6- Tâm thọ Hỷ. – Người mới học quán hơi thở, nếu thân nặng nề lười biếng ưa ngủ phải dẹp bỏ đi. Dùng pháp quán hơi thở ra vào thân nhẹ nhàng hòa dịu, được thiền định tâm thọ hỷ và trừ tâm nặng nề lười biếng ưa ngủ, được tâm nhẹ nhàng hòa dịu tùy thiền định tâm thọ hỷ. Hơi thở vào thân niệm Chỉ xong, hơi thở lưu hành thọ niệm Chỉ rồi, là được thân niệm Chỉ. Thật nay lại được thọ niệm Chỉ thật thọ Hỷ.
7- Tâm thọ Lạc. – Đã biết thật tướng của thân, muốn biết tướng của tâm và tâm số. Thế nên thọ hỷ niệm hơi thở ra vào, thọ lạc cũng niệm hơi thở ra vào, vì cái hỷ được tăng trưởng gọi là lạc. Tâm mới sanh mừng gọi là hỷ, toàn thân đều mừng là lạc. Lại nữa, cái thọ lạc của Sơ thiền, Nhị thiền gọi là Hỷ, cái thọ lạc của Tam thiền gọi là Lạc.
8- Thọ các tâm hành. - Thọ các tâm hành cũng niệm hơi thở ra vào. Các tâm pháp sanh diệt, tâm nhiễm, tâm không nhiễm, tâm tán loạn, tâm thu nhiếp, tâm chánh, tâm tà, các tâm tướng như thế gọi là tâm hành.
9- Tâm khởi mừng. - Tâm khởi mừng cũng niệm hơi thở ra vào. Cái thọ hỷ trước là tự sanh không phải do cố tâm phát khởi. Cái này là cố tâm khởi mừng. Vì sao cố tâm khởi mừng ? Vì muốn trị hai thứ tâm – tán động và thu nhiếp – nên khởi tâm mới được ra khỏi phiền não. Thế nên niệm pháp cho tâm khởi mừng. Nếu tâm không mừng gắng kích động cho nó mừng.
10- Tâm khởi nhiếp.- Tâm khởi nhiếp cũng niệm hơi thở ra vào. Nếu tâm không định gắng nhiếp phục cho nó định. Như trong kinh nói “Tâm định là đạo, tâm tán loạn không phải đạo” .
11- Tâm khởi giải thoát. – Tâm khởi giải thoát cũng niệm hơi thở ra vào. Nếu ý không giải thoát gắng huân tập cho nó giải thoát. Ví như con dê vào lùm cỏ gai bị gai móc, người vì nó gỡ lần lần, tâm khởi giải thoát các phiền não cột trói cũng như thế. Ấy gọi là tâm niệm Chỉ khởi giải thoát.
12- Quán vô thường. – Quán vô thường cũng niệm hơi thở ra vào. Quán sự sanh diệt vô thường của các pháp rỗng không, không có người và ta. Khi sanh các pháp giả sanh, khi diệt các pháp tạm diệt. Trong ấy không thật có nam nữ, người, kẻo tạo, người thọ… ấy gọi là pháp quán Tùy vô thường.
13- Quán tan hoại. – Quán pháp hữu vi tan hoại cũng niệm hơi thở ra vào. Các pháp hữu vi có trong hiện tại là do nhân duyên của quá khứ, nhân duyên hòa hợp thì tụ, nhân duyên tan hoại thì tán. Tùy quán như thế gọi là quán tan hoại.
14- Quán ly dục. - Quán ly dục cũng niệm hơi thở ra vào. Tâm rời các thứ ràng buộc của tham dục, đó là pháp đệ nhất. Quán như thế gọi là Tùy quán ly dục.
15- Quán diệt tận. - Quán diệt tận cũng niệm hơi thở ra vào. Các khổ kiết sử nơi nơi đều dứt, chỗ này được an ổn, ấy là Tùy quán diệt tận.
16- Quán buông bỏ. - Quán buông bỏ cũng niệm hơi thở ra vào. Các thứ nhiễm ái, phiền não, thân, tâm, ngũ ấm, các pháp hữu vi đều buông bỏ, chỗ này là an ổn bậc nhất. Quán như thế gọi là Tùy quán buông bỏ.