Sunday, November 15, 2009

Chú chồn Qui Y

Trước khi chết loài vật tinh thông linh tánh làm gì?

Từ khi còn tấm bé Bần tăng rất thích đọc các mẫu chuyện “Liêu Trai Chí Dị”. Trong đó có những chuyện thanh xà bạch xà, những chú chồn yêu tinh thường biến thành mỷ nhân hay nam nhân xin đẹp đễ quyến dụ những người ham mê sắc dục nhân gian.

Đọc đễ cho vui chứ Bần tăng chưa bao giờ nghỉ loài thú tinh khôn như vậy. Trãi một thời gian lâu xa gần 50 năm, Bần tăng mới chiêm nghiệm việc cầm thú co’ linh tánh linh thiên. Khi chết biết tìm mọi phương cách đễ tiến hóa tâm linh bằng cách cầu Thầy thọ Tam quy ngủ giới.

Cách đây 5 năm về trước, chùa Quán Thế Âm tuy nằm trong khu vực đô thị, tuy nhiên không biết từ đâu những loài cầm thú đỗ xô về chùa. Nhiều hôm khi đang đi hành thiền, Bần tăng gặp những loài chồn, thỏ, rùa, sóc, chim, rắn và nhiều loài cầm thú có thân hình kỳ lạ bò đi quanh sân chùa. Loại vật này rất tinh khôn và thân thiện với mọi người trong chùa. Nhiều đêm trời nóng nực, Bần tăng ra ngoài sân chùa ngồi thiền. Lúc xã thiền, rất ngạc nhiên vì có nhiều loài chồn sóc nhẫy ngồi trong lòng Bần tăng, chúng kêu chíu chít rất dễ thương.

Bần tăng thấy chúng tinh khôn như vầy nên thường đứng gần, dậy chúng niệm phật. Hy vọng khi chúng xả báo thân này sẻ tái sanh vào cỏi nhân thiên đễ tiếp tục tu đến khi thành đạo.

Một đêm kia sau khi tham thiền xong, Bần tăng vào nằm an tịnh. Lúc đó Bần tăng chưa ngũ, chợt nghe có tiếng cào cữa sỗ ỡ phòng Bần tăng hướng về vườn sau chùa. Khi nghe tiếng cào cữa sỗ Bần tăng tưỡng là gió thỗi mạnh làm những cành cây khô quẹt vào thành cữa sổ, nghỉ vậy nên Bần tăng tiếp tục an tịnh.

Đêm thứ hai, vào khoảng 1 giờ khuya, Bần tăng lại nghe tiếng cào cữa gấp rút và bên ngoài gió thỗi rất mạnh. Bần tăng nghỉ rằng, gió quá lớn chắc thỗi lá va` cành cây khô va chạm vào cữa sỗ cho nên Bần tăng tiếp tục an tịnh.

Đêm thứ ba, tiếng cào cữa sỗ lại nghe rất lớn, trong tiếng gió bên ngoài Bần tăng nghe có tiếng thỡ dài nảo nuột và có tiếng nói hình như xa xăm vang lại. “Thầy ơi, con sắp chết rồi, con nhờ thầy cứu con”. Lúc nầy, Bần tăng biết bên ngoài có chúng sanh cầu cứu. Thầy vội bật đèn lên và vén màng cữa nhìn ra. Bên ngoài, một chú chồn to bằng con mèo với tư thế hai chân trước chồm lên cửa sổ và cào vào cữa sổ trong thế tuyệt vọng. Lúc chú chồn thấy Bần tăng nhìn ra, cặp mắt chú sáng rỡ và trong miệng kêu âm thanh rất hớn hỡ vui mừng.

Lúc bấy giờ Bần tăng quan sát thân thễ chú chồn, Bần tăng biết chồn không bao lâu sẽ mệnh chung, nên Thầy nói vọng ra, “ Nếu con linh khôn và muốn thọ giới Phật, ngày mai là ngày rằm con hảy đến đây vào lúc 9 giờ tối, Thầy sẻ truyền giới cho con.” Mục đích Bần tăng muốn truyền giới vào giờ đó vì số Phật tử sẽ đến chùa tụng kinh đông. Thầy muốn giúp cho Phật tử thấy việc lạ thường này mà phát tâm dỏng mảnh tu.

Đêm sau, khi đắp cà sa và định vào chánh điện tụng kinh, Bần tăng bỗng nghe một Phật tử kêu to: “Đại sư ơi! mời Thầy đến coi, chú chồn không biết ỡ đâu đến. Nó đang đứng bên cữa sỗ phòng Đại sư kìa.” Khi nghe điều này Bần tăng biết linh tánh chồn khôn ngoan. Đêm trước, Thầy nói bằng tiếng nhân gian thế mà linh tánh chồn đoán được ngày giờ để thọ Giới cho chú.

Lúc bấy giờ, Bần tăng quay sang nói với đại chúng: “Các vị đừng sợ! hôm nay chồn đến đây đễ được Thầy cho quy y Tam Bao và truyền ngũ giới cho chú.” Đại chúng rất ngạc nhiên lúc đó. Thầy mới tường thuật chuyện chú cào cữa sỗ 3 đêm trước cho đại chúng biết. Ai cũng niệm “A-Di-Đà Phật” loài vật này sau tinh khôn thế ấy.

Bần tăng nói đại chúng đi theo Bần tăng đễ hộ Niệm. Bần tăng tiến lần về chỗ chú chồn đang đứng. Đèn được bật sáng, chú chồn thân rất to lớn nhưng Thầy nhìn trong ánh mắt chú rất buồn bã. Khi Thầy đến sát bên chú Thầy nói: “ Nếu con có linh tánh khôn ngoan hảy làm theo lời Thầy chỉ bảo”. Lúc đó Bần tăng cùng đại chúng tụng sám hối, sau phần nghi lễ này Bần tăng nói với chú chồn: “ Thầy vừa làm lễ sám hối cho con xong, với lòng tha thiết cầu đạo và tâm chân thành sám hối của con, sau khi mệnh chung con sẻ tái sanh lại cỏi nhân gian để tiếp tục tu học. Bây giờ Thầy xin đại diện mười Phương chư Phật, chư Bồ Tát và chư Thánh Tăng truyền Tam y và Giới pháp cho con.”

Một điều lạ kỳ, khi Thầy xướng danh Tam bảo Phật pháp tăng và khi đại chúng cuối đầu đảnh lễ thì chú chồn cũng lặng lẽ cuối đầu. Trong ánh mắt của chu’ Bần tăng thấy rõ nét vui tươi hớn hỡ. Đến phần truyền giới, khi Bần tăng tuyên Giới pháp xong và đánh một tiếng khánh, chú chồn liền tự cuối đầu. Phần lễ xong, Thầy chú nguyện và phú chúc cho chú “nhờ công đức thọ Tam quy ngũ giới này, chú sẻ tái sanh vào nhàn cảnh. Nếu biết niệm Phật củng được vãng sanh về cỏi Tây Phương Cực Lạc.”

Khi lễ xong, Bần tăng nhìn chú lần cuối trước khi vào chánh điện. Bần tăng còn thấy trong ánh mắt lung linh kia có hai hàng nước mắt, lan dài trên gương mặt chú. Thầy biết đây là giọt nước mắt sung sướng vì chú biết rằng, từ đây về sau nhờ thọ Tam quy ngủ giới, chú chẵng bao giờ thọ sanh vào địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh. Kiếp cầm thú này của chú đến hôm nay viên mản và từ đây về sau quốc độ chú sẻ tái sanh vào loài người và các chư thiên.

Đêm nay, lòng Bần tăng an lạc hơn bao giờ hết, vì Bần tăng đã thấy rỏ thiện ác và Phật tánh ngự tri trong muôn loài chúng sanh. Một kiếp làm thú củng đã trả nợ tiền kiếp gieo ác nhiều muôn kiếp. Một linh vật biết hướng thượng là điều Bần tăng mong cầu ở mổi chúng sanh. Kễ từ đêm đó, chú chồn không còn trỡ lại, hang của chú được chú dun đất lên làm nắm mộ chôn mình.

Năm năm qua, thời gian vô thường vẫn trôi. Một ngày kia, sân chùa của Thầy có người thiếu phụ dẫn đến một đứa bé gái vừa tròn năm tuổi. Khi nghe mẹ bé bảo: “Chào Đại sư đi con!” đứa bé cười mũm mĩm và chạy lại dơ hai tay ôm và nhìn Bần tăng trong ánh mẳt đó. Bần tăng tìm được nét quen thuộc, cặp mắt của một linh vật mà Năm năm về trước Bần tăng đã truyền Tam quy ngủ giới.

Hôm nay con đả trở lại cỏi người với thân người nữ, Thầy biết rằng một ngày kia con sẽ học hết sự đau khỗ và hạnh phúc kiếp người. Con sẽ phát niệm từ bi cứu độ muôn loài chúng sanh và tiến mãi đến nơi an nghỉ cứu cánh niết bàn.


- Đại Sư Pháp Vân -


Source: http://www.niemphat.com/linhtinh/chuchon.html

Phật Pháp Nhiệm Màu và câu chuyện vãng sanh đặc biệt của một thanh niên Đại Hàn tên là Kim Thiện Nhật. Anh bị quân chống đối Iraq bắt làm con tin

Câu chuyện thứ nhất:

đây chúng tôi xin kể cho quý bạn nghe một câu chuyện nhiệm màu của mẹ tôi được Phật rước để quý bạn tin niệm Phật hồi hướng có kết quả chân thật.

Có một ngày, tôi đang ngồi ăn sáng thì bỗng thấy bàn thờ Phật và bàn thờ ba mẹ tôi rực sáng.

Tôi ngước nhìn lên thì thấy cả hai bàn thờ đều có hào quang bảy màu rất đẹp.

Tôi vô cùng vui mừng và nghĩ thầm: "Chắc ba mẹ tôi đã được chư Phật đến tiếp dẫn."

Tối đó, tôi gọi phone về Việt Nam để kể cho gia đình tôi nghe.

Khi gọi về thì gặp chị Diệu Ngọc bắt phone.

Tôi chưa kịp nói gì thì chị tôi đã mừng rỡ kể cho tôi nghe về giấc mơ của em tôi đêm qua.

Trong giấc mơ, em tôi đã thấy có cả trăm chư Tăng tới tựu tập ở phòng khách ngay bàn thờ ba mẹ tôi.

Tự nhiên có một tòa sen màu hồng từ ngoài bay vào và dừng lại ở giữa bàn thờ ba mẹ.

Rồi em thấy hồn của mẹ tôi đi đến ngồi bên cạnh tòa sen đó, còn chư Tăng ai nấy cũng cúi đầu lạy tòa sen.

Khi đó, trong tâm thức em tôi tự nghĩ: "Không lẽ mẹ mình được chư Tăng và chư Phật đến rước đi sao?".

Chưa kịp nghĩ xong thì bỗng nhiên em nghe có tiếng nói rằng: "Bà cụ được chư Phật đến rước đi đó!".

Sau đó tòa sen và hồn mẹ tôi bay ra cửa.

Khi ra đến cửa thì em tôi không còn thấy hồn mẹ đâu nữa, chỉ còn thấy tòa sen bay vút lên cao và chư Tăng từ từ biến mất vào hư không.
Vừa lúc đó thì em tôi choàng thức dậy.

Tuy là giấc mơ nhưng cảm giác hiển hiện rõ ràng như sự thật.

Sau khi nghe chị tôi thuật lại giấc mơ, tôi vui mừng khôn siết và liền kể cho chị tôi nghe về điềm lành hào quang xuất hiện trên hai bàn thờ ban sáng.

Chị tôi nghe xong cũng rất vui mừng và xúc động.

Kính thưa quý bạn! Sở dĩ tôi kể ra câu chuyện nhiệm màu này là vì muốn quý bạn tin sự niệm Phật và làm phước đức để hồi hướng cho ông bà cha mẹ là có kết quả chân thật.

Trong kinh Phật có kể về một câu chuyện của cô gái Bà La Môn vì muốn cứu mẹ mình thoát cảnh địa ngục mà thành tâm niệm Phật được một ngày một đêm thì cô nằm mộng thấy mình đi vào địa ngục gặp Diêm Vương.

Diêm Vương bảo rằng: "Mẹ cô đã được sanh lên cõi trời nhờ công đức niệm Phật và làm phước hồi hướng của cô".

Sau khi thấy được cảnh địa ngục đau khổ, cô gái Bà La Môn đó quyết tâm tu thành Phật để cứu hết chúng sanh trong địa ngục.

Nhờ có nguyện lực từ bi vô tận đó mà cô đã tu thành Bồ tát Địa Tạng. Hiện nay Ngài vẫn đang còn ở trong địa ngục để cứu chúng sanh.


Câu chuyện thứ hai:



Mấy năm gần đây, Phật tử chúng ta đều nghe được câu chuyện vãng sanh đặc biệt của một thanh niên Đại Hàn tên là Kim Thiện Nhật.

Anh bị quân chống đối Iraq bắt làm con tin và bị chặt đầu.

Hồn của người thanh niên này bay qua Úc báo mộng cho bà Lâm Tân Nhuận và cầu xin bà cứu giúp.

Bà Lâm Tân Nhuận là người Trung Hoa, sanh ở Mã Lai và di dân sang Úc.

Bà không hề có bà con gì với Kim Thiện Nhật cả mà chỉ là người chuyên tu niệm Phật và thường tu tại đạo tràng Tịnh Tông Học Hội, thuộc hệ thống của Hòa thượng Tịnh Không.

Ở đây chúng tôi chỉ xin kể tóm lược lại câu chuyện đó cho một số quý bạn chưa được biết.

Bà Lâm Tân Nhuận kể rằng: Có một đêm bà nằm mơ thấy có một cậu thanh niên chạy hớt hãi đến xin bà cứu và kể cho bà nghe chuyện anh bị bắt chặt đầu ở Iraq.

Sau đó anh viết tên mình lên bàn tay rồi đưa cho bà xem.

Nghe xong bà liền khuyên và dạy anh niệm Phật.

Anh vừa niệm được mấy câu thì bà giật mình thức dậy.

Sáng hôm sau, bà đem giấc mơ kỳ lạ đó kể cho con trai nghe.

Anh con trai lấy làm lạ vì lâu nay bà Nhuận không xem tin tức thì làm sao biết được chuyện người Đại Hàn bị chặt đầu bên Iraq.

Anh liền đưa tờ báo có hình của nạn nhân Đại Hàn bị chặt đầu cho bà xem có giống với người bà đã gặp trong mơ hay không.

Ngạc nhiên thay bà nhận ra đó chính là cậu thanh niên đã nhờ bà giúp đỡ trong giấc mơ đêm qua.

Sau đó, bà đến đạo tràng Tịnh Tông kể lại giấc mơ kỳ lạ đó và xin mọi người trong đạo tràng cùng niệm Phật hồi hướng cho Kim Thiện Nhật.

Còn riêng bà thì mỗi ngày cứ đến 2 giờ sáng thì tâm bà thôi thúc kêu bà thức dậy niệm Phật.

Bà niệm tha thiết thành khẩn để mong cứu được người thanh niên đó.

Bà cứ thành tâm niệm Phật và hồi hướng như vậy cho đến ngày thứ 13 thì nằm mộng thấy Kim Thiện Nhật ngồi trên một hoa sen màu xanh, chắp tay mỉm cười cảm tạ và hẹn gặp bà ở Tây phương Cực Lạc.

Bà cũng vui cười chắp tay niệm Phật ba lần để chào tạm biệt.

Sau đó bà đem câu chuyện này kể lại cho mọi người ở trong đạo tràng Tịnh Tông biết.

Ai nấy đều vui mừng vì sự hộ niệm của họ đạt được kết quả.

Câu chuyện này được quý thầy và Phật tử ở Tịnh Tông truyền ra và kể cho Phật tử khắp nơi nghe.

Sau đó, cư sĩ Tịnh Hải đưa câu chuyện này và hình của anh Kim Thiện Nhật vào cuốn sách "Niệm Phật vãng sanh".

Nhờ vậy mà Phật tử trong và ngoài nước đều biết về câu chuyện hy hữu này.

Về phần bà Lâm Tân Nhuận, nhờ có tâm từ bi niệm Phật thành khẩn liên tục suốt 12 ngày đêm để cứu Thiện Nhật mà bà được kết quả niệm Phật nhất tâm.

Kính thưa quý bạn! Cho dù ông bà cha mẹ của chúng ta có bị đọa ở trong ba đường ác hay đang bị làm ma vất vưởng hoặc đã đầu thai làm người thì sự niệm Phật hồi hướng của chúng ta cũng giúp được cho họ rất nhiều.

Chỉ cần chúng ta thành tâm niệm Phật và luôn luôn nghĩ tưởng đến họ thì thần lực của ta và chư Phật sẽ chuyển hóa được tâm thức của họ.

Khi tâm thức của họ được chuyển thì cảnh giới của họ cũng được chuyển theo.

Đây là vạn lần chơn thật vì Phật không nói lời giả dối.

Xin quý bạn phát tâm niệm Phật để cứu mình, cứu mười đời ông bà cha mẹ và cứu chúng sanh.

Theo hoibongsen.com

Sự linh ứng của Phật pháp




Anh Cẩn sinh năm 1949. Hiện anh đang sống ở thành phố Encinitas, miền Nam Cali.
Có thể nói anh là một trong những người Việt Di Tản thành đạt ở Mỹ.

Sang Mỹ từ năm 1975, anh bắt đầu làm việc ngay trong lĩnh vực điện toán.

Với kinh nghiệm từng làm việc trong ngành điện toán khi còn ở Việt Nam, anh nhanh chóng thăng tiến trong ngành công nghệ quan trọng này của Mỹ.

Đến năm 1990, anh đã nắm giữ những chức vụ cao trong các hãng lớn như General Electric.

Anh quyết định mở business riêng của mình. Công việc kinh doanh của các công ty software do anh sáng lập đều thành công ở những mức độ khác nhau.

Theo anh Cẩn, con đường đến với Phật Pháp của anh cũng tương tự với những người thuộc giới trí thức và làm việc trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật.

Anh theo Đạo Phật vì mẹ là một Phật Tử thuần thành, thường xuyên đi Chùa, tụng kinh.

Lúc trẻ anh đọc rất nhiều sách Phật, cũng thiền tập, nhưng là để thoả mãn nhu cầu về tri thức hơn là tìm cho mình một con đường đi trong cuộc sống.

Một tác động lớn đến đời sống tâm linh của anh xảy ra cách đây hơn chục năm, trong anh khi đang điều hành công ty của mình ở Mỹ.

Hôm đó, có một nhân viên lên gặp anh khóc và nói rằng mình bị áp lực lớn vì không theo nổi cách làm việc của anh.

Anh Cẩn hết sức ngạc nhiên, vì anh thuộc loại giám đốc biết quan tâm đến nhân viên.

Có điều anh luôn yêu cầu nhân viên phải làm việc đúng như cách của anh làm, để họ cũng thành công như anh.

Anh quên mất là không phải ai cũng có khả năng như anh được.

Hoá ra là cho dù đang muốn làm một việc tốt, nhưng vì chấp ngã, nên vô tình anh làm tổn thương người khác !

Qua sự kiện đó, anh bắt đầu nhìn lại mình.

Anh bắt đầu trở nên biết lắng nghe người khác hơn.

Anh bắt đầu tìm cách đem Phật Pháp áp dụng vào trong cuộc sống hằng ngày.

Anh Cẩn rất quan tâm đến Phật Giáo Tây Tạng.

Theo anh, truyền thống Tây Tạng vạch ra con đường tu tập rõ ràng cho các Phật tử còn đang sống cuộc đời thường như anh.

Vẫn biết “tu là chuyển nghiệp” như nhiều thầy đã dạy, nhưng “How ?”

Phật Giáo Tây Tạng đưa ra cho anh Cẩn câu trả lời này cụ thể hơn.

Do đó, anh thường lên nghe giảng pháp ở ngôi chùa Tây Tạng ở Long Beach, nơi có Geshe Tsultim Gyeltsen trụ trì.

Ngài là một trong những chư vị cao tăng của Phật Giáo Tây Tạng, rất được Đức Đạt Lai Lạt Ma quí mến.

Anh Cẩn - Dĩ tâm ứng tâm.

Vào khoảng tháng 06/2007, anh Cẩn thấy sức khoẻ mình tự nhiên suy kiệt hẳn.

Vì sao thì bác sĩ chưa chẩn đoán được.

Phải đợi đến khi anh thấy mình bị chứng “double vision” - một vật mà nhìn thành hai - anh mới khám bác sĩ nhãn khoa rồi được chuyển qua bác sĩ khác để cho scan não bộ của anh.

Lúc đó họ phát giác là anh bị ung thư phổi, đã di căn tới não, nên họ tức tốc đưa anh vào nhà thương.

Đối với y học, ca của anh Cẩn có vẻ như đã quá trễ.

Bác Sĩ vẫn bắt đầu phương pháp xạ trị mà không ai hứa hẹn điều gì.

Cuộc sống của anh tính theo từng tháng. Chỉ còn chờ phép lạ …

Đối với một người đọc sách Phật nhiều như anh Cẩn, anh cũng biết sinh tử là vô thường.

Nhưng khi phải đối mặt trực diện với nó, anh mới thấy mọi kiến thức trước đây của mình về cái chết sao chỉ là một mớ khái niệm rỗng, không giúp gì được cả.

Anh cảm thấy hoang mang quá đỗi.

Anh chưa chuẩn bị sẵn sàng cho việc đi về một nơi nào đó đằng sau cái chết.

Bởi vì anh vẫn còn lo cho vợ anh, con anh, và cả doanh nghiệp đang làm việc nữa, sau này không có anh rồi sẽ ra sao.

Anh cố tự nhủ rằng mình chấp và bám víu như vậy là sai với tinh thần nhà Phật, nhưng anh không thể nào chế ngự được nỗi sợ hãi khi hình ảnh cái chết và vợ con mình hiện lên trong đầu.

Cùng với cơ thể bệnh hoạn, tâm anh lại bị thiêu đốt trong sự sợ hãi.

Thân tâm anh suy sụp toàn diện !

Đến lúc như tuyệt vọng, tự nhiên anh nghĩ đến Geshe Tsultim Gyeltsen.

Anh nhờ một người bạn thân đến chùa ngay để trình bày với thầy về hoàn cảnh của anh, và xin được qui y với Ngài.

Thầy nhận lời ngay.

Cuối tuần đó, anh sung sướng được gặp thầy, được thầy làm Lễ Qui Y chính thức.

Anh xin thầy lời khuyên về sự giải thoát cho bản thân mình.

Lời khuyên của Ngài thật đơn giản : Giao tất cả mọi chuyện vướng bận trong đời lại cho người thân, để chuẩn bị cho mình vượt lên trên tất cả những lo toan đó.

Với một niềm tin mãnh liệt vào vị thầy tôn kính, anh thực hiện đúng như vậy.

Anh bàn giao lại công việc, tài sản lại cho người thân của mình lo liệu.

Anh tức tốc lấy vé máy bay để cùng vợ đi Hawai, với ý nghĩ là tận hưởng những ngày tháng cuối để vui với gia đình.

Đúng cái đêm trước ngày khởi hành, “phép lạ” xảy ra.

Tối hôm ấy, anh cũng ngồi thiền để tĩnh tâm như mọi khi.

Và khi anh nhắm mắt lại, anh thấy tự nhiên trong tâm anh tràn ngập hình ảnh vị thầy tôn kính của mình.

Kỳ diệu hơn nữa, tâm của anh hoàn toàn tĩnh lặng cùng hình ảnh của thầy.

Không cần một cố gắng nào cả, sự sợ hãi đang chế ngự anh trước đây tự nhiên biến mất.

Giống như người lạc giữa sa mạc gặp được dòng suối mát, anh đã để tâm mình an trú trong những giây phút bình an tuyệt diệu đó.

Đây là một dạng kinh nghiệm thực chứng của thiền quán mà không phải ai cũng tìm được, dù một lần trong đời.

Hôm sau, anh đem theo niềm an lạc đó sang Hawaii cùng với kỳ nghỉ của mình.

Buổi sáng đầu tiên ở Hawai, anh chống gậy đi ra biển để ngắm bình minh.

Và trong khi để tâm mình theo dõi vẻ đẹp của trời biển trong lúc mặt trời lên,
hình ảnh 20 của thầy lại tràn ngập trong anh cùng với thiên nhiên.

Bình an lại đến ! Anh cảm thấy hạnh phúc trong giây phút hiện tại quá đỗi !

Lúc đó, anh mới thực sự ngộ ra rằng giây phút hiện tại là hiện hữu nhiệm màu nhất.

Nó không có khởi đầu, không có kết thúc. Nó chỉ là những cảm thọ bình an nối tiếp trong tâm một cách bất tận, và anh đã an trú được trong nó.

Khi về lại Cali, anh gặp thầy và kể lại những trải nghiệm này của mình.

Ngài chỉ cười mà không giải thích thêm.

Mà anh cũng không chờ đợi được giải thích vì cuộc sống của anh đã thực sự thay đổi rồi.

Anh vẫn điều trị bệnh theo bác sĩ. Thời gian còn lại, anh tận hưởng từng giây phút của cuộc sống với gia đình, bạn bè của mình.

Sống trọn vẹn như vậy, anh nghĩ rằng không có gì khác biệt giữa việc mình sống thêm một năm hay mười năm nữa.

Bốn tháng sau, bác sĩ scan lại và không phát hiện ra sáu cục bướu trước đây nằm trên não của anh nữa.

Có vẻ như anh đã vượt qua được giai đoạn nguy kịch nhất.

Bác sĩ cũng nói “phép lạ” đã xảy ra …

Cho đến hôm nay, mọi chuyện mới qua đi hơn một năm.

Nhìn lại, anh Cẩn có cảm giác thời gian đó dài lắm !

Hiện tại, anh vẫn tiếp tục sống bình thản. Anh vẫn cùng bác sĩ tiếp tục theo dõi căn bệnh.

Anh Cẩn bảo rằng nó có thể quay lại bất cứ lúc nào, nhưng anh tự hào là đã chiến thắng được nó một lần.

Điều quan trọng là anh không còn bận tâm đến nó nhiều nữa.

Không ai có thể biết chắc chắn là ngày mai chúng ta có còn sống hay không.

Như vậy, đâu là sự khác biệt giữa một người ngày mai chết vì ung thư và một người ngày mai chết vì bất cứ một lý do nào đó, một tai nạn xe cộ chẳng hạn ?

Vậy thì hãy sống trọn vẹn ngày hôm nay là được rồi.

Tôi hỏi đâu là “phép lạ” trong trường hợp của anh ?

Anh Cẩn cho rằng đó là sự kết hợp nhiều yếu tố. Có thể là do anh có một bác sĩ giỏi, và anh biết cách làm việc với bác sĩ của mình.

Có thể là do khi anh giữ được cái tâm bình an rồi, toàn bộ năng lượng trong con người anh dùng để hồi phục những tế bào ung thư.

Trong việc điều trị ung thư vào giai đoạn đã di căn thì y học chỉ đóng góp chừng phân nửa vào kết quả.

Phân nửa còn lại dành cho những yếu tố 20 mà khoa học chưa thể lý giải hết, như niềm tin, sức mạnh của cái tâm bình an …

Giải thích tại sao vị thầy có thể trao cho anh được sự bình an, bước ngoặc của cuộc đời mình, anh Cẩn cho rằng đầu tiên là vì anh đã đặt niềm tin tuyệt đối vào Ngài.

Cộng với thầy của anh có năng lực của tâm để truyền cho anh. Còn anh cũng hết lòng nhận.

“Dĩ Tâm ứng tâm” có lẽ là vậy đó.

Khi cả người cho lẫn người nhận đều mở rộng tâm của mình hướng vào nhau, “phép lạ” của tâm linh sẽ xảy ra …

Chia tay với anh Cẩn, tôi cảm ơn anh vì câu chuyện của anh là một món quà lớn dành cho tôi.

Anh Cẩn mong rằng những điều tôi ghi lại được sẽ phần nào giúp đỡ những ai đang phải đối diện với căn bệnh ung thư như anh.

Đừng bỏ cuộc.

Đừng đóng cửa lại với cuộc sống.

Thông điệp của anh là : Hãy Tạo Cho Mình Một Niềm Tin & Một Cái Tâm Bình An.

Tôi nghĩ thông điệp này đâu chỉ dành cho người bệnh, mà còn dành cho tất cả chúng ta -Những con người đang sống trong một thời đại đầy biến động này …

Sưu tầm

Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng , Sư Huệ Duyên (tụng)

http://thuvienphathoc.blogspot.com/

Kinh này tụng rất mầu nhiệm, tụng xong thấy rất hên,gặp rất nhiều may mắn .


01. Namô ba ga pha thê
02. Sạt hoa tát răn lô ky đa
03. Bơ-ra di vi ti sắc tra đa
04. Bút đà da ba ga pha tê
05. Tát di da that
06. Um!Bút rum, bút rum, bút rum
07. Suýt đà da, suýt đà da
08. Vi suýt đà da vi suýt đà da
09. Á sà ma sá ma
10. Sa măn tá phạ hoa sát
11. Sa phà ra na ga ti ga gạ na
12. Xoa phạ hoa vi suýt đi
13. Á vi chuân da đu măm
14. Sạt hoa tát thá ga đa
15. Sú ga đa
16. Phạ ra phạ ca nã
17. A mi rị tá, bi sá ưu
18. Maha muýt đơ ra măn đa ra bana
19. Um! Á hạ ra, á hạ ra
20. A du săn đà ra ni
21. Suýt đà ha, suýt đà ha
22. Ga ga na, xoa phạ hoa vixuyt di
23. U sắc ni sá vi ca da đi suýt đi
24. Sá hạ sa ra, ra sa mi săn tô ni tê
25. Sá ra hoa tát thá ga da
26. A hoa lô ki ni
27. Sẹt hoa tát thá ga đa mát tê
28. sá tra bá ra mi tá
29. Ba ri bù ra ni
30. Na sá bù mi bo ra, đi sắc si tê
31. Sá ra hoa tát thá ga do hất rị đà da
32. Di sắc sá na
33. Di sắc si tê
34. Um!Muýt đơ rị, muýt đơ ri, ma ha muýt đơ ri
35. Hoa đi ra ca da
36. Săn hạ da ná vi suýt di
37. Sá ra hoa ca ma, phạ ra ma vi suýt di
38. Ba ra đu ri ca ti, bi ri vi suýt di
39. Bơ ra ti na hoa ra đá da a dục
40. San ma dã đi sắc sá na, đi sắc si tê
41. Um! ma ni ma ni, mạ ha ma ni
42. Á ma ni á ma ni
43. Vi ma ni, vĩ ma ni, mạ hạ vĩ ma ni
44. Mát di mát di, mạ hạ mát di
45. Tát thá đá bủ da
46. Cu thi vi ri suýt di
47. Vĩ sa phổ ra, bút di vi suýt đi
48. Um! hi hi
49. Dá ra, đá ra
50. Vĩ đá ra, vĩ đá ra
51. Sa ma ra, sa ma ra
52. Sa phạ ra, sa phạ ra
53. sa ra phạ, bút da
54. Đi sắc sá na
55. Đi sắc si tê
56. Suýt ti, suýt ti
57. Hoạ di ri, hoạ di ri, maha hoa di ri
58. Á hoạ di ri
59. Hoạ dí ra gạ bi
60. Dá ra gạ bi
61. Vĩ đá ra gạ bi
62. Hoạ di ra, rít hoạ lã, gạ bi
63. Hoạ di rô, na gà tê
64. Hoạ di ro, na gà tê
65. Hoạ di ra sam bà vê
66. Hoạ di rô, hoa di rị na
67. Hoạ dị rảm, hoa phạ đô mạ mạ
68. Sá rị rảm, sa ra phạ, sát ta phạ nam
69. Tà ca da, bi ri vi suýt di
70. Sất da hoa phạ đô mi sát na
71. Sa ra phạ, ga ti, bi ri suýt di
72. Sá ra phạ, tát tha ga da, sất đa mi
73. Sá ma sa phạ sát dăn tu
74. Sạt hoa tất tha ga đa
75. Sá ma sa phạ sa đi sắc si tê
76. Um! Sất di da sất di da
77. Bút đi da, bút di da
78. Vi bút đi da, vi bút đi da
79. Bồ đà da, bồ đà da
80. Vi bồ đà da, vì bồ đà da
81. Mô ca da, mô ca da
82. Vi mô ca da, vi mô ca da
83. Suýt đà da, suýt đà da
84. Vi suýt đà da, vi suýt đà da
85. Sa măn đà da, sa mi
86. Sa măn đá da, sa mi bi rị suýt đi
87. Sá ra phạ tát thá ga đá sam ma da hất rị đà da
88. Đi sắc sá na, đi sắc si tê
89. Um! Muýt đơ rị, muýt đơ ri mạ hạ
90. Mạn đà ra bá na
91. Đi sắc si tê
92. Sóa ha