Saturday, June 12, 2010

Sala – cây của nhà Phật

Đây là loài cây đã chứng kiến Đức Phật đản sinh và nhập Niết Bàn.

Hoa Sala hay Tha la, còn gọi là hoa đầu lân mang ý nghĩa thiêng liêng đối với Phật Giáo Nguyên Thủy và Nam Tông, gắn bó với những sự kiện quan trọng trong cuộc đời của Đức Phật Thích Ca.

Như cây Bồ Đề trong Phật Giáo Đại Thừa, Sala thường trồng trong các sân chùa Nam Tông ở Sri Lanka, Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào và một số chùa Khmer Nam Bộ. Tín đồ Hindu Giáo Ấn Độ cũng xem cây sala thiêng liêng và thường trồng nơi đền thờ thần Shiva.
Do kết cấu cả chùm hoa trông giống rắn thần (naga), mỗi bông là đầu và miệng phùng mang che phần nhụy trung tâm có hình một lingam của thần Shiva và nhiều shivalingam nhỏ bao quanh, nên được gọi là Nagalingam hay “hoa Shivalingam”.

Hình tượng này làm ta liên hệ đến con rắn hổ mang chín đầu bảo vệ Đức Phật trong lúc ngài ngồi nhập định 49 ngày dưới cội cây bồ đề.
Hoa sala có mùi rất thơm, hương tỏa xa thanh thoát, được xem là loài hoa vô ưu hay ưu đàm. Sala nở rộ tượng trưng cho Phật Pháp (Dharma), và Đức Phật cuối cùng đã chọn giữa bóng hai cây này (song thọ) để nằm nghỉ và đi vào Niết Bàn

Trong phù điêu nghệ thuật Phật Giáo thường mô tả thân mẫu Đức Phật là Hoàng Hậu Maya sinh nở trong vườn Lumbini, khi bà đưa cánh tay phải lên vịn cành hái một đóa hoa sala và đã hạ sinh Thái Tử Siddhartha. Hoa sala mọc từng chùm trực tiếp từ thân cây chứ không mọc từ cành hay ngọn như những loài hoa khác, khiến ta có thể lý giải về biểu tượng Đức Phật được sinh ra từ cạnh sườn của Hoàng Hậu Maya.
Hình tượng nữ Yashi (Dạ xoa) thân thể với vẻ đẹp lý tưởng đầy gợi cảm, nàng đang đứng dưới bóng cây sala với bàn tay phải với lấy cành cây, thường thấy mô tả trong nghệ thuật điêu khắc cổ.

Thuật ngữ salabhanjika nguyên thủy gắn bó với lễ hội phồn thực “hái hoa sala”, điêu khắc thể hiện những hình tượng đồng nhất người nữ với cây, nhất là cây hoa sala. Ở Ấn Độ, ngày nay cây sala vẫn được thờ cúng, đặc biệt với những cặp hiếm muộn.

Sala có thể mọc cao lên đến 15m, tên khoa học là Couropita Guianensis, thuộc họ dầu (Dipterocarpaceae). Hoa chỉ mọc từ thân chính, có màu cam lẫn đỏ thắm và hồng, và mọc thành chùm trên cọng dài có khi tới 3m.

Quả to tròn màu xám (hình thù như trái đạn thần công nên tên tiếng Anh còn gọi là Canon-ball tree) có mùi hắc khó ngửi, muốn trồng thành cây phải đợi hạt bên trong thối đi mới nảy mầm, rồi bổ quả thối ra để lấy hạt trồng. Quá trình này diễn ra đúng theo quan niệm phồn thực về sinh, diệt và tái tạo trong Ấn Giáo.

Ở Sài Gòn, có thể thấy một số cây sala trồng trong Chùa Già Lam, Thảo Cầm Viên, Tao Đàn, Khu du lịch Bình Quới …

Trong văn chương, bài thơ Đây Tha La Xóm Đạo của Vũ Anh Khanh, mô tả một xóm đạo thuộc vùng nổi tiếng về “cây ngọt trái lành” ở Tây Ninh, cho thấy có sự giao thoa giữa các đạo Hindu, Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo ở một vùng đất vốn thuộc văn hóa Khmer.

Thuật ngữ “sala song thụ” trong tiếng Phạn nghĩa là sự kiên cố. Khi Phật nhập diệt, hai cây “sala song thụ” cũng như người, chúng đau buồn và lá đều biến thành màu trắng như một rừng chim hạc.

Kinh Đại Bát Niết Bàn kể rằng trên đoạn đường cuối cùng trong chuyến vân du về Câu Thi Na (Kushinagara) cùng với A Nan Đa, vị thị giả của mình, Đức Phật bảo: “Này A Nan Đa, ta cảm thấy mệt mỏi quá và muốn nằm nghĩ, hãy trải tấm tọa cụ ra giữa hai cây sala, đầu hướng về phương Bắc”.

Và khi Ngài nằm xuống thì hai cây sala bỗng nở hoa mặc dù lúc đó không phải là mùa ra hoa. Rồi những đóa hoa tươi thắm làm thành một cơn mưa hoa ngọt ngào, dịu mát như để tiễn đưa đấng Đạo Sư về với cảnh giới chân như muôn thuở.

Vì chúng ta vẫn còn Lậu Hoặc – HT. Tuyên Hóa

In Cẩm - Nang - Học - PHẬT on 17/04/2010 at 5:32 PM
“Thần Thông”. Thế nào gọi là “thần”? Thế nào gọi là “thông”? “Thần” là “thiên tâm”, là tâm của trời; “thông” là “huệ tánh”, tức là có trí huệ. “Thông” còn là “thông đạt vô ngại” – chẳng có gì không thông suốt; và “thần” cũng hàm ý thần kỳ bí ẩn.

Thần thông có sáu loại – sáu loại cũng là một loại, một loại mà phân làm sáu loại. Cho nên, tách riêng ra thì có tới sáu loại, song hợp lại thì chỉ là một. Thật ra, một loại cũng chẳng có nữa, bởi xưa nay vốn không có thần thông mà vốn cũng có thần thông!

Vì sao nói “vốn không có thần thông”? Vì sao lại nói “vốn cũng có thần thông”? Ðiều này rất kỳ diệu, lý thú. Bây giờ, chúng ta hãy nói về sáu loại thần thông trước, rồi sau đó sẽ bàn đến “vốn là thần thông, vốn không phải là thần thông; vốn là một loại thần thông, vốn là một loại thần thông cũng chẳng có.”

Sáu loại thần thông chính là Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông, Lậu Tận Thông, và Thần Túc Thông.

1) Thiên Nhãn Thông. Người chứng được Thiên Nhãn Thông có thể nhìn thấy khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới rõ ràng như nhìn quả am-ma-la trong lòng bàn tay vậy. Trong hàng đệ tử của Phật, Tôn Giả A Na Luật là bậc đứng đầu về Thiên Nhãn Thông.

2) Thiên Nhĩ Thông. Chứng được Thiên Nhĩ Thông thì có thể nghe được mọi âm thanh từ cõi nhân gian cho đến tận ba ngàn đại thiên thế giới, luôn cả các âm thanh của cõi trời.

3) Tha Tâm Thông. Ðây là khả năng đọc được ý nghĩ của người khác. Tất cả những việc mà quý vị dự tính trong đầu, định sẽ thực hiện, thì cho dù quý vị chưa hề thổ lộ với ai cả, nhưng người đã chứng đắc Tha Tâm Thông vẫn có thể biết rõ.

4) Túc Mạng Thông. Người chứng đắc Túc Mạng Thông có khả năng biết được tất cả những việc – thiện cũng như ác – mà quý vị đã tạo tác trong các đời trước.

5) Thần Cảnh Thông (cũng gọi là Thần Túc Thông hoặc Như Ý Thông). Chữ “thần” này đồng nghĩa với chữ “thần” vừa giảng ở trên, và cũng chỉ cho một cảnh giới kỳ diệu, không thể nghĩ bàn. Ý nghĩa của chữ “thần” và chữ “diệu” có đôi chút tương đồng; cho nên có lúc nói “thần diệu khôn lường”, chính là ám chỉ một thứ cảnh giới không thể nghĩ bàn.

“Cảnh” là cảnh giới; còn “thông” là thông đạt vô ngại, vốn không thông mà lại thông. Thí dụ, bức tường chắn ngang tuy có gây trở ngại, nhưng nếu quý vị khoét một lỗ hổng thì sẽ được thông lưu. Tương tự như thế, “bức tường” vô minh gây chướng ngại, ngăn che ánh sáng quang minh của tự tánh trong chúng ta; song, nếu quý vị có thể dùng “gươm” trí huệ của mình để phá vỡ bức tường đó, thì sẽ được thông suốt ngay.

6) Lậu Tận Thông. Chúng ta vì sao chưa thành Phật? Bởi vì chúng ta vẫn còn “lậu hoặc”! Chúng ta vì sao chưa thể làm Bồ Tát? Bởi vì “lậu hoặc” vẫn tồn tại trong chúng ta! Chính vì lậu hoặc mà chúng ta phải trầm luân trong Tam Giới – Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Chẳng những thế, các lậu hoặc này còn khiến cho chúng ta bị lưu lạc, nổi trôi trong chín Pháp Giới. Chín Pháp Giới là gì? Ðó là chín cõi giới của Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, Thiên (Trời), Nhân (Người), A Tu La, Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ và Súc Sanh. Chúng sanh trong chín Pháp Giới này chưa thể thành Phật được là vì họ còn có lậu hoặc; nếu không còn lậu hoặc nữa thì nhất định sẽ thành Phật.

Lậu hoặc này do đâu mà có? Chính là do vô minh! Cho nên, hễ diệt trừ được vô minh thì lậu hoặc sẽ không còn nữa; nếu vô minh chưa bị phá hủy thì lậu hoặc vẫn còn tồn tại. Do vậy, người chứng được Lậu Tận Thông chẳng có bao nhiêu. Một khi không còn lậu hoặc thì quý vị sẽ không còn phải trôi lăn trong vòng sanh tử nữa. Tại sao chúng ta vẫn còn luẩn quẩn trong vòng sanh tử? Ðó là vì chúng ta có lậu hoặc! Người có lậu hoặc ví như cái bình bị lủng vậy – quý vị muốn đổ nước cho đầy bình, nhưng nước cứ rỉ ra ngoài theo chỗ lủng, bình không thể giữ được nước. Cho nên, dứt sạch mọi mối lậu tức là được “lậu tận thông” vậy.

Nói rằng con người “vốn không có thần thông”, là ám chỉ lúc chúng ta còn là phàm phu, chưa hiện thần thông. Lại nói rằng con người “xưa nay vốn có thần thông”, bởi y cứ vào quả vị của bậc Thánh nhân mà nói thì thần thông vốn đã có sẵn. Hạng phàm phu thì không có thần thông, bậc Thánh nhân mới có thần thông. Thần thông của Thánh nhân phải chăng là đến từ bên ngoài? Không, đó là có sẵn! Thế thì phàm phu không có thần thông, phải chăng là vì họ đã đánh mất? Cũng không phải, bởi thần thông ấy vẫn tiềm tàng trong tự tánh của phàm phu; chẳng qua là họ chưa phát hiện ra, chưa nhận thức được, nên tưởng rằng mình không có mà thôi! Cho nên, tôi nói “vốn không có thần thông” là vì lẽ ấy.

Có thần thông hay không có thần thông đều chẳng quan trọng. Quý vị chớ lầm tưởng rằng có thần thông tức là đắc Ðạo hoặc chứng được quả vị. Phải biết rằng có được thần thông rồi vẫn còn ở cách sự chứng quả và đắc Ðạo rất xa! Chúng ta không nên mới đạt được đôi chút thành tựu liền tự mãn: ” – , phen này tôi phát tài rồi!” Mới có được một lượng vàng mà đã reo mừng rối rít, cho là mình phát tài; trong khi người ta có tới hàng ngàn hàng vạn lượng vàng thì lại không hề khoe khoang, vẫn bình thản như không có gì cả vậy! So với người ta thì việc mình có được một lượng vàng có gì là to tát đâu? Có câu:

Được ít cho là đủ, nửa đường tự ngừng

(Đắc thiểu vi túc, trung đạo tự hoạch)

Những kẻ chỉ mới gặt hái được một vài thành quả nhỏ nhoi mà ngỡ là nhiều lắm, thì chẳng khác nào tự vẽ sẵn mức đường giới hạn cho mình ở nửa đường, đến mức đó thì ngừng lại, không lướt tới nữa. Ðó là cảnh giới của hàng Nhị Thừa, chứ không phải là căn tánh Bồ Tát của Ðại Thừa. Cho nên, đừng nghĩ rằng có thần thông là tài giỏi. Nếu quý vị có thần thông rồi tự phụ, cho rằng mình tài giỏi hơn người, thì quý vị còn quá nông nỗi – bởi như thế là quý vị vẫn còn tâm chấp trước, còn lòng tự mãn.


http://meogracie.wordpress.com/category/cẩm-nang-học-phật/

Tình yêu – Độc chất phá hoại toàn bộ cơ cấu nội tâm

Ðoạn lìa phiền não

Chủ đích đã có, Ðại đức Ananđa an ủi và khích lệ:

- Này Cô-ki-là, đời sống bắt đầu từ những yếu tố đáng nhờm gớm và hổ thẹn. Hiện hữu của nó là sự tập hợp của tứ đại. Chung cuộc của nó là tiêu tán khổ đau. Mở mắt chào đời ta khóc. Nhắm mắt lìa đời ta cũng khóc. Nếu lúc chào đời trẻ thơ nắm chặt đôi tay biểu hiện cho khả năng chiếm hữu thì khi nhắm mắt lìa đời người ta xòe tay cảnh tỉnh thế nhân hãy hồi quang tu tỉnh. Này cô, tôi xin phép kể cô nghe cuộc đời của tôi. Tôi là em họ Ðức Tôn Sư, được sinh trưởng trong dòng Thích Ca quí tộc và xuất gia lúc 36 tuổi. Một công tử tuổi đời như vậy thì tránh sao khỏi vướng dây tình ái. Chính nhờ sự từng trải, lịch kinh nên tôi khẳng định được rằng: Yêu là khổ. Tình yêu hành hạ thể xác, đày đọa linh hồn.

Mọi người đều muốn được như ý nguyện trong địa hạt tình yêu, nhưng chính tình yêu thì chưa cho ai được toại nguyện. Nó là độc chất phá hoại toàn bộ cơ cấu nội tâm. Hạnh phúc của tình yêu cũng giống như bệnh nhân muốn mau bình phục rồi uống mã tiền. Cô không nên chạy theo tiếng gọi của tình yêu vì khi tình yêu ngự trị, sai sử thì tâm hồn đâm ra loạn động, càng loạn động càng khổ sở. Tình yêu trông xa đẹp như núi tuyết, nhưng đến gần chỉ có lạnh lẽo, hoang liêu. Cô hãy nhìn thẳng vào cuộc sống, đừng nuối tiếc những gì đã qua, đừng mong cầu những gì chưa đến. Cuộc sống tuy có hiện thành nhưng mau tiêu tán, như lượn hải triều trườn mình lên bãi cát. Cô-ki-là ơi, tình yêu sẽ làm mờ tối lương tri như áng mây trôi che vầng trăng sáng. Bẩm tánh nữ giới hay mắc cở, xấu hổ nhưng khi đã yêu thì không còn biết xấu hổ nữa. Do đó, rất dễ đi sâu vào con đường tối tăm, tội lỗi, như trẻ thơ bị lạc ở trong rừng. Lúc bấy giờ cái cô đơn nguy hiểm của rừng sâu, không còn là vấn đề, mà chính sự cô đơn, hoang mang, lo sợ của đứa trẻ mới đáng ngại. Có những người, trông hình thức bên ngoài thật là ấm êm, hạnh phúc, nhưng nội tâm là trận cuồng phong bão tố. Cái cô đơn của người đâu phải vì thiếu bạn, thiếu tình mà vì thiếu lý tưởng để tôn thờ, thiếu hải đảo chánh pháp để nương tựa. Còn riêng cô thì đã có tất cả. Vậy cô hãy tiếp tục tôn thờ và nương tựa. Hãy chấp nhận dấn thân cho mục đích cao đẹp đó. Còn tình yêu thì như chiếc thuyền lủng đáy, bám vào nó là tự trầm mình.

Chánh pháp là thuyền từ cứu độ, là đuốc tuệ soi đường. Khách trầm luân hãy bám vào thuyền Từ, còn kẻ lạc lối, hãy cầm lấy đuốc Tuệ. Bất cứ hành động nào đưa đến hậu quả đắng cay, ân hận, Ðức Tôn Sư khuyên chúng ta tuyệt đối không nên làm. Do đó, dù thể xác héo hon, dù cuộc đời cay đắng, cô không nên bỏ quên chánh pháp. Nếu phải chết thà chết vì chánh pháp chớ không nên chết vì tình yêu. Làm người ai cũng có lúc quên mình, lầm lỗi, nhưng một khi đã hồi quang phản tỉnh thì đài sen giác ngộ cũng gần. Biển cả bao la nhưng quay đầu sẽ thấy bến. Hơn nữa cô là bậc xuất gia, một phẩm hạnh thanh cao, một tâm hồn ly tục, một ý chí kiên cường, thì cô hãy tích cực và xứng đáng.

Các loài trầm, kỳ dù khô vẫn giữ được mùi vị; tượng chiến lâm trận dù chết không lùi, mía dù bị ép, bị nấu vẫn ngọt; bậc trí tuệ dù gặp khổ đau thà chết vẫn không bỏ đạo. Cô đã từ bỏ cuộc sống của một thiếu nữ tầm thường, đã từ bỏ hình thức thế nhân, đã đem thân nương nhờ cửa Phật thì cô hãy cố gắng từ bỏ những liên hệ về tư tưởng khác phái, vì nó là kẻ thù nguy hiểm của phạm hạnh. Chắc cô cũng biết: trong năm người mới có một người anh dũng, ngàn người mới có một người nói thật, nhưng trong loài người khó tìm được một kẻ thoát ly.

Ðức Tôn Sư có dạy, nhờ ái dục để dứt ái dục, nhờ kiêu mạng để lìa kiêu mạng, nhờ vật thực để ngăn vật thực, nhưng vấn đề tình dục thì không thể như vậy được.

Câu nói: “Nhờ ái dục để dứt ái dục” , nghĩa là khi ta được nghe có vị tỳ kheo, tỳ kheo ni, u-bà-tắc, u-bà-di đắc đạo chứng quả, rồi ta cố gắng tu hành để được thành đạt như những người đó, gọi là nhờ ái dục để dứt ái dục.

Câu nói: “Nhờ kiêu mạng để lìa kiêu mạng “, nghĩa là khi nghe có người đắc đạo chứng quả thì tự ái nổi lên, nghĩ rằng người ta làm được tại sao mình không làm được rồi cố gắng tu hành để thành đạt đạo quả. Ấy gọi là nhờ kiêu mạng để lìa kiêu mạng.

Câu nói: “Nhờ vật thực để ngăn vật thực “, nghĩa là các bậc chân tu thường quán tưởng: vật thực chỉ để nuôi mạng sống như người lạc giữa sa mạc bắt buộc phải ăn xác chết để tự cứu. Nhờ đó các Ngài không bị dính trong vị ngon và cố gắng công phu hành đạo. Gọi là nhờ vật thực để ngăn vật thực.

Này Cô-ki-là, riêng tình dục thì không thể nhờ chính nó để dứt được, trừ phi tích cực hành đạo để đoạn lìa. Ðức Phật dạy: ngũ dục là vô thường, vui ít khổ nhiều, dẫy đầy tội lỗi, cực nhọc là nhân, khổ sở là quả. Tình dục là mẹ đẻ của luân hồi.

Giảng xong, Ðại đức chờ xem phản ứng. Quả thật, thời giảng có kết quả. Nàng ngồi dậy, đắp y chỉnh tề, quì đãnh lễ gần chân Ðại đức, tức tửi, nói chẳng nên lời.

Trên thế gian này, nếu sự đau khổ và sự nhục nhã không tác động song hành thì hậu quả không đáng kể. Nhưng nếu cả hai cùng lúc phát khởi thì tác hại của nó sẽ vô cùng khủng khiếp nhất là đối với phái nữ.

Nàng tủi thẹn và hờn tức vì tình yêu không được đáp ứng. Lời nói của Ðại đức Ananđa như mũi lao nhọn đâm vào tim nàng. Càng xấu hổ hơn nữa, khi nàng nhận thấy Ðại đức không tin thái độ và tư cách của mình. Nàng cảm thấy như bị tạt nước vào mặt. Nàng quì im lặng, nghẹn ngào. Giây phút trôi qua, Ðại đức Ananđa lên tiếng:

- Cô-ki-là hãy nín đi, đừng khóc nữa. Vì khóc lóc không giải quyết được gì và cũng không làm vơi cạn sự khổ đau ngập lòng. Tội nghiệp cho nàng, vì Ðại đức Ananđa chỉ nói toàn những lời của bậc thánh nhân thoát tục.

Vị tỳ kheo phải quay mặt nơi khác vì không đủ can đảm nhìn cảnh đoạn trường của người khác phái.

- Bạch Ðại đức – nàng nói qua tiếng nấc – tôi sẽ quyết tâm phụng hành lời dạy của Ðại đức dù phải đắng cay cùng cực. Tôi không tự trọng nên phải khổ lụy đến mức này. Thân phận tôi chỉ là một kẻ nô tỳ hèn hạ. Tình yêu đã làm tôi mù quáng, quên giai cấp, dòng dõi, đi yêu một người thượng lưu quí tộc. Bạch Ðại đức, thân nghiệp và khẩu nghiệp của tôi hoàn toàn vô tội, nhưng ý nghiệp chắc chắn là đã bợn nhơ. Tôi yêu Ðại đức, một tình yêu chân thành tuyệt đối, nếu hành động ấy có lỗi, xin Ðại đức từ bi hỉ xả.

Nói xong nàng cúi xuống, nước mắt dầm dề làm ướt một phần chiếc áo cà-sa.

Nhìn gương mặt bơ phờ ủ dột của nàng, Ðại đức an ủi:

- Này Cô-ki-là, cô không nên đề cập đến vấn đề giai cấp, vì tôi đã quên nghĩ đến lâu rồi. Sở dĩ tôi không yêu cô không phải vì sự dị biệt giai cấp, mà vì tôi nhận chân được cái tội lỗi và hậu quả đắng cay của tình yêu. Hiện tại, tôi có bổn phận phục dịch Ðức Bổn Sư và cố gắng thành đạt đạo quả để đoạn trừ phiền não. Bao giờ phiền não còn, là bấy giờ luân hồi còn. Ðức Bổn Sư dạy rằng: hiện hữu là nguyên nhân của thống khổ. Nếu dễ duôi để bị đọa vào khổ cảnh thì con đường giải thoát sẽ bị trì trệ lâu dài. Cô đừng bận tâm về việc bất đồng giai cấp. Mọi người sinh ra để rồi chịu chung định luật già, đau, chết. Tất cả đều bất lực và cô đơn. Vả lại, con người máu đều đỏ, nước mắt đều mặn, biết tham sống, sợ chết, ghét khổ ưa vui cũng như các loài cây khi bị đốt cháy thì màu than vẫn đen, màu tro vẫn xám và màu lửa vẫn hồng. Hòa mình chung lo hạnh phúc an bình cho chúng sanh là một hành động thức thời, hữu ích. Còn giai cấp cao thấp không thành vấn đề. Vì bất cứ giai cấp nào một khi đã hành động bất thiện thì tội ác như nhau, còn nếu hành động thánh thiện thì phước đức cũng như nhau.

Tôi ước mong cô đừng nghĩ tới vấn đề giai cấp làm chi cho thêm tủi phiền, mà hãy cố gắng, tích cực hành đạo cho mau giải thoát.

Cô-ki-là ơi! Bản chất tình yêu vốn đau khổ, lại càng đau khổ hơn nếu yêu không đúng chổ. Chẳng hạn như cô yêu tôi, hay tôi yêu cô, gọi là yêu không đúng chổ. Vậy xin cô hãy tự dứt khoát, đừng vương vấn mà chuốc lấy lụy phiền. Nếu làm được như vậy, là cô sẽ đạt đến một hạnh phúc tuyệt vời, vừa an lạc, vừa thanh tịnh.

Trên đường về Ðại đức Ananđa đi thẳng đến ao sen và ngồi nghỉ trên một băng đá. Ðại đức thở dài, nặng nhọc như muốn trút bỏ những nổi u hoài. Ðại đức bảo vị tỳ kheo đi chung về trước và dặn:

- Khi nào Ðức Bổn Sư gọi, hãy ra đây tìm tôi.

Hồi tưởng những chuyện đã qua, Ðại đức cảm nhận có một thứ tình cảm nhẹ nhàng đối với Cô-ki-là. Nhưng nhờ đại duyên, đại hạnh trong tiền kiếp yểm trợ, nên Ðại đức tự ngăn được sóng lòng. Ðại đức tự giáo hóa: này Ananđa, ngươi mới đắc Tu đà hườn, tham ái, sân hận, si mê vẫn còn. Ngươi không nên dễ duôi, gần gủi và gặp gỡ Cô-ki-là, vì ý căn rất khó uốn nắn, chế ngự như voi nổi cơn tà dục.

Ananđa, ngươi hãy huy động chánh niệm để án ngự ý căn, không nên để nó tự do phóng túng mà phải nắm thế chủ động. Người mà Ðức Tôn Sư ban khen là chiến sĩ là người có khả năng chế ngự và tự thắng.

Sau khi tự giáo hóa, Ðại đức vào bái kiến Ðức Phật và tường thuật đầy đủ diễn tiến của sự việc vì Ðại đức không bao giờ dấu diếm Ðức Phật bất cứ điều gì. Ðức Tôn Sư dạy:

- Này Ananđa, ngươi quên rằng bậc tu đà hườn không bao giờ đọa vào hạ cảnh và chắc chắn sẽ đắc Alahán trong một hoàn cảnh thuận duyên. Ngươi chớ khá nghĩ suy, phiền não. Lời dạy vừa chí tình, vừa khích lệ ấy khiến Ðại đức Ananđa vô cùng hoan hỉ.

Chiều hôm sau, tại giảng đường chùa Khô-si-ta, khi Phật tử tập trung đông đảo, Ðức Tôn Sư đăng lâm pháp tòa, uy nghiêm như Ðức Thiên Vương Ðế Thích nơi thiên điện. Ngài phóng hào quang rực rỡ như ánh thái dương. Hội trường im lặng. Ngài nhìn tứ chúng với đôi mắt từ bi. Ðức Tôn Sư nghĩ: đại chúng quả thật nghiêm trang, xứng đáng, chân tay không cử động, không một tiếng ho hen đằng hắng, chứng tỏ một sự tôn kính tuyệt đối. Nếu Như Lai không lên tiếng trước chắc chắn họ sẽ tiếp tục thinh lặng.

Qua huệ nhãn, Ngài thấy rõ thiện duyên thánh quả của tỳ kheo ni Cô-ki-là đã đến thời kỳ liễu chứng. Ðể chuyển hóa và tiếp độ, Ngài đề cập đến bài pháp Chuyển Pháp Luân:

- Này tứ chúng, có hai cực đoan mà các người không nên hành trì. Một là lợi dưỡng hưởng lạc. Hai là khổ hạnh ép xác. Cả hai đều không phải thánh đạo, là con đường hèn hạ, tầm thường, phàm tục, bất thiện và vô bổ. Trái lại, này tứ chúng, có một con đường trung dung cao thượng, thánh thiện, hữu ích, giác ngộ, đó là con đường thánh đạo có tám chi: thấy đúng, nghĩ đúng, nói đúng, nghề nghiệp đúng, nuôi mạng đúng, tinh tiến đúng, niệm tưởng đúng, và định tâm đúng.

- Này tứ chúng, khổ là sự thật. Hiện hữu là sự tập thành của ngũ uẩn và tứ đại. Do đó, hiện hữu khai nguồn cho thống khổ: sanh khổ, già khổ, đau khổ, chết khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ… Tóm lại, những gì liên hệ đến ngũ uẩn là khổ, khổ thường trực, khổ lớn lao.

- Này tứ chúng, khổ là sự thật. Nguyên nhân khổ cũng là sự thật. Nguyên nhân ấy là ái dục, tức sự khao khát, mắc dính trong cảnh giới vừa lòng, trong sự hiện hữu và trong những vật sở hữu. Những sự mắc dính khao khát vừa kể là nguyên nhân của mọi thống khổ.

- Này tứ chúng, cảnh giới an lạc tuyệt đối không còn bị chi phối bởi phiền não và các sự thống khổ, chính là sự đoạn diệt, ly tham, không còn dư tàn khát ái, là sự khai trừ, quăng bỏ, giải thoát, không còn chấp trước là một sự thật.

- Này tứ chúng, con đường hành trình đến cảnh giới Niết bàn cũng là một sự thật. Con đường có 8 chi này Như Lai đã đề cập nơi phần Trung đạo.

- Các ngươi hãy nương nhờ chánh pháp. Như Lai chỉ là người hướng đạo. Phần tinh tiến thiêu hũy phiền não là nhiệm vụ của các ngươi. Con đường giải thoát Như Lai đã chỉ dạy, vậy các ngươi hãy tự hành trình.

Thời pháp hôm ấy, kết quả vô cùng khích lệ. Riêng tỳ kheo ni Cô-ki-là thì như người chết đuối vớ được phao, như lữ hành sa mạc gặp nước. Nổi vui mừng biến thành phỉ lạc. Năng lực định tâm chuyển thành minh sát. Những vi tế phiền não đã bị đoạn lìa. Tâm trạng Cô-ki-là vô ưu, vô nhiễm, và chứng ngộ Thánh đạo Alahán. Từ đây tỳ kheo ni Cô-ki-là được dự phần trong đại gia đình Thánh nhơn vô lậu.

http://www.quangduc.com/

Sự luyến ái nam nữ sẽ phá hủy toàn bộ yếu tố trách nhiệm

In tình ĐỜI - ý ĐẠO on 03/04/2010 at 5:03 PM

Chạy trốn tình yêu

Cuối cùng, nàng không đủ can đảm chịu đựng nhiều hơn vì sức người có hạn. Nàng dứt khoát xin phép Ðức Bổn Sư và Ðại đức Ananđa, từ giã ni chúng đồng đạo, ra đi sang xứ Cô-sâm-bi ( Kosambi) và tạm ngụ tại chùa Khô-si-ta-ra-má (Ghosìtàrama) với ý niệm, sự xa cách là phương thuốc nhiệm mầu để xoa dịu niềm đau tình ái. Trước phút ra đi, nàng cảm thấy xao xuyến bồi hồi.

Nàng an cư kiết hạ tại một ni viện gần chùa Khô-si-tà-rà-ma do ông Bá hộ Khô-si-ta cúng dường Ðức Bổn Sư. Suốt ba tháng sống xa Ðại đức Ananđa, tâm hồn nàng tương đối yên tịnh. Ðạo hạnh tăng tiến khả quan. Nàng tin tưởng rồi đây sự nhớ thương sẽ có cơ giảm thiểu.

Tuy nhiên, tình yêu lúc nào cũng có cái lẩn quẩn của nó, trừ phi, tự nó tan biến hay bị thời gian đào thải. Ðời sống lắm rắc rối, đầy cạm bẫy và nhiều mâu thuẩn. Chẳng hạn như, ta chạy theo vật sở thích thì nó lánh xa; ta không cần thì nó đến.

Cũng như bóng với hình; hình tìm bóng thì bóng lẫn trốn; hình lẫn trốn thì bóng không rời.

Chính cái thông lệ ấy đã đến với Cô-ki-là khi hay tin Ðức Bổn Sư sẽ quang lâm Cô-sâm-bi và Ðại đức Ananđa sẽ là thị giả.

Tin này được loan truyền vô cùng nhanh chóng. Từ thành thị đến thôn quê, đâu đâu cũng nghe bàn tán và ai ai cũng sốt ruột mong cho mau đến ngày hội ngộ cùng Ðức Bổn Sư. Ðức vua U-đê-na mặc dù chưa được diện kiến Ðức Bổn Sư, cũng vui mừng ra mặt.

Nhóm Lục sư ngoại đạo thì chuẩn bị vấn nạn. Có vị quyết ăn thua, có vị muốn tìm hiểu để so sánh, có vị muốn phô trương, có vị chỉ muốn tiêu khiển. Chư vị phàm tăng thì hy vọng được gội nhuần mưa pháp.

Trong lúc đó, nào ai biết được tâm trạng Cô-ki-là khi một cô ni bạn đến báo tin mừng:

- Cô-ki-là, cô có hay tin Ðức Bổn Sư sẽ quang lâm đến đây không?
- Thật vậy hả cô, chắc Ðức Bổn Sư quang lâm một mình?
- Ðức Bổn Sư đâu có quang lâm một mình. Ai ai cũng biết Ðức Bổn Sư quang lâm đến đâu thì cũng có số đông tỳ kheo tháp tùng đến đó và vị thị giả là Ðại đức Ananđa.
- Ðại đức Ananđa! – Nàng la lớn và lấy tay đè ngực.
- Có chuyện gì hở Cô-ki-là. Tại sao cô hoảng hốt?
- Không. Ðâu có chuyện gì. Tại tôi quá vui mừng, quá xúc động nên mất bình tĩnh.
- Mọi người đều vui mừng như vậy. Chúng ta chắc chắn sẽ được lãnh hội giáo lý cao siêu mầu nhiệm từ kim khẩu Ðức Bổn Sư hoặc do chư Ðại đức Xá Lợi Phất, Ðại đức Ca Diếp hoặc Ðại đức Ananđa phụ tráchg thuyết giảng.

Ngày chờ đợi đã đến. Ðức Tôn Sư và số chư vị thánh tăng tháp tùng đã đến Cô- sâm- bi. Ðức vua, văn quan, võ tướng, thân hào, nhân sĩ, Sa-môn, Bà la môn, đón rước Ðức Bổn Sư vô cùng trọng thể. Riêng dân chúng thì tự động đứng làm hàng rào danh dự, tay cầm hoa thơm và các thứ hương liệu cúng dường Ðức Bổn Sư trên khoảng đường dài nhiều dặm. Hoa tươi đầy đường. Hương thơm ngào ngạt. Ðức Bổn Sư và chư tháng tăng gần như đi trên lớp hoa mềm.

Từ ngoài cổng chùa, tỳ kheo, tỳ kheo ni đã vân tập quì đãnh lễ Ðức Bổn Sư vô cùng trang trọng. Nỗi vui mừng gần như phỉ lạc. Toàn thể đều hướng nhìn về phía Ðức Bổn Sư và Ðại đức Ananđa để chiêm ngưỡng. Trong số ấy, người chiêm ngưỡng Ðại đức nhiều nhất là Cô-ki-là.

Vừa gặp lại Ðại đức Ananđa, sự yêu thương tự nhiên bừng sống dậy như cỏ héo gặp mưa. Vì đã ba tháng rồi, ba tháng dài vắng bóng người thương – Giờ thì người thương bằng xương bằng thịt đang ở trước mắt. Và trong khung cảnh tưng bừng, khấp khởi ấy, mọi người đều chiêm ngưỡng người thương, thì bảo sao nàng không vừa hãnh diện vừa ghen tức cho được.

Nàng tách khỏi đám đông về tư phòng, tim nàng đau nhói như bị kim châm, muối xát. Nàng thầm nghĩ: “Trên thế gian này, không lửa nào nóng bằng lửa dục ái! “

Thật vậy, tiếng gọi của tình yêu lúc nào cũng thúc dục liên hồi như tiếng kèn xung trận. Sức mạnh của tình yêu là vô địch. Không có sự chinh phục nào tốc chiến, tốc thắng bằng cuộc chinh phục của tình yêu. Ðạo binh tình yêu chỉ có thể bại trận trước đạo binh Thánh đạo. Ngoài đạo binh thiện chiến này ra, không một đạo binh nào đủ sức chiến đấu, chớ đừng nói đến vấn đề thủ thắng. Trận giặc tình yêu không có chiến tuyến. Ðúng hơn là một cuộc nổi loạn, một cuộc đột kích bất thần, một trận bão lòng thần tốc.

Có hai yếu tố thúc đẩy hành động: một là trách nhiệm, hai là tiếng lòng. Yếu tố trước nếu bất thành, người ta đau khổ, nhưng tương đối nhẹ nhàng. Còn yếu tố thứ hai, nếu bất thành thì hậu quả của nó là thất vọng, tuyệt tình, quyên sinh, tự ải.

Tội nghiệp Cô-ki-là! Nàng phải chiến đấu một lúc trong hai trận tuyến. Trách nhiệm của nàng hiện tại là học đạo, hành đạo và thành tựu cứu cánh của đạo. Nàng không còn là một thiếu nữ tầm thường, mà là một ni cô xuất gia đầu Phật. Nếp sống thiền môn cũng đã giúp nàng quen mùi thiền vị. Sự luyến ái nam nữ sẽ phá hủy toàn bộ yếu tố trách nhiệm. Nhưng tội cho nàng! Tiếng gọi tình yêu lại thúc dục liên hồi như nhịp khúc hành quân, và cũng thiết tha mê hồn như khúc nhạc tình liêu trai thần thoại. Nàng không còn đủ sáng suốt để phân tích lợi hại. Quả thật trong thâm tâm nàng không muốn có sự thắng bại giữa trách nhiệm và tiếng lòng. Vì nếu trách nhiệm thắng thì nàng sẽ tuyệt tình, còn tiếng lòng thắng thì nàng sẽ mất đạo.

Tâm lý nữ giới thường hay hướng ngoại. Một khi đã yêu thì không phân biệt địa vị, hoàn cảnh. Mặc dù biết rằng tình yêu đơn phương của mình là tuyệt vọng nhưng nàng không lùi bước.

Ngày Ðức Phật quang lâm đến, chính đêm ấy nàng xót xa và hờn tủi nhiều. Vì nàng thấy vua, quan, thân hào, nhân sĩ, bá hộ, thương gia, đủ thành phần giai cấp xã hội kéo nhau đến bái kiến Ðức Phật như giòng suối chảy, trong số ấy nhiều nhất là nữ giới, mà nàng biết chắc rằng họ sẽ chuyện trò với Ðại đức Ananđa trước khi vào bái kiến Ðức Phật. Và Ðại đức có bao giờ nghĩ đến nàng đâu.

Suối lệ tuôn rơi lúc nào nàng cũng không hay biết. Ðến khi nước mắt chảy thật nhiều nàng mới cảm thấy dễ chịu, ngực bớt nặng và tim bớt nhói. Có lẽ, nước mắt là người bạn trung thành nhất của nữ giới. Gần như ngoài nước mắt, không còn người bạn nào thân thiết, chung tình và cảm thông hơn.

Sở dĩ có hiện tượng này là vì nữ giới quan niệm tình yêu là cốt tủy của cuộc sống trong khi nam giới chỉ xem tình yêu như là một trong những yếu tố của cuộc sống. Do đó khi đã yêu thì nữ giới sẵn sàng hy sinh thể xác, linh hồn và sẵn sàng nô lệ cho tình yêu không cần cân nhắc.

Chiều hôm sau, nàng bách bộ quanh chùa ngắm cảnh, để tâm hồn được phần nào nhẹ nhàng. Ðứng nhìn cảnh muôn hoa đua nở, lòng nàng đắm đuối, say mê. Ðây hoa thảo đường khoe nhụy đưa hương cợt đùa lũ ong, kia nàng dạ lý lẳng lơ đưa tình với bướm; nọ là đóa sen trắng ấp ủ hương trinh, biểu tượng một vẻ đẹp thanh kỳ, quý phái. Mỗi loài có một vẻ đẹp khác nhau; một đàng thì phóng đảng kiêu sa; một đàng lại dịu dàng thanh nhã. Chung quanh ao sen có băng đá dài để ngồi hóng mát, ngắm cảnh. Nàng thường ra đây ngồi, nhìn những con bướm lượn. Gió chiều thổi nhẹ, đưa hương sen vào bờ, một mùi thơm nhẹ nhàng tinh khiết. Trước cảnh hữu tình ấy nàng cảm thấy phấn khởi. Cảnh vật thiên nhiên lúc nào cũng có giá trị đối với cuộc sống. Nó là người bạn trung thành trong những giây phút vui, buồn. Nếu được sống gần gủi thiên nhiên chúng ta sẽ cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Càng sống xa thiên nhiên càng bị phủ phàng, nghiệt ngã.

Trong lúc nàng mãi thả hồn theo ngoại cảnh, bỗng có tiếng chân người phía sau đi tới. Vội quay đầu nhìn lại, nàng bắt gặp Ðại đức Ananđa và ông chủ chùa. Hình ảnh ấy làm tan biến không khí yên tịnh thần tiên của nàng. Trong giây phút bàng hoàng, nữa mơ, nữa tỉnh, không biết nàng mừng hay lo mà bàn tay và vành môi run lên nhè nhẹ. Khi Ðại đức Ananđa đến gần thì nàng bước lùi, nàng không còn nhớ được rằng phía sau lưng là ao nước. Nàng cứ tiếp tục lùi và vô tình vấp phải cục đất cứng, mất thăng bằng, nàng ngã xuống.

Cả Ðại đức Ananđa và ông bá hộ đều không ai dám đỡ nàng vì nàng là một tỳ kheo ni. Nàng tự gượng đứng lên, quì gối, đầu cúi xuống.

- Này cô, – giọng nói của Ðại đức Ananđa vừa lo lắng vừa thương hại – tôi thành thật xin lỗi vì đã làm kinh động, khiến cô phải khổ sở. Cô có đau lắm không?

Những lời hỏi han đầy lo lắng và nhiệt tình của Ðại đức Ananđa như món thần dược giúp nàng hết cơn đau nhức. Thật vậy, không có gì khiến cho người nữ vui mừng bằng, khi biết người yêu lo lắng và tưởng nhớ đến mình. Họ quên tất cả lỗi lầm quá khứ của người yêu, và rất dễ tha thứ, như trẻ thơ quên khóc, quên la khi được bú sữa mẹ.

Nàng rất cảm động muốn thốt lời cảm tạ, nhưng nghẹn ngào vì quá xúc động. Cuối cùng nàng đành yên lặng.

Ðại đức Ananđa hỏi tiếp:

- Cô có đau lắm không? Tôi cảm thấy ái ngại quá!
- Bạch Ðại đức, không sao.
- Cô đến ở đây có an vui không?
- Bạch Ðại đức, tạm an.

Ông bá hộ xen lời:

- Thưa sư cô, nếu sư cô cần chi trong tứ sự, tôi xin tình nguyện cúng dường.

Nói xong, Ðại đức và ông bá hộ lại tiếp tục đi. Nàng nhìn theo Ðại đức Ananđa mà tâm hồn như chết lặng. Nhưng sực nhớ cử chỉ lo lắng vừa rồi của Ðại đức, nàng cảm thấy vô cùng sung sướng và ước gì được té năm mười lần trong một ngày. Mất tự chủ, nàng tự động bước theo Ðại đức. Ði được một khoảng đường nàng dừng bước. Ðộng tác nàng lúc ấy trông thật đáng thương. Cuối cùng, nàng quay về tư phòng với tâm hồn u ẩn. Nàng thèm gặp gỡ, chuyện trò với Ðại đức Ananđa, như người chết khát thèm nước. Khi muốn gặp nhau, thì người ta dùng đủ phương cách, kể cả thủ đoạn bất chánh để đạt sở nguyện, vì yêu là mù quáng.

Nàng đóng cửa nằm như người bịnh nặng. Sú-nan-đà, một cô ni ở gần, gỏ cửa hỏi:

- Có sao không Cô-ki-là?
- Cám ơn Sú-nan-đà, tôi chỉ hơi nhức đầu và cảm thấy khó chịu trong người.
- Có uống thuốc chưa?
- Dạ có.
- Có cần tôi giúp chi cứ nói, đừng ngại nhé!
- Vâng. Cám ơn Sú-nan-đà. Cô có quen biết Ðại đức Ananđa không?
- Biết chớ, ai mà không biết Ðại đức, họa chăng người ấy không biết Ðức Phật. Bộ cô có chuyện gì liên hệ với Ðại đức phải không?
- Vâng, tôi muốn nhờ cô hoan hỉ thỉnh cầu Ðại đức quang lâm đến đây để tôi được nghe lời chỉ giáo sau cùng. Vì tôi cảm thấy mạng sống không bảo đảm. Ðức phật có dạy: sanh, bệnh, thời giờ, địa điểm và cảnh giới là những diều bất định. Do đó, xin cô thương tình đến thỉnh cầu Ðại đức theo lời khẩn thiết của tôi như vầy: Cô-ki-là tỳ kheo ni, xin đê đầu đãnh lễ Ðại đức, giờ đây nàng đau rất nặng, không ngồi dậy được, xin Ðại đức mở lòng từ bi đến thăm bệnh nhân lần cuối. Sự quang lâm của Ðại đức sẽ là một điều rất hạnh phúc cho nàng.

Trời đã về chiều. Bóng chùa và những bóng cổ thụ nghiêng mình ngã dài khiến vị trí quanh chùa trở nên mát mẻ u nhàn. Trên cành, chim hót líu lo. Có cặp thì đứng sát gần nhau, vừa rỉa lông vừa chuyện trò ríu rít. Loài phi cầm tuy không đủ khôn ngoan như loài người, nhưng đời sống vô cùng hạnh phúc, trong khi loài người mệnh danh là thông minh, tài trí, nhưng đã có mấy ai hạnh phúc, thanh nhàn. Sự thật, hạnh phúc là do sự an phận, mà loài người vì quá thông minh nên quá nhiều dục vọng. Hậu quả dục vọng là khổ sở, lo phiền. Tìm hạnh phúc trong ái nhiễm chẳng khác gì tìm dầu trong đá sỏi. Hãy ra khỏi nhà lửa tham dục thì lập tức có sự mát mẻ, an lạc. Ði tìm hạnh phúc ngoại giới cũng như người khát tìm nước ở sa mạc. Cái triết lý tìm hạnh phúc là tìm ở nội tâm. Trước hết phải nhìn thẳng sự thật khổ đau và truy tìm nguyên lý khổ đau là hạnh phúc. Ví như bệnh nhân muốn được sống an vui, lạc thú thì trước hết phải truy tầm bịnh căn phục dược. Sự hoàn toàn bình phục là điều hạnh phúc.

Lời khẩn cầu của Cô-ki-là được chuyển đến Ðại đức Ananđa khiến Ngài lấy làm bâng khuâng, thầm nghĩ:

- Có lẽ nàng bị té ban chiều mà sanh ra bệnh? Thật là tội! Nàng yêu mình trong khi mình không thể yêu nàng. Tình yêu của nàng ví như trẻ thơ thấy mẹ nằm chết, cứ kêu réo bảo trả lời. Bản tánh nữ nhi vốn yếu mềm hơn nam giới, nhưng có một điều là nam nhi phải đầu hàng vô điều kiện đó là sự chịu đựng đau khổ.

Ðại đức Ananđa nhờ một vị tỳ kheo đi với mình đến chổ ở Cô-ki-là để thăm bệnh. Nhưng khi trông thấy bệnh tình Cô-ki-là thì Ðại đức bớt lo lắng một phần lớn. Trí tuệ bén nhạy của Ðại đức đã soi thấu được bệnh căn của nàng. Nhưng Ðại đức tự nhủ: đây là cơ hội tốt nhất để mình giác ngộ nàng. (xem tiếp bài Tình yêu – độc chất phá hoại toàn bộ cơ cấu nội tâm)

http://www.quangduc.com/