Wednesday, September 22, 2010

35. BẠCH Y NỮ NHÂN TRONG MỘNG CHO THUỐC

Pháp môn niệm Phật, không luận là già, trẻ, nam, nữ, sang, hèn, giàu, nghèo, chỉ cần tin sâu Phật là đạo sư của ba cõi, cha lành của bốn loài, tin và niệm đó thì diệt tội hằng sa, được phước vô lượng. Dưới đây sẽ cử ra chuyện thật được cảm ứng để làm chứng minh.

Mười hai năm trước ở đường Trung Hoa khu Bắc Đài Trung có một gia đình nhỏ là người từ Sa Lộc dời đến Đài Trung ở, chủ nhân là Trần tiên sinh, vợ ông ta họ Lâm tên là A Kiều, bà này ở quê từ lâu đã bị bệnh triền miên, đứa con lớn là Chấn Trung tuy mới tám tuổi, lại rất biết chuyện, hầu hạ thuốc men v.v… chẳng rời khỏi bên mẹ. Có một hôm ban trưởng ban niệm Phật là sư tỷ Trần Kim Chi đến nhà của nó (Chấn Trung), nhìn thấy A Kiều nằm trên giường rên rỉ, có trạng thái của bệnh tình rất nguy kịch, đứa con Chấn Trung kia đang ở bên mẹ rơi nước mắt, sư tỷ Trần Kim Chi thấy rồi, lòng từ bi tự nhiên phát sanh, liền nói với bà Trần rằng: “A Kiều à! Cô nên niệm Thánh hiệu cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát, cầu nguyện Bồ Tát khiến cho bệnh tình sớm hồi phục, mạnh khỏe trở lại”. Lúc đó A Kiều thều thào nhỏ giọng “Tôi không biết niệm”. Sư tỷ Trần Kim Chi nói: “Cô không biết niệm, con cô niệm cũng vậy, cô chỉ cần lắng tâm nghe, trong tâm duyên theo tiếng niệm là được rồi”, Sư tỷ Kim Chi lại đi thỉnh về một bức tranh Tây phương Tam Thánh lộng trong khung kiếng, treo trên bức tường đối diện với chỗ A Kiều nằm, rồi dạy cho Chấn Trung chắp tay, học niệm A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát. Đứa bé này rất thông minh, không bao lâu đã học được rồi. Cứ như thế niệm hơn hai tiếng đồng hồ, lại còn dạy nó hồi hướng, cầu nguyện Phật Bồ Tát mau đến cứu giúp cho bệnh của mẹ mau được bình phục. Chấn Trung đều có thể nhất nhất y giáo phụng hành, bèn luôn luôn ở trước Phật niệm Phật van cầu, trước mắt A Kiều, mặt thì đối Thánh tượng vạn đức trang nghiêm, bên tai lại nghe được Thánh hiệu vạn đức hồng danh, trong tâm bèn cảm nhận được có chỗ nương tựa.

Xưng niệm Thánh hiệu Phật Bồ Tát là việc chẳng thể nghĩ bàn. Đứa con Chấn Trung kia vì cầu cho mẹ khỏi bệnh, hàng ngày thành khẩn niệm Phật, chưa đến một tuần lễ, quả nhiên xuất hiện kỳ tích. Có một hôm mới sáng sớm nó kêu lên rất vui sướng: “Má à! tối qua con chiêm bao thấy một người nữ mặc áo trắng cầm một bó cỏ thuốc dài như cây rau hẹ cho má ăn, má nhận qua tay liền cho vào trong miệng, con nhìn thấy rất là rõ ràng. Ngài còn nói với con ngài là Quán Thế Âm Bồ Tát, do vì bệnh của má chỉ cần ăn loại cỏ thuốc này, liền được bình an”. A Kiều nghe xong cảm thấy rất là kỳ lạ, bà ta cũng nói với con rằng: “Chấn Trung à! Mẹ đêm qua cũng chiêm bao thấy một người nữ cầm một bó cỏ thuốc dài kêu má ăn, má liền lấy cỏ thuốc cho vào trong miệng nhai và nuốt xuống. Sáng sớm vừa thức dậy, trong lòng mát mẻ, cảm thấy bệnh tình nhẹ đi rất nhiều”. Từ đó bệnh của A Kiều ngày càng hồi phục mạnh khỏe, mẹ con đồng hưởng niềm vui tự nhiên của đạo. Hơn nữa trong tâm linh nhỏ của Chấn Trung đã gieo trồng được căn lành rất là sâu dày, cho nên mỗi ngày trước khi đi học, nó nhất định đến trước Phật xin phép, chắp tay đảnh lễ nói: “A Di Đà Phật! Con phải đi học đây”. Tan học về nhà lại nhất định trước tiên đến trước bàn Phật vẫn cứ chắp tay đảnh lễ nói: “A Di Đà Phật! Con về rồi”. Ngày nào cũng thế, tập hoài thành quen.

32. MỘT ĐẠO BẠCH QUANG TIẾP DẪN NGƯỜI MẤT

Cư sĩ Lý Thanh Nguyên là ban trưởng ban niệm Phật Trung Chánh ở cơ sở hoằng pháp tại Vụ Phong, ông ta từng là chồng của sư tỷ Hạc, làm tài xế ở cục công lộ. Sư tỷ Hạc từ sau năm 48 biết học Phật, tin sâu niệm Phật, đối với đời người nhiều tai nạn, nhiều nghịch cảnh có thể gặp dữ hóa lành, thường hay khuyên chồng niệm A Di Đà Phật, nhất là lúc tai nạn nguy cấp càng phải cố sức niệm A Di Đà Phật. Ông Lý Thanh Nguyên mặc dù nghe thoáng qua không được hiểu lắm, nhưng có một lần lái xe ban đêm trên đường núi từ Bộ Lý về Đài Trung, tại một cái cua quẹo, xe bỗng dưng bị hư, nhưng kiểm tra thế nào cũng không tìm ra được hư cái gì, những khách ngồi trên xe lăng xăng xuống đi bộ tìm điện thoại kêu taxi lại đi. Chị quản lý xe cũng phải đi thông báo cho cục công lộ phái xe đến chở về, còn lại một mình ông Lý Thanh Nguyên, ngồi trên ghế sau tay lái, trên đường núi trong đêm tối lại không có người ta, một màn đen dầy đặc, lông tóc trên người muốn dựng đứng, trời không lạnh mà muốn run lên! Nghĩ tới nghĩ lui bỗng nhớ lại việc A Hạc vợ ông ta dạy ông ta niệm Phật, tức thời to tiếng niệm lên: “Nam mô A Di Đà Phật”, niệm được mấy chục tiếng, bỗng nhiên chiếc xe có thể chạy lại được rồi, bèn lái xe chạy thẳng đến Đài Trung an nhiên vô sự. Câu chuyện nhờ một câu Thánh hiệu mà được sự cảm ứng không thể nghĩ bàn này là lúc bút giả đến nhà Lý tiên sinh, chính miệng Lý tiên sinh nói với tôi. Lúc đó sư tỷ Hạc cũng nói chen vào: “Còn có một lần nữa từ đầm Nhựt Nguyệt về cũng xảy ra tình trạng giống như thế, nhờ niệm Phật mà thoát được nguy nàn”.

Nhưng mạng người vô thường! Lý Thanh Nguyên tiên sinh, lúc bình thường coi rất là phước tướng, nhưng mắc phải chứng cao huyết áp, bảy năm trước vào đầu tuần tháng tư, do bởi huyết áp quá cao nằm triền miên trong nhà hơn năm, thuốc thang không thấy công hiệu, trong thời gian này ông niệm Phật đến mức tâm chẳng rời Phật, Phật chẳng rời tâm, một hôm mệnh sắp lâm chung, sư tỷ Hạc đến bố giáo sở mời mấy vị liên hữu trợ niệm cho ông. Các vị liên hữu từ sáng sớm luân phiên niệm mãi đến 12 giờ đêm, chỉ thấy người bệnh còn thở thoi thóp có khả năng kéo dài đến sáng mai, bèn ai về nhà nấy nghỉ, ước định ngày mai lại đến tiếp tục trợ niệm, chỉ có sư tỷ Tú và vợ ông cùng với con trai con gái, năm, sáu người vẫn ở lại trợ niệm. Đến hơn 2 giờ khuya, bỗng có một thanh niên quân nhân ở trong tỉnh cùng xin đến trợ niệm, vị thanh niên này được cái tiếng tốt, lại thành khẩn, cùng với sư tỷ Tú, mọi người phấn khởi tinh thần, chánh niệm đến mức có thể nói là “nhứt tâm bất loạn”. Bỗng nhiên mọi người nhìn thấy một vầng sáng tròn trắng, giống như mặt trời từ ngoài cửa lớn bay vào trong nhà. Do vì nhà của sư tỷ Hạc tọa ở hướng Đông quay sang hướng Tây, chính là đối với con đường lớn của đường Trung Chánh ở Vụ Phong cho nên anh thanh niên kia chạy ra xem, cho rằng xe nào mà đậu ngay cửa? Nhưng vào lúc nửa đêm nửa hôm, bốn bề vắng lặng, một màn đen dầy đặc, chỉ thấy một đường ánh sáng từ hư không hướng Tây phóng thẳng vào trong cửa. Anh thanh niên kia vừa thấy cảnh giới không thể nghĩ bàn như thế, không hiểu ra sao, lại quay vào trong xem vừa đúng ngay khoảnh khắc đó, người sắp mạng chung diện mạo tươi vui, thở ra một hơi mạnh bèn cùng với vầng ánh sáng như mặt trời kia đồng thời biến mất, trong nhà tức thời sáng sủa trở lại như thường. Bà vợ của ông ta và con trai, con gái, A Tú, mọi người… đều nhìn thấy kỳ tích Phật A Di Đà phóng quang tiếp dẫn này, do đó mà tiếng niệm Phật cứ y nhiên không dứt, cứ niệm mãi đến trời sáng. Các vị liên hữu Trương Thẩm, Bảo Vân ở Bố giáo sở qua ngày hôm sau lại đến trợ niệm, niệm mãi đến hơn 11 giờ trưa, đến sau lúc người mất hết thở 8 tiếng đồng hồ, tiếng niệm Phật mới dứt. Mọi người xúm lại xem tướng lành của người mất còn hảo tướng trang nghiêm hơn lúc còn sống nữa, thử thăm dò đỉnh đầu vẫn còn ấm, thân thể mềm như bông, các vị liên hữu buổi sáng trở lại trợ niệm nghe nói sự việc người mất lúc lâm chung nhờ Phật phóng quang tiếp dẫn, mọi người đều không khỏi một phen đại thất vọng, luôn miệng nói xấu hổ, chưa có thể chính mắt nhìn thấy quang minh của Phật.

Phàm việc gì đều có nhân duyên quả báo, cho nên nhà Phật nói nhân quả là xác thật không sai một mảy nào cả. Chúng ta phải biết sư tỷ A Tú suốt đêm trợ niệm cho ông ta, vốn là vị liên hữu trung thành của Bố giáo sở, nhưng phát tâm niệm Phật cho ông ta như thế, cũng không phải không có nhân duyên.

Cư sĩ Lý Thanh Nguyên khi còn sanh tiền, lúc làm tài xế xe, mỗi sáng sớm lúc đi ngang Thảo Hồ, đều có một đám nam nữ học sinh trèo lên xe muốn đến Đài Trung, những người đến trạm xe không kịp thì cư sĩ Lý Thanh Nguyên thường dừng xe lại để cho đám học sinh đó lên xe. Tâm địa của Lý Thanh Nguyên tốt lành như thế đó là nhân, đến lúc ông mắc bệnh hết chữa, con cái của sư tỷ A Tú nghe nói chú Lý sắp lìa đời, cần người trợ giúp niệm Phật, liền nhớ lại cảnh lúc còn đi học vội vội vàng vàng lên xe và chú Lý thì dừng xe lại, hiện rõ ở trong đầu, thế là liền thúc giục mẹ: “Mẹ à! Nhanh lên đi trợ niệm cho chú Lý. Chú Lý đối với chúng con rất tốt, mẹ nhất định phải niệm đến lúc chú vãng sanh Tây phương mới thôi”.

Nếu như không có sư tỷ A Tú trợ niệm suốt đêm không ngủ đến 2 giờ khuya, thì làm sao cảm ứng đến một thanh niên quân nhân trợ niệm nữa? Nói đến vị thiện nam tử này cũng là một nhân duyên thù thắng không thể nghĩ bàn, anh ta vốn đứng gác ca gác nửa đêm ở trại lính gần đó, trong đêm tối yên tĩnh, bên tai bỗng nhiên nghe một lớp tiếng niệm A Di Đà Phật. Trong hai giờ đứng gác, câu Thánh hiệu thanh tịnh vạn đức trang nghiêm thâm nhập vào trong ruộng thức thứ tám của vị thanh niên quân nhân kia, trong miệng tự nhiên cũng theo đó niệm “A Di Đà Phật” không ngớt, vị thiện nam tử này muốn xem thử là người chân tu nào có được sự dụng công như thế, liền dò theo phương hướng của tiếng niệm Phật đi thẳng đến nhà họ Lý đường Trung Chánh ở Vụ Phong, chỉ thấy cửa mở, có rất nhiều người đang niệm Phật, anh ta liền tự động tham gia trợ niệm. Anh thanh niên này nhất định có căn lành rất lớn, nếu không thì trợ niệm hơn một tiếng đồng hồ làm sao có thể thấy được quang minh của Phật? Tôi lúc đến Bố giáo sở giảng kinh, anh thanh niên này cũng đến nghe, các vị liên hữu vì tôi giới thiệu gặp mặt với anh ta, do vì anh ta giúp đỡ một phàm phu sanh tử đang ở trong biển khổ được Phật thương xót phóng quang tiếp dẫn vãng sanh Tây phương Cực lạc thế giới, khiến tôi vừa thấy, trong lòng vô cùng cảm kích, tặng cho anh ta một xâu chuỗi và mấy quyển sách Phật, sau hơn một tháng anh ta được điều đi nơi khác. Tiếc một điều lúc đó tôi quên hỏi chỗ ở và tên họ của anh ta!


http://www.quangduc.com/tinhdo/87niemphatcamung.html#33. TRỢ NIỆM CHO NGƯỜI VÃNG SANH TÂY PHƯƠNG, CÔNG ĐỨC VÔ LƯỢNG

Tuesday, September 21, 2010

33. TRỢ NIỆM CHO NGƯỜI VÃNG SANH TÂY PHƯƠNG, CÔNG ĐỨC VÔ LƯỢNG

Lại nói về một chuyện cười: các vị trong ban kia của Bố giáo sở lúc bấy giờ trợ niệm cho Lý cư sĩ (chuyện trên), chỉ có sai đi 3 tiếng đồng hồ, do vì về nhà trước đi ngủ mà không thấy được việc Phật A Di Đà phóng quang tiếp dẫn, đều hối hận mãi không thôi. Sau đó mọi người liền ở lại Bố giáo sở bàn bạc: lần sau nếu như lại có người bệnh nặng sắp qua đời, chúng ta nhất định phải đi trợ niệm, muời mấy người đều một lòng một dạ, không thấy quang minh, thề không chịu thôi. Sau khi phát nguyện như thế xong, liền đi tìm kiếm khắp nơi trong làng, chưa được mấy ngày, quả thật tìm được một vị là bà mẹ già tám mươi lăm tuổi của ông Lâm Kim Châu.

Những người vì tâm hiếu kỳ mong muốn thấy được quang minh của Phật này, liền thuyết pháp với con trai và con dâu của bà ta: “Chúng tôi đều là không có điều kiện gì hết, niệm Phật cho mẹ các vị, trợ giúp cho bà vãng sanh Tây phương, không còn lại luân hồi trong lục đạo”. Đồng thời tuyên thuyết niệm Phật tốt thế nào, thế nào… tốn hết một phen mồm mép, người con trai và người con dâu kia mới bằng lòng cho chúng tôi trợ niệm cho bà ta. Phải phân làm hai ban thay phiên nhau trợ niệm, khi ăn cơm cũng thay phiên nhau về nhà ăn, ăn cơm xong lại đến đổi ban niệm. Mọi người vì sợ không thấy được quang minh của Phật, cho nên trước sau không dứt tiếng niệm Phật, niệm mãi một ngày một đêm nhưng người bệnh vẫn cứ thở đều, còn chưa dứt thở. Bà ta có một người con gái lớn ở xa về, thấy người ta niệm Phật cho mẹ mình, không được vui lắm, lại còn nói với cha cô ta rằng: “Niệm Phật làm cái gì? Ngược lại làm nhiễu loạn tâm của má con thôi, kêu họ về đi!”, may mà anh trai và chị dâu của cô ta còn hiểu biết, vội nói: “Không được, không được! Mẹ từ lúc nhờ họ niệm Phật đến giờ, trong lòng đã thanh thản nhiều, không còn khổ não như trước đây nữa!”. Người con gái kia sau đó cũng không còn nói bậy nữa, biết được thành ý của mọi người, trái lại trong lòng bắt đầu biết mang ơn.

Lúc đó đã là cuối năm, nhà nhà đều phải làm bánh Tết, trong các vị trợ niệm có nhà dặn dò con cái hoặc con dâu bỏ không làm bánh Tết nữa mà đến trợ niệm, liên tục niệm bảy ngày bảy đêm, người sắp mạng chung kia mới vãng sanh. Lúc đó mọi người trong miệng thì niệm Phật, còn mắt thì lại đều chú ý xem quang minh của Phật đến. Nhưng kết quả không thấy được gì hết, mọi người lại vô cùng thất vọng. Mặc dù như thế, nhưng cái tâm trợ niệm của mọi người là chân thật ngay thẳng, giúp người thì phải giúp cho đến nơi đến chốn, liền lại niệm thêm 8 tiếng đồng hồ nữa (đúng nghi thức trợ niệm) thăm dò trên đỉnh đầu vẫn còn một chút hơi ấm, sắc diện như sống, thân thể vẫn mềm như bông. Đây cũng chính là tướng lành được vãng sanh Tây phương. Điều không thể nghĩ bàn nhứt là: niệm xong 8 tiếng đồng hồ rồi, con cháu của bà ta mở những chăn mền đắp cho bà ta ra thì thấy hai tay của bà đang chắp ngay ngắn.

Sư tỷ Thẩm (Trương Thẩm, bài trước) nói với tôi: “Con dâu của bà ta thấy chúng tôi niệm Phật cho mẹ chồng của cô ta được thành khẩn như thế, mỗi đêm đều ba lần nấu món điểm tâm mời chúng tôi ăn, mới đầu mọi người không dám ăn, do vì thầy Lý dạy chúng tôi lúc trợ niệm cho người, không được ăn đồ ăn của người ta, ba bữa phải về nhà ăn, cũng không được ăn đồ điểm tâm, do vì người ta đang gặp lúc không may, không nên làm phiền người ta thêm. Nhưng con dâu bà ta với ý tốt nói: “Thời tiết mùa đông lạnh như thế này, các vị có lòng tốt như thế đến cứu cho mẹ chồng tôi, cả nhà chúng tôi rất là đội ơn đội đức, có chút xíu để bày tỏ tấm lòng, các vị đừng nên khách sáo!”. Cho nên mỗi đêm đều tiếp nhận ba lần điểm tâm của họ. Tôi liền cười nói với họ rằng: “Tâm của các vị bất tịnh, chứa đầy những tham muốn, muốn thấy quang minh của Phật, lại nào có thấy được đâu? Sư tỷ Tú cùng với anh thanh niên kia, lúc đó niệm Phật là một lòng một dạ, trong tâm thanh tịnh, niệm đến cùng Phật cảm ứng đạo giao, cho nên mới thấy được Phật A Di Đà phóng đại quang minh đến tiếp dẫn. Hôm nay các vị vì tham muốn xem quang minh mà vì người niệm Phật, nhưng cũng giúp được một chúng sanh ở Ta bà vãng sanh về quốc độ an lạc ở Tây phương tu hành, ngày kia thừa nguyện tái lai, có thể độ được vô lượng vô biên chúng sanh khổ não. Công đức này cũng đều là do các vị phát tâm muốn thấy quang minh của Phật mà được ban cho như thế”.

http://www.quangduc.com/tinhdo/87niemphatcamung.html#33. TRỢ NIỆM CHO NGƯỜI VÃNG SANH TÂY PHƯƠNG, CÔNG ĐỨC VÔ LƯỢNG

28. CON KHỈ SẮP BỊ GIẾT ĐƯỢC CHUỘC MẠNG BIẾT LẠY PHẬT

Trên đây đã nói kỳ tích của cư sĩ A Minh, lúc lâm chung nhờ Phật phóng quang tiếp dẫn vãng sanh, có thể chứng minh tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, chúng sanh nếu chịu vâng làm theo lời dạy, tinh tấn không có giải đãi, thì có thể thành tựu được đạo nghiệp, nhưng cái điều quan trọng nhất còn cần phải có sự trợ duyên của thiện tri thức. Huynh A Minh nếu chẳng có sự dẫn dắt của cô Chơn và cô Phụng, khiến không mất chánh niệm, chưa chắc có thể vãng sanh. Do đây có thể thấy thiện tri thức là điều quan trọng vô cùng.

Nói đến hai chị em cô Chơn và cô Phụng, chẳng những từ bi thân thiết đối với loài người, ngay đối với loài động vật không chân, bốn chân… cho đến các loại quỷ, cô hồn, đều có thể phương tiện khéo léo giúp cho, tế độ. Dưới đây sẽ cử ra vài chuyện để làm chứng minh.

Vào một ngày hôm trước tiết Đông chí sáu năm trước, cô Chơn đang ở bên chợ, nhìn thấy một đám người đông vây quanh, trong đó có người lớn tiếng rao: “Thịt khỉ là món ăn bổ nhất cho tối nay, mời tất cả nhanh chóng đến mua, thịt mới làm, rất tươi ngon đây!”, những người bên ngoài nhìn xem nhiều người nói “tội nghiệp”. Lòng từ bi của cô Chơn tự nhiên phát khởi, nhìn vào chỉ thấy ở trong lồng dây kẽm có bốn con khỉ, ba con đã bị chế nước sôi lên trên mình, tự nó vừa vuột lông vừa kêu khóc, kêu khóc đến rất là thê thảm! Lông nó bị tự nó vuột ra hết rồi vẫn còn chưa chết, người bán thịt khỉ kia bèn dùng con dao nhọn bén đâm vào cổ con khỉ, máu tươi phún ra, trong chớp mắt anh ta chặt ra từng miếng, từng miếng, mọi người tranh nhau mua.

Nhìn lại lần nữa con khỉ chưa chịu tội kia, chính mắt nhìn thấy đồng bọn chết thê thảm như thế, nó hãi sợ đến nỗi hai tay ôm đầu, “chít chít” kêu thảm, bộ dạng như đang cầu người giải cứu. Cô Chơn mắt nhìn thấy cảnh này, cảm thấy tàn nhẫn thái quá, liền hỏi người chủ con khỉ: “Cái con còn sống kia cần bán bao nhiêu tiền? Tôi muốn mua để phóng sinh”, người kia nói: “Một trăm đồng, do vì cô muốn mua để phóng sinh, tính rẻ một chút, nửa giá tiền, 50 đồng bán cho cô được rồi”. Cô Chơn liền móc ra 50 đồng đưa cho anh ta, dùng một sợi dây bện bằng cỏ cột nó lại, bỏ lên phía sau xe đạp của mình để chở nó về nhà. Người bán khỉ kia liền nói “Con khỉ này hung dữ lắm, vừa mạnh vừa dữ, cô phải dùng một sợi dây xích, chớ dùng dây cỏ bện này nó sẽ chạy mất”. Không ngờ con khỉ này không còn sợ hãi gì hết, nó ngồi trên baga phía sau xe rất là ngoan. Cô Chơn nói với khỉ rằng: “Khỉ à, mày kiếp trước không có tu, mới đọa lạc vào loài súc sanh, súc sanh thì khó tránh khỏi cái chết thảm máu rơi thịt nát! Mục đích tao cứu mày là muốn mày lìa khổ được vui, mày phải ngoan ngoãn theo tao lên núi, để quy y Tam Bảo”.

Cô Phụng là một sư phụ xuất gia giới hạnh trang nghiêm, nghe nói chị giải cứu một con khỉ, rất là hoan hỉ. Lập tức đốt đèn thắp hương lên, quy y Tam Bảo cho nó, đặt tên là Ngộ Không, mở dây ra cho nó và dạy nó cách lạy năm vóc sát đất, để cho nó được tự do tự tại, chạy đi cũng được, không chạy thì nuôi cũng được. Ai ngờ khỉ dầu súc sanh, lại biết ân báo ân, không có chạy vào rừng sâu sống nữa, mỗi ngày lúc thời khóa sớm tối đều đi theo chủ nhân, lạy Phật năm vóc sát đất, khi người ta niệm Phật trong miệng nó cũng lẩm bẩm như có nói và niệm theo “Phật, Phật, Phật…” không ngừng. Khóa tụng xong, nó đều nhất định đến vườn trái cây, leo lên một cây cao nhất, nhìn khắp bốn phía coi có ai đến trộm trái cây không? Nếu như bị nó nhìn thấy, nó liền chạy đến nắm chặt, làm dữ không có buông, mãi đến khi ăn trộm bỏ trái cây xuống nó mới buông ra. Ngộ Không hằng ngày đều đi canh gác như vậy mấy lần.

Có một hôm ba mẹ con (cô Chơn, mẹ và em gái) đi làm cỏ trong vườn, bỗng nhiên nghe tiếng khánh tiếng mõ vang lên không ngớt, ba người cảm thấy rất kỳ lạ, cho là có khách từ xa lại, cho nên đánh mõ đánh khánh lên để gọi người về nhà, ba người liền nhanh chóng về nhà để xem, không ngờ là Ngộ Không đang ngồi ngay ngắn trên bàn Phật, một tay cầm dùi khánh, một tay cầm dùi mỏ, đánh qua đánh lại, đang đánh rất hăng, chủ nhân vừa giận vừa mắc cười kêu lên một tiếng “Ngộ Không xuống đây quỳ hương”. Ngộ Không lập tức nhảy xuống quỳ trên đất. Cô Chơn đốt một cây nhang, bảo Ngộ Không cầm lấy nói với nó: “Ngộâ Không, bây giờ phạt mày quỳ hương, do vì mày ngồi trên bàn Phật, vậy là vô lễ với Phật, nhất định phải sám hối với Phật, từ đây về sau không được ngồi trên bàn Phật, đánh những pháp khí lung tung. Chờ cây nhang này cháy hết mới được đứng dậy”. Ngộ Không nghe lời, quỳ mãi đến cây nhang cháy hết mới đứng dậy. Nhưng chưa được mấy ngày, lúc các chủ nhơn đến làm cỏ trong vườn lại nghe tiếng đánh chuông, mọi người vừa nghe liền biết là Ngộ Không lại nghịch phá, về nhà xem thì thấy Ngộ Không đứng trên ghế, một tay đánh chuông, một tay đánh trống. Lần này chủ nhơn kêu cũng không xuống, trong miệng của Ngộ Không kêu khẹt khẹt bày tỏ cái dáng bộ rất bất mãn, ý muốn nói: tôi lần trước ngồi trên bàn Phật đánh mõ đánh khánh, mấy người nói là không được, không có cung kính đối với Phật, bây giờ tôi ngồi trên ghế đánh chuông trống, lẽ nào cũng không được? Cô Chơn hiểu tâm lý của nó, liền lại nói với nó rằng: “Ngộ Không, mày hôm nay vẫn là phạm tội bất kính, đây là những pháp khí ở trước Phật là những thứ không thể đánh lung tung bậy bạ được, về sau không cho mày đánh một thứ pháp khí nào nữa. Lại đây! Lại đây quỳ hương tiếp!”. Nhưng lần này quỳ không bao lâu, nó liền bẻ gãy cây nhang rồi đứng dậy bỏ đi.

Chúng sanh từ vô lượng kiếp lại đây, điều khó tiêu trừ nhất là tập khí tham muốn, Ngộ Không cũng thế, mắt nhìn thấy những trái bắp trên ruộng của nhà hàng xóm (tục gọi là lúa nước phiên), từng cây từng cây lúc chín quằn xuống ba thước (thước Tàu), đợi buổi trưa lúc người ta nghỉ, qua hái bắp của người ta lặt ra từng hột từng hột, có trái chín rồi, có trái chưa chín, rải đầy đất khiến cho người ta cười dở khóc dở, nhưng mà bắp Ngộ Không hái đi cũng chỉ có hai trái. Cô Chơn vì việc này phải xin lỗi nhà hàng xóm và bồi thường tổn thất cho người ta. Cô Chơn rất là thông cảm cho Ngộ Không, nhưng cũng phải lên lớp dạy bảo cho nó một trận đàng hoàng.

Lại có một lần Ngộ Không nghịch phá đến mức quá lớn làm cho người ta ai nấy thấp thỏm không yên, sợ đến mức toát mồ hôi lạnh cả người! Nguyên là nhà của cô Chơn và của hàng xóm đều là nhà tranh, có một hôm Ngộ Không lấy được một cái hộp quẹt cây, nó phóc lên trên giữa nóc nhà, mở hộp quẹt ra, quẹt lên một cây, nhìn thấy ngọn lửa, dùng miệng thổi lửa nó rất là khoái, quẹt từng cây, từng cây như thế rồi dùng miệng thổi, nó chơi rất là thích thú, nhưng lại khiến cho người ta nhìn thấy ai nấy đều thót tim hết, cô Chơn và cô Phụng kêu thế nào nó cũng không xuống, mãi đến khi nó quẹt hết hộp quẹt mới thôi. Nhưng hành vi nghịch lửa lần này của Ngộ Không do vì cái tính nguy hiểm quá lớn, khiến cho bà con hàng xóm rất là bất mãn, không trừ nó đi không được, việc này khiến cho chủ nhơn rất là mệt óc, không biết như thế nào mới tốt (?)

Chị em cô Chơn nghĩ tới nghĩ lui: muốn thả nó vào rừng sâu, nhưng mà nghĩ nhớ nó đã trồng sâu căn lành, biết lạy Phật với năm vóc sát đất, còn biết kêu sư phụ, lại ăn chay, có một lần người ta cầm đồ ăn mặn đưa cho nó ăn, nó cầm lấy dùng mũi ngửi ngửi, liền quăng đi không ăn. Do những việc này nên không nỡ đuổi nó vào rừng sâu, bèn nhớ đến sư phụ ở Vụ Phong, chi bằng dẫn nó đi gởi cho sư phụ, hay là tặng cho sư phụ luôn cũng được. Thế là liền mua một sợi dây xích dài, đưa Ngộ Không đi đến đó, cột nó dưới cây trước cửa. Nào ngờ Ngộ Không không chịu như thế, trọn dùng tuyệt thực để bày tỏ phản kháng, ngày ba bữa không ăn bất cứ thứ gì, suốt ngày chỉ kêu khóc không nghỉ. Cô Chơn đã rời Ngộ Không bảy, tám ngày, cho là Ngô Không đã thay đổi được hoàn cảnh mới, chắc đã quen rồi, liền nhín chút thời gian rảnh đi thăm nó, Ngộ Không vừa nhìn thấy chủ nhơn, liền nắm chặt không buông, chết cũng không chịu rời, cô Chơn mắt nhìn thấy Ngộ Không ốm đói quá như thế, cuối cùng không nỡ lòng để Ngộ Không tiếp tục ở lại đó, lúc sắp dắt nó về núi, cô Chơn bèn nói với nó rằng: “Mày ở đây làm huyên náo các thầy, bây giờ sắp về nhà, mày phải đến đảnh lễ các thầy cám ơn”. Nói cũng kỳ lạ! Ngộ Không thật là có linh tánh, và biết phân biệt ai là trụ trì, ai là đương gia, nó tự chạy đến trước thầy trụ trì, trước hành lễ năm vóc sát đất, đảnh lễ ba lạy, rồi chạy đến trước thầy đương gia cũng hành lễ năm vóc sát đất, đảnh lễ một lạy, còn các thầy khác thì nó chỉ bắt tay, không có lạy năm vóc sát đất nữa. Ngộ Không rốt cuộc lại do cô Chơn dùng xe đạp chở về nhà, đi được nửa đường, tự nó nhảy phóc xuống, chạy về nhà. Cô Chơn về đến nhà thì thấy Ngộ Không đã bưng nồi cơm đặt xuống đất rồi, và nó đang ngồi đó bốc cơm dư trong nồi của buổi trưa ăn sắp hết rồi. Ngộ Không trải qua bài học lần này, dù cho lúc chủ nhơn đi ra ngoài không có ở nhà, cũng không còn nghịch phá tổn hại đến người khác, càng không dám nghịch lửa nữa!…


http://www.quangduc.com/tinhdo/87niemphatcamung.html#37.%20TRONG%20M%E1%BB%98NG%20NI%E1%BB%86M%20PH%E1%BA%ACT,%20G%E1%BA%B6P%20D%E1%BB%AE%20H%C3%93A%20L%C3%80NH