Saturday, November 6, 2010
Friday, November 5, 2010
TU TRONG MỘT CHỮ NHỚ
10:29:00 AM
No comments
Hôm nay tôi sẽ nói với đạo tràng một đề tài căn bản để tu hành, đó là: "Tu trong một chữ NHỚ".
Ai cũng nói tu khó, nhưng tại sao khó? Tại tập khí của con người là hay quên nên tu khó. Thí dụ như đang ở đây tôi nói gì quí vị nghe hiểu rõ ràng, khi về nhà thì quên mất, khó là ở chỗ đó. Mà vì sao lại quên? Vì vọng tưởng chuyện này chuyện kia hoặc bị tâm phiền não che mờ chớ không gì khác. Thời Phật tại thế, có một vị Bà la môn đến hỏi Phật: "Bạch ngài Cù Đàm, tại sao có khi có những bài chú chưa từng học mà bỗng nhiên tôi nhớ, cũng có khi có những bài chú đã thuộc lòng rồi lại quên?"
Đức Phật đáp: "Nguyên nhân thứ nhất khiến quên là do năm món triền cái che đậy. Đó là tham, sân, thùy miên, trạo hối, nghi hoặc, khiến cho tâm trí bị che mờ, nên dễ quên. Nguyên nhân thứ hai khiến nhớ, là có khi tạm xa lìa năm món triền cái, tâm trí sáng suốt nên nhớ lại nhớ nhiều việc. "
Phật thí dụ như bát nước trong, đem hoà màu vào làm mất đi sự trong suốt của nó nên khi nhìn vào bát nước không thấy được mặt của mình. Cũng vậy, sự tham nhiễm làm mờ đi trí sáng suốt. Tham nhiễm dụ cho màu, nước trong dụ cho trí sáng suốt. Màu hoà vào làm mất đi sự trong của nước dụ cho tham nhiễm làm mờ đi trí sáng, do đó dễ quên. Ví dụ thứ hai, như bát nước dù trong mà nấu sôi sùng sục lên cũng không nhìn thấy mặt được. Cũng vậy, khi nổi sân là tâm đang sôi sục thì mất sự sáng suốt. Đây là hai món triền cái gần với mình. Ví dụ thứ ba, như bát nước trong bị rêu phủ trên mặt cũng không nhìn thấy được mặt. Cũng vậy, khi thùy miên (buồn ngủ) thì tâm trí mơ màng khó nhớ. Ví dụ thứ tư, tuy bát nước trong nhưng bị dao động thì nhìn vào thấy mặt mình cũng bị dao động không thấy rõ được. Cũng vậy, khi trạo hối thì tâm không yên nên khó nhớ. Ví dụ thứ năm, như bát nước trong vừa bị khuấy động, vừa để trong chỗ tối thì khi nhìn vào làm sao thấy được mặt mày. Cũng vậy, khi tâm bị nghi hoặc che đậy thì trí mờ không nhớ được những việc lâu xa. Tóm lại, khi có năm món triền cái nầy thì trí nhớ bị lu mờ, không có nó tâm trí mới sáng suốt, bén nhạy.
Phật dạy thực tế như vậy mà thế gian không chịu nghe. Họ bảo rằng tôi thông minh học đâu nhớ đó và nhớ dai nữa làm sao quên được. Nhưng đây phải xét lại, phải phân biệt cái nhớ của tâm mê và cái nhớ của tâm ngộ. Người đời nhớ dai nhưng nhớ cái gì? Đó là nhớ theo duyên, theo cảnh, nhớ theo phiền não. Ai làm mình giận thì nhớ đời. Cũng nhớ, nhưng chưa phải chỗ Phật muốn nói ở đây, vì nhớ những thứ đó thì không nhớ được những chuyện khác. Thí dụ mình đang nhớ giận người nào thì tâm mờ, hoặc ngồi đây mà nhớ chuyện nhiều năm về trước, hay nhớ bên Mỹ, hay nhớ triết lý này triết lý nọ chứa đầy trong đầu thì đó là sống trong cái thức tưởng hay còn gọi là sống theo những cái bóng của quá khứ; hoặc không nhớ quá khứ thì nghĩ tới tương lai. Tương lai là gì? Là quá khứ phóng đại, vì từ quá khứ mới tưởng thành tương lai. Vậy là cũng đang sống với cái đâu đâu. Rốt lại có thực sống không? Bây giờ đặt câu hỏi: "Ai đang sống đó? Chỉ ra xem ! Tại sao như vậy?” Đó chỉ là tâm phân tán thôi. Tâm phân tán theo cái nầy, phân tán theo cái kia, luôn luôn có vấn đề trong đầu nên không được an ổn. Do không an ổn nên tâm bị che mờ, bị che mờ nên không nhớ được việc cần nhớ. Hoặc càng học cho nhớ nhiều chừng nào thì tâm càng loạn động chừng nấy. Ngài Vô Trụ phó chúc một công án cho đệ tử là Vô Hữu bằng một câu chuyện. Chuyện kể có một người đang đứng trên một đồi cao, có ba du khách đi ngang qua đường nhìn thấy người đứng trên đồi mới nói với nhau. Người thứ nhất nói: "Chắc anh ta bị mất vật gì thương yêu nên đang kiếm nó. " Người thứ hai cãi: "Không, chắc anh ta đang đứng chờ một người bạn thân. " Người thứ ba nói: "Trông cái dáng tôi đoán chắc anh ta đang đứng thưởng thức khí trong lành. " Mỗi người một ý cãi nhau không thôi, mới đề nghị lên đồi gặp anh kia hỏi cho ra lẽ. Ba người cùng nhau lên đồi, gặp người kia. Anh thứ nhất hỏi: "Anh làm gì ở đây vậy? Có phải anh đánh mất vật gì không?" Người kia đáp: "Tôi không mất gì hết. " Người thứ hai hỏi: "Anh đang chờ ai phải không?" Người kia đáp: "Không, tôi không chờ ai hết. " Người thứ ba hỏi: "Vậy có phải anh đứng hóng mát không?" Anh kia đáp: "Không phải, tôi chỉ đứng đây thôi. " Câu chuyện này ngài Vô Trụ bảo là một công án. Mình luôn sống như ba người ở dưới đồi, luôn lấy cái suy nghĩ trong đầu mình mà suy ra cho người, nghĩa là trong đầu luôn có vấn đề. Như vậy thì quả tang mình sống trong vô minh, sống trong vọng tưởng. Đó cũng là nhớ mà nhớ theo thế gian, đối với đạo gọi đó là quên. Quên là sống quên mình, sống không nhớ chủ. Còn nhớ là vì trong đầu mình có vấn đề gì mình nhớ vấn đề đó.
Có một người Ấn tên Tam Tạng Đại Nhĩ sang Trung Hoa, tự xưng có tha tâm thông, là thấy được tâm người khác. Vua muốn trắc nghiệm mới mời vào cung gặp quốc sư Huệ Trung. Lần thứ nhất quốc sư khởi tâm nghĩ đến cầu Thiên Tân rồi hỏi:
- Bây giờ tôi đang ở đâu?
Tam Tạng Đại Nhĩ nói:
- Ngài là quốc sư của một nước mà sao lại đến cầu Thiên Tân xem khỉ giởn?
Lần thứ hai quốc sư nghĩ đến bến đò Tây Xuyên rồi hỏi Tam Tạng:
- Bây giờ tôi đang ở đâu?
Tam Tạng nói:
- Ngài là một quốc sư sao lại đến bến đò để xem đò đua?
Lần thứ ba quốc sư không nghĩ gì hết, hỏi:
- Bây giờ tôi đang ở đâu?
Tam Tạng tìm hoài không được. Ngài hỏi thúc:
- Ở đâu, nói xem?
Tam Tạng tìm không ra. Cuối cùng quốc sư quở:
- Chồn tinh! tha tâm thông ở chỗ nào?
Tại sao lần thứ ba Tam Tạng không nói được? Vì đây là tha tâm thông thường thôi chứ không phải đạo thông. Tha tâm thông này chỉ thấy theo vọng tưởng nên hễ quốc sư nghĩ đến cây cầu, đến bến đò thì tướng cây cầu bến đò hiện trong đầu, Tam Tạng mới thấy được, đó là thấy theo cái bóng. Đến khi quốc sư không nghĩ gì hết thì Tam Tạng làm sao thấy. Nhưng chính chỗ không nghĩ gì mới là quốc sư thật. Nghĩ chỗ này chỗ kia là cái bóng, còn bây giờ quốc sư thật ngay trước mặt mà không thấy, đó gọi là sống mất mình. Nếu Tam Tạng thực sự có con mắt Thiền thì ngay khi bị hỏi "hiện giờ ở đâu", liền vỗ vai ông một cái thì biết ở đâu liền, không nói ở đâu. Do ông chỉ nhớ theo bóng nên Quốc sư quở, tức là mê mình. Học thiền là phải dám buông những thứ nhớ đó. Nhớ thứ nầy nhớ thứ kia buông liền, buông liền những thứ nhớ đó là sống trở lại chính mình, đó gọi là sống Thiền. Còn nhớ theo kiểu thế gian thì càng nhớ nhiều càng sanh loạn, có người học nhớ nhiều quá rồi điên, vì chứa đầy quá!
Trong nhà thiền có câu chuyện một giáo sư đi học thiền. Giáo sư thì trong đầu nhớ rất nhiều, ông đến học thiền với Thiền sư Nan In (Nhật Bản) thời Minh Trị Thiên Hoàng. Đến gặp Thiền sư thay vì thưa hỏi để được Thiền sư chỉ dạy, nhưng ông chỉ lo tuôn ra những sự hiểu biết của ông thôi. Thiền sư rót trà mời khách, nhưng ngài rót hoài đầy tràn tách rồi mà ngài vẫn không thôi. Ông giáo sư thấy vậy mới ngưng nói, thưa: "Bạch ngài, tràn rồi. " Bấy giờ Thiền sư mới nói: "Ông cũng vậy, đầu ông đã đầy tràn rồi thì cần gì phải học nữa? Trừ khi ông cạn tách trà của ông đi, còn bây giờ không còn chỗ chứa thêm nữa. " Đó là Thiền sư muốn đánh thức ông giáo sư đến học thiền thì trong đầu phải trống rỗng để tiếp nhận, còn trong đầu nhớ quá nhiều tràn cả ra ngoài thì còn chỗ nào để tiếp nữa. Chứa nhiều đến nỗi đối diện Thiền sư mà không thấy Thiền sư, chỉ thấy những thứ ở trong đầu mình thôi. Học thiền kiểu đó làm sao tiếp nhận được? Vì vậy trong nhà thiền, những thứ chứa trong đầu nhớ dai nhớ giỏi chưa phải là thiền.
Trong nhà thiền có một vị tên là Đức Sơn cũng vì chỗ đó mà bị bà già bán bánh gạt. Ngài Đức Sơn quảy một gánh kinh ghé quán của bà hỏi mua bánh điểm tâm. Bà hỏi:
- Thầy quảy gánh gì nặng vậy?
Ngài đáp:
- Thanh Long sớ sao
Bà già biết đó là sớ giải kinh Kim Cang, bà nói:
- Như vậy thầy là giảng sư. Nếu thầy đáp được câu hỏi của tôi thì tôi cúng dường bánh cho thầy ăn, còn không đáp được thì xin mời thầy đi nơi khác.
Bà hỏi:
- Trong kinh Kim Cang nói: “Tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại không thể được, tâm vị lai không thể được, vậy thầy điểm tâm nào”?
Thật đơn giản nhưng ngài đáp không được, vì sao? Chỉ vì còn lo tìm tâm nào để điểm nên không trả lời được. Tâm quá khứ không thể được vì quá khứ qua rồi, nó là tâm hư dối nên không thể được. Tâm vị lai chưa đến nên cũng không được. Còn tâm hiện tại thì đang sanh diệt đổi dời, mình đang ngồi đây chứ tâm đã chạy về Sài Gòn rồi nên cũng không thể được. Vậy thì điểm tâm nào đây? Tâm ba thời đều hư dối không thật nhưng cái gì biết tâm ba thời đều hư dối? Chính cái luôn có mặt đó mà không nhớ, cứ lo tìm tâm ba thời nên bị bà già gạt. Tâm ba thời hư dối không thể được nhưng cái gì biết là nó hư dối không thể được? Chỗ đó lại không nhớ mà nhớ tâm ba thời kia nên gọi là mê, là bị gạt. Chỗ này trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy rất rõ. Ngài nói: “Căn bản của Bồ Đề Niết Bàn từ vô thủy chính là cái thức tinh nguyên minh của ông hiện nay”. Thức tinh nguyên minh tức là cái sáng nguyên vẹn chưa bị lẫn lộn gì hết, nó sáng sẵn như vậy chứ không nhờ cái gì để sáng, “nó hay sanh ra các duyên, nhưng sanh rồi lại chỉ nhớ các duyên đó mà quên chính nó. Chính vì chúng sanh bỏ quên cái sáng suốt có sẵn này nên suốt ngày tu hành mà không được giải thoát, chỉ đi vào trong các đường luân hồi”. Ví dụ như khi ta nhìn cành hoa thì chỉ biết cành hoa mà quên mất cái đang biết cành hoa, đó gọi là mê. Bởi mê nên suốt ngày đi theo các duyên mà không giải thoát. Bây giờ nhớ trở lại, biết rõ hết mà không quên cái đang biết, đó là nhớ trở về. Chính chỗ nhớ về đó là cái gốc của Bồ Đề Niết bàn, cái gốc của giác ngộ thành Phật. Tu là nhớ chính cái hằng biết đó chứ không phải nhớ những thứ bóng kia. Đây là nhớ Tánh giác, tức là nhớ ông Chủ của mình chứ không phải nhớ cảnh bên ngoài. Hễ nhớ cảnh bên ngoài tức là nhớ các thứ giả thì đi vào sanh tử. Đây thì quên tâm quên cảnh mà nhớ lại chính mình. Đó là cái nhớ của người giác.
Nói tóm lại, tu không có gì khó, chỉ một chút xíu này thôi: Chỗ mình thường nhớ thì phải hằng quên, chỗ mình hay quên thì phải hằng nhớ. Quay đầu lại chính là bờ, nắm được căn bản rồi thì thấy được chỗ tu của mình. Rất đơn giản.
Trong kinh Lăng Nghiêm, Bồ tát Đại Thế Chí tu niệm Phật tam muội, ngài nói rằng: "Cũng giống như người mẹ luôn nhớ con mà con không nhớ mẹ thì làm sao gặp nhau được. Còn mẹ nhớ con mà con cũng nhớ mẹ thì chắc chắn mẹ con sẽ gặp nhau. " Cũng vậy, Phật luôn nhớ chúng sanh mà chúng sanh không nhớ tới Phật thì làm sao gặp Phật. Giờ đây luôn nhớ Phật mà đến chỗ không còn niệm khác xen vào, thì lúc đó là Phật hiện tiền. Như vậy là mình và Phật gặp nhau, đó là chỗ rất thiết thực.
Còn ngài Quán Thế Âm tu phản văn văn tự tánh là xoay cái nghe nghe lại nơi tự tánh, tức là thay vì nghe tiếng bên ngoài thì bây giờ quên cái tiếng đó, nghe trở lại tánh nghe hằng hiện hữu nơi mình không gián đoạn, đó là chỗ chơn thật, là con đường chứng viên thông của ngài.
Có một lần Tể tướng Đỗ Hồng Tiệm đến luận đạo với Thiền sư Vô Trụ. Đang luận đạo thì có con quạ đậu trên cành cây trước sân kêu, Tể tướng mới hỏi Thiền sư Vô Trụ:
- Thầy có nghe chăng?
Thiền sư đáp:
- Nghe !
Một lúc sau con quạ bay đi, ông hỏi:
- Giờ thầy có nghe không?
Thiền sư đáp:
- Cũng nghe.
Ông nói :
- Con quạ đã bay đi rồi tại sao thầy nói nghe?
Ngay đó Thiền sư gọi tất cả đại chúng rồi nói to lên cho tất cả cùng nghe. Sư bảo:
- “Đức Phật ra đời rất khó gặp, chánh pháp rất khó nghe, các ông hãy lắng nghe cho kỹ ! Có tiếng, không tiếng, không dính dáng gì đến tánh nghe. Tánh nghe xưa nay chẳng sanh nên đâu từng có diệt. Khi có tiếng thì thinh trần tự sanh, khi không tiếng thì thinh trần tự diệt, tánh nghe chẳng nhơn nơi tiếng mà có sanh có diệt. Ngộ tánh nghe thì không bị thinh trần chi phối. Cho nên phải biết, tánh nghe vốn không sanh, diệt, đến, đi. ” Ngay đó Tướng quốc làm lễ cảm nhận lời dạy của Sư. Đây nhân tiếng quạ kêu mà đánh thức cho mỗi người thấy rõ: "Tiếng hoặc có hoặc không, có sinh có diệt, tánh nghe thì đâu có theo tiếng mà có hay không. " Trước khi quạ kêu đã như vậy rồi, đâu đợi quạ kêu mới có nghe. Cũng vậy, trước khi nghe giảng quí vị có nghe không? Vậy thì khi hết giảng quí vị đâu có mất. Thử nhớ trở lại coi sẽ thấy rõ ràng tánh nghe luôn luôn có mặt với mình. Nhớ như vậy là nhớ lại tánh nghe của mình, đó là chỗ Phật muốn chỉ. Cho nên ngài nói Phật ra đời khó gặp, chánh pháp khó nghe, tức là nhấn mạnh cần phải lắng nghe lại tánh nghe mới thấy được Phật pháp mầu nhiệm chỉ nằm trong một chỗ đó thôi. Phật ra đời cũng từ chỗ đó. Chúng ta đa số nghe nói Phật ra đời liền nghĩ đến vườn Lâm Tỳ Ni ở Ấn Độ. Nhưng đó là chỗ lầm lẫn không hay. Vì sao? Vì phải hiểu Phật là gì? Lúc ngài ra đời ở vườn Lâm Tỳ Ni thì chưa có tên. Sau đó vua Tịnh Phạn mới đặt tên là Tất Đạt Đa chứ không phải tên Phật. Phật nghĩa là giác, nên khi Thái tử thành đạo, tức giác ngộ được tánh giác mới gọi là Phật. Cội cây nơi ngài ngồi là cây Tất- bát- la chứ không phải là cây bồ đề. Sau khi Phật thành đạo rồi, để kỷ niệm chỗ Phật thành đạo giác ngộ mới đổi tên cội cây thành cây Bồ-đề, Bồ- đề nghĩa là giác. Rõ ràng, khi thành đạo giác ngộ mới gọi là Phật, mà thành đạo từ đâu? Từ trong tự tánh chứ không phải từ vườn Lâm Tỳ Ni hay dưới gốc cây bồ đề. Như vậy, chỗ này phải sống được, muốn sống được phải nhớ lại.
Một hôm ngài A Nan hỏi ngài Ca Diếp:
- Khi Thế Tôn truyền chánh pháp nhãn tạng cho sư huynh thì ngoài chiếc y Kim lan còn truyền riêng pháp gì nữa không?
Ngài Ca Diếp liền gọi:
- A Nan !
Ngài A Nan : "Dạ"!
Ngài Ca Diếp nói:
- Cây phướn trước chùa ngã.
Ngài A Nan liền lễ tạ.
Đó là truyền riêng cái gì? Cứ lo nghĩ một cái gì đó để truyền riêng thì quên mất chính mình đang hiện hữu, đang có mặt đó. Cái riêng và cái bí mật là ở chỗ đó chứ không có gì khác. Chỗ đó không thể nói hết nên giống như có gì bí mật. Nhưng bí mật chính là ngay chỗ mình đang hiện hữu đó. Ngài Ca Diếp gọi A Nan thì ngay đó liền đáp, nhớ liền chỗ đó, thì “bí mật” liền được “bật mí” chớ gì. Rõ ràng và đơn giản nhưng mà mình tưởng tượng quá nhiều thành không thấy được nó. Như ông cư sĩ Phạm Xung ở viện Viên Thông gặp Thiền sư Mân đang ngồi uống trà. Uống trà xong, ông than rằng: “Bạch thầy, con sắp già rồi, đến tuổi nầy mà còn rơi vào con đường quan chức cho nên cách việc này hơi xa. ” Ngài Viên Thông liền gọi “Nội hàn !” Ông liền “Dạ !” Ngài bảo “Có xa đâu?” Ngay đó ông liền vui vẻ thấy không có xa. Mình luôn quên mình, tưởng đâu là có cái gì đó cho nên nói là xa, không ngờ nghe gọi liền dạ thì rõ ràng nó đang có mặt đó chứ đâu. Nếu không có mặt thì đâu có biết dạ. Như vậy là ông đã có niềm vui. Niềm vui này là của riêng ông hay ai cũng có? Vậy tại sao mình không có? Tại vì không chịu nhớ lại thôi. Đây là điểm quan trọng. Như vậy nếu mình luôn nghe thinh trần với cái tâm trong sáng, mới mẻ, tinh khôi chưa xen gì trong đó thì bảo đảm nghe cái gì cũng tỏ ngộ được hết và nghe được những điều chưa từng nghe. Còn nghe với cái tâm quá cũ, chứa những cái khuôn trong đầu thì không nghe được những điều vi diệu. Vừa nghe gọi liền dạ, lúc đó tâm không có vấn đề gì thì rõ ràng nó có mặt đó chứ đâu, không có gì khác hết.
Bây giờ trở lại chỗ tu của mình hiện tại. Hoà Thượng dạy biết vọng là sao? Tức là có niệm khởi lên mình liền biết có niệm, niệm qua biết nó qua rồi, tức là phải luôn sống với tánh biết hằng có mặt. Bởi tánh biết hằng có mặt, nó có trước niệm, nên hễ khởi niệm gì liền biết ngay, không cần suy nghĩ cũng biết. Như vậy tánh biết có đồng với niệm hay không? Nếu tánh biết đồng với niệm thì làm sao nó biết được niệm? Nên thấy niệm khởi nhớ lại cái hay biết, đó là giác. Còn hễ theo tướng niệm thì quên mất tánh biết, đó là mê. Cái chỗ phải nhớ thì chúng ta lại quên, cái chỗ phải quên thì lại nhớ. Nhận ra được điều nầy mới thấy chỗ đang tu của mình rất đúng với lời Phật dạy. Chưa nhận được điều nầy thì còn nghi ngờ.
Tổ Lâm Tế có dạy: “Bên ngoài không pháp (tức không có pháp thật), bên trong cũng không thể được (là vì tâm hư vọng). Các ông chớ chụp lấy lời nói trong miệng của sơn tăng này mà lo hiểu, hãy thôi dứt, vô sự đi. (Cứ chụp lấy lời nói đó cũng chỉ là tiếng vọng thôi). Bây giờ đây, cái đã dấy lên chớ có tiếp tục, còn cái chưa dấy thì đừng cho dấy còn hơn là các ông đi hành cước 10 năm. ” Thật là đơn giản ! Tổ Lâm Tế là Tổ một tông lớn nổi tiếng mà ngài dạy rất rõ ràng như vậy thì mình cũng thấy chỗ tu rõ ràng thôi, nghĩa là ngay niệm khởi không theo là sống thiền rồi. Đường lối tu đơn giản vậy, nhưng vì mình hay quên.
Bây giờ muốn ứng dụng tu phải làm sao đây? Đó mới là chỗ thực tế. Tức là trong tâm phải luôn luôn ý thức được mọi cử chỉ, mọi hành động. Đó là sống trở về ngay cái thực tại đang là. Thí dụ mình giơ cái tay thì mình ý thức được tâm mình đang có mặt nơi cử động đó. Rồi mình cười cũng ý thức được tâm đang có mặt nơi cái cười đó. Giở chân lên cũng ý thức được tâm đang có mặt nơi đó… Như vậy là lúc nào tâm cũng có mặt nơi thân, tức đang là chứ gì nữa ! Đó là sống thiền, chỉ bấy nhiêu đó thôi, không cần cầu gì khác.
Trong văn hệ A Hàm, kinh Vị Tằng Hữu tức là pháp chưa từng có, Đức Phật bảo ngài A Nan: “Này A Nan, Như Lai biết sự sanh khởi của cảm thọ, biết trụ, biết diệt, luôn luôn biết, chẳng có lúc nào chẳng biết”. Tức là khi cảm thọ sanh ra liền biết, nó đang trụ cũng biết, nó đang diệt cũng biết, luôn luôn biết như vậy không lúc nào không biết.
“Này A Nan, Như Lai biết sự sanh của tư tưởng, biết tư tưởng trụ, biết tư tưởng diệt, luôn luôn biết, không lúc nào chẳng biết. ” Tức là Như Lai luôn biết sự sanh diệt của nội tâm, không có lúc nào không biết hết. Như vậy nghĩa là hằng biết, hằng biết là hằng hữu không gián đoạn chớ gì. Mình bây giờ cũng vậy đó, chỉ cần lúc nào cũng BIẾT là gặp Như Lai liền. Đó là chỗ sống, chỗ tu. Có nhiều người học giáo lý thật cao siêu mà không ngờ cái chân thật ngay chỗ sống đó. Một cánh cửa đập mình cũng biết, vậy là mình đâu có mê, còn nghe cánh cửa đập liền nổi tức đó là mê rồi.
Trong sách thiền của Nhật Bản có câu chuyện một hành giả tên Tenno cho rằng công phu của mình đã đủ nên từ giã thầy xuống núi. Khi đến thất thầy để từ giã, bất chợt thầy hỏi:
- Lúc nảy vào đây ông để cây dù bên trái hay bên phải đôi dép?
Bị hỏi bất ngờ Tenno bối rối, suy nghĩ để nhớ lại thì vị thầy bắt ở lại không cho xuống núi.
Lần thứ hai. Mấy năm sau Tenno nghĩ mình đã đủ sức hằng tỉnh giác rồi nên tới từ giã thầy. Vị thầy bất chợt hỏi:
- Khi vào đây ông bỏ dép chân nào trước?
Bị hỏi bất ngờ Tenno không nhớ, phải suy nghĩ nên bị thầy bắt ở lại thêm nữa. Qua thời gian mấy năm ông thầy không dạy thêm gì ngoài câu chuyện dù và dép đó.
Một hôm Tenno tự tin với công phu Thiền miên mật của mình rồi, nên đến xin thầy xuống núi lần nữa. Khi đến từ giã, lúc đó trời đang có gió, ông thầy bảo :
- Con đến đóng cửa lại cho thầy.
Nghe nói vậy trong bụng mừng thầm, nghĩ thầy đã chấp nhận cho mình đi rồi, lại đóng cửa hơi mạnh tay, vang ra tiếng động, vị thầy bắt ở lại thêm nữa. Sau nầy Tenno trở thành vị Thiền sư nổi tiếng của Nhật Bản.
Như vậy học thiền không thể học suông được. Đây rõ ràng Thiền sư muốn đánh thức mình phải luôn tỉnh giác trong mọi cử chỉ và hành động, lúc nào cũng ý thức sự có mặt của cái tâm sáng suốt trong đó. Được như vậy thì lúc nào mình cũng sáng. Đến khi tâm tụ về một điểm gọi là điểm “đang là” thì ý Tổ sư “bật mí” liền. Còn bây giờ tâm mình chưa trụ được mà cứ lo đi tìm thì không bao giờ thấy được vì càng tìm thì càng xa. Càng suy nghĩ càng không trúng. Chính chỗ này là trà Triệu Châu.
Có ông tăng đến hỏi đạo, ngài hỏi:
- Ông đã từng đến đây chưa?
- Chưa từng đến.
- Uống trà đi !
Một vị tăng khác đến, ngài cũng hỏi:
Ông đã từng đến đây chưa?
- Đã từng đến.
- Uống trà đi !
Ông viện chủ thắc mắc, hỏi:
- Tại sao người đã từng đến hay chưa từng đến Hoà Thượng đều mời uống trà?
Ngài bảo:
- Viện chủ !
- Dạ.
- Uống trà đi !
Ngài hỏi ông tăng, ông đã từng đến đây chưa? Ông tăng trả lời, chưa từng đến. Nếu chưa từng đến vậy chớ ai đang đứng đối diện đây? Tôi hỏi, ông đáp rõ ràng đây mà bảo là chưa từng đến ! Vậy là ông đang trở về quá khứ chớ đâu có ở đây, tức là ông quên mất thựïc tại rồi. Đây là ngài đánh thức cho ông tăng nhớ lại cái hiện tiền đó. Ngài hỏi ông tăng khác đã từng đến chưa? Đáp đã từng đến. Đã đến rồi, tức là ông đang có mặt đây rồi thì còn muốn thêm gì nữa. Cho nên bảo: uống trà đi! Còn ông viện chủ thì sao?. Đến hay chưa là chuyện của hai ông kia, đâu dính dáng gì đến ông mà xen vào. Vì thế ngài gọi ông: “Viện chủ !” –“Dạ!” Dạ tức là ông đang có mặt ngay chỗ nầy đây mà ông không nhớ, lo nhớ chuyện của hai người kia. Nên ngài cũng bảo uống trà đi ! Đó là ngài muốn đánh thức mình sống trở lại ngay cái hiện hữu đây. Bây giờ quý vị đang ngồi đây cũng phải có mặt ở đây. Đó là đang sống thiền. Như vậy Nhớ là nhớ lại chỗ đang sống sáng ngời đó thôi, rất đơn giản. Quý vị thấy tu dễ không? Quá đơn giản, không rời khỏi mình một bước, chỉ là ở chỗ nào có mặt ngay chỗ đó là đủ rồi.
Có một chuyện khác của ông tăng đứng hầu ngài Huyền Sa. Ngài Huyền Sa chỉ một chấm màu trắng ở trên nền đất, hỏi:
- Ông thấy chăng?
- Dạ thấy.
Ngài im lặng một hồi rồi hỏi:
- Ông thật thấy chăng?
- Dạ thấy rõ ràng.
Ngài hỏi thêm lần thứ ba nữa, ông tăng cũng đáp “Dạ thấy. ” Lúc đó ngài mới bảo: “Ông cũng thấy, ta cũng thấy, tại sao lại bảo là không khế hội?” Tức là tại sao bảo ta sáng còn ông không sáng. Rất thực tế như vậy đó. Điểm trắng kia bây giờ dụ như cành hoa nầy, quí vị thấy không? Quí vị thấy, tôi cũng thấy. Vậy thì tại sao có người sáng, người không sáng? Có gì đâu, tại quí vị thấy cành hoa chỉ nhớ cành hoa thôi, cũng như ông tăng kia thấy điểm trắng chỉ nhớ có điểm trắng thôi mà quên mất cái đang thấy, tức là quên mất sự có mặt của mình nên gọi là mê. Bây giờ thấy cành hoa liền nhớ trở lại cái gì đang soi sáng cành hoa đó, nhớ chỗ đó là thấy được ngài Huyền Sa. Chẳng những thấy ngài Huyền Sa mà còn thấy cả chư Tổ và mười phương chư Phật trong chỗ đó nữa. Tu chỉ cần chút xíu đó thôi. Trong nhà thiền nói đông nói tây cũng nhằm chỗ đó. Mã Tổ nhéo mũi Bá Trượng cũng nhằm chỉ chỗ đó. Hai thầy trò đang đi dạo, thấy bầy vịt trời đang bay qua, Mã Tổ hỏi:
- Đó là cái gì?
Bá Trượng đáp:
- Bầy vịt trời.
Đợi bầy vịt trời bay qua, ngài hỏi:
- Bay đi đâu?
Bá Trượng đáp:
- Bay qua rồi.
Mã Tổ nhéo lỗ mũi thật mạnh, Bá Trượng la lên. Mã Tổ liền bảo:
- Sao không nói bay qua đi?
Ngay đó Bá Trượng liền tỏ ngộ. Rõ ràng thấy bầy vịt trời thì cùng thấy, nhưng Bá Trượng khi thấy chỉ nhớ bầy vịt trời, nên nó bay qua rồi ngài cũng nhớ theo nó, quên mất mình đang đứng đây. Mã Tổ nhéo lỗ mũi, Bá Trượng la lên. Liền đó Tổ hỏi: “Sao không nói bay qua đi?” Nếu bay qua mất thì ai còn kêu đau đây? Đó là Tổ đánh thức cho mình sống trở lại chỗ chân thật của mình. Chỗ đó chỉ cần nhớ lại là xong. Nói xa xôi cho dài dòng, bây giờ trở về thực tế, cái gì đang ngồi đây, cái gì đang nghe đó?ù Đó là cái thực tế hiện tiền nơi mỗi người, hễ nghe chuyện mà chạy theo chuyện là quên mất chính mình. Nên tu chỉ cần tóm lại bằng một chữ NHỚ mà thôi. Nghĩa là cái mình hằng nhớ thì bây giờ phải quên, cái mình hằng quên thì bây giờ phải nhớ, chỉ bấy nhiêu đó làm kiếp nầy qua kiếp khác cho xong, bảo đảm không sai. Còn học nhiều mà nhớ theo cái học tức là quên mất mình rồi.
Tóm lại, tu có nhiều cách, nói theo chữ nghĩa thì có tám mươi bốn nghìn pháp môn, nhớ không hết, nhưng tóm gọn chỉ một chữ NHỚ là đủ. Vì có pháp môn nào ngoài chữ Nhớ đâu. Một chữ NHỚ gồm thâu tất cả. Quý vị niệm Phật cũng phải nhớ, ngồi niệm Phật mà nhớ chuyện đâu đâu thì làm sao nhất tâm bất loạn cho Phật đến rước được. Còn niệm chú cũng phải nhớ chứ ngồi niệm chú đây mà nhớ chuyện lung tung thì đâu có thành công. Pháp tu Tứ niệm xứ cũng vậy, quán niệm xứ nào cũng phải luôn nhớ trở lại. Tập sống trở lại tức là luôn luôn tiếp xúc với tất cả, mà tiếp xúc với sự có mặt của tâm thì lúc nào cũng sáng hết. Nói chuyện với nhau phải ý thức được sự có mặt của mình ngay đó. Có khi nói chuyện với nhau mà trong đầu nghĩ chỗ khác, đó là không tiếp xúc được với nhau. Cũng vậy, đang đi mà trong đầu lại nghĩ đến chuyện khác, như vậy là không tiếp xúc được với chỗ đó. Rất dễ, mà cũng dễ quên nên nói một bài tâm kinh học hoài không thuộc. Tâm kinh nói rằng: “Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành sâu Bát-Nhã ba-la-mật-đa thì thấy năm uẩn đều không liền qua hết thảy khổ ách. ” Nhưng đang lúc đọc thì nhớ, ra rồi liền quên cho nên vẫn khổ ách như thường, chỉ vì quên thôi. Phải sống trở lại chỗ chân thật nơi mình thì tu mới dễ.
Trong nhà thiền có câu chuyện Thiền sư Hoằng Trí lúc theo Hoà Thượng Đơn Hà Tử Thuần, nhân một hôm đang đứng bàn luận với một vị tăng về công án thiền, trong lúc hứng quá ngài cười to lên. Hoà Thượng Đơn Hà nghe liền quở: “Một tiếng cười của ông làm mất đi bao nhiêu việc tốt rồi. Ông không thấy người xưa nói rằng: tạm thời chẳng còn, đồng như người chết sao?” Nghĩa là ngay đây mà vắng mặt thì giống như người chết thôi, mà ông còn cười nữa. Cười to là hứng, hứng tức là ngay đó quên mất chính mình rồi. Ngài Hoằng Trí nghe vậy liền đảnh lễ ghi nhận. Thời gian sau ngài nói rằng: “Dù cho ở trong thất tối một mình cũng chưa từng dám sơ xuất ”. Tức là lúc nào cũng tu miên mật. Quý vị ngay đây nên bắt đầu ứng dụng trở lại, lúc nào cũng thường nhớ, như vậy sẽ gần với Đạo. Đã bao nhiêu kiếp mình nhớ những chuyện bên ngoài quá nhiều rồi, bây giờ quên cũng đâu có uổng, sao lại còn tiếc. Đừng tiếc nữa, những thứ nhớ đó bây giờ quên đi, còn cái đã quên thì hãy nhớ lại, đó là sống trở lại với thiền, với cái chân thật. Chánh pháp là đó.
Để kết thúc lại, không gì hơn là chúc quí vị thường NHỚ, mà muốn thường nhớ thì phải dám quên. Nhất là quên cái gì? Quên cái TA này. Dám quên cái TA này thì mới thường nhớ được. Còn không dám quên cái TA này thì sẽ không thường NHỚ. Mong tất cả quí vị thành tựu cái thường NHỚ đó là gặp lại Như Lai, gặp chư Tổ thôi.
OÁN HẬN NÊN GIẢI KHÔNG NÊN KẾT
10:20:00 AM
No comments
Hôm nay là ngày nghỉ, quý Phật tử trong đạo tràng thay vì đi chơi hay ở nhà dưỡng sức, ngược lại quý vị dành hết thời gian đến thiền viện đông đủ vừa tu học, nghe pháp để huân tập thêm chủng tử giải thoát, đó là điều rất quí. Quý thầy nhắc nhở thêm một đề tài rất gần gũi với việc tu tập trong cuộc sống chúng ta, đó là “Oán Hận Nên Giải Không Nên Kết”, tức là hận thù nên mở không nên buộc.
Trước tiên, dẫn câu kinh Pháp Cú, Phật dạy:
Hận thù diệt hận thù
Đời này không có được.
Không hận, diệt hận thù
Là định luật ngàn thu.
Đời này không có được.
Không hận, diệt hận thù
Là định luật ngàn thu.
Tức là đem hận thù diệt hận thù hay lấy oán trả oán thì oán càng thêm. Còn không đem oán trả oán thì đó mới là định luật ngàn thu. Bài kệ này có liên quan đến tích chuyện, chắc quí Phật tử cũng có nghe.
Ngày xưa có một đứa con trai, cha chết sớm nên luôn hiếu thảo chăm sóc mẹ. Bà mẹ thương con nhọc nhằn định cưới vợ cho con. Nhưng anh từ chối, nói: “Con nguyện ở vậy để chăm sóc mẹ già, nếu có thêm vợ thì tình thương này bị chia sớt”. Người mẹ thấy con mình hiếu thảo nên thương nói tới nói lui hoài, cuối cùng anh cũng bằng lòng.
Bà cưới vợ cho con trai, nhưng cô nàyï không sinh con được. Vì nôn nóng bà muốn cưới vợ nhỏ cho con, nhưng anh từ chối không chịu nên bà nói đi nói lại nhiều lần, cô vợ nghe được và nghĩ: “Trước sau gì mẹ cũng cưới thêm vợ nhỏ, nếu bây giờ mình chủ động cưới vợ nhỏ cho chồng thì hay hơn”. Cô mới tìm trong xóm và cưới về một cô vợ trẻ cho chồng, nhưng lòng rất lo sợ.
Cô nghĩ: Về sau, nếu cô vợ nhỏ có con thì quyền trong nhà nắm hết, mình sẽ mất quyền hành. Nghĩ thế rồi, cô ân cần dặn vợ nhỏ: “Khi nào em có thai thì nói cho chị biết trước để chị mừng”. Cô vợ sau còn trẻ thật thà khi hay mình có thai liền báo ngay cho vợ cả. Vợ cả lén bỏ thuốc phá thai vào thức ăn khiến vợ nhỏ bị hư thai.
Hai lần như vậy. Mấy chị em bạn của cô vợ sau nghi ngờ và tìm hỏi rồi trách cô vợ nhỏ thật thà quá. Lại dặn: Lần sau đừng nên cho cô kia biết.
Đến lần thứ ba mang thai, cô không cho vợ cả biết. Nhưng cái thai dần dần lớn, cô vợ cả thấy tức mình quyết tìm cách phá thai. Vì cái thai quá lớn làm ảnh hưởng đến người mẹ, khiến cô vợ sau chết luôn. Trước khi chết, cô này biết nên oán hận, thề kiếp sau sẽ làm Dạ xoa ăn thịt kẻ thù rửa hận.
Cô chết đầu thai làm con mèo trong nhà đó. Còn người vợ cả bị anh chồng biết được chưởi mắng, nên giận tức thành bệnh rồi cũng chết luôn. Người vợ cả chết rồi sanh làm con gà mái cũng trong nhà đó. Cứ mỗi lần con gà mái đẻ trứng thì bị con mèo ăn hết trứng. Đến lần thứ ba thì ăn luôn con gà mái.
Đây là nhân quả, là oan trái. Con gà mẹ này trước khi chết cũng oán hận thề hẹn kiếp sau sẽ đòi nợ. Gà mái này chết sanh làm con beo, còn con mèo không bao lâu cũng chết sanh làm con nai cái. Mỗi lần con nai cái sanh con thì bị con beo ăn thịt. Đến lần thứ ba thì ăn luôn con nai mẹ.
Bấy giờ con nai mẹ cũng thề kiếp sau sẽ trả thù nữa. Nai mẹ chết sanh làm Dạ xoa, còn con Beo chết sanh làm cô gái thuộc dòng tôn quí ở thành Xá Vệ gần tinh xá Kỳ Hoàn.
Khi cô gái lớn lên lập gia đình sanh được đứa con đầu lòng thì Dạ xoa tìm đến. Do có thần thông nên nó biến làm một người chị em bạn giả vờ đến thăm hỏi rồi bảo đưa đứa bé cho nó ẵm bồng và bắt ăn luôn.
Lần thứ hai cũng vậy, đến lần thứ ba thì cô này biết nên bàn với chồng định trốn về nhà cha mẹ mình ở.
Lần này nữ Dạ xoa lại bị Tỳ Sa Môn Thiên Vương, một trong Tứ Thiên Vương bắt đi làm việc. Khi xong việc về mới biết cô kia đã sanh xong và trốn đi nơi khác.
Nó vội vã đi tìm kiếm. Lúc đó nhằm ngày đặt tên cho đứa bé. Hai vợ chồng thấy con cũng lớn nên bàn nhau dắt về nhà cũ, nghĩ đã thoát nạn rồi. Khi đi ngang qua hồ nơi tinh xá Kỳ Hoàn, khí trời nóng nực cô mới trao con cho chồng rồi xuống tắm. Tắm xong, cô lên ẵm con thay để chồng xuống tắm. Bỗng cô thấy nữ Dạ xoa chạy tới, hoảng hốt kêu chồng cứu giúp nhưng không kịp.
Cô bồng đứa bé chạy thẳng vào tinh xá Kỳ Hoàn. Lúc đó Phật đang thuyết pháp. Cô liền đặt đứa bé xuống chân Phật xin Ngài cứu cho. Vừa lúc, nữ Dạ xoa chạy tới cổng tinh xá nhưng không vào được. Quý vị biết sao không ?
Bởi vì đây là nơi Phật ở, bên ngoài có chư thiên, hộ pháp giữ gìn nên chư hộ pháp chận lại không cho vào. Đức Phật biết nên bảo ngài A Nan ra gọi nó vào.
Khi ấy, đức Phật mới thuật lại tiền kiếp oan trái nhiều đời cho cả hai và hội chúng nghe. Nhờ vậy, hai người đều nhớ lại. Xong, Phật dạy: “nếu các ngươi không gặp được Như Lai thì oan trái này sẽ buộc nhau mãi mãi, ân oán kết qua kết lại, đời này đời kia cho hết kiếp địa cầu này cũng không xong. Các ngươi chớ lấy oán trả oán, chỉ có tình thương mới dập tắt hận thù thôi”. Rồi Đức Phật mới nói bài kệ trên.
Nghe Phật nói kệ xong, Dạ xoa đắc quả Tu-đà-hoàn. Sau khi giải tỏa được oán hờn của hai bên, đức Phật bảo cô gái dẫn nữ Dạ xoa về nhà chăm lo cho ăn uống. Còn nữ Dạ xoa cũng giúp vợ chồng cô bằng cách dự đoán trước mùa màng đắc thất, nên vợ chồng cô thường được trúng mùa. Những người hàng xóm thấy vậy cũng đến nhờ mách bảo rồi cúng dường Dạ xoa. Vậy là oan trái được giải.
Đó là một bài học cho chúng ta thấy rõ, nếu oan trái kết hoài thì đời này đời khác không bao giờ hết, càng ngày càng sâu. Nếu chúng ta gặp phải oan trái như thế thì biết đây không phải là chuyện ngẫu nhiên đến với mình mà do có oan khiên từ đời trước. Vậy phải làm sao?
Phải khéo mở không nên kết thêm. Vì là người phật tử học Phật, phải nhớ rõ tất cả mọi người sống trên đời này đều sống trong nhân quả, không ai ra khỏi nhân quả hết. Cuộc sống của mỗi người đều do nhân quả chứ không phải chuyện ngẫu nhiên. Cho nên người biết, hiểu thì thấy nhẹ nhàng nếu không biết thì cứ lo trách trời trách Phật và càng kết thêm oán hờn thì đó là điều không tốt.
Ở đây nhờ có ánh sáng của Phật soi đến nên giải tỏa những nỗi oan kết nhiều đời, giúp đương sự được an vui trong chánh pháp.
Sau này, đời Thanh ở Trung Hoa cũng có câu chuyện tương tự.
Tại tỉnh An Huy– Trung Quốc, có vị thương nhân tên Trình Bá Lân, sống ở Dương Châu thuộc miền Giang Tô. Ông kính tin Bồ-tát Quán Thế Âm nên thường tụng niệm kinh Phổ Môn và xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm.
Vào mùa hạ năm Ất Dậu, loạn binh kéo qua thành Dương Châu. Ông sợ nên cầu nguyện Bồ-tát gia trì. Đêm đó, ông nằm mộng thấy Bồ-tát bảo cả nhà con có 17 người thì 16 người kia đều khỏi nạn, chỉ riêng mình con là không tránh khỏi nạn này. Sau khi ông tỉnh dậy nhớ lời Bồ-tát nên rất lo sợ nghĩ trong nhà chỉ có ông niệm Phật tại sao lại không tránh khỏi nạn? Vì thế ông hết lòng hướng về Bồ-tát cầu nguyện.
Đêm sau, ông lại nằm mộng thấy Bồ-tát nói đời trước con đãù từng chém 26 đao làm chết một người, nên đời nay người đó là Vương Ma Tử sẽ đến đòi nợ, con phải trả nợ đó.
Con hãy khéo dặn 16 người trong nhà vào ngày đó phải dời qua bên chái thuộc phía Đông căn nhà. Còn con ở ngay nhà giữa rồi dọn sẵn cơm canh như đãi tiệc ngồi chờ đó sẵn, chớ đừng làm liên lụy đến những người trong gia đình. Khi tỉnh dậy ông làm theo lời Bồ-tát.
Đúng ngày đó, quả nhiên có một tên lính ở trong nhóm loạn binh đi vào nhà ông. Ông lịch sự đón tiếp, mời vào nhà ăn uống như có tiệc vậy. Kế tiếp mới hỏi: Ngài có phải tên Vương Ma Tử không?
Anh kia ngạc nhiên hỏi: - Vốn chưa từng quen biết, sao lại biết tên tôi?
Ông nói: - Đời trước tôi thiếu nợ ngài 26 đao nên giờ cũng cần đền trả. Ngài hãy giết tôi, nhưng xin hãy tha cho mấy người trong gia đình.
Tên loạn binh này làm lạ hỏi ra mới biết ông được Bồ-tát báo mộng cho biết như vậy.
Tên loạn binh nghe xong mới cảm động tự than: Đời trước ngươi chém ta 26 đao nên bây giờ ta đến để đòi nợ ngươi, nhưng nếu bây giờ ta giết ngươi thì đời sau ngươi lại đến đòi nợ ta nữa. Cứ thế oan oan tương báo hoài biết tới khi nào mới xong. Thôi thì ngay đây, chúng ta giải tỏa hết ân oán nợ nần. Nói xong, tên lính trở ngược sống đao nhấp nhấp 26 cái vào người ông Trình Bá Lân như trả xong thù rồi thôi. Thế là hai người tha thứ cho nhau, oan trái nhiều đời giải tỏa. Đó là điểm đáng học. Nghĩa là oan trái nên cởi không nên cột.
Người tu hiểu lý nhân quả biết rõ không có chuyện gì ngẫu nhiên nên bình tỉnh vui vẻ trả nợ thì nợ càng mau hết, còn không khéo kết sâu thêm thì nợ càng dày.
Người phật tử hiểu đạo khéo ứng dụng Phật pháp vào cuộc sống, đừng kết thêm oan gia, vì oan gia càng kết thì càng khổ thêm, phải khéo tránh.
Hòa thượng Hư Vân có kể câu chuyện về gia đình họ Đinh, chính Ngài là người giải tỏa oán kết. Kể rằng:
Có gia đình họ Đinh ở Đặng Xuyên, ông này từng làm chức Hiếu Liêm đời Thanh. Ông có đứa con gái 18 tuổi. Một hôm, cô tự lăn ra chết giấc, khi tỉnh dậy cô bỗng nhiên đổi giọng nói tiếng đàn ông và hung tợn chỉ mặt cha mắng: “Cái thằng họ Đinh kia, ta là Đổng Chiêm Bưu đây! Trước kia ở Đại Lý Tây Xuyên, mi ỷ quyền cậy thế, vu oan cho ta làm phỉ (làm giặc) hại ta mất mạng, mi còn nhớ không? Ta đã đầu cáo việc này với Diêm Vương và đã được phép theo báo mối thù suốt 8 năm qua”. Nói xong, cô cầm dao rượt cha. Ông cha sợ quá trốn đi nơi khác không dám ở nhà. Mà con quỉ này ngày nào cũng đến nhập vào cô gái, mỗi lần như vậy cô rất hung tợn, làm cả nhà đều sợ. Những người trong xóm tụ lại xem rất đông.
Hôm ấy, hai thầy Tố Cầm và Tố Trị là đệ tử ngài Hư Vân nhận lệnh xuống núi. Thấy vậy hai thầy dừng lại, đem lòng từ bi khuyên oan hồn kia thôi hãy buông tha đừng làm như thế, khiến cho địa phương không được yên ổn.
Con quỷ bất bình nói: “Các ông là người xuất gia đừng có xía vào chuyện này. Các ông cứ lo chuyện xuất gia đi”.
Hai thầy này mới giải thích: “Đành rằng ông và chúng tôi không liên quan gì hết. Nhưng sư phụ tôi có dạy rằng oán thù nên giải chứ không có nên buộc. Thù hận càng buộc thì nó càng sâu, bao giờ mới hết được”.
Con quỷ hỏi: - Sư phụ của ông là ai?
Hai thầy đáp: - Hòa thượng Hư Vân, Trụ trì chùa Chúc Thánh trên núi.
Con quỷ nói: - Tôi có nghe danh Ngài nhưng chưa gặp. Không biết Ngài có chịu truyền giới cho tôi không ?
Hai thầy nói: - Hòa thượng là bậc đại từ đại bi sẵn lòng độ cho tất cả chúng sanh đau khổ, lẽ nào lại không chịu.
Hai thầy khuyên gia đình họ Đinh nên xuất tiền làm phước để cầu siêu cho oan hồn này được siêu thoát.
Con quỷ căm giận không chịu. Lại nói: - Hắn là người thương thiên bại lý, tôi không cần tiền của hắn.
Hai vị mới nói: - Vậy yêu cầu dân địa phương bỏ tiền ra làm phước để cầu cho hồn ông được sớm siêu thoát được không ?
Con quỉ vẫn căm giận nói: - Thù này không trả thì oán hận không nguôi được. Đã có thù thì phải báo cớ sao phải thôi! Sau đó lại nói: - Thôi! để tôi về thỉnh ý
Diêm Vương xem sao! Ngày mai hai thầy hãy đến đây đợi tôi. Nói xong con quỷ thoát xác đi mất.
Lúc đó cô gái tỉnh dậy, không biết gì hết, thấy người lạ bèn ngại ngùng đi vào trong.
Hôm sau, con quỷ đến rất sớm, thấy hai vị tăng này đến trễ nó trách sao thất tín. Hai thầy giải thích là còn trở về trình lên sư phụ. Ngài bảo là việc tốt cho phép chúng tôi đi đến báo cho ông.
Hai thầy đích thân đưa quỉ về chùa cùng với 20 người địa phương đi theo.
Hòa thượng nghe kể hết đầu đuôi sự việc, Ngài mới lên điện thắp hương đảnh lễ rồi truyền giới cho nó. Từ đó, mọi việc được an ổn, cô gái không còn bệnh.
Đó cũng nhờ Phật pháp nên giải được oan trái. Đúng là nhờ có duyên lành nên được cởi mở. Còn không thì oan trái đó cứ kết qua kết lại hoài biết bao giờ mới xong.
Đó cũng nhờ Phật pháp nên giải được oan trái. Đúng là nhờ có duyên lành nên được cởi mở. Còn không thì oan trái đó cứ kết qua kết lại hoài biết bao giờ mới xong.
Trong kinh Pháp Cú Phật dạy:
Người ngu si thiếu trí,
Tự ngã thành kẻ thù,
Làm các nghiệp không thiện,
Phải chịu quả đắng cay.
Tự ngã thành kẻ thù,
Làm các nghiệp không thiện,
Phải chịu quả đắng cay.
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
Biến tự ngã mình làm kẻ thù của mình là sao? Là tự mình làm nghiệp không thiện để rồi chịu quả khổ, quả dắng cay.
Tự mình đem đau khổ lại cho mình chứ không phải người ngoài đem đau khổ lại cho mình. Nghĩa là tạo nghiệp xấu, gây đau khổ cho người thì quả đau khổ đó sẽ trả lại cho mình. Như vậy không lo tự trách mình lo trách ai.
Quí Phật tử xét kỹ xem ai đã đem quả báo xấu ác đến cho mình? Chính mình tự tạo thôi. Mình tạo cái nhân xấu trước rồi quả xấu đó mới đến với mình. Như vậy mới nói chính mình làm khổ mình mà lại không hay. Đã hiểu như vậy rồi thì phải khéo sống để tránh nhân quả xấu. Tránh đau khổ cho mình cũng là thấy được oan trái rất là đáng sợ.
Nên người khéo tu thì không kết oan trái thêm với người mà phải cởi mở. Phải tập sống có tâm từ, bớt gây hờn, gây hận, cũng không đem oán hận đến cho người. Đây Phật dạy rất rõ, chính mình tự biến mình thành kẻ thù của mình chứ không ai khác.
Ngài Đạt Lai Lạt Ma cũng có dạy cách giải tỏa những oán hờn: “Đây là cách để biết được cái kẻ thù đích thực đang nằm trong lòng chúng ta, đâu phải ở bên ngoài. Đừng lo tìm bên ngoài mà phải soi lại để thấy rõ nó nằm ngay trong lòng mình đó. Đó chính là tính ích kỷ, lòng quyến luyến và sự tức giận của chúng ta”.
Nó chính là kẻ thù trong lòng mình, gây đau khổ cho mình, vậy mà chỉ lo nhìn bên ngoài. Ngài bảo chúng ta nên biết: “khả năng kẻ thù gây ra cho chúng ta rất là hạn hẹp. Nếu người nào đó thách thức kích động chúng ta thì chúng ta nên kiềm chế lại không tức giận, tập lâu rồi thuần thục sẽ không còn tức giận, dù người đó có làm gì thì cũng không thể gây hại cho chúng ta.
Trái lại, khi họ gây những cảm giác vô cùng tức giận, hay chính lòng ham muốn của ta xuất hiện thì chúng tạo nên sự rối loạn trong tâm hồn chúng ta. Tâm khởi lên sự tức giận nào đó thì ta sẽ cảm thấy bất an trong tâm mình. Ngay lúc đó chúng phá hoại sự an lạc trong tâm, cũng như tạo nên sự buồn phiền hủy diệt công đức tu hành của chúng ta”.
Rõ ràng kẻ thù ở ngay trong lòng mình chứ không ở đâu xa. Nghĩa là khi tức giận không kiềm chế được làm hành động đáp trả lại thì chính khi đó ta đã tự hủy diệt công đức tu hành của mình. Như tu một tháng mà khi nóng giận chưởi người ta chừng một tiếng đồng hồ thì sao? Thì công phu một tháng sẽ tiêu hết phải không?
Rõ ràng nếu làm như vậy thì đúng là mình hại mình. Mình hại mình trước chứ đâu có ai hại mình. Và mỗi khi mình tức giận ai đó thì mình cứ tưởng người ta khổ chứ sự thật thì mình khổ trước. Khi mình tức giận thì trong tâm bứt rứt, sôi sục tự đốt mình, là mình khổ trước người ta rồi.
Thấy được điều đó thì chúng ta phải giải tỏa chứ không kết thêm, phải biết kiềm chế. Cho nên, mỗi người phải tu tập cái tâm, thấy rõ oán hận là khổ không chút nào vui hết.
Cho nên, đừng nghĩ rằng mình giận ai đó là giận cả đời, nhiều khi chúng ta hiểu lầm nói giận ai đó là giận cả đời không quên, tưởng đâu như vậy là hay, nhưng đâu phải vậy.
Nếu mà giận cả đời là khổ cả đời luôn. Lâu lâu gặp người đó thì sao? Mình khổ trước thôi.
Quí vị nghĩ, sống trên đời này mà giận cả đời chừng 20 người thì sao? Thì mình ít khi cười được lắm! Lâu lâu ngồi nhớ lại chuyện giận hờn thì làm sao cười được? Rồi lâu lâu nghĩ đến anh kia thật là đáng tức, chị kia thật đáng hận... Vậy là cả ngày sẽ không có nụ cười.
Nên Phật dạy “Oán tắng hội khổ”. Người không ưa mà cứ gặp hoài thì khổ. Chúng ta phải tu tập tâm xả để cởi mở bớt thì đó là cái hạnh đưa đến an vui. Còn kết hờn kết oán thì chỉ làm khổ, khổ mình mà khổ cho người nữa. Quý phật tử nghĩ lại xem, mình sống trên đời này được bao lâu? Năm bảy chục năm là dài.
Chư Phật lại dạy đời người chỉ sống trong hơi thở, mà đã sống trong hơi thở thì hờn giận làm cái gì? Ai mà luôn nhớ mạng sống của mình trong hơi thở thì còn hờn giận làm gì! Bởi ai cũng nghĩ mình sống năm bảy chục năm nên mới hờn cho đã giận. Còn nghĩ mạng sống của mình chỉ trong hơi thở thì còn thời gian đâu mà giận. Giận nhiều hay ít rồi cũng chết, vậy giận làm gì? Nếu luôn nhớ nghĩ như vậy thì cởi mở, sanh thêm lòng bi mẫn với nhau, thôi gây đau khổ thêm cho nhau.
Đây không phải nói trên lý thuyết, mạng sống con người trong hơi thở là lẽ thật. Vì chúng ta nhìn theo con mắt chúng sanh nên thấy nó lâu dài, nếu xét kỹ thì mạng sống đúng là chỉ trong hơi thở. Chúng ta đang sống tạm trong hơi thở, nếu hít vô thở ra mà không hít vô nữa thì sao? Thì chết liền. Rõ ràng là sống trong hơi thở chứ gì.
Nếu hơi thở ra mà không hít vào là chết. Như thế mới thấy cuộc sống con người rất mỏng manh, có gì đâu để kết oán, kết hờn với nhau. Hơn nữa, thế gian này đã quá nhiều đau khổ rồi còn đem đau khổ đến cho nhau chi nữa. Nên giờ đây phải tập sống với tâm xả, xả bớt và xả dứt “cái tôi” này, đó là cái căn bản. Tham sân si đều từ “cái tôi” đó, xả là phải xả cái gốc chứ còn xả cái này cái kia mà không xả “cái tôi” cũng là chưa xả hết đâu!
Bởi vì tham là tham cho ai? Còn sân là tại sao sân? Là tại đụng tới tôi. Nếu không có tôi thì ai sân? Còn si thì tại sao si? Tại mê cái tôi này, tưởng đâu nó là mình thì đó là si. Mình có phải cái thân này không, phải cái tâm này không? Quí vị kiểm kỹ xem thân này là cái gì? Do đất, nước, gió, lửa hợp thành. Mà đất là cái gì? Là thứ vô tri đâu có biết gì! Nước có hiểu biết gì? Gió có hiểu biết gì? Lửa có hiểu biết gì? Thế mà cho mình là mấy thứ vô tri như vậy nên si là ở chỗ đó.
Nếu nói theo hình tướng thì do da, gân, thịt, xương, máu huyết tụ lại thành thôi chứ có gì đâu! Đúng ra nói đây là bộ xương, ngoài có da bọc lại, trong đó có một số máu gân vậy thôi! Vậy xương thịt nó có biết gì không? Rồi gân máu nó có biết gì không? Và thần kinh nó có biết gì không? Thường thì người ta nói thần kinh biết nhưng người chết dây thần kinh vẫn còn mà nó đâu có biết, có cái gì đó gá vào thôi. Rồi chấp mình cũng là mấy cái thứ đó, rõ ràng là si.
Bây giờ khoa học tiến bộ càng thấy rõ hơn, cái túi máu mà lúc chưa truyền vô người mình thì nó là của ai? Nhưng khi truyền vô người mình rồi thì sao? Nói nó là của tôi. Rõ ràng si là ở chỗ đó.
Hiện nay, quả thận người ta cũng thay được. Và khi lấy trái thận của người khác ghép vô thân mình còn trái thận của mình khi cắt bỏ ra thì đó là của ai? Cũng như con mắt bị hư bỏ ra ngoài rồi thì của ai? Hoặc cái chân bị tai nạn cưa bỏ ra ngoài rồi thì cái chân đó của ai?
Cho nên, gốc si là cái tôi mà xả cái tôi rồi thì mấy cái kia cũng theo mà xả hết. Dù cho chúng ta có xả cái này, xả cái nọ, xả cái kia mà không xả cái tôi thì “cái si” vẫn còn. Nên quý vị thấy những người có tâm tốt bỏ ra cái này cái nọ cái kia để cứu trợ thì đó là tâm xả nhưng chỉ lo xả cái này mà không xả cái tâm si thì sao? Thì nhiều khi bố thí cũng bị phiền não.
Bố thí cho mà bị người giành giựt thì cũng phiền não. Có khi bố thí cho người cái này mà khi ra ngoài người không cần đem bỏ đi hoặc cho lại người khác thì sao? Buồn!
Vật chất mình đã đem cho người rồi mà cứ nghĩ của mình. Đúng ra, mình đã cho người ta rồi thì là của người ta, tùy người sử dụng. Nếu đã cho rồi mà vẫn còn nhớ cái đó là của mình nên buồn nên trách. Cho nên, người khéo xả cái tôi này trước thì xả bên ngoài mới yên. Nếu chỉ lo xả ở ngoài mà không xả cái tôi thì vẫn còn sanh chuyện. Đó là cái gốc. Và cũng chính vì cái tôi đó mà thành ngăn cách với tất cả.
Như trong kinh Pháp Hoa dạy, khi đức Phật Đại Thông Trí Thắng thành Phật, thì ánh sáng soi khắp mười phương, tất cả chúng sanh bỗng nhiên thấy nhau hết. Tức là không còn ranh giới giữa cõi này cõi kia. Chúng sanh nhờ ánh sáng của Phật soi thấy rõ nhau nên ngạc nhiên nói, thế gian này chúng sanh nhiều quá mà sao lâu nay không thấy? Vậy lâu nay bị cái gì che mà không thấy? Bị cái tôi này che. Khi ấy nhờ ánh sáng Phật phá tan mọi ranh giới nên chúng sanh thấy nhau.
Nếu bây giờ chúng ta được ánh sáng Phật soi khắp khiến cho thấy hết tất cả chúng sanh thì có vui không? Thật là vui phải không?
Hiện nay, tất cả ngồi hết trong phòng mà còn không thấy nhau, có khi ngồi sát bên mà không thấy là tại sao? Đó là bị cái tôi này ngăn cách, nên xả hết cái tôi này là sẽ gần gũi, cảm thông được với nhau, được an vui, bớt ngăn cách. Cho nên, chúng ta học Phật, nhờ ánh sáng Phật soi sáng giúp chúng ta hiểu lẽ thật rồi cởi mở bớt không chấp, khiến vô minh càng tan.
Nhiều khi chúng ta thấy có những chuyện rất đáng buồn. Hai anh em, chị em trong nhà mà còn ngăn cách nhau như trời với đất, vì tranh giành của cải với nhau, rồi có thành kiến trở thành xa lạ với nhau.
Ở đây, chúng ta có duyên tốt được gần gũi Phật pháp, được sinh hoạt cùng một đạo tràng, nhưng có khi ngăn cách cũng không thấy nhau. Khi đã có thành kiến với nhau rồi thì dù chạm mặt nhau cũng không thấy nhau, rõ ràng là bị cái tôi này ngăn che.
Nên người muốn tu thì phải xả bớt, muốn xả bớt thì phải thường xuyên quán chiếu như vậy. Quán chiếu để mở thêm trí tuệ, công phu quán chiếu rất là quan trọng.
Ở đây, hàng ngày đạo tràng đều tụng kinh Bát-nhã, ai cũng biết thân này là thân do năm uẩn họp thành nên vô thường hư dối không thật, nhưng có thấy được thân này là không chưa? Cho nên, hiểu là một lẽ, làm là một lẽ. Tụng kinh trên lý thì đúng là năm uẩn đều không nhưng mà điều đó chỉ mới là cái hiểu của Phật chứ chúng ta thì chưa thông.
Vì vậy, hàng ngày mỗi người phải thường xuyên tập quán chiếu đến khi nào mình thật sự thấy nó là không, thì lúc đó mới là cái thấy của mình, lúc đó mới cởi mở những phiền não giận hờn. Chính đó là chỗ chúng ta ứng dụng tu, nên ở đây mỗi vị cũng từng nghe học Phật nhiều rồi, giờ khéo ứng dụng để có thực sống.
Đối với những oán hận trong lòng thì nên cởi mở không nên buộc, vì càng ôm hận thì càng gây khổ cho nhau, càng kết khổ sâu thêm và như vậy tâm vô minh của mình càng phủ dày. Thế nên phải tu tập tâm xả để cởi mở bớt và nhớ rõ mọi việc trên đời đều có nhân có quả hết.
Phật dạy cuộc sống hiện tại của chúng ta gọi là thừa tự nghiệp, chúng ta là người kế thừa nghiệp. Đời trước mình làm nghiệp gì thì bây giờ mình kế thừa (tiếp nối) nghiệp ấy. Xưa mình làm việc tốt thì nay mình kế thừa nghiệp tốt. Xưa mình làm việc xấu thì nay mình kế thừa nghiệp xấu. Hiểu vậy đó, thì từ đây mỗi người phải sống sao cho đúng với nhân quả tốt để tránh buồn khổ về sau, tránh những cái không hay để về sau không kế thừa những cái không tốt. Chúng ta học nhiều lý nhân quả quá nên xem thường, cần thiết là mỗi người phải hiểu cho thật kỹ lý nhân quả để sống không lầm, được như vậy thì cuộc sống vươn lên, tốt đẹp rồi. Và điều không thể quên là: “oán hận nên giải không nên kết, từ bi diệt hận thù, là định luật ngàn thu”.
Subscribe to:
Posts (Atom)