Monday, December 13, 2010

Trí tuệ là sự nghiệp

TVĐĐ - 10/08/2010

Bản ý của chư Phật vào đời chỉ vì một nhân duyên lớn là khai hóa cho chúng sinh tri kiến của chư Phật và cáo thị cho chúng sinh giác ngộ, chứng nhập tri kiến, tức trí tuệ của chư Phật.

Nối tiếp chư Phật, các bậc hiền thánh Tổ sư khi tu hành cũng thường phát nguyện mong mau chóng diệt hết vô minh phiên não, sớm liễu ngộ được diệu tâm viên giác (Tâm không phiền não, đốn phá vô minh, viên giác diệu tâm, khuếch nhiên khai ngộ).


Thiền sư Di Sơn Nhiên cũng nguyện: “Tâm Bồ đề không thoái chuyển, trí Bát nhã hiện tiền”.

Tâm Bồ đề, kinh Lăng Nghiêm dạy là “Bản diệu tâm”. Diệu là không nhiễm ô, không tăng giảm v.v; luận Duy Thức gọi là chân tính Duy thức; Tâm kinh Bát nhã dạy: nhờ trí Bát nhã mà được vô thượng Chính đẳng Chính giác (Y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc a nốc đa la tam diểu tam Bồ đề).

- Nhưng trí tuệ thường phân biệt thành 2 giải thuyết như sau:

1. Trí tuệ thế gian.
2. Trí tuệ xuất thế gian.

- Trí tuệ thế gian lại chia thành 2 thuyết:

1. Học rộng, hiểu nhiều, tài cao, nghề nghiệp giỏi, giúp ích cho đời đạt tới Chân, Thiện, Mỹ, cũng là đáng quý.

2. Tỏ rõ thiện ác, phân biệt chính tà, làm những việc nên làm, thôi những việc nên thôi, thế là trí tuệ chân chính, sẽ được quả báo tốt lành.

- Trí tuệ xuất thế gian cũng có 2 lối đốn tiệm khác nhau:

1. Phân biệt được chính pháp của Phật như Tứ đế, Lục độ v.v, dựa vào đó mà tu hành là trí tuệ xuất thế gian, dần dần vào được nhà Như Lai gọi là “tiệm nhập”.

2. Phá được vô minh, thấy được tính Phật nơi mình, được đại Giác ngộ một cách cứu kính nhanh chóng triệt để gọi là “đốn siêu” (mau lẹ). Tại sao? Cầu được gốc là “Đức”, không lo ngọn là “Tài”, được ngọn chưa hẳn được gốc.

Trong Ngữ Lục Trúc Song, Tổ Châu Hoành dạy: Nhân giới sinh định, nhân định phát tuệ, là nói lần lượt phát sinh như vậy cũng như 3 môn vô lậu học: Giới, Định, Tuệ.

Trong lục độ: Bố thí, Trí giới, Nhẫn nhục, Tinh tiến, Thiền định, Trí tuệ thì chỉ có trí tuệ là quan trọng hơn cả, không thể coi nhẹ được; chỉ có trí tuệ là cần thiết trước hết, chỉ có trí tuệ mới có thể thông suốt hết thảy pháp môn, không có gì bằng được.

Cho nên, kinh Tăng Nhất A Hàm dạy: thành tựu được giới luật, thành tựu được phép tam muội (Chính, Định, Thụ), thành tựu được phép thần túc bay đi, ba phép này tuy thành tựu được cũng khó, nếu được thì cũng thành số thường ở đời. Chỉ có thành tựu được trí tuệ Bát nhã là nghĩa đệ nhất, vì y vào trí Bát nhã mà được thành Phật.

Trí Bát nhã có công dụng quán chiếu, thuộc trí tuệ vô lậu xuất thế. Vì sợ lẫn với tà trí, lậu vong, thường bị ngụy biện điên đảo, nên không dịch thành “trí tuệ” mà cứ để nguyên âm là Bát nhã, còn hàm hiểu nghĩa chân chính tuyệt đối.

Trí tuệ Bát nhã thường được ví như ánh sáng mặt trời. Còn những trò gian tà, tham nhũng thường hay gây tội ác ở những nơi khuất ánh sáng ấy, bởi nội tâm bọn đó phần nhiều ám muội.

Khi tính sáng chân trí bị vùi lấp đi, thì vô minh phiền não trỗi dậy, nên các bậc Cổ đức dạy: Tạm thời trí Bát nhã không hiện tiền, thì cũng như xác chết.

Trí Bát nhã còn thường được ví như lửa. Có những vật ở đất thường mục ra, ngâm nước ẩm ướt thì mủn nhưng còn lại cặn bã, nếu chôn lấp hay dìm lâu trong nước thì dần dần mới tiêu diệt hẳn. Nhưng nếu bị lửa đốt thì ra tro ngay. Trí Bát nhã thường ví như đống lửa lớn. Thứ nước tham nhũng ái dục, bị lửa Bát nhã đốt ngặt cũng phải cạn, các loại củi phiền não gặp phải lửa Bát nhã là cháy. Loại đá ngu si ngoan cố bị lửa Bát nhã đốt cũng phải nhừ. Rừng rậm cỏ khô, tà kiến chướng ngại, và bao nhiêu tạp vật vọng tưởng khác nếu lửa Bát nhã bén vào cũng đều tiêu ra tro.

Những loại côn trùng bọ mạt chỗ nào cũng bám được, nhưng lửa thì chúng không dám bám. Ví với tâm chúng sinh chỗ nào, vật gì cũng phan duyên tưởng tới nhưng không duyên tưởng tới trí Bát nhã.

Về mùa nóng, nước lã để cách đêm, thì sinh trùng rất nhỏ, mắt phàm không thể nhìn thấy được. Cho nên, Phật dạy phải lọc nước mới dùng. Nếu nước ở trên lửa thì trùng không sinh.

Nhân đó ta biết rằng Bát nhã như lửa đun nước, sức quán chiếu luôn luôn chói sáng, giữ được độ nóng không ngớt thì tư tưởng hèn xấu, mê hoặc, phức tạp, không thể nảy mầm ra được.

Vậy nên trong kinh Bát Đại Nhân Giác, Phật dạy: “Người tu hành cầu đạo Bồ đề phải lấy Trí tuệ [Bát nhã] làm sự nghiệp”.


Sa – môn Thích Phổ Tuệ - phattuvietnam

Nghi thức chuông mõ

TVĐĐ - 02/24/2010

I Nhập đề:

Tụng kinh là chúng ta đọc lại lời Phật đã dạy, để hiểu ý nghĩa và thật hành cho đúng, nhờ thế chúng ta tạo được quả lành, tụng kinh cũng là pháp môn tu để cho tam nghiệp (thân, khẩu, ý) được thanh tịnh. Trung Quốc là một nước có nền Nhạc lễ từ xa xưa, trước thời Khổng Tử (551ttl-478ttl) đã có kinh Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc và Khổng Tử viết sách Xuân Thu, người sau gọi đó là Lục kinh. Lễ và Nhạc Trung Quốc dù sao cũng có ảnh hưởng trong Lễ Nhạc Phật Giáo, cách dùng Trống, Chuông, Mõ trong lúc làm lễ Phật, Tụng kinh gọi là Nghi thức Chuông mõ, mục đích giúp cho những người tham dự hành lễ, tụng kinh được chí thành, trang nghiêm hơn.

II Ý Nghĩa:

Chuông luôn luôn để bên tay trái của tượng Phật hay Bồ Tát, mõ bên tay phải. Nguời thỉnh chuông gọi là Duy na, người gõ mõ gọi là Duyệt chúng.

Tiếng chuông phát ra âm thanh lắng động, đêm khuya nghe tiếng chuông lòng chúng ta sẽ lắng động, thanh thản, phiền não dường như tiêu tan. Ở trong chùa có bài kệ khi thỉnh chuông như sau:

Nguyện thử chung thanh siêu pháp giới,
Thiết vi u ám tất giai văn,
Văn trần thanh tịnh chứng viên thông,
Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác.

Bài kệ đọc khi nghe có tiếng chuông:

Văn chung thinh phiền não khinh,
Trí huệ trưởng Bồ đề sanh,
Ly Ðịa ngục xuất hỏa khanh
Nguyện thành Phật, độ chúng sanh

Án Dà Ra Ðế Da Ta Bà Ha (3 lần)

(Nghĩa là: Nguyện cho tiếng chuông nầy vang khắp nơi, ở Ðịa ngục u ám Thiết vi cũng được nghe, ở trần thế được thanh tịnh chứng quả, hết thảy chúng sanh đều thành bực chánh giác và bài kệ sau: Nghe tiếng chuông, phiền não nhẹ đi, trí tuệ tăng trưởng thêm, sanh tâm Bồ đề, rời khỏi địa ngục, không bị lửa địa ngục thiêu đốt, nguyện thành Phật để độ hết chúng sanh.)

Trong chùa còn có một bài kệ nữa để sách tấn Tăng, Ni tu hành:

Văn chung ngọa bất khởi,
Hộ pháp thiện thần sân,
Hiện thế duyên phước bạc,
Lai thê thọ xà thân.

(Nghĩa là: Nằm nghe tiếng chuông mà không dậy, làm cho những vị thần hộ pháp giận, trong đời duyên phước kém, kiếp tới trở thành thân rắn)

Cho nên tiếng chuông rất quan trọng, lại nữa trong khi tụng kinh, tiếng chuông báo hiệu cho người dự được biết sắp chuyển qua niệm danh hiệu khác, sắp hết một bài kinh hay kệ, bắt đâu lạy xuống cũng như khi đứng lên được nhịp nhàng. Thỉnh thoảng trong bài kinh dài có thỉnh chuông để cho người dự tỉnh thức trong lúc tụng kinh.

III Nghi Thức:

Sau khi bàn Phật đã chuẩn bị xong về nhang, đèn, hoa quả, người thỉnh chuông sẽ thỉnh 6 tiếng chuông, có nghĩa là giữ cho sáu căn thanh tịnh để tụng kinh. Mỗi lần vị chủ lễ xá, thỉnh một tiếng chuông, khi vị chủ lễ lạy xuống, thỉnh một tiếng chuông và khi trán vị chủ lễ chạm nền chánh điện thì dập chuông (dùng dùi gõ vào vành chuông rồi giữ dùi chuông lại trên vành chuông, như thế âm thanh của chuông không vang ra). Khi nghe dập chuông thì vị chủ lễ cũng như mọi người tham dự cùng đứng lên.

Sau phần Ðãnh lễ, bắt đầu vào chuông mõ như sau:

Chuông thỉnh trước: * * *

Mõ gõ sau khi chuông chấm dứt: - - - - - - - (bốn tiếng rời, tiếp theo hai tiếng liền nhau, cuối cùng một tiếng rời ra)

Sau đó chuông mõ hòa nhau như sau: * - * - * - - - - *

Chuông thỉnh một tiếng rồi mõ tiếp theo một tiếng, chuông đủ ba tiếng ngưng chờ, mõ đánh thêm tiếng thứ tư, tiếng thứ năm và sáu liền nhau, rồi chuông dập cùng lúc với tiếng mõ thứ bảy.

Mỗi khi bắt đầu vào bài Kinh, bài Chú hay Kệ, mõ bắt đầu đánh vào tiếng thứ 2, thứ 4 và những tiếng kế tiếp, ví dụ:

Kệ Khai Kinh


Phật pháp cao siêu rất nhiệm mầu ...


Mõ cứ tiếp tục đánh cho đều nhịp, đến khi câu cuối còn chừng 5 hay 7 tiếng, đánh lơi ra và trước tiếng cuối cùng, mõ đánh hai tiếng liền nhau như sau:

… Chân nghĩa Như Lai hiểu thật sâu.


Hoặc chẳng hạn như:

… Thanh tịnh đại hải chúng Bồ Tát Ma Ha Tát!


Còn Chuông khi chấm dứt niệm mỗi danh hiệu Phật hay Bồ Tát sẽ thỉnh một tiếng chuông, để người ta biết là sẽ sang qua danh hiệu Phật hay Bồ Tát khác, trong bài kinh dài, thỉnh thoảng cuối câu nên thỉnh một tiếng chuông. Chấm dứt mỗi bài Kinh, Kệ hay Chú, chuông thỉnh 3 tiếng ở vào tiếng thứ 5, tiếng thứ 3 và tiếng chót, như sau:

… Chân nghĩa Như Lai hiểu thật sâu.


Chúng ta nên nhớ rằng, mõ dùng để giữ nhịp tụng cho đều, mõ gõ nhanh hay chậm tùy theo vị Chủ lễ, vị nầy tụng chậm, mõ phải gõ chậm, vị nầy tụng nhanh, mõ phải gõ nhanh, những bài Chú vì không có nghĩa nên bao giờ cũng tụng nhanh, mõ phải gõ nhanh hơn bài Kinh hay Kệ, khi Niệm danh hiệu Phật 30 lần hay trên số đó, vị Chủ lễ sẽ niệm nhanh, mõ phải gõ nhanh. Khi chủ lễ phục nguyện không gõ mõ.

Tiếng chuông rất quan trọng khi hợp tụng, dùng để báo cho người dự biết bài kinh sắp chấm dứt, sắp chuyển sang niệm danh hiệu Phật hay Bồ Tát kế tiếp. Người thỉnh chuông phải chú ý xem khi nào vị Chủ lễ xá thì thỉnh một tiếng chuông, về niệm danh hiệu Phật, Bồ Tát hay Chú, vị Chủ lễ sẽ dẫn chúng niệm 3 lần, 7 lần, 10 lần, 21 lần … tùy trường hợp, do đó nên để ý, thấy vị Chủ lễ xá mới thỉnh chuông. Bao giờ khi bài Kinh, Kệ, Chú sắp chấm dứt, vị Chủ lễ sẽ tụng, niệm chậm, lơi dần ra, mõ theo đó gõ chậm, người thỉnh chuông chú ý thỉnh 3 tiếng chuông vào tiếng thứ 5, thứ 3 và cuối cùng (nếu biết).

Trong khi người gõ mõ, gõ sai nhịp hoặc nhanh quá hay chậm quá, người thỉnh chuông trở dùi chuông lại, gõ nhẹ vào chuông theo nhịp tụng, niệm của vị Chủ lễ, người gõ mõ nương theo đó mà gõ cho đúng.

Khi chấm dứt thời kinh, người thỉnh chuông sẽ thỉnh 1 hồi và 3 tiếng rời sau cùng, tượng trưng cho sự gìn giữ tam nghiệp luôn được thanh tịnh.

Cư sĩ tụng kinh tại gia, có một mình thôi, Nghi thức chuông mõ cũng y như vậy. Chỉ riêng chuông và mõ để thế nào cho tay thuận gõ mõ, tay kia thỉnh chuông, không nhất thiết phải để y như trên kia đã nói.

Trong khi quỳ tụng kinh, thì chuông mõ phải để ngang với cùi chỏ, còn ngồi thì chuông mõ phải để xuống nền Chánh điện, như vậy mới thuận tiện cho việc gõ mõ.

IV Kết:

Trong khi tụng Kinh, ngoài vị Chủ lễ ra, tiếng Chuông, Mõ rất quan trọng, nhờ mõ giữ nhịp tụng đuợc đều, nhờ chuông người dự biết bài tụng sắp chấm dứt, chuyển niệm danh hiệu, hoặc khi lễ Phật, lạy xuống, đứng lên đuợc nhịp nhàng, tạo thành không khí trang nghiêm thanh tịnh. Mỗi chúng ta cần phải biết Nghi thức Chuông Mõ để sử dụng, dù cho khi tụng Kinh chỉ một mình, nhưng có Nghi thức sẽ giúp cho thời tụng kinh đuợc trang trọng, chí thành hơn.
http://thienviendaidang.net/01phathoc/phathoccanban.php?readmore=742

Sunday, December 12, 2010

Mát lòng với cháo đậu ăn cùng cà muối

TVĐĐ - 07/29/2010

Mấy hôm nay, thời tiết Hà Nội thật oi bức, nghĩ đến những bữa cơm đầy chất đạm càng thấy mệt. Hãy thanh lọc cơ thể bằng cháo đậu ăn cùng cà muối nhé.

Thêm 1 chút đạm thực vật từ miếng đậu phụ rán, thật đơn giản và gọn nhẹ.


Cháo: gạo tẻ, 1 chút gạo nếp, đậu xanh hoặc đậu đen. Mình cho thêm ít hạt sen cho dễ ngủ.

Đậu: Rán vàng rồi đưa ngay vào bát nước tương.

Xin giới thiệu bí quyết để muối món cà cho giòn và ngon:

Bạn chọn những quả cà có nhiều màu xanh và núm to là cà còn non, cà già sẽ bị nhiều hạt và hạt cứng ăn không ngon.

Bỏ núm cà rồi ngâm vào chút nước muối loãng cho khỏi thâm.

Chuẩn bị nước muối cà: Pha muối với nước sao cho nước có vị đậm nhưng đừng mặn quá thì cà mới chua được. Phải lưu ý cà luôn ngập nước thì sẽ không bị thâm. Bạn có thể chèn bằng vỉ tre bán ngoài chợ hoặc 1 túi nilong có nước buộc chặt. Sau 2 ngày là có thể ăn được.


Sưu tầm