Saturday, June 18, 2011

Một cõi Tịnh độ trong mỗi người chúng ta Đàm thoại với ngài Dagpo Rimpoché


Dagpo Rimpoché là vị Lạt-ma đầu tiên đến Pháp và lưu ngụ từ năm 1960. Hiện nay Ngài đang quản lý một trung tâm Phật giáo trong vùng Paris. Theo Ngài thì nếu muốn đến gần hơn với Niết bàn và xa lánh cõi Ta bà thì cần phải dựa vào sự tu tập thiền định lâu dài để vượt lên trên ảo giác của cái ngã.

Nguyệt san "Le Monde des Religions" chuyên đề về tôn giáo, thuộc một tổ hợp báo chí uy tín của nước
Pháp, trong số 41 (tháng 5 và 6, 2010) đã mang chủ đề "Hạnh Phúc thật sự" ra bàn thảo. Những quan điểm về
hạnh phúc của các vị sáng lập ra các tôn giáo lớn cũng như của các triết gia từ đông sang tây, từ nhiều ngàn năm
trước cho đến gần đây hơn gồm có : Đức Phật, Lão tử, Socrate, Platon, Aristote, Epicure, Qohelet, Jésus,
Epictète, Mohammed, Montaigne, Spinosa, Schopenhauer đều đã được nêu lên. Hình của Đức Phật được trình
nơi trang bìa và theo thứ tự thì Đức Phật cũng được nêu lên trước các vị kia, nhưng bài báo phỏng vấn Ngài
Dagpo Rimpoché về hạnh phúc theo quan điểm Phật giáo thì lại được xếp vào những trang cuối cùng. Tất cả
những bài viết đều do các học giả lỗi lạc phụ trách. Càng đọc càng say mê trước trí thông minh đa dạng thúc đẩy
bởi ít nhiều xung động trong lòng của từng vị. Các xung động ấy được hiển lộ qua những cách nhìn khác nhau,
từ thực tế, khôn ngoan, khéo léo, sâu xa, lạc quan, yếm thế, hoặc mang ít nhiều mê tín hay đôi khi cũng phảng
phất một chút từ tâm nào đó về nhân loại trong thế giới này. Tuy nhiên khi đọc đến những dòng đàm thoại với
Ngài Dagpo Rimpoché thì dường như chúng ta đi lạc vào một thế giới khác của tôn giáo, của triết học và khoa
học, người ta có cảm giác dường như các bài viết trình bày trong các trang trước là có dụng ý làm nổi bật hơn bài
đàm thoại với Ngài Dagpo Rimpoché (?).
Khi bước vào thế kỷ XXI này, chúng ta đều phải công nhận là các hệ tư tưởng lớn, các chủ thuyết chính
trị không tưởng, kể cả các hệ thống kinh tế toàn cầu đều sụp đổ. Tư bản chủ nghĩa cứng rắn cũng như Cộng sản
chủ nghĩa dưới hình thức tập thể đều bị lỗi thời. Như vậy thì những gì sẽ còn lại cho chúng ta hôm nay ? Có phải
chăng là một sự giải thoát cá nhân? Có phải là một thứ hạnh phúc mà chính chúng ta phải tự tạo lấy cho mình
hay không ?
Nếu đúng như thế thì mỗi người phải biết quan tâm đến cái Hạnh phúc của chính mình. Có nhiều loại
hạnh phúc : có những thứ hạnh phúc ở những nơi rất cao xa và còn phải chờ đợi, có những thứ hạnh phúc dựa
vào sự khôn ngoan và khéo léo, và cũng có những thứ hạnh phúc phải bịt mắt lại mới thấy... Vậy thì cái Hạnh
phúc nào sẽ được Ngài Dagpo Rimpoché trình bày qua bài chuyển ngữ dưới đây ?
Bìa tạp chí "Le Monde des Religions" số tháng 5 và 6 năm 2010.
Dagpo Rimpoché sinh vào tháng 2 năm 1932 tại tỉnh Kongpo thuộc vùng đông-nam
Tây tạng. Khi Ngài chưa đầy một tuổi thì vị Đạt-lai Lạt-ma thứ XIII là Thoupten Gyatso
(1875-1933) đã xác nhận Ngài là hóa thân của đại sư Bamtcheu Rimpoché sống vào hậu bán
thế kỷ XIX. Khi được sáu tuổi thì Ngài xuất gia. Đến hai mươi bốn tuổi thì Ngài được đưa đi
tu học tại một tu viện đại học rất lớn là Drépoung thuộc miền trung Tây tạng. Tại đây Ngài đã
được thụ giáo với nhiều vị thầy thuộc học phái Cách-lỗ (Guelougpa) và đã lưu lại nơi này cho
đến ngày người dân Tây tạng nổi lên khởi nghĩa vào năm 1959. Sau tám năm sống dưới ách
cai trị của Trung quốc, Ngài tìm cách vượt Hy-mã Lạp-sơn và đã may mắn đến được đất Ấn.
Tại Ấn độ Ngài gặp được một số giáo sư đại học người Pháp đã sang đây và những vị
này đã mời Ngài hợp tác trong các công cuộc nghiên cứu và dịch thuật mà họ đang thực hiện.
Nhờ thế Ngài đã sang Pháp từ năm 1960 và là vị Lạt-ma Tây tạng đầu tiên lưu lại xứ sở này.
Ngài dạy ngôn ngữ và văn minh Tây tạng tại Viện ngôn ngữ học và văn minh Đông phương
tại Paris. Hiện nay thì Ngài quản lý viện Ganden Ling tại Veneux-les-Sablon thuộc vùng Paris
một nơi gần với tỉnh Fontainebleau, và tại đây Ngài phụ trách nhiều khóa giảng dạy về Phật
giáo. Ngoài ra Ngài còn thiết lập được nhiều trung tâm Phật giáo khác tại Pháp, Hòa lan, và cả
ở vùng Đông nam Á, nhất là tại Ấn độ, nơi mà Ngài thường xuyên quay về để giảng dạy tại tu
viện do Ngài thành lập trước đây.
Hạnh phúc đối với Phật giáo là gì ?
Trong tư tưởng Phật giáo thì màu sắc của hạnh phúc gồm nhiều sắc thái đậm nhạt khác
nhau, từ những thể dạng tạm bợ cho đến tối hậu. Dầu sao đối với ý nghĩa trọn vẹn của nó thì
hạnh phúc "đích thực" phải được hiểu như là một thứ hạnh phúc hiện hữu trong một tư thế
thăng bằng và bền vững. Vì thế "hạnh phúc thực sự" rất khác biệt với các thứ "hạnh phúc
thông thường" chỉ gồm có những cảm nhận mang tính cách thích thú hay hân hoan và đó chỉ
là những gì thật biến động và phù du. Chu kỳ hiện hữu của chúng ta lệ thuộc vào vô số điều
kiện và cái chu kỳ ấy cũng chính là thế giới Ta bà. Trong cái thế giới đó thì sự sinh và cái chết
đều thoát ra ngoài tầm chủ động của chúng ta và do đó chúng ta không thể nào tìm ra được
hạnh phúc tối thượng - tức là một thứ hạnh phúc vĩnh cữu.
Ý thức được điều đó sẽ khiến phát sinh trong chúng ta niềm ước vọng vượt thoát ra
khỏi vòng ràng buộc của thế giới Ta bà. Đó là giải pháp hữu hiệu duy nhất vì hễ còn tiếp tục
hiện hữu dựa vào một cơ sở do những thứ "cấu hợp bằng điều kiện mà có", tức là một thân
xác và một tâm thức còn khiếm khuyết, thì bất cứ thứ hạnh phúc nào dù lớn lao cách mấy đi
nữa thì đến một lúc nào đó cũng sẽ làm phát sinh ra khổ đau, tức là đưa đến mất mát và thất
vọng.
Vậy những thăng trầm và biến động là gì ?
Sống trong thế giới Ta bà có nghĩa là phải gánh chịu sự chi phối của các thứ nghiệp ô
nhiễm và cả những xúc cảm bấn loạn (klesha) : tức là những yếu tố gây ra rối loạn tâm thần,
chẳng hạn như thù ghét hoặc bám víu, là những thứ luôn tìm cách để hành hạ ta. Hãy nhìn
thẳng vào thực tế : có phải vì chúng mà ta đã bị lệ thuộc và mất hết tự do hay không ? Hãy lấy
một thí dụ, có phải lúc nào ta cũng muốn tạo ra một ấn tượng tốt đẹp với kẻ khác hay không.
Và cũng chính vì thế mà chỉ cần một chút gì đó thật nhỏ nhoi : một ánh mắt, một lời nói là
cũng đủ làm cho ta nổi giận. Một con người vừa mới đây thật khả ái bỗng vụt mất hết tự chủ
và trở nên hung bạo, có thể nói là đáng kinh sợ nữa. Con người ấy có thể không kìm hãm
được những lời phát ngôn mà chính họ cũng phải hiểu là không nên thốt ra.
Trên thực tế, khi nào ta vẫn còn bị chi phối bởi những yếu tố bấn loạn thì khi đó ta vẫn
chưa có thể nào tạo ra được cho mình một thể dạng hạnh phúc. Các yếu tố bấn loạn sẽ xô đẩy
ta vào những hành động mà đáng lý ra ta không nên làm, kể cả trên phương diện thể xác,
ngôn từ và tâm thức. Những hành động đó sẽ mang lại cho ta những nghiệp "ô nhiễm" tức là
những nghiệp sẽ đưa tới sự tái sinh trong thế giới Ta bà, rơi vào những thể dạng bất hạnh mà
ta khó tránh khỏi. Sự xô đẩy ấy hết sức là nghiệt ngã. Phật giáo xác định một cách rõ rệt là
ngoài những đau đớn đơn thuần còn có hai thứ khổ đau khác nữa rất tinh tế. Trước hết là sự
kiện phải "khổ đau vì sự đổi thay", nó ẩn nấp phía sau những cảm giác thật thích thú để sau đó
đưa ta vào những khổ đau phát sinh từ sự bất toại nguyện và mọi sự mất mát. Kế tiếp là sự
"khổ đau tự tại nơi sự hiện hữu trói buộc" của chính mình, nó phát sinh từ những cảm giác
trung hòa. Vì loại khổ đau này vượt ra khỏi ý nghĩa thông thường cho nên khó để gọi nó là
một thứ khổ đau. Lý do vì chúng là những thể dạng tâm thần thấm đượm những nghiệp thích
hợp để làm phát sinh ra những cảm giác thú vị hay khó chịu. Chính vì thế mà các giác cảm
trung hòa hiện ra như một cơ sở tiếp nhận hai thứ khổ đau tinh tế trên đây phải được xem
đúng thực là một thứ "khổ đau".
Dầu sao thì cũng phải công nhận một cách minh bạch rằng Phật giáo không phủ nhận
cũng không hề gạt bỏ những thứ hạnh phúc thuộc vào thế giới Ta bà. Hơn thế nữa Phật giáo
còn chỉ dạy phải làm thế nào để có thể tạo ra những thứ hạnh phúc đó. Phật giáo cho rằng
những thứ hạnh phúc này vẫn còn tốt hơn là phải chọn những thứ khổ đau thô thiển, tuy nhiên
Phật giáo cũng nhận thấy rằng những thứ hạnh phúc đó còn thiếu sót, không phải là những
thứ hạnh phúc trọn vẹn. Một cách vắn tắt, không phải vì chúng là những thứ hạnh phúc thiếu
sót mà ta phải chối bỏ chúng. Đó chỉ là cách để nhắc nhở chúng ta không nên đòi hỏi quá
đáng những gì mà chúng không thể nào mang lại cho ta được. Sự nhắc nhở đó kêu gọi chúng
ta nên thực tế, khách quan : những thứ hạnh phúc thông thường có những mục tiêu hạn hẹp và
phù du.
Vậy phải sử dụng phương tiện nào đây để thoát ra khỏi thế giới Ta bà,
để tìm thấy hạnh phúc của sự giải thoát nơi cõi Niết bàn ?
Phải quay ngược về những nguyên nhận đã tác tạo ra thế giới Ta bà và tất cả những gì
bất lợi do nó sinh ra : đó là những yếu tố bấn loạn trong tâm thức của mỉnh. Bấn loạn này làm
phát sinh ra bấn loạn kia : đấy chính là vô minh làm cho ta không hiểu được chính mình là gì.
Đó là sự cảm nhận tuy rất tự nhiên nhưng lại rất sai lầm của chính mình : "nắm bắt lấy cái
ngã" và nhận thức một cách sai lầm để xem đấy chính là "ta", chính là "cái tôi". Cách nắm bắt
một cá thể như thế là một khả năng đặc thù của vô minh, ta phải hủy diệt sự nắm bắt đó để tự
giải thoát mình ra khỏi thế giới Ta bà. Bởi vì chính từ sự nắm bắt đó đã làm phát sinh ra tất cả
mọi thứ khác.
Muốn thực hiện được điều đó không phải chỉ cần lập đi lập lại như một con két rằng
"cái tôi không hề hiện hữu, cái tôi không hề hiện hữu,...". Phương tiện duy nhất theo chúng tôi
là phải đẩy sự suy luận ngày càng sâu sắc hơn để tìm hiểu cái ta, cái tôi được cấu tạo như thế
nào, để dần dần nhận thức được phương cách hiển hiện của một cá thể. Tất nhiên là một cá
thể hiện hữu, nhưng chỉ hiện hữu một cách tương đối, lệ thuộc vào đủ mọi hiện tượng khác.
Khi sự nhận thức về hiện tượng tương liên ngày càng minh bạch hơn thì đồng thời nó
cũng sẽ làm yếu dần đi sự nắm bắt sai lầm về một cái ngã, và từ đó sự cả tin vào một cái ngã
cũng sẽ giảm đi. Rồi đến một lúc nào đó, mọi sự sẽ trở nên thật hiển nhiên, vâng quả đúng
như thế, một cá thể hiện hữu nhưng mà nó lệ thuộc. Đến khi đó, vô minh tức là sự nắm bắt sai
lầm về một cái ngã sẽ không còn tác hại được nữa. Nó sẽ bị sự hiểu biết về cái mà người ta
gọi là tánh không hủy diệt nó - nên hiểu "tánh không" không phải là hư vô, mà chỉ có nghĩa là
không có một thực thể tuyệt đối.
Sự hiểu biết đó có cần nhờ vào sự tu tập thiền định hay không ?
Vô minh làm cho ta tin rằng cá thể đang tạo ra ta hàm chứa những đặc tính riêng biệt,
tự nó tác tạo ra cho nó một cách tự tại. Tuy nhiên, điều này hoàn toàn không đúng. Thật rõ
ràng không thể nào thay đổi từ căn nguyên phương cách suy nghĩ của ta một cách đột ngột
được. Không phải chỉ cần đạt được một sự hiểu biết duy lý mang tính cách trí thức về tánh
không là đủ để quét sạch sự nắm bắt của cái tôi. Chuyện đó phải thực hiện tuần tự từng bước
một.
Trong giai đoạn đầu, sự hiểu biết duy lý sẽ làm suy yếu đi sự nắm bắt cái ngã ; nói một
cách khác là làm cho cái ngã bị ốm đau. Vô minh khi đã yếu đuối sẽ mất đi khả năng thúc đẩy
ta tích lũy những nghiệp hướng ta vào thế giới Ta bà, tuy nhiên không phải làm được như thế
là đã thắng cuộc. Chính vì vậy mà phải cần đến thiền định. Tóm lại thiền định là tập cho tâm
thức cảm nhận mọi sự dưới một góc cạnh mới ; trong trường hợp trên đây là sự vắng mặt của
một thực thể cá biệt. Điều đó sẽ phá bỏ thói quen của ta về sự quán thấy sai lầm một cái tôi
mang tính cách thực thể.
Vây thì từ khởi điểm, sự hiểu biết nhất định còn mang tính cách duy lý, nhưng đến
một lúc nào đó nó sẽ trở nên thật hiển nhiên. Và tình trạng ấy có nghĩa là đạt được vô ngã một
cách trực tiếp. Cái trí tuệ đó là một công cụ vô cùng quý giá, một phương tiện duy nhất đủ khả
năng làm bật gốc và hủy diệt sự nắm bắt cái tôi, sự nắm bắt đó mặc dù là một cảm nhận sai
lầm nhưng trên thực tế nó bám rất chặt vào ta. Tuy nhiên, nếu muốn cho sự hiểu biết về tánh
không có đủ sức mạnh cần thiết thì nó phải được phát sinh từ một tâm thức thật thăng bằng.
Do đó cần phải tập luyện về sự chú tâm để đạt được sự "tĩnh lặng tâm thần" (shamatha) : tức
là một mức độ chú tâm giúp vượt lên trên và hóa giải mọi sự xao lãng tinh tế nhất.
Nếu muốn đạt đến cấp bậc tĩnh lặng tâm thần, thì trước đó ít nhất phải khắc phục được
sự xao lãng dưới mọi hình thức thô thiển nhất, nếu chưa thực hiện được việc đó thì đừng
mong gì có thể bước vào giai đoạn chú tâm. Vì thế nhu cầu cấp bách và tiên khởi nhất là phải
tuân thủ một mức độ tối thiểu về đạo đức : khi nào tâm thức còn "xao lãng" có nghĩa là dao
động, gây ra bởi sự ham muốn sát sinh, cướp của, nói dối,... hoặc còn thích ba hoa, thì khi đó
ta vẫn chưa hội đủ khả năng để chú tâm.
Tóm lại, đạo đức trước hết là giúp ta giữ kỷ cương để tránh không hành động sai lầm
và sau đó là để tạo ra một nền móng không thể thiếu sót giúp cho sự chú tâm vượt lên trên
mọi hình thức tinh tế nhất của sự xao lãng. Sự thăng bằng phát sinh từ sự chú tâm sẽ làm gia
tăng thêm sức mạnh cho trí tuệ để có thể thực hiện mọi sự suy luận. Từ đó sẽ phát sinh sự
hiểu biết trực tiếp về tánh không và sự hiểu biết ấy sẽ xóa bỏ vô minh liên quan đến sự nắm
bắt một cái tôi.
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba
lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâm và trí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời
giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân mà ta hằng mong đợi, có nghĩa là trở
thành một vi a-la-hán (arhat) - tức là một chúng sinh tự do không còn bị trói buộc. Trong
trường hợp khác nếu ta áp dụng phương pháp ba lời giáo huấn ấy trong mục đích giúp cho tất
cả chúng sinh đạt được giải thoát, thì kết quả đạt được sẽ là thể dạng của một vị Phật.
Khi đã đạt được thể dạng giải thoát thì sẽ không còn tái sinh nữa. Nhưng
mà nếu không quay lại Địa cầu này nữa và không còn sự nhận biết một cái
ngã nữa, thì "ai" sẽ hạnh phúc và ở nơi nào ?
Trong cả hai trường hợp giải thoát, dù là sự giải thoát cá nhân hay là bằng thể dạng
Giác ngộ tối thượng của một vị Phật, thì trong cả hai trường hợp, nhận thức cho rằng ta bị hủy
diệt là hoàn toàn sai lầm. Không phải một cá thể bị hủy diệt mà là cách nhìn sai lầm về một cá
thể bị hủy diệt. Một cá thể thì vẫn hiện hữu sờ sờ ra đó đấy chứ. Chỉ có một sự khác biệt duy
nhất là hắn đã lột bỏ được cái vô minh của hắn và những hậu quả liên hệ của nó mà thôi. Hắn
sẽ không còn phải gánh chịu khổ đau nữa dù là dưới bất cứ hình thức nào. Hắn được giải thoát
có nghĩa là hắn không còn bị bắt buộc phải tái sinh vào cái thế giới thấp này nữa tức là cái thế
giới Ta bà này để phải chịu đựng mọi thứ nghiệp và những xúc cảm bấn loạn.
Tuy nhiên còn tùy vào hắn, nếu hắn mong muốn và nếu hắn nhận thấy đấy sẽ là một
điều hữu ích, thì hắn cứ tái sinh trở lại với những con người chưa được giải thoát, nhưng riêng
phần hắn thì hắn vẫn cứ tiếp tục hưởng thụ cái hạnh phúc lâu dài phát sinh từ sự giải thoát của
hắn. Tuy là nói như thế, nhưng khi Đức Phật thuyết giảng thì Ngài luôn luôn chọn lựa những
lời giảng huấn thích nghi với người nghe. Do đó mà sinh ra đến bốn hệ thống triết học Phật
giáo khác nhau. Theo hệ thống Tỳ bà sa luận (Vaibhashika) thì Niết bàn đơn thuần và giản dị
chỉ là một sự tắt nghỉ, tuy nhiên các hệ thống khác không hoàn toàn đồng ý với cách giải thích
như thế. Vậy thì trong các trường hợp đó Niết bàn ở đâu ?
Chẳng có ở đâu cả bên ngoài một cá thể. Niết bàn chỉ là một thể dạng cảm nhận của
tâm thức mà thôi. Bên ngoài thì chuyện đó [Niết bàn] nhất định là không có. Niết bàn không
phải là một thế giới thật xa, hay là một thế giới siêu nhiên, nơi đó có các vị siêu phàm đã được
giải thoát sống quay quần với nhau và hoàn hoàn toàn cách biệt với con người thường tình.
Thật ra khi một người đã đạt được Giác ngộ thì sẽ tự tạo ra cho mình và trong lòng mình một
mảnh đất tinh khiết [Tịnh độ], cũng có thể gọi đấy là một "thiên đường" của riêng mình và
chính mình đang an trú trong đó. Tuy nhiên hắn [người đó] vẫn tiếp tục giữ một đặc tính cá thể
nào đó. Sự "hòa nhập" ấy [tức là giữa cá thể và cõi Tịnh độ] mang ý nghĩa bình đẳng - trên phương
diện phẩm tính, sự hiểu biết, v.v... - nhưng không phải là một sự "thẩm thấu" [tức là không phải
"nhập" vào cõi Tịnh độ mà chính mình là cõi Tịnh độ].
Vậy thì chính Ngài, Ngài đã từng tập luyện tâm thức thì Ngài đã tìm thấy
một thứ hạnh phúc bền vững hay chưa ?
Trong kiếp sống này, tôi may mắn gặp nhiều cơ hội thuận lợi để học hỏi về Phật giáo
và tôi cũng có một cái may mắn thật đặc biệt là được hội ngộ với nhiều vị thầy thật vĩ đại đã
ban cho tôi những lời giảng dạy quý giá. Cũng như tất cả những người trong chúng ta đây, tôi
cũng phải gặp nhiều khó khăn. Còn lâu thì tôi mới đạt được cái hạnh phúc vững bền, tuy
nhiên cho đến nay tôi chưa bao giờ bị khổ đau nghiền nát tôi cả. Có thể biết đâu cũng là vì tôi
chưa bao giờ gặp hoàn cảnh phải gánh chịu những khổ đau thật sự ? Tuy nhiên cũng có thể
đấy chính là kết quả của một sự hình thành nào đó mà tôi được thụ hưởng.
Trên phương diện thể xác, khi một sự đau đớn phát sinh, tôi vẫn nhận thấy sự đau đớn
đó, tuy nhiên tôi vẫn ý thức được rằng đấy là hậu quả của những nghiệp xấu của chính tôi và
tôi không để cho nó nghiền nát tôi. Tôi vẫn giữ được trầm tĩnh để suy nghĩ. Trên phương diện
tinh thần, đôi khi tôi vẫn có những mối lo lắng, chẳng hạn như có những sự việc không xảy ra
như ý tôi muốn, tuy nhiên và đồng thời tôi lại nghĩ rằng đấy chẳng qua là hậu quả của những
nghiệp không tốt. Tôi không nghĩ rằng đấy là một sự dửng dưng vô tình, mà đúng hơn là một
thái độ sáng suốt trước những gì đang xảy ra. Vì thế tại sao phải bất mãn ? Những gì đang xảy
ra đâu phải là một sự "bất công", đấy chỉ là một thứ gì thật bình thường : khi mọi nguyên nhân
hội đủ, hậu quả sẽ phát sinh. Ít ra thì tôi cũng không phải là một kẻ ích kỷ từ bản chất để
không cảm thấy liên hệ đến những biến cố đang xảy ra ?...
Để kết luận, thiết nghĩ cũng nên nhấn mạnh đến một điều là tất cả mọi người không
phải ai cũng sẵn sàng hướng về những thứ hạnh phúc tối thượng của sự giải thoát. Những
phương pháp giúp đạt được các thứ hạnh phúc trong cõi Ta bà cũng có nêu lên trong Phật
giáo. Tốt hơn là số đông mọi người nên khởi sự bằng những thứ hạnh phúc này. Những thứ
hạnh phúc đó sẽ giúp cho họ thăng tiến dần dần, theo nhịp độ thích nghi của từng người, rồi
đến một ngày nào đó ai mà biết được thì người ấy sẽ trở nên tinh tấn hơn để đạt đến mức độ
mà họ biết thích nghe đàm luận về sự giác ngộ.
Buổi đàm thoại được ông Frédéric Lenoir
và bà Jennifer Schwarz ghi chép.
Hoang Phong
(Bures-Suy-Yvette, 10.07.10)
Ngài Dagpo Rimpoché
chuyển ngữ

Vài lời giới thiệu của người dịch:

PHẬT TỬ XUẤT GIA - HT. THÍCH THANH TỪ




Phần luân lý của người xuất gia nằm gọn trong ba môn học trọng hệ là Giới, Định và Tuệ, thuật ngữ gọi Tam vô lậu học. Người xuất gia thiếu một trong ba môn này, không xứng đáng là người xuất gia. Ba môn này là cội rễ thân cây giải thoát. Nương ba môn học này, người xuất gia dẹp sạch tất cả phiền não, giác ngộ chân lý, tự độ và độ tha.

A. GIỚI HỌC

Giới là ngăn ngừa, kềm hãm các ngoại duyên không cho xâm phạm làm xao động tâm tư của người tu. Giới cũng có nghĩa là dừng quấy, dứt dữ. Ngừa tất cả quấy lỗi có thể xảy ra, đình chỉ mọi tội ác. Giới luật cũng có nghĩa riêng giải thoát. Người tu giữ được mỗi giới là giải thoát mỗi phần. Giới có công năng bảo vệ người tu được an ổn thanh tịnh. Giới là kiện tướng dẹp sạch quân ma, khiến người tu khỏi bị quấy nhiễu. Người quyết tâm tu hành không bao giờ dám xao lãng giới học. Khi sắp nhập Niết-bàn, đức Phật còn dạy các thầy Tỳ-kheo “lấy giới luật làm thầy”. Không ai tự nhiên tâm được yên định, trước phải nhờ ngăn ngừa ngoại duyên, sau tâm mới yên tĩnh. Như ngọn đèn để ngoài trời, thế nào cũng bị gió, đành phải nhờ bóng đèn bao bọc bên ngoài, ngọn đèn mới được đứng yên. Giới là bóng đèn ngăn ngừa gió ngoại cảnh, khiến ngọn tâm đăng của chúng ta yên tĩnh sáng suốt. Như ông nhà giàu có nhà cửa, vách chắc chắn nên nằm ngủ yên không lo sợ trộm cắp. Giới là cửa vách ngăn bọn trộm cắp phiền não, khiến tâm chủ nhân nằm ngủ yên lành. Người giữ giới thanh tịnh, tâm không rối loạn, hối hận.

Giới có: muời giới của Sa-di, hai trăm năm chục giới của Tỳ-kheo, ba trăm năm chục giới của Tỳ-kheo ni, mười giới trọng bốn mươi tám giới khinh của Bồ-tát. Người tu nhờ vòng rào giới luật, tâm được thư thái an tịnh. Cho nên, nhân giới sanh định.

B. ĐỊNH HỌC

Giới đã ngăn ngừa ngoại duyên không cho xâm phạm, định là phương pháp kềm chế nội tâm không cho phóng ngoại. Sáu căn luôn luôn tiếp xúc với sáu trần khiến tâm xao động, dùng định nhiếp phục sáu căn không cho chạy theo trần cảnh, để tâm được an trụ. Như câu chuyện trong kinh chép:

Con dã can đói đi tìm mồi, gặp con rùa đang bò. Dã can nhắm vào đầu rùa cắn, rùa thụt đầu vào vỏ. Dã can cắn đuôi rùa, rùa rút đuôi vào vỏ. Dã can cắn chân, rùa rút chân... Cuối cùng, vỏ rùa cứng quá, dã can cạp không nổi, phải bỏ đi.

Phật dạy: Tỳ-kheo nhiếp phục sáu căn cũng như thế. Khi nhiếp phục được sáu căn rồi, ngoại cảnh không thể nào xâm nhập được. Như con rùa không bị dã can làm hại.

(Kinh Tạp A-hàm, quyển 43, bài kinh số 1167)

Giới chỉ có công dụng ngừa ngoại duyên, kềm chế được tâm là do định. Nếu không tập định, chỉ giữ giới không, tâm vẫn xáo động. Như có người nuôi con khỉ, sợ nó chạy nhảy la lối, cấm không cho trẻ con đến chọc. Nhưng tánh khỉ không thể nào ngồi yên, nó vẫn chạy nhảy lăng xăng. Muốn nó ở một chỗ, ông chủ phải lấy dây niệt đầu nó dưới cây trụ, giãy giụa lâu không khỏi, mỏi mệt nó mới chịu nằm yên. Tâm chúng ta cũng vậy, tuy có giới ngăn cấm bên ngoài, không để ngoại duyên xâm phạm, tự nó bên trong thầm thầm xao động không ngừng. Muốn nó yên định, chúng ta cần phải chú tâm vào một cảnh, lâu ngày nó mới yên định.

Định có nhiều thứ: Tứ thiền, Bát định, Cửu thứ đệ định... Người tu thứ tự đi từ những định thô vào định tế. Khi tâm an định, mới phát khởi trí tuệ.

C. TUỆ HỌC

Tâm chúng ta chạy lăng xăng tản mác nên yếu ớt, mờ mịt. Muốn tâm sáng suốt, chúng ta phải dùng định nhiếp tâm trụ lại cho có sức mạnh. Khi tâm trụ rồi, chúng ta dùng nó quán sát mới đủ sức mạnh nhìn thấu sự thật. Như ngọn đèn không có chụp, ánh sáng loãng quá thành lờ mờ, chúng ta dùng chụp gom ánh sáng lại một chỗ nào, soi thấy sự vật chỗ ấy rất tỏ rõ. Công dụng của tâm cũng thế, bản tánh nó là sáng suốt, song chúng ta cả ngày phóng tâm theo ngoại cảnh xao xuyến không ngừng, nên dùng nó quan sát một việc gì chỉ hiểu lờ mờ, không rành rõ. Nếu chúng ta gom nó trụ lại một chỗ, khi ấy mới đủ sức phát huy ánh sáng soi thấu chân tướng thế gian. Trí tuệ này không phải do học mà được, cũng không phải từ đâu đến, chính tuệ sẵn có của chúng ta bị phân hóa, nay qui tụ được phát ra công năng như thế. Nó là một bảo châu vô giá sẵn có của chúng ta, tại vì chúng ta quên nó đi, cam chịu mờ tối khổ đau.

Trí tuệ có: Nhất thiết trí, Đạo chủng trí, Tự nhiên trí, Vô sư trí... Được trí tuệ, gọi là giác ngộ, chứng đạo. Mục đích người xuất gia đến chỗ này mới viên mãn.
Tóm lại, ba môn học này tương quan mật thiết với nhau. Nhờ giới làm trợ duyên tâm được định, nhờ tâm định phát sanh trí tuệ. Như nhờ bóng đèn, ngọn đèn đứng yên phát ra ánh sáng rực rỡ. Người xuất gia thực hiện đầy đủ ba môn học này, mới đạt được sở nguyện xuất ly tam giới, độ thoát chúng sanh.

HT. THÍCH THANH TỪ

NHÌN LẠI MÌNH_HT. THÍCH NHẬT QUANG

NHÌN LẠI MÌNH
HT. THÍCH NHẬT QUANG
03/01/2011 15:03 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng


Nhìn lại mình để thấy rõ mình đang ở đâu, làm gì. Là Phật tử chúng ta phải làm việc Phật làm, tu theo phương pháp Phật tu. Mỗi khi nhìn lại chúng ta sẽ thấy mình còn nhiều cù cặn tăm tối, bất an bất ổn. Nếu không đả thông được những tồn đọng này, chúng ta sẽ gây tạo tác nhân không tốt. Tác nhân không tốt thì hậu quả sẽ không tốt.

Nhiều vị Phật tử tu hành theo đạo Phật mà kết quả không như ý. Tại sao? Quý vị không nên đổ thừa tại pháp, tại thầy hướng dẫn, tại hoàn cảnh, mà phải nhìn thấy tại mình. Chúng ta làm chưa đúng, hiểu chưa tới, chưa thật sự ổn định và chín chắn trong việc tu tập. Hòa thượng Ân sư thường dạy mỗi vị phải biết thương mình. Tại sao phải thương mình? Vì từ lâu lắm rồi, do bất giác nên chúng ta tạo nghiệp nhân không tốt, tích chứa những cù cặn trong lòng, chưa giải trừ được nên bị nó hoành hành. Lại thêm hoàn cảnh chung quanh tác động, chúng ta mất tự chủ, tiếp tục gây tạo những nghiệp nhân xấu. Chiếu theo luật nhân quả, hễ gây nghiệp nhân thế nào thì sẽ bị nghiệp báo thế ấy. Nếu chúng ta áp dụng Phật pháp không đúng thì không bao giờ có lợi lạc như Phật đã nói. Chỉ khi nào chúng ta áp dụng đúng, kết quả lợi lạc mới đến, thành quả giác ngộ giải thoát không mong cầu cũng tự được.

Khi nhìn lại mình, có khi ta thấy mình yếu đuối, vớ vẩn, dễ duôi. Do thiếu sự cảnh giác, thiếu sự nhắc nhở của thiện hữu tri thức, ta lại lầm lũi tạo nghiệp, để rồi bị vướng mắc mãi thôi. Phật bảo ai cột thì người đó mở, chúng ta trói thì chúng ta mở, chứ không ai thay thế cho mình được. Giải thoát có nghĩa là tự mình cởi trói cho mình. Lâu nay chúng ta vướng kẹt, chưa đả thông được thì ngay bây giờ tự giải tỏa. Giải tỏa được, cởi mở được mới có niềm vui, có sức mạnh, từ đó phấn khởi tu tập tăng tiến hơn. Cột trói do ta mà giải thoát cũng do ta.

Chúng ta lang thang, vướng mắc theo các duyên bên ngoài là do sự tăm tối. Không ai muốn tăm tối, nhưng nó từ đâu tới mình cũng không biết. Nó hiện diện ở đâu đó trong chúng ta, loay hoay lẩn quẩn sơ hở một chút là nó xuất hiện. Nó xuất hiện thì sẽ dẫn chúng ta đi tới những hầm hố, những đoạn đường chông gai, bất an bất ổn. Chắc chắn như thế. Do vậy chúng ta cần kiểm điểm thật kỹ, đừng để tăm tối có cơ hội dấy khởi trong đời sống sinh hoạt của mình. Vừa có một niệm dấy khởi hãy buông đi. Buông được là yên. Biết nó không thật chúng ta vất bỏ, đó là tuệ. Định tuệ hiện tiền ngay phút giây tỉnh giác.

Đây là phương pháp cơ bản nhất của chúng ta. Chư huynh đệ đã nắm vững và có quá trình thể nghiệm, không ai muốn thua các dấy niệm. Vì vậy phải cố gắng mãnh tỉnh. Nếu yếu đuối, chưa dứt khoát, cứ làm ngơ khi niệm khởi lên, nó sống dậy được rồi, nhất định sẽ dẫn lôi chúng ta đi. Đang ngồi thế này nó dẫn ta ra phố hay trở lui về thời gian năm năm, mười năm, hai ba mươi năm trước. Nếu cứ để nó kéo lôi như thế, hiện tại chỉ còn cái xác mà không có chủ, làm gì được Niết-bàn, an lạc.

Nhiều huynh đệ đã dày công tu tập, tham gia đạo tràng, nhưng thời gian sau không muốn tới đạo tràng nữa. Là vì các vị thấy tới đạo tràng cũng thế, ngồi thiền cũng thế, tụng kinh cũng thế, họp mặt huynh đệ trao đổi đạo lý đủ thứ, cuối cùng những dấy niệm kéo lôi, những bất an bất ổn vẫn hiện hình đầy dẫy. Do đó nên chán, không muốn tu, không muốn sinh hoạt đạo tràng nữa. Xin đề nghị quý Phật tử cắt đứt những vọng tưởng này, giải tỏa điểm này. Quý vị phải biết gầy dựng tuệ giác từ chính mình, bằng ý chí, nghị lực, sự kiên định và niềm tin bất thoái chuyển. Chúng ta có sẵn trí tuệ, chỉ cần chuyên tâm nhất ý phát huy, không nên bị xao động hay bị lung lay bởi ngoại duyên.

Chúng ta có phương pháp để gầy dựng công phu, làm sao cho trí tuệ Bát-nhã hiện tiền, viên mãn. Không ai nỡ lòng nào đập chết trí tuệ của mình. Đập chết trí tuệ đồng nghĩa với làm mất đi chủng Phật của chúng ta. Người con Phật, cố gắng trong mọi sinh hoạt, làm chủ được mình. Đừng bao giờ chúng ta làm tắt đi ánh sáng, ngọn đèn tuệ của chúng ta. Ngọn đèn tuệ tắt rồi, sự tăm tối dẫy đầy, ta sẽ quờ quạng trong đêm đen, bao nhiêu sự cố xảy ra đằng sau, ta hoàn toàn không thể biết được. Thật nguy hiểm. Giống như kẻ lữ khách đi trong đêm đen, không có ánh sáng, không biết đường đi, quờ quạng ngã nghiêng trên những hầm hố chông gai, nguy hiểm biết bao nhiêu. Do đó chúng ta phải thương mình, lựa đường tốt mà đi, đi trong ánh sáng.

Trong bài ca chăn trâu của Thường Chiếu có câu “Trâu cứ đi đường ngay lối thẳng, dù trên đường chẳng có chi vui”. Không được liếc ngó hai bên, chỉ nhìn thẳng mà đi. Muốn thế không phải là dễ. Bởi vì chúng ta có thói quen ngó liếc, quen ghé xóm này làng nọ, quen lăng xăng, còn việc nhìn thẳng chính mình lại không quen. Ở trong thiền viện, các thầy nhỏ có một cái bệnh thật ngộ, là tới giờ tụng kinh lại muốn nằm. Quái lạ thật! Từ sáng tới trưa đi ngược đi xuôi, làm trăm công ngàn việc, có khi trưa cũng không biết mệt, vẫn cứ làm. Nhưng tới giờ tu tập cho mình, sống cho mình lại khởi niệm lười biếng. Không biết từ đâu nó khởi lên, tự nhiên muốn nằm. Lúc đó nếu không có sự nhắc nhở của chuông bảng, của đại chúng, của uy lực thiền môn, nhất định mình nằm dài thôi. Nhờ có chuông bảng, có đại chúng, quý vị muốn nằm cũng nằm không yên. Nằm mà nghe tiếng đại hồng chung tác động vào tim, vào huyết quản, tự nhiên bất an, thấy mình không tròn trách nhiệm, không biết thương mình, nhất định phải ngồi dậy. Cho nên tu sống trong tăng chúng được sự bảo hộ che chở như vậy.

Quý Phật tử sinh hoạt trong đạo tràng một tuần hoặc hai tuần mới gặp nhau một lần, sự cảnh tỉnh không đặc biệt như chúng tôi. Khi quý vị muốn nằm cứ nằm ra đó, có vị còn biểu người khác đấm bóp nữa. Việc tu như thế dĩ nhiên là chậm tiến rồi. Hôm nay mất một giờ, ngày mai cũng mất một giờ, dần dần thành quen nên đến giờ tu là quý vị nằm. Nhiều người còn biện minh: Bạch thầy, nằm cũng thiền được!

Cho nên tôi muốn nhắc nhở quý vị đừng bao giờ dễ duôi, mà phải nghiêm túc. Ví dụ các vị đến sinh hoạt ở đây, bảy giờ tụng kinh, tám giờ ngồi thiền, chín giờ nghe pháp, đâu đó có giờ giấc và sự hướng dẫn của các huynh trưởng đàng hoàng. Giờ học tập, giờ tụng kinh, giờ ngồi thiền đầy đủ, thì cứ theo sự hướng dẫn ấy mà làm, lâu dần nó sẽ gắn bó, sẽ bắt nhịp cho những nấc thang căn bản để chúng ta đi vào nề nếp và tăng tiến công phu.

Chữ “nề nếp” trong đạo tràng có khi trải qua năm mười năm mới gầy dựng được. Như thiền viện Thường Chiếu có mặt trên vùng đất Long Thành từ năm 1974, nhưng tới những năm của thập kỷ chín mươi mới vào nề nếp, mà cũng chưa phải hoàn bị. Nhờ uy lực của Hòa thượng và chư tăng, nhờ sự cảnh giác tu hành của quý thầy mới vào nề nếp. Nếu như chúng tôi tự do phóng túng buông lung, ai muốn làm gì thì làm, chắc chắn không thể nào vào nề nếp được, dù cho thời gian có kéo dài bao lâu.

Tôi nói như thế để làm gì? Để huynh đệ nắm được, nhận ra được những khiếm khuyết, cù cặn, yếu đuối mà cùng nhau nhắc nhở sửa đổi. Đối với người tu, tất cả những thứ đó phải được tiêu dung, không thể nuôi dưỡng nó trong lòng. Nuôi dưỡng nó giống như nuôi giặc trong nhà. Mời nó ra chúng ta mới yên được. Có đả thông được những bất an bất ổn trong lòng chúng ta mới vui được. Buổi sáng quý vị đến được đạo tràng là vì trong lòng không có những trở ngại, bất an. Quý vị trông mong đến giờ họp bạn để huynh đệ tu tập vui vẻ.

Mỗi chúng ta đều có trí tuệ, có tánh giác, nhưng từ nhiều đời, vọng tưởng lăng xăng bu bám, làm cho trí tuệ khuất lấp, ta không sử dụng được. Giống như ngôi nhà có cửa chính, người chủ giữ chìa khóa chứ không ai khác. Nhưng ngặt nỗi chủ nhà đã bỏ quên chìa khóa ở đâu rồi, bây giờ muốn vô nhà không biết làm sao vô. Dù biết mình là chủ nhà, nhưng nếu chưa kiếm được chìa khóa thì chưa thể vô nhà được. Ở đây tôi muốn nhấn mạnh, chúng ta nói mình là chủ chưa đủ, phải nắm chìa khoá trong tay, muốn vô nhà thì vô, muốn ở ngoài thì ở, không cần nói chủ chi cả.

Trong công phu tu hành, trước nhất là phải tỉnh. Nếu chúng ta thiếu tỉnh sẽ bị ngoại cảnh bên ngoài kéo lôi, vọng tưởng lăng xăng bên trong dẫn đi, làm mất thì giờ của mình. Những chuyện tạp nói qua nói về với nhau không đáng gì mà làm mất hết quỹ thời gian vốn có hạn của chúng ta. Nên nghĩ đến việc tu tập, việc chính quy của mình là áp dụng pháp Phật dạy vào sinh hoạt thường ngày, đừng để loạn tưởng xen vô cướp hết gia sản nhà mình.

Những lúc không tỉnh, bỏ quên chìa khóa, chúng ta muốn vô nhà vô không được, lang thang như những kẻ không nhà, khổ ơi là khổ. Lúc bấy giờ muốn làm gì cũng không được, hoàn toàn mất hết chủ quyền. Có những người tu hành nhiều năm, học Phật nhiều năm nhưng vẫn không có kết quả gì. Đó là tình trạng bỏ quên chìa khóa, lang thang ngoài đường gặp cái gì vớ được thì vớ, mất hết định hướng ban đầu, dần dần loạn tâm, không còn tu tập theo chánh pháp nữa. Người có trí khi nghe ai nói điều gì cũng suy nghĩ xem đúng không, không phải nghe liền tin, tin rồi chạy theo.

Từ tỉnh có định, từ định có tuệ. Cho nên thiếu tỉnh thì không có định tuệ. Không có định tuệ giống như lục bình ngược xuôi trôi giạt theo con nước, bến đỗ ở đâu không biết. Người tu thiếu định tuệ dễ lâm vấp vào tình huống: Một là bị hủy diệt giữa giòng đời. Hai là tấp bờ bên này. Ba là tấp bờ bên kia. Bốn là bị những lực khác đẩy trôi giạt, không thực hiện được mục đích của mình, như trường hợp bị người ta vớt. Như vậy nuôi dưỡng công phu tỉnh giác cũng không phải dễ dàng.

Nếu thiếu tỉnh giác, chúng ta sẽ gây những tác động đến chung quanh, chẳng những mất mình, mà còn làm xáo trộn, gây ảnh hưởng bất an bất ổn cho mọi người nữa. Ví dụ trong đạo tràng chúng ta có một trăm huynh đệ, chỉ cần một người bất tỉnh thôi là huynh đệ thất điên bát đảo. Kinh nghiệm ở thiền viện chúng tôi thấy, một trăm mấy chục thầy, trên có Hòa thượng kế đến là các thiện hữu tri thức, Phật tử đàn-na chung quanh như thế, nhưng hôm nào có một người bất an ở đâu chạy tới, nói líu lo đủ thứ chuyện trên đời. Bấy giờ từ nhà khách vô tới chánh điện, mấy thầy kẻ chặn người khuyên mời ra, không được đi lộn xộn nói năng lung tung như thế. Rõ ràng chỉ một người không bình thường làm rộn ràng đến nhiều người.

Cho nên muốn bảo vệ sự tu tập chung của mọi người, trong đó có bản thân mình, mỗi vị phải tỉnh. Tỉnh để đừng phát ra những lời lẽ, đừng nuôi dưỡng những ý nghĩ, hoặc hành động gây ảnh hưởng xấu đối với bạn hữu, với việc tu tập chung. Cho nên tỉnh là một pháp học cốt lõi của người tu. Người không tỉnh thì tu không được, vì cứ dính cái này mắc cái kia. Hòa thượng thường dạy: Nghĩ cái gì, chịu khó tỉnh, nghĩ sai thì đừng nghĩ. Nói cái gì, chịu khó tỉnh, nói sai, nói để được mình mà hại người thì đừng nói. Làm cái gì thương tổn đến người thì đừng làm.

Do đó huynh đệ phải tự kiểm luôn. Kiểm ý nghĩ, lời nói, việc làm, nhớ phải tỉnh. Chúng ta không thể là người bất tỉnh, mà là người tỉnh. Tỉnh để có định, định để có tuệ, định tuệ đầy đủ là người giác ngộ. Giác ngộ đầu tiên trong đạo Phật là thấy được lẽ thực của các pháp. Sở dĩ lâu nay chúng ta vướng mắc, trôi giạt, không giải tỏa được là vì chưa thấy được lẽ thực. Chúng ta còn lầm nhận, còn mê muội nên mới vướng mắc. Bây giờ thấy được lẽ thực rồi không còn vướng mắc nữa. Giống như người biết phân biệt vàng giả vàng thật, sẽ không mua nhằm vàng giả nữa, dù người ta có đánh bóng tới đâu, đẹp cỡ nào, họ cũng không lầm.

Một khi chúng ta biết được tận căn để các pháp không thật rồi thì giải thoát tức thì. Cho nên nói thiếu tỉnh khó mà giải thoát. Muốn giải thoát phải tỉnh. Quý vị muốn giải thoát, muốn bình yên, nên tỉnh táo sắp đặt mọi việc theo trí tuệ nhận biết các pháp không thật, sẽ thấy mọi việc nhẹ nhàng an ổn. Hôm nào không tỉnh sẽ làm đảo lộn hết mọi sinh hoạt. Ví dụ như sáng phải ăn chút gì đó mới đi làm, sáng người ta chưa ăn mà mình bảo đi làm thì người ta không chịu đâu. Cho nên sắp đặt việc, phải tỉnh sắp đặt mới đúng.

Chính các vị đại đệ tử của đức Thế Tôn đôi khi cũng sắp đặt không ổn. Trong kinh A-hàm kể lại, có vị cư sĩ được tôn giả A-nan dạy tu, ông tu một thời gian đến thưa với Phật: Bạch đức Thế Tôn con tu không được, nay xin hoàn tục. Phật hỏi: Ông làm nghề gì? Thưa: Con làm nghề thợ rèn. Phật hỏi: Thầy ông dạy tu ra sao? Thầy dạy con quán bất tịnh. Đức Thế Tôn kêu A-nan lại bảo: Sao ông dạy như thế? Thợ rèn phải dạy đếm hơi thở mới thành công. Thế là nhờ đức Phật dạy lại pháp quán sổ tức, người thợ rèn tu chẳng bao lâu liền chứng quả A-la-hán. Một chút như thế thôi mà đảo lộn tất cả.

Sau khi khắc tỉnh rồi, chúng ta phải tu. Tu là sửa, thấy đến nơi đến chốn mọi sai lầm của mình trước kia thì phải sửa. Khi mình đã có nội tại vững, thì cái nhìn đúng đắn. Cho nên các bậc tôn túc tu tập nhuần nhuyễn, nói điều gì, sắp đặt việc gì đều thành tựu. Nói đến tu là nói đến sửa, những gì còn cù cặn phải thẩy bỏ. Trong giai đoạn mình đang dụng công, phải tích cực ứng dụng giáo pháp đã học, tu sửa và sống cho được với điều Phật tổ dạy. Nói và làm thống nhất, như vậy mới đúng tinh thần nhà thiền. Người nói thiền thế này, thế kia, siêu xuất, đặc biệt… mà bản thân không sửa đổi, không áp dụng được, đó chỉ là nói suông cho vui, không có lợi lạc, không có giá trị gì hết.

Khi công phu cần đến sự quyết tâm của hành giả đối với pháp tu. Ở đây, chúng ta tu thiền. Giả dụ có ai hỏi quý vị hành thiền như thế nào? Chúng ta không thể giải thích: Hành thiền là mỗi tháng đến đạo tràng bao nhiêu lần, ngồi thiền bao nhiêu lần… Không phải như thế, mà phải tỉnh, phải có trí tuệ, phải thể hiện cuộc sống an lạc, thảnh thơi, không vướng mắc, không phiền hận, không lăng xăng phân biệt hơn thua, được mất, thương ghét… Do đó các thiền sư khi được hỏi thiền, các ngài vỗ vào miệng mình. Xử sự như thế mới đúng tinh thần nhà thiền.

Hồi xưa các thiền sư thăng toà nêu lên đề mục nào đó, mỗi vị trong hội chúng trình bày chỗ nhận của mình. Đúng thì Hòa thượng gật đầu, chưa đúng Hòa thượng khai thông cho mình. Ngày nay, chúng tôi ở thiền viện cũng được Hòa thượng hỏi: Lâu nay tu ra sao, nói nghe coi. Thầy nào lạng quạng là Hòa thượng biết ngay vô cửa chưa được. Hoặc nói bắn bổng trên mây xanh liền bị ngài quở, phải xem xét lại công phu cho chín chắn. Chúng ta phát tâm tu là một việc rất tốt, không nên tự dối, nói điều gì với thầy tổ cũng bằng tâm chân thực, như vậy sẽ có lợi ích cho việc tu tập của mình. Thấy như thế, tu như thế, nói như thế, cứ trình bày như thế. Điều gì không đúng, thầy sẽ hướng dẫn lại. Vừa nói ra trật rồi thì đừng cố nói nữa. Đó là người biết tu sửa.

Chúng ta tu thiền, chắc chắn không áp dụng điều gì khác ngoài đường lối đã học, nhất định thành quả lợi lạc sẽ đến với mình. Thành quả đó là gì? Nhiều vị cho rằng thành quả là Niết-bàn hay gì gì đó. Thưa, không phải vậy. Hồi trước chúng ta chưa biết Phật pháp, chưa đủ duyên gặp gỡ huynh đệ, cùng chung sinh hoạt trong đạo tràng, mỗi lần có sự cố gì xảy ra trong cuộc đời, như bị người mạ nhục, quý vị thấy tối tăm mày mặt, thấy ngạt thở, tức giận không còn tự chủ được nữa v.v… Lúc chưa biết Phật pháp, rơi vào tình trạng như vậy không có gì đáng trách. Nhưng kể từ khi gặp Phật pháp, sinh hoạt đạo tràng rồi, áp dụng lời Phật, gặp những tình huống như thế quý vị nuôi dưỡng phiền não là sai bét, đáng trách. Đối diện với các cảnh duyên ấy không phải mình đóng tai, bịt mũi, mà vẫn nghe rõ ràng, thấy rõ ràng, cảm giác rõ ràng, không có gì khuất lấp cả, nhưng mình bình thường, thấy không có vấn đề gì cả. Mình còn biết rõ đây là nhân duyên quả báo chiêu cảm mà nên. Nhờ thế quý vị đầy đủ tinh thần vượt qua các nghịch cảnh dễ dàng. Đó chính là thành quả của chúng ta.

Trong kinh A-hàm kể lại, một buổi sáng đức Phật đi khất thực, hai thầy trò vị Phạm chí đi phía sau, người đệ tử khen Phật từ bước đi cho đến dáng đứng, cái gì cũng khen, còn ông thầy thì mạ lị hết lời. Phật bảo lời khen ấy cũng không dính dáng tới Như Lai, lời mạ lị kia cũng không dính dáng tới Như Lai. Nếu nói theo nhà thiền là không can hệ gì đến ta. Kết quả của tu thiền là tám gió thổi không động. Tám gió là lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc, chúng thổi ta không động mới thật sự an nhiên tự do tự tại, tự làm chủ hoàn toàn. Chúng ta là thiền sinh ít ra năm ba thứ gió thổi không lay động mới được chứ! Chẳng lẽ bao nhiêu năm tu tập mà bị thổi tróc hết sao? Được người công kênh cũng không mừng. Bị người khinh chê cũng không buồn. Như vậy không phải thích thú lắm sao, do đâu phải ôm ấp phiền não?

Chúng ta tự chiêm nghiệm về công phu tu hành hằng ngày của mình, biết điểm nào còn yếu, cố gắng chấn chỉnh thêm lên, chỗ nào đã vững cố gắng phát huy. Chỗ tu hành cần phải được thể nghiệm hằng ngày, ngay cả trong mọi sinh hoạt bình thường của chúng ta. Đụng việc nổi đóa lên, bất như ý một chút la om sòm, thì còn gì người tu nữa. Cho nên chúng ta nỗ lực, khắc phục, khắc tỉnh, tự nguyện áp dụng lời Phật dạy vào đời tu của mình cho được lợi lạc.

Chúng ta càng tu tập, trí tuệ càng phát huy, càng viên mãn. Đó là điều chắc chắn không nghi. Kính chúc quý pháp hữu luôn phát huy được trí tuệ để chúng ta đi đến toàn giác, lợi lạc quần sanh, báo ân Phật tổ.
Theo Thiền viện Thường Chiếu

Nhìn lại mình là pháp tu gốc của đạo Phật, đặc biệt của những hành giả tu thiền. Do thấy được mình, chúng ta mới mãnh tỉnh khắc phục những khiếm khuyết, nỗ lực tu hành, chiến thắng mọi bất an bất ổn trong lòng.