Trong cuộc sống đầy nhiễu nhương bất trắc, chúng ta đã bao lần mơ sang sông. Mơ thế giới cực lạc của Phật, Bồ Tát, Thánh hiền. Những lúc chân chùn gối mỏi, mơ được nằm duỗi trong cõi thiên thai, rũ bỏ mọi trần lụy vương mang. Hoặc khi não phiền nhân thế ta muốn được gối đầu, ấp ủ trong vòng tay mẹ, nghe lại khúc hát ầu ơ ngày nào mẹ đã hát ru con. Có khi ta lại mơ được sống trong cảnh giàu sang vương giả. Ai ai đều có một cõi để về. Nhưng có một cõi không có nơi chốn, không có sang hèn, phiền lụy, không có chỗ đi về, trong đó Phật, Bồ Tát, Thánh hiền như điện chớp, Như vậy mỗi người đếu có một đoạn nhân duyên thuận hay nghịch, tốt hay xấu.. Từ đó sẽ trổ sanh hoa trái, kết thành hiện quả.
Nếu trước anh chàng tiều phu Huệ Năng khi đến chỗ Ngũ Tổ không khẳng định: ‘Người tuy có Nam Bắc nhưng Phật tánh vốn không có Nam Bắc, thân quê mùa này cùng với Hòa Thượng chẳng đồng, nhưng Phật tánh đâu có sai khác’ thì làm gì Ngũ Tổ biết được hòn ngọc ma ni lẫn trong núi đá. Nhưng phải đợi đến khi Tổ Huệ Năng làm bài kệ :
Bồ đề bổn vô thọ
Minh cảnh diệc phi đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai. [Bồ đề vốn không cây
Gương sáng cũng chẳng đài
Xưa nay không một vật
Chỗ nào dính bụi bặm].
Ngũ Tổ mới biết chỗ dùng hằng ngày của Huệ Năng.
Ngũ Tổ đã chọn không lầm người, vàng quặng đã phân, nên đêm tối canh ba Ngài đã nói kinh Kim Cang, Huệ Năng đốn ngộ, Ngũ Tổ truyền y bát, hôm qua là tiều phu, hôm nay thành Lục Tổ. Nếu không có giây phút ‘Đâu ngờ .....’ thì đâu có ngày ông lái đò Ngũ Tổ đưa khách sang sông. Và khách đã giành lấy gay chèo : ‘Khi mê thì Thầy độ, ngộ rồi thì tự độ’
Năm tháng dần trôi đời người chóng vánh, nếu chẳng lo cầu tự độ chỉ nương theo oai thần Phật, Bồ Tát bên ngoài thì dầu phước đức như hà sa, e rằng cũng không thể cứu được. Mảnh hình hài này sớm muộn cũng trở về cát bụi, còn chăng chỉ một nấm mồ rêu phong phủ kín, bốn mùa sương nắng. Muốn được độ thoát phải tự tìm ra ‘linh cốt tiên sư’, bất chợt một sáng mùa đông hé nở đóa mai vàng, ấy gọi là ‘Nếu chẳng một phen sương lạnh buốt, hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương’.
Tri ân bậc Thầy mở sáng mắt tuệ, dầu sức cùng lực tận vẫn mong có ngày đền đáp. Hoa Đình Thuyền Tử ngày ngày đưa khách sang sông, tùy duyên độ nhật. Cho đến khi gặp Giáp Sơn Thiện Hội Thầy trò tha hồ khua chèo lướt sóng, một lần gặp nhau, trở thành vĩnh cữu. Đã xong một đời, có kẻ kế thừa Thuyền tử buông chèo, úp thuyền, thỏng tay đi vào cõi bất diệt. Một đoạn tương phùng kỳ ngộ này đâu không đủ đền ân ư?
Một tay buông lơi, một tay nắm chặt đầu dây lần lên bờ giác. Khách trần muốn xuất ly sanh tử, nếu còn chút vương vấn bụi trần e khó lòng thấu thoát. Xưa Hòa Thượng Tôn sư đã một phen từ giả phố thị phù hoa, khăn gói lên núi Tương Kỳ, chặt tre phá rừng dựng lên Pháp Lạc Thất, ngày ngày vui đời hạc nội mây ngàn. Bóng chiều tỏa mát non xanh, một mình một bóng say trong pháp thực. Để từ đó bừng nở đoá hoa chân thường, hạt mầm tung rải khắp nơi nơi. Và mỗi mảnh đất tâm của những chúng sanh hữu duyên đã được gieo mầm từ đấy.
Nhờ chút nhân lành tôi được về Thiền Viện Chơn Không xin Thầy xuất gia, bắt đầu đời tăng lữ, một bát cơm ngàn nhà. Dẫu được ngồi trong thiền đường nghiêm tịnh nhưng đôi lúc vẫn chưa thoát hẳn bụi não phiền. Những năm tháng thăng trầm mái chèo của Người vẫn không ngừng lướt sóng. Xưa Ngũ Tổ chỉ tiễn Lục Tổ qua sông một lần rồi thôi, nay Người dù tuổi hạc đã cao, ở bất cứ nơi nào vẫn lèo lái thuyền chúng tôi ra khơi và luôn có mặt trong những cơn sóng dữ, chúng tôi luôn cảm nhận sự hộ niệm trợ giúp của Người. Ôi! cái duyên Thầy trò thật sâu lắng.
Ngọn lửa vô thường đang thiêu đốt con người, vạn vật. Mới hôm qua còn chị chị, em em, sáng nay đã trở thành thiên cổ. Đền đài, lầu chợ chỉ một cơn sóng dữ đã nuốt trôi. Vật đổi sao dời, tang điền thương hải! Ai dám nói mình có sức mạnh chống lại vô thường? Nếu không vậy ắt cam cúi đầu chịu khổ ư? Nhà Sư Nguyễn Hiểu đã từng nói : ‘Tận dụng hết mọi nổ lực của con người cũng không chận đứng được sự héo úa của một cành hoa, vậy thì trong khi đóa hoa đang dần dần héo úa, ta hãy ung dung ngắm nhìn và thưởng thức giây phút cuối cùng của cành hoa đó đi.’
Đời vô thường, thân người không bền chắc, nhưng hãy tận dụng nó để đem đến niềm an vui, hạnh phúc cho mọi người. Cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời ta vẫn nguyện làm chiếc bè cho kẻ chết đuối, thiên thần cho trẻ mồ côi, khuyết tật, bạn tốt cho kẻ lữ hành mỏi mệt, để hoàn thành sứ mạng tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự. Các pháp sanh khởi hay tận diệt đều do nhân duyên ta không thể kháng cự mà chỉ tùy duyên tiêu cựu nghiệp.
Những trận thiên tai, lũ lụt, chiến tranh gây mất mát đau thương cho hàng trăm nghìn gia đình. Đó cũng là những đoạn bi thương của nhân loại. Hằng bao trái tim hướng về đó cầu nguyện. Không ai muốn chiến tranh, chiến tranh vẫn xảy ra. Không ai muốn thiên tai, nó vẫn đến. Có những điều ta không muốn nó vẫn ngang ngược xấn tới, những điều ta muốn nó lại rũ áo ra đi.
Tất cả đều do nhân duyên, vì cái này có nên cái kia có, cái này không nên cái kia cũng không. Hiểu được lý này chúng ta mới biết lý do tại sao có những điều đáng lẽ không nên xảy ra lại xảy ra. Khi một hiện tượng bất trắc xảy ra ta thường đổ thừa trách móc hoặc phê phán thị phi, khi hiểu rõ lý nhân duyên ta sẽ không còn thắc mắc, vì nó phải như vậy để đưa đến kết quả như vầy, không thể khác hơn. Mọi thứ như đã được sắp đặt trùng hợp và ăn khớp. Đó là việc của nhân duyên.
Nói thế không có nghĩa mình đầu hàng với vận mạng như một số nhà nho thường quan niệm mà chính là phải tận hết sức mình để xoay chuyển một cuộc cờ nhưng thành công hay không vẫn còn là vấn đề tùy duyên.
Mỗi người chúng ta đều đang vật lộn với ván cờ mà thắng hay bại chưa ai có thể nắm chắc. Nếu ta đưa ra nước cờ đúng thì mọi thứ sẽ được xoay chuyển tùy thuộc, nếu sai thì ảnh hưởng không lường. Trong đời chúng ta đã chơi nhiều ván cờ, kết quả vinh nhục, sang hèn, khen chê ... đều có đủ. Quan trọng không phải chúng ta khóc cười theo từng làn sóng này mà chính là học được những bài học từ đó.
Khi Edison chứng kiến cảnh phòng thí nghiệm, cơ xưởng của ông bị lửa thiêu đốt, ông bình thản và lạc quan đến không ngờ. Ông bảo con mình gọi mẹ đến xem, ông nghĩ rằng ngọn lửa thiêu rụi bao công sức của ông, đồng thời cũng đốt cháy, xóa sạch những sai lầm trong nghiên cứu của ông. Sao có thể lạc quan như vậy? Vì với ông, ông không xem trọng vật chất, chỉ nghĩ đến sự cống hiến cho nhân loại. Đã gọi là cống hiến thì cái đầu ông vẫn còn đây, ông sẽ tiếp tục phát minh cho đến ngày cuối cùng để phụng sự cho nhân loại.
Ngày chúng tôi xây cất chánh điện Quang Chiếu. Khi dựng giàn kèo, chưa kịp đóng chắc, một cơn gió lớn thổi xập. Khi nghe tin giàn kèo xập, điều chúng tôi nghĩ đến đầu tiên là có ai bị kẹt trong đó không? Khi biết tất cả thợ đều ở bên ngoài, chỉ có một người bị thương nhẹ, chúng tôi nhận thấy mình đã được chư Phật che chở.
Nếu nhìn trên mặt bi quan ta sẽ ngồi đó tiếc rẻ, tìm kiếm lỗi phải, như vậy chỉ chuốc lấy khổ đau. Xưa có bà lão có hai người con, một người bán giày, một người bán dù, Ngày nắng bà khóc vì đứa con bán dù ế ẩm, ngày mưa bà cũng khóc vì đứa con bán giày không được. Chuyện đến tai vị Thiền Sư, ngài gọi bà lão đến bảo : ‘Kể từ nay bà nên đổi quan niệm lại. Trời nắng bà mừng vì đứa con bán giày đắc, trời mưa bà mừng đứa con bán dù khấm khá’ Từ đó về sau dù mưa hay nắng bà lão cũng cười và mừng cho các con mình.
Chuyển đổi một cái nhìn là chuyển cả cục diện, cả cuộc đời chớ không phải thường. Khi mọi điều bất trắc xảy đến, chúng ta hãy nhìn trên khía cạnh lạc quan, mình sẽ cảm thấy được cứu độ.
Như vậy mỗi đoạn nhân duyên có một ý nghĩa khác nhau. Trong sự thành công hay thất bại đều có những điều khuyên răn, những bài học rất hay. Có khi trong thất bại chua cay chúng ta lại học được nhiều kinh nghiệm sâu sắc làm thềm thang cho bước thành công mai sau. Tất cả đều do nhân duyên. Hãy cứ gieo những hạt giống tốt, bảo dưỡng bằng những duyên tốt, chắc chắn ta sẽ gặt hái được hoa tươi trái ngọt. Ngược lại nếu gieo gió ắt gặp bão, kết quả sẽ tùy thuộc nơi nhân, sớm hoặc muộn mà thôi.
Hạnh Diệu
http://www.thienvienquangchieu.org/DacSan/
Nếu trước anh chàng tiều phu Huệ Năng khi đến chỗ Ngũ Tổ không khẳng định: ‘Người tuy có Nam Bắc nhưng Phật tánh vốn không có Nam Bắc, thân quê mùa này cùng với Hòa Thượng chẳng đồng, nhưng Phật tánh đâu có sai khác’ thì làm gì Ngũ Tổ biết được hòn ngọc ma ni lẫn trong núi đá. Nhưng phải đợi đến khi Tổ Huệ Năng làm bài kệ :
Bồ đề bổn vô thọ
Minh cảnh diệc phi đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai. [Bồ đề vốn không cây
Gương sáng cũng chẳng đài
Xưa nay không một vật
Chỗ nào dính bụi bặm].
Ngũ Tổ mới biết chỗ dùng hằng ngày của Huệ Năng.
Ngũ Tổ đã chọn không lầm người, vàng quặng đã phân, nên đêm tối canh ba Ngài đã nói kinh Kim Cang, Huệ Năng đốn ngộ, Ngũ Tổ truyền y bát, hôm qua là tiều phu, hôm nay thành Lục Tổ. Nếu không có giây phút ‘Đâu ngờ .....’ thì đâu có ngày ông lái đò Ngũ Tổ đưa khách sang sông. Và khách đã giành lấy gay chèo : ‘Khi mê thì Thầy độ, ngộ rồi thì tự độ’
Năm tháng dần trôi đời người chóng vánh, nếu chẳng lo cầu tự độ chỉ nương theo oai thần Phật, Bồ Tát bên ngoài thì dầu phước đức như hà sa, e rằng cũng không thể cứu được. Mảnh hình hài này sớm muộn cũng trở về cát bụi, còn chăng chỉ một nấm mồ rêu phong phủ kín, bốn mùa sương nắng. Muốn được độ thoát phải tự tìm ra ‘linh cốt tiên sư’, bất chợt một sáng mùa đông hé nở đóa mai vàng, ấy gọi là ‘Nếu chẳng một phen sương lạnh buốt, hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương’.
Tri ân bậc Thầy mở sáng mắt tuệ, dầu sức cùng lực tận vẫn mong có ngày đền đáp. Hoa Đình Thuyền Tử ngày ngày đưa khách sang sông, tùy duyên độ nhật. Cho đến khi gặp Giáp Sơn Thiện Hội Thầy trò tha hồ khua chèo lướt sóng, một lần gặp nhau, trở thành vĩnh cữu. Đã xong một đời, có kẻ kế thừa Thuyền tử buông chèo, úp thuyền, thỏng tay đi vào cõi bất diệt. Một đoạn tương phùng kỳ ngộ này đâu không đủ đền ân ư?
Một tay buông lơi, một tay nắm chặt đầu dây lần lên bờ giác. Khách trần muốn xuất ly sanh tử, nếu còn chút vương vấn bụi trần e khó lòng thấu thoát. Xưa Hòa Thượng Tôn sư đã một phen từ giả phố thị phù hoa, khăn gói lên núi Tương Kỳ, chặt tre phá rừng dựng lên Pháp Lạc Thất, ngày ngày vui đời hạc nội mây ngàn. Bóng chiều tỏa mát non xanh, một mình một bóng say trong pháp thực. Để từ đó bừng nở đoá hoa chân thường, hạt mầm tung rải khắp nơi nơi. Và mỗi mảnh đất tâm của những chúng sanh hữu duyên đã được gieo mầm từ đấy.
Nhờ chút nhân lành tôi được về Thiền Viện Chơn Không xin Thầy xuất gia, bắt đầu đời tăng lữ, một bát cơm ngàn nhà. Dẫu được ngồi trong thiền đường nghiêm tịnh nhưng đôi lúc vẫn chưa thoát hẳn bụi não phiền. Những năm tháng thăng trầm mái chèo của Người vẫn không ngừng lướt sóng. Xưa Ngũ Tổ chỉ tiễn Lục Tổ qua sông một lần rồi thôi, nay Người dù tuổi hạc đã cao, ở bất cứ nơi nào vẫn lèo lái thuyền chúng tôi ra khơi và luôn có mặt trong những cơn sóng dữ, chúng tôi luôn cảm nhận sự hộ niệm trợ giúp của Người. Ôi! cái duyên Thầy trò thật sâu lắng.
Ngọn lửa vô thường đang thiêu đốt con người, vạn vật. Mới hôm qua còn chị chị, em em, sáng nay đã trở thành thiên cổ. Đền đài, lầu chợ chỉ một cơn sóng dữ đã nuốt trôi. Vật đổi sao dời, tang điền thương hải! Ai dám nói mình có sức mạnh chống lại vô thường? Nếu không vậy ắt cam cúi đầu chịu khổ ư? Nhà Sư Nguyễn Hiểu đã từng nói : ‘Tận dụng hết mọi nổ lực của con người cũng không chận đứng được sự héo úa của một cành hoa, vậy thì trong khi đóa hoa đang dần dần héo úa, ta hãy ung dung ngắm nhìn và thưởng thức giây phút cuối cùng của cành hoa đó đi.’
Đời vô thường, thân người không bền chắc, nhưng hãy tận dụng nó để đem đến niềm an vui, hạnh phúc cho mọi người. Cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời ta vẫn nguyện làm chiếc bè cho kẻ chết đuối, thiên thần cho trẻ mồ côi, khuyết tật, bạn tốt cho kẻ lữ hành mỏi mệt, để hoàn thành sứ mạng tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự. Các pháp sanh khởi hay tận diệt đều do nhân duyên ta không thể kháng cự mà chỉ tùy duyên tiêu cựu nghiệp.
Những trận thiên tai, lũ lụt, chiến tranh gây mất mát đau thương cho hàng trăm nghìn gia đình. Đó cũng là những đoạn bi thương của nhân loại. Hằng bao trái tim hướng về đó cầu nguyện. Không ai muốn chiến tranh, chiến tranh vẫn xảy ra. Không ai muốn thiên tai, nó vẫn đến. Có những điều ta không muốn nó vẫn ngang ngược xấn tới, những điều ta muốn nó lại rũ áo ra đi.
Tất cả đều do nhân duyên, vì cái này có nên cái kia có, cái này không nên cái kia cũng không. Hiểu được lý này chúng ta mới biết lý do tại sao có những điều đáng lẽ không nên xảy ra lại xảy ra. Khi một hiện tượng bất trắc xảy ra ta thường đổ thừa trách móc hoặc phê phán thị phi, khi hiểu rõ lý nhân duyên ta sẽ không còn thắc mắc, vì nó phải như vậy để đưa đến kết quả như vầy, không thể khác hơn. Mọi thứ như đã được sắp đặt trùng hợp và ăn khớp. Đó là việc của nhân duyên.
Nói thế không có nghĩa mình đầu hàng với vận mạng như một số nhà nho thường quan niệm mà chính là phải tận hết sức mình để xoay chuyển một cuộc cờ nhưng thành công hay không vẫn còn là vấn đề tùy duyên.
Mỗi người chúng ta đều đang vật lộn với ván cờ mà thắng hay bại chưa ai có thể nắm chắc. Nếu ta đưa ra nước cờ đúng thì mọi thứ sẽ được xoay chuyển tùy thuộc, nếu sai thì ảnh hưởng không lường. Trong đời chúng ta đã chơi nhiều ván cờ, kết quả vinh nhục, sang hèn, khen chê ... đều có đủ. Quan trọng không phải chúng ta khóc cười theo từng làn sóng này mà chính là học được những bài học từ đó.
Khi Edison chứng kiến cảnh phòng thí nghiệm, cơ xưởng của ông bị lửa thiêu đốt, ông bình thản và lạc quan đến không ngờ. Ông bảo con mình gọi mẹ đến xem, ông nghĩ rằng ngọn lửa thiêu rụi bao công sức của ông, đồng thời cũng đốt cháy, xóa sạch những sai lầm trong nghiên cứu của ông. Sao có thể lạc quan như vậy? Vì với ông, ông không xem trọng vật chất, chỉ nghĩ đến sự cống hiến cho nhân loại. Đã gọi là cống hiến thì cái đầu ông vẫn còn đây, ông sẽ tiếp tục phát minh cho đến ngày cuối cùng để phụng sự cho nhân loại.
Ngày chúng tôi xây cất chánh điện Quang Chiếu. Khi dựng giàn kèo, chưa kịp đóng chắc, một cơn gió lớn thổi xập. Khi nghe tin giàn kèo xập, điều chúng tôi nghĩ đến đầu tiên là có ai bị kẹt trong đó không? Khi biết tất cả thợ đều ở bên ngoài, chỉ có một người bị thương nhẹ, chúng tôi nhận thấy mình đã được chư Phật che chở.
Nếu nhìn trên mặt bi quan ta sẽ ngồi đó tiếc rẻ, tìm kiếm lỗi phải, như vậy chỉ chuốc lấy khổ đau. Xưa có bà lão có hai người con, một người bán giày, một người bán dù, Ngày nắng bà khóc vì đứa con bán dù ế ẩm, ngày mưa bà cũng khóc vì đứa con bán giày không được. Chuyện đến tai vị Thiền Sư, ngài gọi bà lão đến bảo : ‘Kể từ nay bà nên đổi quan niệm lại. Trời nắng bà mừng vì đứa con bán giày đắc, trời mưa bà mừng đứa con bán dù khấm khá’ Từ đó về sau dù mưa hay nắng bà lão cũng cười và mừng cho các con mình.
Chuyển đổi một cái nhìn là chuyển cả cục diện, cả cuộc đời chớ không phải thường. Khi mọi điều bất trắc xảy đến, chúng ta hãy nhìn trên khía cạnh lạc quan, mình sẽ cảm thấy được cứu độ.
Như vậy mỗi đoạn nhân duyên có một ý nghĩa khác nhau. Trong sự thành công hay thất bại đều có những điều khuyên răn, những bài học rất hay. Có khi trong thất bại chua cay chúng ta lại học được nhiều kinh nghiệm sâu sắc làm thềm thang cho bước thành công mai sau. Tất cả đều do nhân duyên. Hãy cứ gieo những hạt giống tốt, bảo dưỡng bằng những duyên tốt, chắc chắn ta sẽ gặt hái được hoa tươi trái ngọt. Ngược lại nếu gieo gió ắt gặp bão, kết quả sẽ tùy thuộc nơi nhân, sớm hoặc muộn mà thôi.
Hạnh Diệu
http://www.thienvienquangchieu.org/DacSan/