Monday, November 28, 2011

Sunday, November 27, 2011

Tâm Và Cảnh - Thích Chơn Hiếu.wmv



Thần chú của Mật Tông (Phần 1)


Hầu hết kinh điển Mật Tông đều nhấn mạnh rằng: Những mật chú đều là những chân ngôn của chư Phật và chư Bồ Tát có giá trị nhiếp tâm và truyền giảng vô lượng. Mật Chú giúp đỡ cho chúng sinh xa lìa tham, sân si, là những độc hại trong việc tu hành. Việc trì tụng những mật chú sẽ tiêu trừ các tai ương, giải cứu những ách nạn, đưa con người thoát khỏi cảnh giới sa đoạ. Thành thử, kiên tâm trì tụng với tất cả tâm thành, kết quả tốt đẹp không biết đâu lường được.
Kinh Chuẩn Đề Đà Ra Ni của Mật Tông dạy những phương pháp trì tụng và nói về công năng của việc trì tụng những Chân ngôn. Có đến 10 bộ kinh dạy về Chân ngôn, từ thấp đến cao, mà trong ứng dụng bất cứ trình độ nào cũng tu tập được. Khi trì tụng lâu, sẽ được ứng hiện trong mộng tưởng.
Kinh Chuẩn Đề dạy rằng: "Tu tập vững vàng sẽ tạo mộng lành. Hoặc mộng thấy chư Phật, Bồ Tát, Thánh Tăng, Thiên Nữ. Hoặc mộng thấy tự thân bay lên hư không một cách tự tại. Hoặc vượt qua biển lớn, hoặc trôi nổi trên sông Giang Hà, hay lên lầu các, hoặc lên cây cao hoặc trèo lên núi tuyết, hoặc chế ngự được voi, sư tử, hoặc thấy nhiều hoa thơm cỏ lạ. Cũng có thể mộng thấy là vị tu hành, sa môn. Hoặc nuốt bạch vật, nhả ra hắc vật. Hoặc thâm nhập vào tinh tú, thiên hà...". Trong khi trì tụng kinh điển này, thường phát ra ánh sáng lạ kỳ, do Phán nhãn mang lại. Có người thấy lạc vào cõi Tịnh Độ, cảnh giới giải thoát hoàn toàn. Cũng có người thấy được kiếp trước của mình.
Nội dungBộ kinh trên có giành phần lớn để nói về các Thần Chú: bản văn Thần Chú và công năng của Thần Chú. Thần Chú không sử dụng tùy tiện được. Phải có đức giác ngộ mới đọc Thần Chú có hiệu quả. Mật Tông nói về trường hợp nhiều đạo sĩ dùng những Thần Chú không đúng hướng gây tác hại: chẳng những không đạt được kết quả theo ý muốn, mà còn gây thêm những nguy hiểm khôn lường được. Nội dung các Thần chú này được phân chia ra 9 phẩm. Mỗi phẩm có sức nhiếp phục và sở cầu khác nhau:

Nội dung 3 phẩm đầu

Hạ Phẩm: nếu thành tựu hạ phẩm của Thần Chú, thì có thể năng nhiếp phục tất cả tứ chúng, phàm có sở cầu điều gì thì đạt được, sai khiến được nhiều hạng, kể cả Thiên Long cũng thuần phục. Những Thần Chú này lại còn có thể hàng phục được 45 loại trong các "trùng thú" và "quỷ mị".

Trung Phẩm: Khi thành tựu được việc dùng Thần Chú của Trung Phẩm, sẽ có công năng sai khiến được tất cả Thiên Long, Bát Bộ, khai mở những "bảo tàng" dấu kín. Cũng có thể đi vào trong Tu La Cung, Long Cung... bất cứ trong trường hợp nào.

Thượng Phẩm: Nếu thành tựu được phần Thượng Phẩm, sẽ có được những khả năng phi thường: hoặc dùng phép khinh thân để chu du khắp nơi, cũng có thể dùng đến thuật "tàng hình" để tránh tai biến.

Nội dung 3 phẩm giữa

Hạ phẩm: Nếu thành tựu hạ phẩm của phần này (Trung Độ) sẽ điều hành được nhiều cảnh giới, tái sinh trong vô lượng kiếp, phúc huệ chiếu sáng trong 3 cõi, hàng phục chúng ma.

Trung phẩm: Nếu thành tự phẩm này, thì có sức thần thông qua lại các thế giới khác, có khả năng chuyển hoá Luân Vương, trụ thọ trong nhiều kiếp sau này.

Thượng phẩm: Nếu thành tựu phẩm này, sẽ hiệu chứng được nhiều phép lạ, từ Sơ Địa Bồ Tát trở lên.Trung độ là trình độ khó thành; chỉ những bậc cao tăng nhiều kiếp mới nhiếp phục được 3 phẩm này.

Nội dung 3 phẩm cuối

Hạ phẩm: Nếu thành tự phẩm này, sẽ đạt được Đệ Ngũ Địa Bồ Tát trở nên.

Trung phẩm: Nếu thành tựu phẩm này sẽ đạt được từ Đệ Bát BồTát Địa trở lên.

Thượng phẩm: Nếu thành tựu phẩm này, thì Tam Mật sẽ biến thành Tam Thân. Trong cảnh giới hiện tại thì có thể chứng quả "Vô Thượng Bồ Đề".

Ứng dụng những Mật Chú

Những nhà tu hành Mật Tông dùng những Mật Chú trong những trường hợp cần thiết nhất và cũng hạn chế nhất để tránh những tác hại khác. Một trong những loại Mật Chú quan trọng và thông dụng là Mật Chú Đà Ra Ni (Dharani). Theo nguyên nghĩa thì Đà Ra Ni là bảo tồn, gìn giữ, chống lại những lôi cuốn khác bất cứ từ đâu tới. Những Mật Chú này dùng để khống chế vọng tưởng và vọng động. Trong một giá trị khác, Mật Chú Đà Ra Ni sẽ phát huy đạo tâm của hành giả đứng trước những thử thách nghiêm trọng. Tà ma, ngoại đạo đều bị Mật Chú Đà Ra Ni chế ngự ngay từ bước đầu. Dùng Mật Chú không thể khinh thường và thiếu cẩn trọng. Chỉ trong những trường hợp khổn cùng, cấp bách, không thể thoát khỏi tai kiếp thì mới đọc lên.

Mật Chú Đà Ra Ni còn được gọi là "chân ngôn" hay "chân kinh" tức là những câu nói ngắn nhưng rất vi diệu, chân thật, "bất khả tư nghị" của chư Phật hay chư Bồ Tát. Mật Chú không thể giải nghĩa được hay lý luận được. Những buổi lễ quan trọng nhất của Mật Tông mới được dùng những Mật Chú này. Công dụng chính là đưa những sức huyền diệu, anh linh của vũ trụ đi vào trong nội tâm của con người. Mật Chú cũng có thể tiêu trừ những bệnh khổ do Tứ Đại gây ra. Những bệnh do Ngũ uẩn, hay do quỷ thần gieo rắc cũng có thể giải cứu bằng Mật Chú được. Cũng như Đàn Tràng (hay Đàn Pháp) (Mandala), Mật Chú có công dụng vô biên, khó lường được. Nhiều người coi thường Mật Chú và Đàn Tràng, cho nên khó giải thoát. Hiển Mật Viên Thông có chép rằng: "Ba đời của đức Như lai, chưa hề có vị Phật nào không theo Đàn Pháp mà thành Phật Đạo".

Lời dạy này mang hai ý nghĩa: (a) Mật Chú và Đàn Pháp vốn rất huyền diệu (b) Chỉ dùng đến hai loại này trong trường hợp cần thiết nhất mà thôi.Giá trị của Mật Chú Đà Ra Ni không thể lường được. Chẳng hạn như một cao tăng tụng Mật Chú với tất cả lòng thành của mình thì sẽ tiêu trừ những nghiệp chướng rừng vướng mắc vào nội tâm hay từng gây tai họa lớn lao. Sức tiêu trừ này khó hình dung được, nhưng giải toả được những nguy hiểm do tha nhân tạo nên.

Những cao tăng Tây Tạng ít khi nói đến những Mật Chú. Theo họ, một giới tử nào vọng động trong việc dùng Mật Chú, tưởng là cứu cánh tu hành, sẽ bỏ mọi khả năng tu tập chính của mình để học Thần Chú. Mật Chú chỉ được dùng như là cẩm nang tối hậu chỉ được mở ra thực hiện trong một thời điểm cần thiết nhất. Một giới tử sau khi được Điểm Đạo hay Quán Đỉnh thì được nhắc nhở điều này.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm trong phần nói về công năng của những loại Thần Chú của Kim Cang Thừa (Tantra) có đoạn viết:- "Mật Chú của chư Phật vốn là phép bí mật. Chỉ có đức Phật với Phật tự biết với nhau mà thôi; các vị Thánh cũng không thể nào thông đạt về Chú được. Chỉ trì tụng là diệt được tội lỗi, nhanh chóng đạt được Thánh Vị" (Phẩm Chú Hạnh).

Trong một đoạn khác có viết: "Thần Chú là mật ấn của chư Phật: Những vị Phật và Phật truyền cho nhau, người khác trong cảnh giới nào cũng không thể nào thông hiểu được..."

Trong Hiển Thủ Bát Nhã Sớ viết: " Chú là Pháp môn bí mật của chư Phật, không thể nào thấu hiệu được nhân vị của những lời Chú". Viễn Công Niết Bàn Sớ khi luận về Thần Chú cũng viết: "Chân Ngôn chưa chắc là chuyên ngữ của người Thiên Trúc. Nếu đem ra phiên dịch thì lại không hiểu nổi, vì lẽ đó cho nên không thể nào phiên giải được...".

Thiên Thai Chỉ Quán của Thiên Thai Tông cũng viết về các Thần Chú như sau: "Chỉ có bậc Thánh Thượng thì mới có thể nói đến (giải lý đến) 2 pháp: Mật và Hiển. Những kẻ phàm nhân chỉ có thể xưng tán được những lời kinh trong Hiển Giáo; còn về Mật Giáo thì không giải thích được. Đà Ra Ni, nhân vị của Thánh Hiền không thể nào hiểu giải được, chỉ có thể tin mà thọ trì mà thôi. Trì Chú thì có thể diệt được mọi nghiệp chướng, kết tựu được phước đức". Theo những cao tăng của Mật Giáo, những Mật Chú (Mantras) là Viên Mãn, nếu giải thích ra chỉ là phiến diện, có thể sai lầm nữa. Thành thử không nên tìm cách để giải thích. Những kinh sách cho rằng: đây là guyên nghĩa của những câu Thần Chú chỉ là ngụy ngôn.

Mật nghĩa chỉ là "bất khả tư nghị". Trong Pháp Hoa Sao Sớ có đoạn nêu rõ rằng: "Về Bí Pháp của chư Phật, thì không thể nào hiểu được ý nghĩa, cho nên được gọi là Mật ngôn". Bát Nhã Tâm Kinh viết: "Tổng trì cũng như loại thuốc thần, như Cam Lộ, uống vào thì lành bệnh, nhưng khi phân tích trong đó có gì, là điều sai lầm. Tuy là mật ngôn, nhưng công dụng, giá trị của những lời Thần Chú này thật bao la".

Theo Đà Ra Ni Kinh thì: "Thần Chú vốn là tối thắng, có thể giải trừ được tội lỗi của chúng sinh, giải thoát được sinh tử luân hồi, chứng quả Niết Bàn, an lạc pháp thân...".

Khi tụng những câu Thần Chú, phải chú ý đến toạ bộ. Chẳng hạn như trì tụng Đại Tam Muội Ấn thì: "Lấy hai tay ngửa ra, rồi tay hữu để lên trên tay tả, hai đầu ngón cái giáp lại với nhau, để ngang dưới rốn". Thực hiện việc trì tụng này, kết quả không lường được: Ấn này có thể diệt được tất cả cuồng loại, vọng niệm, điên đảo, tư duy tạp nhiễm. Còn khi chấp thủ về Kim Cang Ấn Quyền thì kết ấn như sau đây: "Lấy ngón cái để trong lòng bàn tay bấm tại đốt vô danh chỉ giáplòng bàn tay, rồi nắm chặt; sau đó tay phải cầm chuỗi ký số, miệng tụng: "Tịnh pháp giới chân ngôn" (108 biến).

Ấn này trừ được nội ngoại chướng hiện ra hay nhiễm phải; thực hành đúng đắn thì thành tựu tất cả công đức. Về Chuẩn Đề Chú thì kết ấn như sau: "Sau khi đảnh lễ (3 lạy) xong, thì hành giả ngồi kiết già. Lấy ngón tay áp út và ngón út bên mặt và bên trái xỏ lộn với nhau vào trong hai lòng bàn tay; dựng hai ngón tay giữa thẳng lên, rồi co hai ngón tay trỏ mà vịn vào lóng đầu của hai ngón giữa; còn hai ngón tay cái thì đè lên lóng giữa của ngón áp út bên mặt. Để ấn này ngang ngực.

Sau đó chí tâm tưng 108 lần câu chú "Chuẩn Đề" và chú "Đại Luân Nhất Tự" như sau: "Nam Nô Tát Đa Nẫm, Tam Miệu Tam Bồ Đề, Cu Chi Nẫm, Đát Điệt Tha. Án Chủ Lệ, Chủ Lệ, Chuẩn Đề, Ta Bà Ha - Bộ Lâm."

Có thể trì tụng nhiều hơn nữa. Khi niệm số đã ấn định, muốn nghỉ thì xả ấn lên trên đỉnh, kế đó dùng tay mặt kiết ấn Kim Cang Quyền mà ấn theo thứ tự 5 vị trí như sau: 1) Trên đảnh đầu 2) Nơi vai bên trái 3) Ở vai bên mặt 4) Tại ngang ngực 5) Nơi yết hầu

(Còn tiếp)

Phật Thuyết Kinh Pháp Diệt Tận



Hán dịch: Trích từ sao lục của Tăng Hữu trong bản ghi chép đời Tống, tên người dịch đã bị thất lạc


Việt dịch: Tại gia Bồ-Tát giới Ưu-bà-tắc Nguyên Thuận

Tôi nghe như vầy:

Một thuở nọ, Đức Phật ở tại thành Câu-thi-na. Như Lai trong ba tháng nữa sẽ nhập Niết-bàn. Lúc đó, các vị Tỳ-kheo và chư Bồ-Tát, vô số chúng sanh đến chỗ Phật, đảnh lễ sát đất.

Thế Tôn tĩnh lặng, ngài không nói một lời, ánh hào quang cũng không hiện. Bấy giờ, Hiền giả A-Nan, đảnh lễ và thưa hỏi Phật.

"Bạch Thế Tôn! Từ trước đến nay, bất kỳ lúc nào Thế Tôn thuyết Pháp, cũng đều có vầng hào quang oai nghi tự nhiên xuất hiện. Nhưng nay trong đại chúng, ánh hào quang ấy không hiển hiện nữa. Chắc hẳn, đây phải là do nhân duyên gì? Chúng con mong muốn được nghe nghĩa ý."

Đức Phật vẫn lặng yên không trả lời, như thế cho đến khi thỉnh cầu đến ba lần, lúc đó Đức Phật mới bảo ngài A-Nan:

"Sau khi Ta nhập Niết-bàn, lúc Pháp bắt đầu diệt mất, trong đời ngũ trược ác thế, ma đạo sẽ rất hưng thịnh, ma quỷ sẽ giả làm Sa-môn, phá hoại Đạo của Ta. Chúng mặc quần áo của người thế tục, ưa thích y phục năm màu, mặc áo cà-sa sặc sỡ. Chúng uống rượu, ăn thịt, giết hại chúng sanh, tham đắm mùi vị, không có lòng từ bi, lại thêm sân hận đố kỵ.

Lúc bấy giờ, sẽ có các bậc Bồ-Tát, Bích-chi-phật, A-la-hán, họ tinh tấn tu đức và tôn kính hết thảy. Các ngài lấy nhân ái làm tông hướng, giáo hóa bình đẳng, thương mến người nghèo, lo lắng người già yếu, giúp kẻ khốn cùng. Họ luôn khuyên bảo mọi người thờ phụng, hộ trì Kinh tượng. Với tấm lòng hiền lành, các ngài làm mọi công đức, không làm hại người khác, luôn hy sinh giúp đỡ, không tự lợi, lại nhẫn nhục và hòa nhã.

Nếu có các vị như thế, thì chúng ác ma tỳ kheo đều sanh lòng ganh ghét, phỉ báng bôi nhọ, xua đuổi, trục xuất ra khỏi nơi họ ở. Sau đó, những ác ma này không tu đạo lập đức, chùa tháp bỏ hoang vắng, không người sửa sang, rồi sẽ bị hư hoại. Chúng chỉ tham lam tích chứa tiền tài, không chịu phân phát hay dùng làm vào việc phước đức. Chúng sẽ mua bán nô tỳ để trồng trọt, đốt rừng, giết hại chúng sanh, không có một chút lòng từ bi.

Sau đó, những nam nô sẽ thành Tỳ-kheo, những nữ tỳ sẽ thành Tỳ-kheo-ni. Chúng không có đạo đức, dâm loạn ô uế, nam nữ không cách biệt. Chính những kẻ này sẽ làm Đạo suy yếu phai mờ đi.

Hoặc có kẻ chạy trốn luật pháp, chúng sẽ nương dựa vào Đạo của Ta, xin làm Sa-môn nhưng không tu giới luật. Giữa tháng và cuối tháng tuy có tụng giới luật nhưng chỉ là trên danh nghĩa. Do vì chán ghét, lại lười biếng giải đãi nên không còn muốn nghe nữa.

Chúng không muốn tụng toàn bản văn mà chỉ tóm lược phần đầu đoạn cuối. Chẳng bao lâu, việc học Kinh và tụng niệm cũng sẽ chấm dứt. Cho dù còn có người đọc tụng, nhưng họ không hiểu nghĩa ý của câu văn, cưỡng ép ngôn từ, lại không hỏi các bậc minh sư, cống cao ngã mạng, cầu danh cầu lợi, làm ra vẻ tao nhã vẻ vang, để mong được người cúng dường.

Khi những ma tăng này mạng chung, thần thức của những kẻ ấy liền đọa vào vô gián địa ngục. Vì đã phạm phải năm tội ngỗ nghịch, nên sẽ trải qua hằng hà sa số kiếp để sinh làm ngạ quỷ, súc sanh. Khi tội báo đã hết, lại sanh ra ở vùng biên địa, nơi không có Tam Bảo.

Khi Pháp sắp bị diệt, người nữ sẽ trở nên tinh tấn, luôn làm các việc công đức, còn người nam thì biếng lười và không còn giảng Pháp. Những vị Sa-môn sẽ bị xem như phân như đất và không còn ai tin tưởng họ nữa.

Khi Pháp sắp bị mất, chư thiên khóc lóc, bão lụt hạn hán thất thường, năm loại ngũ cốc sẽ không còn chín. Bệnh dịch lây lan, giết đi vô số sinh mạng. Dân chúng lầm than, quan chức mưu toan tính lợi. Ai nấy đều không thuận theo đạo lý, ưa thích nhiễu loạn. Kẻ xấu ác gia tăng nhiều như cát trong biển, người thiện rất hiếm hoi, hầu như chỉ được một hoặc hai người.

Khi kiếp sắp hết, vòng quay của mặt trời và mặt trăng trở nên ngắn hơn, thọ mạng của loài người lại giảm đi, 40 tuổi thì đầu bạc. Người nam dâm dục quá độ, tinh dịch cạn kiệt nên chết sớm, hoặc chỉ sống đến 60 tuổi. Trong khi tuổi thọ của người nam giảm thì tuổi thọ của người nữ gia tăng đến 70, 80, 90, hoặc đến 100 tuổi.

Nước lớn hốt nhiên khởi lên, kéo dài đến vô hạn kỳ, người đời không tin và xem là việc thường. Các loại chúng sanh hỗn tạp, không phân sang hèn quý tiện, bị chết đuối, chìm đắm nổi trôi, và bị cá rùa ăn nuốt.

Khi đó, các bậc Bồ-Tát, Bích-chi-phật, A-la-hán, bị chúng ma xua đuổi, trục xuất và không còn tham dự trong hội chúng nữa. Giáo Pháp của Tam Thừa sẽ lánh vào nơi núi rừng phước đức. Trong yên tĩnh, họ sẽ tìm được sự an vui, tuổi thọ thêm lâu dài. Chư thiên hộ vệ và Nguyệt Quang (1) sẽ xuất thế. Các ngài lại gặp nhau và cùng chấn hưng Đạo của Ta.

Nhưng trong 52 năm, Kinh Thủ Lăng Nghiêm và Kinh Bát-chu Tam-muội sẽ bị sửa đổi trước tiên rồi sau đó diệt mất. 12 bộ Kinh cũng từ từ biến mất và không bao giờ xuất hiện lại, văn tự cũng không còn thấy nữa, áo cà-sa của Sa-môn sẽ tự nhiên biến thành màu trắng.

Khi Pháp của Ta diệt mất, ví như ngọn đèn dầu bừng sáng lên trong chốc lát rồi tắt mất. Khi Pháp của Ta diệt mất, thì cũng như ngọn đèn đã tắt. Từ đó về sau, khó mà nói chắc điều gì sẽ xảy ra.

Như vậy cho đến mười triệu năm sau. Khi Đức Di-lặc sắp hạ sanh ở thế gian để làm Phật, thiên hạ thái bình, độc khí tiêu trừ, mưa thấm nhuần điều hòa, năm loại ngũ cốc tươi tốt, cây cối to lớn. Loài người sẽ cao đến tám trượng và sống đến 84.000 năm. Chúng sanh được độ thoát nhiều không thể tính đếm kể."

Lúc bấy giờ, Hiền giả A-Nan, đảnh lễ và thưa hỏi Phật.

"Bạch Thế Tôn! Kinh này tên gọi là gì, và chúng con phải phụng trì như thế nào?"

Đức Phật bảo:

"Này A-Nan, Kinh này tên là Pháp Diệt Tận. Hãy lưu truyền rộng rãi, công đức có được sẽ nhiều vô lượng không thể tính kể."

Khi bốn chúng đệ tử nghe kinh này xong, lòng buồn bã và thương xót thảm thiết. Tất cả đều phát tâm tu Thánh Đạo Vô Thượng, họ đảnh lễ Đức Phật rồi lui ra.

Phật Thuyết Kinh Pháp Diệt Tận