Sunday, February 19, 2012

Phiền não tham, sân, si

Đây là vòng hay vị trí trung tâm điều đình chỉ huy toàn bộ bức tranh. Trong tranh vẽ hình con gà (thỉnh thoảng vẽ hình bồ câu), rắn và heo. Ba con vật này chỉ huy và điều khiển cho bánh xe chuyển quay, nên nó là điểm trung tâm quan trọng.

Gà là tượng trưng lòng tham, tham đủ thứ, lòng tham vô đáy. Màu đỏ của lông gà trống dễ liên tưởng đến lửa tham nung nấu những ai ôm và nuôi lấy lòng tham. 

Hoặc vẽ bồ câu là chỉ cho tham ái, dễ yêu, thấy là vuốt ve, ngã ái nên những gì ngã thích thì tâm muốn vơ lấy để nhiễm, tăng trưởng lòng nhiễm, lòng thuận, mền mại, dễ chịu, hấp dẫn và ngọt lịm (giống mía lau), thế nên khó thoát, khó chịu ngóc đầu lên. 

Đức Phật dạy: Tham dục là một hố than hầm, người bịnh tưởng lầm là ấm áp sung sướng, nên đâm đầu vào.

Rắn là biểu hiện cho tâm sân giận. Khi chúng ta bực bội, khó chịu, tức giận, thù hằn thì mặt mày chúng ta xanh lét, không có chút máu, giống như màu xanh xám của da rắn vậy. Và cứ nuôi dưỡng lòng sân giận thì chúng ta sẽ đi đến trả thù, hãm hại người, giết người, giống như rắn sẽ mổ và cắn hại những ai xâm phạm chúng.

Tâm chúng ta nếu không biết ‘thiểu dục tri túc’, thì chúng ta ít khi nào hoan hỉ và vừa lòng với ai lắm. Việc gì cũng càm ràm và khó chịu. Đây cũng là một dạng chủng tử của sân giận, không hoan hỉ như Ca dao Việt Nam có câu: 

“Ở sao cho vừa lòng người 
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê 
Cao chê giống ngỗng, thấp chê lùn. 
Mập chê béo trục béo tròn 
Gầy chê xương sống, xương sườn phơi ra.”

Sân hận mất bình an, nặng quá thì đi đến căm thù là chất liệu của địa ngục ở cả hiện tại và vị lai. Nguy hiểm của sân là kích thích thân miệng ý đi về đường ác. Sân làm bực bội là thọ ấm, dấy lên suy nghĩ là tưởng ấm, chuyển biến tâm địa là hành ấm, bản chất chủng tử của hành ấm là thức ấm, các tướng mạo hiện ra là sắc ấm. Thế là từ sân giận mà chuyển hoá đầy đủ cả năm ấm xí thịnh. Đây là một trong tám khổ. Và vì muốn thoát khỏi tám khổ này mà thái tử Sĩ Đạt Đa đã từ bỏ cuộc sống vinh hoa nơi cung điện để xuất gia học đạo.

Heo là biểu tượng của sự ít quan tâm đến sự sạch sẽ của tâm hồn. Thân thể nặng nề, màu da xám tối. 

Nếu thân mình nhơ bẩn liền đi tắm. Ngày mai lại mồ hôi cáu bẩn, lại đi tắm, như thế người này được coi là sạch sẽ. Đó là thân, còn tâm của chúng ta? Mỗi khi nói lỡ một câu sai, lỡ một hành động quấy, lỡ sân thì ta lại sám (rửa) hối (tiếc), sám hối là làm mới lại, là tắm rửa tâm đó, còn ngược lại là si, ít quan tâm đến tâm tư trong sáng; cứ để cho các phiền não, buồn phiền, ghen ghét, bực bội… nặng nề bao phủ. 

Đức Phật dạy cái khổ ngu si là đáng sợ hơn cả. Vì ngu si là mê muội, không biết tránh ác, làm lành để đến nỗi tự đọa đầy.


Chúng ta thấy ba con này cắn đuôi nhau. Gà ngậm đuôi rắn. Rắn ngậm đuôi heo. Heo ngậm đuôi gà nghĩa là ba độc tham, sân và si mật thiết dính liền nhau. Vì si mới tham, tham bị chướng ngại liền sân. Ngày đêm ba con này không ngừng hoạt động trong tâm, kích thích chúng ta tạo nghiệp để cảm luân chuyển chịu báo.

Trong kinh Pháp Cú [3] có dạy:

“Không lửa nào bằng tham, 
Không chấp nào bằng sân, 
Không lưới nào bằng si, 
Không sông nào bằng ái.”

Đức Phật với Phật tuệ biết được một trận mưa có bao nhiêu giọt. Nhưng vòng luân hồi đắng cay, biển khổ trầm luân của tham, sân, si và ái này, khổ nhiều quá gọi là biển khổ, không đếm được.

Cũng trong kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy chúng ta điều phục tham dục và sân giận: 

“Khó nắm giữ giao động, 
Tâm phàm dục chi phối, 
Lành thay điều phục tâm, 
Tâm điều hưởng an lạc.” [4]

“Hận thù diệt hận thù,  
Đời này không thể có,  
Từ bi diệt hận thù,  
Là định luật thiên thu.” [5]

Cố Hoà Thượng Thiện Siêu đã viết trên tấm sáo hoành rằng:

“Một chút giận, hai chút tham,  
lận đận cả đời ri cũng khổ. 
Trăm điều lành, ngàn điều nhịn,  
thong dong tấc dạ rứa mà vui.”

Người ngu si thấy dưới lòng nước có trăng, lao đầu xuống mò kiếm. Nhọc sức luống uổng mà còn phải chịu cái khổ chết chìm. Chúng sanh từ lịch kiếp lầm nhận vọng tưởng phân biệt duyên theo sáu trần làm tâm. Suốt đời vất vả mưu cầu hạnh phúc hảo huyền, kết cuộc chẳng nắm bắt được gì. Tâm phan duyên nuôi ba độc tham sân si, đưa đến sát đạo dâm vọng để trầm nịch (chìm đắm) luân hồi, không biết bao giờ mới ngóc đầu ra.

Gió giác quan nếu không theo dõi sẽ gây bão tố tham sân si, nuôi gà rắn heo. Tham sân khiến miệng nói, thân làm sai quấy. Si mê thấy thiện ra ác, ác ra thiện. Ba thứ phiền não này vừa như lửa nung nấu, vừa như nước nhận chìm.

Chúng ta nghe lời Phật dùng hơi thở (thân niệm xứ, quán sổ tức) để trở về với chánh niệm, không bận lòng đến đối phương. Hành động xấu xa, lời nói độc ác, vừa nói đã tan theo bản chất vô thường của nó, vì cứ vơ lấy nghĩ ngợi nên mình tự đốt nhà mình. Chính sân hận của mình hại mình, nên tập mát mẻ. Tổ Huệ Khả xưa kia bị chặt tay mà không sân giận. Thân ta là đất nước gió lửa nên chẳng có nhục nào để nhẫn. Nhớ tâm từ để diệt trừ ác ý. Nhớ tâm bi để trừ tàn nhẫn. Nhớ tâm hỉ để trừ phiền hận. Nhớ tâm xả để trừ thù oán là các chủng loại họ hàng của con rắn.

Chúng ta thấy ba con gà, rắn và heo chạy trên màu xanh da trời là màu hư vọng. Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến… là căn bản phiền não, là gốc của tái sanh, gốc của sanh tử luân hồi. Chúng ta nuôi ba con này trong lòng nên bồi đắp mãi cảnh luân hồi. Vị trí trung ương điều khiển bánh xe, là tạo hoá bày ra vũ trụ, nhưng thể chất là hư vọng, tỉnh là tan ngay. 

Ví dụ như chàng Dasá vốn là một công tử giàu có tham mê tửu sắc. Bên cạnh chàng biết bao là cung phi mỹ nữ. Một đêm đó, sau buổi yến tiệc tan, các công nương, kỹ nữ mỹ miều nằm lăn ra ngủ vì quá mệt. Các nàng tóc tai rối bù, xiêm y xốc xếch, nước miếng từ miệng chảy ra, miệng mớ nói lảm nhảm, phấn son loè loẹt… trông gớm ghiếc như những bóng ma. Chàng hoảng sợ chạy khỏi cung đình và đến quỳ sụp dưới chân Phật thưa rằng chàng muốn thoát khỏi địa ngục sống đó. Đức Phật diễn thuyết một bài pháp, sau đó Dasá liền tan lòng ái nhiễm, tâm không còn lợn cợn bợn nhơ của dục nhiễm sắc đẹp nữa mà trong sáng thanh tịnh như một tấm lụa trắng. Như vậy lòng ái  nhiễm là cái chợt đến và chợt đi, chớ không thật.

Hay tên giết người Vô Não đã rượt đuổi để chặt ngón tay Phật, cho đủ 100 ngón để dâng lên tà sư cầu khẩn được thần thông. Đức Phật vẫn đi từ từ, nhưng Vô Não chạy hoài đến mà bắt không kịp được Phật. Vô não la lên: “Này Cồ Đàm hãy dừng lại!” Đức Phật trả lời: “Ta đã dừng từ lâu rồi. Chỉ có ngươi là nên dừng lại thôi!”. Vô Não tỉnh ngộ về sự ‘đứng lại’ tức ‘đình chỉ ác tâm này’, và chàng quăng gươm xuống, xin quy y làm đệ tử Phật. Thế là tan lòng sát, bỏ con dao trong tâm. Như thế tâm ác cũng tan.

Chúng ta hàng ngày đang thương hay ủng hộ một vị nào đó nhưng khi biết người đó không đồng lòng, không trung thành, chung thủy, không tốt với mình… thì tự nhiên tình thương biến mất và bắt đầu lòng căm thù ghen ghét nổi lên.  Nếu gặp bạn lành khuyên nhắc hoặc nghe bài pháp, thì lòng căm thù, bực bội liền tan. 

Thế nên, tham sân si là cái không có mà chúng ta nhận là mình, chúng ta tạo nghiệp. Lồng mình vào nó khiến nó dựa vào mình mà bốc lên. Tỉnh thì thành không. Vâng theo Phật thì ra khỏi luân hồi, còn nuôi ba con này trong tâm thì chúng ta xây dựng bồi đắp mãi cảnh trầm luân không biết bao giờ mới cạn.

Ngài Huệ Khả bạch tổ Đạt Ma: “Tâm con không an. Xin ngài an tâm giùm con!” Tổ bảo: “Đem tâm ra đây ta an cho”. Ngài Huệ Khả quay lại tìm tâm hoài mà không thấy, mới biết bản lai không, nào có ai trói buộc mình. Tâm mình vốn không có con gà, rắn và heo.

Ngài A-nan trong kinh Lăng Nghiêm tìm tâm ở bảy chỗ [6] là tâm trong thân, ngoài thân, tâm núp sau con mắt, nhắm mắt thấy tối là tâm, hợp chỗ nào thì tâm có chỗ nấy, tâm ở giữa căn và trần, không dính vào đâu hết là tâm.[7]  Tìm ở bảy chỗ mà vẫn không thấy cái tâm yêu thích (yêu thích 32 tướng đẹp của Phật mà xuất gia) của A nan ở đâu? Vì vọng nên tìm hoài không được. Con bồ câu trên nền xanh dương. Thế cho nên tâm tham, sân và si vốn bản là hư vọng, là màu xanh hư vọng là vậy.

Đức Phật trong kinh Pháp Cú đã nói lên sự tịch lạc của việc tan tham ái (tức không nuôi con bồ câu nữa), đã thấy tham ái là vọng, là có thể làm chủ được mình như sau:

“Lang thang bao kiếp sống, 
Ta tìm nhưng chẳng gặp, 
Người xây dựng nhà này, 
Khổ thay sống luân hồi.”  [8]

“Ôi! người làm nhà kia, 
Nay ta đã thấy ngươi, 
Ngươi không làm nhà nữa, 
Rui mè ngươi bị gẫy, 
Kèo cột ngươi bị tan, 
Tâm ta đạt tịch diệt. 
Tham ái thảy tiêu vong”. [9]

Đức Phật xác chứng lại cho điều này khi ngài đang nhập hạ an cư tại Kausambi (sau chín năm giác ngộ). Có một gia đình bà-la-môn đang đi tìm phò mã cho cô con gái tiểu thư xinh đẹp. Ngày nọ, Đức Phật khất thực đi ngang. Ông Bà-la-môn thấy dung nghi 32 tướng  [10]của Đức Phật sáng ngời và đỉnh đạc khác thường, bèn mời vào cúng dường thanh trai. Sau đó ngỏ lời muốn Đức Phật ở lại đây làm phò mã. Nhưng Đức Phật từ chối bằng bài kệ như sau: 

“Đã nhận thấy ái dục, bất mãn và tham vọng, 
Ta không thích thú gì trong dục lạc của ái tình. 
Thể xác đầy ô trược này là chi? 
Ta chẳng bao giờ muốn sờ đến nó dù chỉ bằng chân.”
Thích Nữ Giới Hương

Saturday, February 18, 2012

[thông báo] Chuyến từ thiện và hành hương đầu năm của nhóm Người Áo Lam


Tối thứ năm ngày 16/02/2012 vừa qua nhóm từ thiện Người Áo Lam đã có buổi họp mặt đầu năm để bàn thảo về chuyến đi từ thiện và hành hương đầu năm cũng như một số vấn đề liên quan khác.
Theo đó trong chuyến xuất hành đầu năm cả nhóm sẽ trở lại thăm 73 em cô nhi ở chùa Từ Ân đồng thời viếng thăm xá lợi Phật ở Đại Tòng Lâm – Bà Rịa – Vũng Tàu.  Chùa Từ Ân là một ngôi chùa ở tổ 1 ấp Mỹ Tân, Xã Mỹ Thuận, huyện Tân Thành tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu (gần nhà máy Vedan). Tại đây đang các sư cô đang lo lắng chăm sóc cho các em khuyết tật từ 3 tuổi đến 23 tuổi do sư cô Thích Nữ Minh Hải trụ trì. Trong chuyến đi chùa Từ Ân  lần trước nhóm đã trao tặng số tiền 5.543.000đ cùng nhiều quần áo cũ và 1 tấn gạo.
Nhân đây nhóm Người Áo Lam cũng mở lời kêu gọi sự đóng góp tùy lòng hảo tâm của quý Phật tử xa gần. Quý vị có thể đóng góp hiện kim hoặc hiện vật. Do tính chất thăm viếng các em cô nhi khuyết tật từ 3 đến 23 tuổi nên nếu quý vị có các mặt hàng nhu yếu phẩm, gạo, sữa, tập học sinh, bút, hoặc vải lam (đo các em đều mặc đồ lam nhật bình)… xin tùy hỷ công đức.
Hiện kim xin gởi về tài khoản của nhóm đứng tên thủ. Số tài khoản: 107812339 - Chủ tài khoản: Phí Thị Khánh An - Chi nhánh:  Ngân hàng ACB Phú Trung
Nhóm Người Áo Lam xin chân thành tri ân công đức của những ân nhân đã đóng góp hiện kim hiện vật hoặc tạo thuận duyên để nhóm có thể hoạt động trong suốt thời gian qua.
Mọi đóng góp, ý kiến, thắc mắc chưa rõ xin liên lạc với thư ký của nhóm, Phật tử Lý Minh Triết – Email: lyminhtriet@gmail.com – ĐT: 0937007257
Tìm hiểu thêm thông tin tại facebook chính thức của nhóm http://facebook.com/nguoiaolam
Phụng sự chúng sanh tức cúng dường chư Phật
Thư ký nhóm từ thiện Người Áo Lam
Tuệ Minh Lý Minh Triết

Dự thảo Chương trình TỪ THIỆN VÀ HÀNH HƯƠNG ĐẦU NĂM – NHÓM NGƯỜI ÁO LAM

Thời gian: 7g30 – 17g30 ngày CN 04/03/2012
Địa điểm:
  • Chùa Từ Ân tổ 1 ấp Mỹ Tân, Xã Mỹ Thuận, huyện Tân Thành tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu (gần nhà máy Vedan).
  • Đại Tòng Lâm – Bà Rịa – Vũng Tàu.
  • Thiền viện Viên Chiếu – Bà Rịa – Vũng Tàu.
Tập trung: 7g30 ngày CN04/03/2012 tại số 54 đường Ni sư Huỳnh Liên P.10 Q. Tân Bình(có chỗ gởi xe gắn máy) (nằm gần Tịnh xá Ngọc Phú)
Tham gia: 20 – 30 thành viên
Chi phí: dự kiến mỗi người 200.000 VNĐ (bao gồm tiền nước uống, thuê xe… Chi phí trên không bao gồm buổi ăn sáng. Sau khi tổng kết nhóm xin hoàn lại tiền còn dư)
Đăng ký: Quý vị muốn tham gia xin đăng ký trước ngày CN 26/02/2012
Chương trình dự kiến ngày 04/03/2012
  • 07g30: Tập trung, ổn định, chuyển đồ lên xe.
  • 08g00: Xuất phát
  • 10g00:
    • Đến chùa Từ Ân
    • Ổn định, chuyển đồ vào kho chùa
    • Thăm viếng các em cô nhi, trẻ khuyết tật
    • Tham gia trò chơi nhỏ, giao lưu với các em
  • 12g00: Dùng cơm chay tại chùa Từ Ân. Nghỉ ngơi
  • 01g30: Rời chùa Từ Ân
  • 02g00: Đến tham quan thăm xá lợi Phật tại Đại Tòng Lâm
  • 03g00: Ghé thăm Thiền viện Viên Chiếu
  • 05g00: Về tới Sài Gòn.
(đây là chương trình dự kiến, chương trình có thể thay đổi tùy theo tình hình thực tế)
Liên lạc: Mọi đóng góp, ý kiến, thắc mắc chưa rõ xin liên lạc với thư ký của nhóm, Phật tử Lý Minh Triết – Email: lyminhtriet@gmail.com – ĐT: 0937007257

MỘT SỐ HÌNH ẢNH CHUYẾN ĐI CHÙA TỪ ÂN 25/09/2011 NHÓM NGƯỜI ÁO LAM

tu-thien (24)
Nụ cười ấn tượng nhất :p
tu-thien (4)
Cả nhóm chuyển đồ từ trên xe xuống
tu-thien (22)
tu-thien (2)
tu-thien (7)
Chụp ảnh chung cả nhóm
tu-thien (20)
Tác bạch với sư trụ trì
tu-thien (19)
Chuyển hàng vào kho :)
tu-thien (6)
tu-thien (8)
Dạo một vòng đi thăm các em nhỏ
tu-thien (5)
tu-thien (21)
tu-thien (11)
tu-thien (23)
tu-thien (15)
chương trình từ thiện
http://www.chanhdat.com/2012/02/thong-bao-chuyen-tu-thien-va-hanh-huong.html

CÔNG ĐỨC TẠO TƯỢNG PHẬT

Kinh này dài qúa ,CN chỉ trích vài phần trong kinh ,ai muốn xem trọn thì vào link này xem nhé : 
                           http://www.quangduc.com/kinhdien-2/423kinhcongductaotuong.html

Nhiều người biết: hễ ai thành tâm tạo tượng Phật, thì có được nhiều công đức, nhưng ít người biết số lượng công đức đó như thế nào, chính trong Kinh TẠO TƯỢNG PHẬT này, Đức Phật dạy rõ điều đó.
Tuy nhiên, phải thành tâm tạo tượng Phật, có đủ tướng tốt trang nghiêm, nếu không được toàn hảo thì ít ra cũng phải có đủ những nét biểu hiện Đại trí, Đại từ, Đại giải thoát, hoặc như trong kinh này dạy: “Phải đủ hai tướng: "Bạch hào và nhục kế, để khi nhìn vào, biết là tượng Phật” dễ phát khởi lòng kính tin, thì mới có công đức. Trái lại, tạo tượng Phật mà không biểu lộ được tướng gì của Phật và khi nhìn vào cũng không biết đó là tượng Phật, không phát khởi được tín tâm, còn xem thường nữa, thì việc tạo tượng như vậy tất nhiên là không có công đức, lắm lúc còn mang tội nữa là khác.
Vì vậy, để giúp sự hiểu biết đúng đắn sâu sắc về công đức tạo tượng Phật, tôi xin tán thán và hoan hỷ giới thiệu bản dịch kinh “CÔNG ĐỨC TẠO TƯỢNG PHẬT” này của Tỳ kheo Thích Thiện Thông đến quý vị Phật tử.
Chùa Từ Đàm, ngày 5 tháng 5 năm 1993
HT. Thích Thiện Siêu

- Nếu người nữ nào hay tạo tượng Phật, thì hẳn không thọ lại thân phụ nữ. Giả như thọ thân, thì đó là bậc nữ lưu tôn quý đệ nhứt hơn hết. Nhưng các người nữ có năm thứ đức, những gì người nữ tạo tượng sẽ được, hơn cả nữ giới. Năm đức là gì?
Một là: Sanh nở con cái.
Hai là: Giòng dõi tôn quý.
Ba là: Bẩm tánh trinh lương.
Bốn là: Thể chất tướng mạo đẹp đẽ cả hai.
Năm là: Dáng vẻ mỹ mãn.

Tỳ kheo Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Già Da Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp[11] cả ba vị này kiếp xưa từng sửa nhà cũ của Phật, do nhân duyên đó vĩnh viễn giải thoát. Ông Kiều Phạm Ba Đề xưa là thân trâu, nhơn tìm cỏ nước đi quanh Tịnh xá, ăn cỏ trong những bụi tre, do thấy tôn dung của Phật phát tâm vui mừng, nhờ phước đó mà nay được giải thoát. Ông Thi Tỳ La từng cầm lọng báu cúng dường tượng Phật. Ông Nậu Lâu Đà thắp một ngọn đèn cũng để cúng dường. Ông Du Bệ Ma từng quét nhà Phật. Ông A Bà Ma Na ở trước tượng Phật thắp đèn giúp sáng, Tỳ kheo Nan Đà mến trọng tôn nghi, nên dùng nước thơm gội rửa v.v... có vô lượng vị La Hán như vậy, tất cả đều từng ở chỗ tượng Phật dâng lễ vật mọn cúng dường. Cho đến thấp nhất như ông Na Già Ba La, ở trước tòa tượng, dùng chừng chút ít son vàng vẽ thân một tượng để vì cúng dường... Do phước này nên đều lìa hẳn khổ và được giải thoát.

Đức Phật bảo tiếp:
- Này Thiên Đế Thích! Nếu có người nào, có thể ở thời giáo pháp của ta chưa diệt trở lại[12], mà tạo tượng Phật, sẽ ở nơi hội đầu tiên của Phật Di Lặc, đều được giải thoát.

- Di Lặc! Nếu có người nào dùng những tơ sợi, thêu thùa tượng Phật[37] hoặc là nấu đúc bằng thứ vàng, bạc, đồng, sắt, chì, kẽm. Hoặc điêu khắc bằng gỗ thơm Chiên đàn, hoặc khắc bằng thứ trân châu, sò ốc, gấm vóc dệt thành, đất đỏ xi măng, thạch cao, đất sét, hoặc các thứ gỗ... Dùng những vật đó tùy phần sức mình tạo ra tượng Phật[38], cho đến rất nhỏ như ngón tay cái, có thể khiến cho người khác nhìn biết đó là Tôn tượng, phước báo người nay ta sẽ nói:
- Di Lặc! Những người như vậy ở trong sanh tử tuy còn trôi lăn, trọn chẳng sanh tại gia đình nghèo cùng, cũng chẳng sanh nhà dòng dõi thấp hèn, cô đơn hẻo lánh ở ven cõi nước. Lại cũng chẳng sanh vào nhà tà kiến, con buôn, con bán, nhà làm hàng thịt, cho đến chẳng sanh vào giòng hèn hạ, kỹ nữ bất tịnh, hoặc nhà ngoại đạo, khổ hạnh tà kiến, trừ khi vì sức thệ nguyện Từ Bi, ngoài ra chẳng sanh vào những nhà ấy.
Người này thường sanh nhà thuộc giòng tộc vua Chánh Chuyển Luân có thế lực lớn. Hoặc sanh giòng Bà La Môn tịnh hạnh, hoặc nhà giàu sang không tạo tội nặng. Sanh ở nơi nào cũng thường gặp Phật, vâng thờ cúng dường. Hoặc được làm vua hộ trì chánh pháp, đem pháp giáo hóa, chẳng làm trái đạo. Hoặc làm vua Thánh Chuyển Luân oai hùng, bảy báu thành tựu, đủ ngàn người con, bay đi trên không giáo hóa bốn châu, suốt một cuộc đời tự tại giàu vui. Hoặc làm Đế Thích, vua Trời Dạ Ma, vua trời Đâu Suất, vua trời Hóa Lạc, vua trời Tha Hóa Tự Tại, lạc thú Trời người, không gì chẳng hưởng. Phước báo như thế nối tiếp không dứt. Sanh ra nơi đâu cũng là đàn ông, không chịu thân nữ, lại chẳng chịu thân huỳnh môn hai hình là thứ hèn hạ. Thân được thọ sanh không bị xấu xí, mắt chẳng mù chột, tai chẳng điếc lác, mũi chẳng cong gãy, miệng chẳng méo lệch, môi chẳng trề xuống, cũng chẳng túm rút, răng chẳng thưa thiếu chẳng đen, chẳng vàng, lưỡi chẳng ngắn thụt, cổ chẳng bướu nhọt, thân chẳng lưng gù, da chẳng loang lỗ, tay chẳng cụt ngủn, chân chẳng lệch què, chẳng quá ốm o, chẳng quá béo mập, cũng chẳng quá dài, cũng chẳng quá ngắn... Đều không có các tướng chẳng đáng ưa.
Thân của người ấy thẳng thóm đoan trang, mặt mày đầy đặn. Tóc màu xanh biếc mềm mại, sáng sạch. Môi đỏ như son, mắt như sen xanh, tướng lưỡi rộng dài. Răng trắng bằng khít, nói ra hay khéo, khiến người nghe ai cũng vui đẹp. Khuỷu tay vừa chừng. Bàn tay bằng phẳng, lưng vế no đầy, vai ngực nở nang, tay chân dịu dàng dường như bông vải, các tướng đầy đủ không bị khuyết giảm gân sức tất mạnh, tựa hồ như trời Na La Diên[39].
- Di Lặc! Ví như có người rớt vào hầm cầu tiêu, từ đó được ra, cạo bỏ phần uế, lấy nước rửa sạch, dùng hương thoa thân, mặc áo mới sạch... Người như thế đó so với người còn ở trong hầm tiêu, chưa được ra khỏi, vậy sự nhơ sạch và sự thơm, hỏi cách nhau bao nhiêu? Kính bạch Thế Tôn việc ấy cách xa không biết mấy lần!
- Di Lặc! Nếu có người nào còn trong sanh tử, hay phát lòng tin tạo hình tượng Phật, so sánh với lúc người ấy chưa tạo, thì sự cách xa lại cũng như vậy. Nên biết người ấy đời đời sanh ra trừ sạch nghiệp chướng, các thứ kỹ thuật, không thấy mà hiểu. Tuy sanh làm người mà các giác quan được coi như cõi trời. Nếu sanh lên trời, thì trỗi vượt hơn rất nhiều Thiên chúng. Sanh ra nơi nào cũng không tật nguyền, không bị phung hủi, không bị ung thư, không bị dựa nhập bởi các quỷ mị. Không mắc những bịnh điên cuồng khô héo, vàng da sốt rét, sạn hòn, ghẻ dữ, thẹo sâu, thổ tả vô độ, ăn uống không tiêu, cựa mình nhức nhối, tê liệt nửa người...Những bệnh như vậy bốn trăm bốn chứng thảy đều không có[40].
Lại cũng chẳng bị các thứ thuốc độc, binh khí gậy gộc, cọp sói, sư tử, nước, lửa, trộm, cướp... những duyên xảy ra bất ngờ như vậy không làm tổn hại. Thường được không sợ, chẳng phạm các tội.
- Di Lặc! Nếu có chúng sanh trước tạo nghiệp ác, phải chịu đủ thứ các sự khổ não, như bị kềm kẹp, còng khóa, gông xiềng, đánh mắng, đốt châm, xẻ da nhổ tóc, treo ngược lên cao, cho đến hoặc bị mổ xẻ lòng đốt... Nếu phát lòng tin tạo hình tượng Phật, thì khổ báo ấy thảy đều chẳng thọ. Chẳng sanh những chỗ giặc giã quấy nhiễu, thành ấy sụp đổ, sao dữ biến quái, đói kém ôn dịch... Những chỗ như thế đều chẳng sanh đến, nếu nói có sanh, đó là vọng ngữ.
Lúc ấy, Ngài Đại Bồ Tát Di Lặc bạch Phật:
- Kính bạch Thế Tôn! Như Lai thường nói “Nghiệp lành, nghiệp dữ đều chẳng mất mát.[41]” Nếu có chúng sanh gây tạo nghiệp nặng, phải sanh vào nhà giòng họ hèn mọn, nghèo nàn tật nguyền, mạng sống ngắn ngủi. Sau phát lòng tin tạo hình tượng Phật, các tội báo này là còn phải chịu hay là chẳng chịu?
Đức Phật bảo Ngài Bồ Tát Di Lặc:
- Ông nay nghe kỹ, sẽ vì ông nói. Nếu chúng sanh nào gây các tội rồi, phát tâm tạo tượng cầu xin sám hối, quyết định tự dứt, thề không phạm lại, thì tội tạo phước đều được tiêu diệt. Nay ta vì ông nêu rộng việc này........



 

Friday, February 17, 2012

Sư Ông về thăm Thiền viện Thường Chiếu ,năm 2010

Sáng ngày 17 tháng 12 năm 2010 (nhằm ngày 12 tháng 11 Canh Dần). Từ sáng sớm Chư Tăng, Ni và Phật tử Thiền viện Thường Chiếu hân hoan đón mừng Sư Ông về thăm.

Tất cả đều vui mừng khi lần lượt được đảnh lễ,  vấn an sức khỏe của Sư Ông. Dưới đây là một số hình ảnh Sư Ông về thăm Tồ Đình Thường Chiếu.

Một số hình ảnh Sư Ông về thăm TVTC ngày 17/12/2010



 Các chú điệu La vân đang chờ đón Sư Ông về


Tăng, Ni và Phật tử đón Sư Ông


Xe chở Sư Ông vừa đến


Xe chở Sư Ông vừa về đến nơi




Sư Ông đang đi vào thất






Cùng nhau lần lượt đảnh lễ vấn an sức khỏe Sư Ông