Friday, April 20, 2012

TU TRONG MỘT CHỮ NHỚ_ TT Thích Thông Phương


Ai cũng nói tu khó, nhưng tại sao khó? Tại tập khí của con người là hay quên nên tu khó. Thí dụ như đang ở đây tôi nói gì quí vị nghe hiểu rõ ràng, khi về nhà thì quên mất, khó là ở chỗ đó. Mà vì sao lại quên? Vì vọng tưởng chuyện này chuyện kia hoặc bị tâm phiền não che mờ chớ không gì khác. Thời Phật tại thế, có một vị Bà la môn đến hỏi Phật: "Bạch ngài Cù Đàm, tại sao có khi có những bài chú chưa từng học mà bỗng nhiên tôi nhớ, cũng có khi có những bài chú đã thuộc lòng rồi lại quên?"
Đức Phật đáp: "Nguyên nhân thứ nhất khiến quên là do năm món triền cái che đậy. Đó là tham, sân, thùy miên, trạo hối, nghi hoặc, khiến cho tâm trí bị che mờ, nên dễ quên. Nguyên nhân thứ hai khiến nhớ, là có khi tạm xa lìa năm món triền cái, tâm trí sáng suốt nên nhớ lại nhớ nhiều việc. "
Phật thí dụ như bát nước trong, đem hoà màu vào làm mất đi sự trong suốt của nó nên khi nhìn vào bát nước không thấy được mặt của mình. Cũng vậy, sự tham nhiễm làm mờ đi trí sáng suốt. Tham nhiễm dụ cho màu, nước trong dụ cho trí sáng suốt. Màu hoà vào làm mất đi sự trong của nước dụ cho tham nhiễm làm mờ đi trí sáng, do đó dễ quên. Ví dụ thứ hai, như bát nước dù trong mà nấu sôi sùng sục lên cũng không nhìn thấy mặt được. Cũng vậy, khi nổi sân là tâm đang sôi sục thì mất sự sáng suốt. Đây là hai món triền cái gần với mình. Ví dụ thứ ba, như bát nước trong bị rêu phủ trên mặt cũng không nhìn thấy được mặt. Cũng vậy, khi thùy miên (buồn ngủ) thì tâm trí mơ màng khó nhớ. Ví dụ thứ tư, tuy bát nước trong nhưng bị dao động thì nhìn vào thấy mặt mình cũng bị dao động không thấy rõ được. Cũng vậy, khi trạo hối thì tâm không yên nên khó nhớ. Ví dụ thứ năm, như bát nước trong vừa bị khuấy động, vừa để trong chỗ tối thì khi nhìn vào làm sao thấy được mặt mày.
Cũng vậy, khi tâm bị nghi hoặc che đậy thì trí mờ không nhớ được những việc lâu xa. Tóm lại, khi có năm món triền cái nầy thì trí nhớ bị lu mờ, không có nó tâm trí mới sáng suốt, bén nhạy.
Phật dạy thực tế như vậy mà thế gian không chịu nghe. Họ bảo rằng tôi thông minh học đâu nhớ đó và nhớ dai nữa làm sao quên được. Nhưng đây phải xét lại, phải phân biệt cái nhớ của tâm mê và cái nhớ của tâm ngộ. Người đời nhớ dai nhưng nhớ cái gì? Đó là nhớ theo duyên, theo cảnh, nhớ theo phiền não. Ai làm mình giận thì nhớ đời. Cũng nhớ, nhưng chưa phải chỗ Phật muốn nói ở đây, vì nhớ những thứ đó thì không nhớ được những chuyện khác. Thí dụ mình đang nhớ giận người nào thì tâm mờ, hoặc ngồi đây mà nhớ chuyện nhiều năm về trước, hay nhớ bên Mỹ, hay nhớ triết lý này triết lý nọ chứa đầy trong đầu thì đó là sống trong cái thức tưởng hay còn gọi là sống theo những cái bóng của quá khứ; hoặc không nhớ quá khứ thì nghĩ tới tương lai. Tương lai là gì? Là quá khứ phóng đại, vì từ quá khứ mới tưởng thành tương lai. Vậy là cũng đang sống với cái đâu đâu. Rốt lại có thực sống không? Bây giờ đặt câu hỏi: "Ai đang sống đó? Chỉ ra xem ! Tại sao như vậy?” Đó chỉ là tâm phân tán thôi. Tâm phân tán theo cái nầy, phân tán theo cái kia, luôn luôn có vấn đề trong đầu nên không được an ổn. Do không an ổn nên tâm bị che mờ, bị che mờ nên không nhớ được việc cần nhớ. Hoặc càng học cho nhớ nhiều chừng nào thì tâm càng loạn động chừng nấy. Ngài Vô Trụ phó chúc một công án cho đệ tử là Vô Hữu bằng một câu chuyện. Chuyện kể có một người đang đứng trên một đồi cao, có ba du khách đi ngang qua đường nhìn thấy người đứng trên đồi mới nói với nhau. Người thứ nhất nói: "Chắc anh ta bị mất vật gì thương yêu nên đang kiếm nó. " Người thứ hai cãi: "Không, chắc anh ta đang đứng chờ một người bạn thân. " Người thứ ba nói: "Trông cái dáng tôi đoán chắc anh ta đang đứng thưởng thức khí trong lành. " Mỗi người một ý cãi nhau không thôi, mới đề nghị lên đồi gặp anh kia hỏi cho ra lẽ. Ba người cùng nhau lên đồi, gặp người kia. Anh thứ nhất hỏi: "Anh làm gì ở đây vậy? Có phải anh đánh mất vật gì không?" Người kia đáp: "Tôi không mất gì hết. " Người thứ hai hỏi: "Anh đang chờ ai phải không?" Người kia đáp: "Không, tôi không chờ ai hết. " Người thứ ba hỏi: "Vậy có phải anh đứng hóng mát không?" Anh kia đáp: "Không phải, tôi chỉ đứng đây thôi. " Câu chuyện này ngài Vô Trụ bảo là một công án. Mình luôn sống như ba người ở dưới đồi, luôn lấy cái suy nghĩ trong đầu mình mà suy ra cho người, nghĩa là trong đầu luôn có vấn đề. Như vậy thì quả tang mình sống trong vô minh, sống trong vọng tưởng. Đó cũng là nhớ mà nhớ theo thế gian, đối với đạo gọi đó là quên. Quên là sống quên mình, sống không nhớ chủ. Còn nhớ là vì trong đầu mình có vấn đề gì mình nhớ vấn đề đó.
Có một người Ấn tên Tam Tạng Đại Nhĩ sang Trung Hoa, tự xưng có tha tâm thông, là thấy được tâm người khác. Vua muốn trắc nghiệm mới mời vào cung gặp quốc sư Huệ Trung. Lần thứ nhất quốc sư khởi tâm nghĩ đến cầu Thiên Tân rồi hỏi:
- Bây giờ tôi đang ở đâu?
Tam Tạng Đại Nhĩ nói:
- Ngài là quốc sư của một nước mà sao lại đến cầu Thiên Tân xem khỉ giởn?
Lần thứ hai quốc sư nghĩ đến bến đò Tây Xuyên rồi hỏi Tam Tạng:
- Bây giờ tôi đang ở đâu?
Tam Tạng nói:
- Ngài là một quốc sư sao lại đến bến đò để xem đò đua?
Lần thứ ba quốc sư không nghĩ gì hết, hỏi:
- Bây giờ tôi đang ở đâu?
Tam Tạng tìm hoài không được. Ngài hỏi thúc:
- Ở đâu, nói xem?
Tam Tạng tìm không ra. Cuối cùng quốc sư quở:
- Chồn tinh! tha tâm thông ở chỗ nào?
Tại sao lần thứ ba Tam Tạng không nói được? Vì đây là tha tâm thông thường thôi chứ không phải đạo thông. Tha tâm thông này chỉ thấy theo vọng tưởng nên hễ quốc sư nghĩ đến cây cầu, đến bến đò thì tướng cây cầu bến đò hiện trong đầu, Tam Tạng mới thấy được, đó là thấy theo cái bóng. Đến khi quốc sư không nghĩ gì hết thì Tam Tạng làm sao thấy. Nhưng chính chỗ không nghĩ gì mới là quốc sư thật. Nghĩ chỗ này chỗ kia là cái bóng, còn bây giờ quốc sư thật ngay trước mặt mà không thấy, đó gọi là sống mất mình. Nếu Tam Tạng thực sự có con mắt Thiền thì ngay khi bị hỏi "hiện giờ ở đâu", liền vỗ vai ông một cái thì biết ở đâu liền, không nói ở đâu. Do ông chỉ nhớ theo bóng nên Quốc sư quở, tức là mê mình. Học thiền là phải dám buông những thứ nhớ đó. Nhớ thứ nầy nhớ thứ kia buông liền, buông liền những thứ nhớ đó là sống trở lại chính mình, đó gọi là sống Thiền. Còn nhớ theo kiểu thế gian thì càng nhớ nhiều càng sanh loạn, có người học nhớ nhiều quá rồi điên, vì chứa đầy quá!
Trong nhà thiền có câu chuyện một giáo sư đi học thiền. Giáo sư thì trong đầu nhớ rất nhiều, ông đến học thiền với Thiền sư Nan In (Nhật Bản) thời Minh Trị Thiên Hoàng. Đến gặp Thiền sư thay vì thưa hỏi để được Thiền sư chỉ dạy, nhưng ông chỉ lo tuôn ra những sự hiểu biết của ông thôi. Thiền sư rót trà mời khách, nhưng ngài rót hoài đầy tràn tách rồi mà ngài vẫn không thôi. Ông giáo sư thấy vậy mới ngưng nói, thưa: "Bạch ngài, tràn rồi. " Bấy giờ Thiền sư mới nói: "Ông cũng vậy, đầu ông đã đầy tràn rồi thì cần gì phải học nữa? Trừ khi ông cạn tách trà của ông đi, còn bây giờ không còn chỗ chứa thêm nữa. " Đó là Thiền sư muốn đánh thức ông giáo sư đến học thiền thì trong đầu phải trống rỗng để tiếp nhận, còn trong đầu nhớ quá nhiều tràn cả ra ngoài thì còn chỗ nào để tiếp nữa.
Chứa nhiều đến nỗi đối diện Thiền sư mà không thấy Thiền sư, chỉ thấy những thứ ở trong đầu mình thôi. Học thiền kiểu đó làm sao tiếp nhận được? Vì vậy trong nhà thiền, những thứ chứa trong đầu nhớ dai nhớ giỏi chưa phải là thiền.
Trong nhà thiền có một vị tên là Đức Sơn cũng vì chỗ đó mà bị bà già bán bánh gạt. Ngài Đức Sơn quảy một gánh kinh ghé quán của bà hỏi mua bánh điểm tâm. Bà hỏi:
- Thầy quảy gánh gì nặng vậy?
Ngài đáp:
- Thanh Long sớ sao
Bà già biết đó là sớ giải kinh Kim Cang, bà nói:
- Như vậy thầy là giảng sư. Nếu thầy đáp được câu hỏi của tôi thì tôi cúng dường bánh cho thầy ăn, còn không đáp được thì xin mời thầy đi nơi khác.
Bà hỏi:
- Trong kinh Kim Cang nói: “Tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại không thể được, tâm vị lai không thể được, vậy thầy điểm tâm nào”?
Thật đơn giản nhưng ngài đáp không được, vì sao? Chỉ vì còn lo tìm tâm nào để điểm nên không trả lời được. Tâm quá khứ không thể được vì quá khứ qua rồi, nó là tâm hư dối nên không thể được. Tâm vị lai chưa đến nên cũng không được. Còn tâm hiện tại thì đang sanh diệt đổi dời, mình đang ngồi đây chứ tâm đã chạy về Sài Gòn rồi nên cũng không thể được. Vậy thì điểm tâm nào đây? Tâm ba thời đều hư dối không thật nhưng cái gì biết tâm ba thời đều hư dối? Chính cái luôn có mặt đó mà không nhớ, cứ lo tìm tâm ba thời nên bị bà già gạt. Tâm ba thời hư dối không thể được nhưng cái gì biết là nó hư dối không thể được? Chỗ đó lại không nhớ mà nhớ tâm ba thời kia nên gọi là mê, là bị gạt. Chỗ này trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy rất rõ. Ngài nói: “Căn bản của Bồ Đề Niết Bàn từ vô thủy chính là cái thức tinh nguyên minh của ông hiện nay”. Thức tinh nguyên minh tức là cái sáng nguyên vẹn chưa bị lẫn lộn gì hết, nó sáng sẵn như vậy chứ không nhờ cái gì để sáng, “nó hay sanh ra các duyên, nhưng sanh rồi lại chỉ nhớ các duyên đó mà quên chính nó. Chính vì chúng sanh bỏ quên cái sáng suốt có sẵn này nên suốt ngày tu hành mà không được giải thoát, chỉ đi vào trong các đường luân hồi”. Ví dụ như khi ta nhìn cành hoa thì chỉ biết cành hoa mà quên mất cái đang biết cành hoa, đó gọi là mê. Bởi mê nên suốt ngày đi theo các duyên mà không giải thoát. Bây giờ nhớ trở lại, biết rõ hết mà không quên cái đang biết, đó là nhớ trở về. Chính chỗ nhớ về đó là cái gốc của Bồ Đề Niết bàn, cái gốc của giác ngộ thành Phật. Tu là nhớ chính cái hằng biết đó chứ không phải nhớ những thứ bóng kia. Đây là nhớ Tánh giác, tức là nhớ ông Chủ của mình chứ không phải nhớ cảnh bên ngoài. Hễ nhớ cảnh bên ngoài tức là nhớ các thứ giả thì đi vào sanh tử. Đây thì quên tâm quên cảnh mà nhớ lại chính mình. Đó là cái nhớ của người giác.
Nói tóm lại, tu không có gì khó, chỉ một chút xíu này thôi: Chỗ mình thường nhớ thì phải hằng quên, chỗ mình hay quên thì phải hằng nhớ. Quay đầu lại chính là bờ, nắm được căn bản rồi thì thấy được chỗ tu của mình. Rất đơn giản.
Trong kinh Lăng Nghiêm, Bồ tát Đại Thế Chí tu niệm Phật tam muội, ngài nói rằng: "Cũng giống như người mẹ luôn nhớ con mà con không nhớ mẹ thì làm sao gặp nhau được. Còn mẹ nhớ con mà con cũng nhớ mẹ thì chắc chắn mẹ con sẽ gặp nhau. " Cũng vậy, Phật luôn nhớ chúng sanh mà chúng sanh không nhớ tới Phật thì làm sao gặp Phật. Giờ đây luôn nhớ Phật mà đến chỗ không còn niệm khác xen vào, thì lúc đó là Phật hiện tiền. Như vậy là mình và Phật gặp nhau, đó là chỗ rất thiết thực.
Còn ngài Quán Thế Âm tu phản văn văn tự tánh là xoay cái nghe nghe lại nơi tự tánh, tức là thay vì nghe tiếng bên ngoài thì bây giờ quên cái tiếng đó, nghe trở lại tánh nghe hằng hiện hữu nơi mình không gián đoạn, đó là chỗ chơn thật, là con đường chứng viên thông của ngài.
Có một lần Tể tướng Đỗ Hồng Tiệm đến luận đạo với Thiền sư Vô Trụ. Đang luận đạo thì có con quạ đậu trên cành cây trước sân kêu, Tể tướng mới hỏi Thiền sư Vô Trụ:
- Thầy có nghe chăng?
Thiền sư đáp:
- Nghe !
Một lúc sau con quạ bay đi, ông hỏi:
- Giờ thầy có nghe không?
Thiền sư đáp:
- Cũng nghe.
Ông nói :
- Con quạ đã bay đi rồi tại sao thầy nói nghe?
Ngay đó Thiền sư gọi tất cả đại chúng rồi nói to lên cho tất cả cùng nghe. Sư bảo:
- “Đức Phật ra đời rất khó gặp, chánh pháp rất khó nghe, các ông hãy lắng nghe cho kỹ ! Có tiếng, không tiếng, không dính dáng gì đến tánh nghe. Tánh nghe xưa nay chẳng sanh nên đâu từng có diệt.
Khi có tiếng thì thinh trần tự sanh, khi không tiếng thì thinh trần tự diệt, tánh nghe chẳng nhơn nơi tiếng mà có sanh có diệt. Ngộ tánh nghe thì không bị thinh trần chi phối. Cho nên phải biết, tánh nghe vốn không sanh, diệt, đến, đi. ” Ngay đó Tướng quốc làm lễ cảm nhận lời dạy của Sư. Đây nhân tiếng quạ kêu mà đánh thức cho mỗi người thấy rõ: "Tiếng hoặc có hoặc không, có sinh có diệt, tánh nghe thì đâu có theo tiếng mà có hay không. " Trước khi quạ kêu đã như vậy rồi, đâu đợi quạ kêu mới có nghe. Cũng vậy, trước khi nghe giảng quí vị có nghe không? Vậy thì khi hết giảng quí vị đâu có mất. Thử nhớ trở lại coi sẽ thấy rõ ràng tánh nghe luôn luôn có mặt với mình. Nhớ như vậy là nhớ lại tánh nghe của mình, đó là chỗ Phật muốn chỉ. Cho nên ngài nói Phật ra đời khó gặp, chánh pháp khó nghe, tức là nhấn mạnh cần phải lắng nghe lại tánh nghe mới thấy được Phật pháp mầu nhiệm chỉ nằm trong một chỗ đó thôi. Phật ra đời cũng từ chỗ đó. Chúng ta đa số nghe nói Phật ra đời liền nghĩ đến vườn Lâm Tỳ Ni ở Ấn Độ. Nhưng đó là chỗ lầm lẫn không hay. Vì sao? Vì phải hiểu Phật là gì? Lúc ngài ra đời ở vườn Lâm Tỳ Ni thì chưa có tên. Sau đó vua Tịnh Phạn mới đặt tên là Tất Đạt Đa chứ không phải tên Phật. Phật nghĩa là giác, nên khi Thái tử thành đạo, tức giác ngộ được tánh giác mới gọi là Phật. Cội cây nơi ngài ngồi là cây Tất- bát- la chứ không phải là cây bồ đề. Sau khi Phật thành đạo rồi, để kỷ niệm chỗ Phật thành đạo giác ngộ mới đổi tên cội cây thành cây Bồ-đề, Bồ- đề nghĩa là giác. Rõ ràng, khi thành đạo giác ngộ mới gọi là Phật, mà thành đạo từ đâu? Từ trong tự tánh chứ không phải từ vườn Lâm Tỳ Ni hay dưới gốc cây bồ đề. Như vậy, chỗ này phải sống được, muốn sống được phải nhớ lại.
Một hôm ngài A Nan hỏi ngài Ca Diếp:
- Khi Thế Tôn truyền chánh pháp nhãn tạng cho sư huynh thì ngoài chiếc y Kim lan còn truyền riêng pháp gì nữa không?
Ngài Ca Diếp liền gọi:
- A Nan !
Ngài A Nan : "Dạ"!
Ngài Ca Diếp nói:
- Cây phướn trước chùa ngã.
Ngài A Nan liền lễ tạ.
Đó là truyền riêng cái gì? Cứ lo nghĩ một cái gì đó để truyền riêng thì quên mất chính mình đang hiện hữu, đang có mặt đó. Cái riêng và cái bí mật là ở chỗ đó chứ không có gì khác. Chỗ đó không thể nói hết nên giống như có gì bí mật. Nhưng bí mật chính là ngay chỗ mình đang hiện hữu đó. Ngài Ca Diếp gọi A Nan thì ngay đó liền đáp, nhớ liền chỗ đó, thì “bí mật” liền được “bật mí” chớ gì. Rõ ràng và đơn giản nhưng mà mình tưởng tượng quá nhiều thành không thấy được nó. Như ông cư sĩ Phạm Xung ở viện Viên Thông gặp Thiền sư Mân đang ngồi uống trà. Uống trà xong, ông than rằng: “Bạch thầy, con sắp già rồi, đến tuổi nầy mà còn rơi vào con đường quan chức cho nên cách việc này hơi xa. ” Ngài Viên Thông liền gọi “Nội hàn !” Ông liền “Dạ !” Ngài bảo “Có xa đâu?” Ngay đó ông liền vui vẻ thấy không có xa. Mình luôn quên mình, tưởng đâu là có cái gì đó cho nên nói là xa, không ngờ nghe gọi liền dạ thì rõ ràng nó đang có mặt đó chứ đâu. Nếu không có mặt thì đâu có biết dạ. Như vậy là ông đã có niềm vui. Niềm vui này là của riêng ông hay ai cũng có? Vậy tại sao mình không có? Tại vì không chịu nhớ lại thôi. Đây là điểm quan trọng. Như vậy nếu mình luôn nghe thinh trần với cái tâm trong sáng, mới mẻ, tinh khôi chưa xen gì trong đó thì bảo đảm nghe cái gì cũng tỏ ngộ được hết và nghe được những điều chưa từng nghe. Còn nghe với cái tâm quá cũ, chứa những cái khuôn trong đầu thì không nghe được những điều vi diệu. Vừa nghe gọi liền dạ, lúc đó tâm không có vấn đề gì thì rõ ràng nó có mặt đó chứ đâu, không có gì khác hết.
Bây giờ trở lại chỗ tu của mình hiện tại. Hoà Thượng dạy biết vọng là sao? Tức là có niệm khởi lên mình liền biết có niệm, niệm qua biết nó qua rồi, tức là phải luôn sống với tánh biết hằng có mặt. Bởi tánh biết hằng có mặt, nó có trước niệm, nên hễ khởi niệm gì liền biết ngay, không cần suy nghĩ cũng biết. Như vậy tánh biết có đồng với niệm hay không? Nếu tánh biết đồng với niệm thì làm sao nó biết được niệm? Nên thấy niệm khởi nhớ lại cái hay biết, đó là giác. Còn hễ theo tướng niệm thì quên mất tánh biết, đó là mê. Cái chỗ phải nhớ thì chúng ta lại quên, cái chỗ phải quên thì lại nhớ. Nhận ra được điều nầy mới thấy chỗ đang tu của mình rất đúng với lời Phật dạy. Chưa nhận được điều nầy thì còn nghi ngờ.
Tổ Lâm Tế có dạy: “Bên ngoài không pháp (tức không có pháp thật), bên trong cũng không thể được (là vì tâm hư vọng). Các ông chớ chụp lấy lời nói trong miệng của sơn tăng này mà lo hiểu, hãy thôi dứt, vô sự đi. (Cứ chụp lấy lời nói đó cũng chỉ là tiếng vọng thôi). Bây giờ đây, cái đã dấy lên chớ có tiếp tục, còn cái chưa dấy thì đừng cho dấy còn hơn là các ông đi hành cước 10 năm. ” Thật là đơn giản ! Tổ Lâm Tế là Tổ một tông lớn nổi tiếng mà ngài dạy rất rõ ràng như vậy thì mình cũng thấy chỗ tu rõ ràng thôi, nghĩa là ngay niệm khởi không theo là sống thiền rồi. Đường lối tu đơn giản vậy, nhưng vì mình hay quên.
Bây giờ muốn ứng dụng tu phải làm sao đây? Đó mới là chỗ thực tế. Tức là trong tâm phải luôn luôn ý thức được mọi cử chỉ, mọi hành động. Đó là sống trở về ngay cái thực tại đang là. Thí dụ mình giơ cái tay thì mình ý thức được tâm mình đang có mặt nơi cử động đó. Rồi mình cười cũng ý thức được tâm đang có mặt nơi cái cười đó. Giở chân lên cũng ý thức được tâm đang có mặt nơi đó… Như vậy là lúc nào tâm cũng có mặt nơi thân, tức đang là chứ gì nữa ! Đó là sống thiền, chỉ bấy nhiêu đó thôi, không cần cầu gì khác.
Trong văn hệ A Hàm, kinh Vị Tằng Hữu tức là pháp chưa từng có, Đức Phật bảo ngài A Nan: “Này A Nan, Như Lai biết sự sanh khởi của cảm thọ, biết trụ, biết diệt, luôn luôn biết, chẳng có lúc nào chẳng biết”. Tức là khi cảm thọ sanh ra liền biết, nó đang trụ cũng biết, nó đang diệt cũng biết, luôn luôn biết như vậy không lúc nào không biết.
“Này A Nan, Như Lai biết sự sanh của tư tưởng, biết tư tưởng trụ, biết tư tưởng diệt, luôn luôn biết, không lúc nào chẳng biết. ” Tức là Như Lai luôn biết sự sanh diệt của nội tâm, không có lúc nào không biết hết. Như vậy nghĩa là hằng biết, hằng biết là hằng hữu không gián đoạn chớ gì. Mình bây giờ cũng vậy đó, chỉ cần lúc nào cũng BIẾT là gặp Như Lai liền. Đó là chỗ sống, chỗ tu. Có nhiều người học giáo lý thật cao siêu mà không ngờ cái chân thật ngay chỗ sống đó. Một cánh cửa đập mình cũng biết, vậy là mình đâu có mê, còn nghe cánh cửa đập liền nổi tức đó là mê rồi.
Trong sách thiền của Nhật Bản có câu chuyện một hành giả tên Tenno cho rằng công phu của mình đã đủ nên từ giã thầy xuống núi. Khi đến thất thầy để từ giã, bất chợt thầy hỏi:
- Lúc nảy vào đây ông để cây dù bên trái hay bên phải đôi dép?
Bị hỏi bất ngờ Tenno bối rối, suy nghĩ để nhớ lại thì vị thầy bắt ở lại không cho xuống núi.
Lần thứ hai. Mấy năm sau Tenno nghĩ mình đã đủ sức hằng tỉnh giác rồi nên tới từ giã thầy. Vị thầy bất chợt hỏi:
- Khi vào đây ông bỏ dép chân nào trước?
Bị hỏi bất ngờ Tenno không nhớ, phải suy nghĩ nên bị thầy bắt ở lại thêm nữa. Qua thời gian mấy năm ông thầy không dạy thêm gì ngoài câu chuyện dù và dép đó.
Một hôm Tenno tự tin với công phu Thiền miên mật của mình rồi, nên đến xin thầy xuống núi lần nữa. Khi đến từ giã, lúc đó trời đang có gió, ông thầy bảo :
- Con đến đóng cửa lại cho thầy.
Nghe nói vậy trong bụng mừng thầm, nghĩ thầy đã chấp nhận cho mình đi rồi, lại đóng cửa hơi mạnh tay, vang ra tiếng động, vị thầy bắt ở lại thêm nữa. Sau nầy Tenno trở thành vị Thiền sư nổi tiếng của Nhật Bản.
Như vậy học thiền không thể học suông được. Đây rõ ràng Thiền sư muốn đánh thức mình phải luôn tỉnh giác trong mọi cử chỉ và hành động, lúc nào cũng ý thức sự có mặt của cái tâm sáng suốt trong đó. Được như vậy thì lúc nào mình cũng sáng. Đến khi tâm tụ về một điểm gọi là điểm “đang là” thì ý Tổ sư “bật mí” liền. Còn bây giờ tâm mình chưa trụ được mà cứ lo đi tìm thì không bao giờ thấy được vì càng tìm thì càng xa. Càng suy nghĩ càng không trúng. Chính chỗ này là trà Triệu Châu.
Có ông tăng đến hỏi đạo, ngài hỏi:
- Ông đã từng đến đây chưa?
- Chưa từng đến.
- Uống trà đi !
Một vị tăng khác đến, ngài cũng hỏi:
Ông đã từng đến đây chưa?
- Đã từng đến.
- Uống trà đi !
Ông viện chủ thắc mắc, hỏi:
- Tại sao người đã từng đến hay chưa từng đến Hoà Thượng đều mời uống trà?
Ngài bảo:
- Viện chủ !
- Dạ.
- Uống trà đi !
Ngài hỏi ông tăng, ông đã từng đến đây chưa? Ông tăng trả lời, chưa từng đến. Nếu chưa từng đến vậy chớ ai đang đứng đối diện đây? Tôi hỏi, ông đáp rõ ràng đây mà bảo là chưa từng đến ! Vậy là ông đang trở về quá khứ chớ đâu có ở đây, tức là ông quên mất thựïc tại rồi. Đây là ngài đánh thức cho ông tăng nhớ lại cái hiện tiền đó. Ngài hỏi ông tăng khác đã từng đến chưa? Đáp đã từng đến. Đã đến rồi, tức là ông đang có mặt đây rồi thì còn muốn thêm gì nữa. Cho nên bảo: uống trà đi! Còn ông viện chủ thì sao?. Đến hay chưa là chuyện của hai ông kia, đâu dính dáng gì đến ông mà xen vào. Vì thế ngài gọi ông: “Viện chủ !” –“Dạ!” Dạ tức là ông đang có mặt ngay chỗ nầy đây mà ông không nhớ, lo nhớ chuyện của hai người kia. Nên ngài cũng bảo uống trà đi ! Đó là ngài muốn đánh thức mình sống trở lại ngay cái hiện hữu đây. Bây giờ quý vị đang ngồi đây cũng phải có mặt ở đây. Đó là đang sống thiền. Như vậy Nhớ là nhớ lại chỗ đang sống sáng ngời đó thôi, rất đơn giản. Quý vị thấy tu dễ không? Quá đơn giản, không rời khỏi mình một bước, chỉ là ở chỗ nào có mặt ngay chỗ đó là đủ rồi.
Có một chuyện khác của ông tăng đứng hầu ngài Huyền Sa. Ngài Huyền Sa chỉ một chấm màu trắng ở trên nền đất, hỏi:
- Ông thấy chăng?
- Dạ thấy.
Ngài im lặng một hồi rồi hỏi:
- Ông thật thấy chăng?
- Dạ thấy rõ ràng.
Ngài hỏi thêm lần thứ ba nữa, ông tăng cũng đáp “Dạ thấy. ” Lúc đó ngài mới bảo: “Ông cũng thấy, ta cũng thấy, tại sao lại bảo là không khế hội?” Tức là tại sao bảo ta sáng còn ông không sáng. Rất thực tế như vậy đó. Điểm trắng kia bây giờ dụ như cành hoa nầy, quí vị thấy không? Quí vị thấy, tôi cũng thấy. Vậy thì tại sao có người sáng, người không sáng? Có gì đâu, tại quí vị thấy cành hoa chỉ nhớ cành hoa thôi, cũng như ông tăng kia thấy điểm trắng chỉ nhớ có điểm trắng thôi mà quên mất cái đang thấy, tức là quên mất sự có mặt của mình nên gọi là mê. Bây giờ thấy cành hoa liền nhớ trở lại cái gì đang soi sáng cành hoa đó, nhớ chỗ đó là thấy được ngài Huyền Sa. Chẳng những thấy ngài Huyền Sa mà còn thấy cả chư Tổ và mười phương chư Phật trong chỗ đó nữa. Tu chỉ cần chút xíu đó thôi. Trong nhà thiền nói đông nói tây cũng nhằm chỗ đó. Mã Tổ nhéo mũi Bá Trượng cũng nhằm chỉ chỗ đó. Hai thầy trò đang đi dạo, thấy bầy vịt trời đang bay qua, Mã Tổ hỏi:
- Đó là cái gì?
Bá Trượng đáp:
- Bầy vịt trời.
Đợi bầy vịt trời bay qua, ngài hỏi:
- Bay đi đâu?
Bá Trượng đáp:
- Bay qua rồi.
Mã Tổ nhéo lỗ mũi thật mạnh, Bá Trượng la lên. Mã Tổ liền bảo:
- Sao không nói bay qua đi?
Ngay đó Bá Trượng liền tỏ ngộ. Rõ ràng thấy bầy vịt trời thì cùng thấy, nhưng Bá Trượng khi thấy chỉ nhớ bầy vịt trời, nên nó bay qua rồi ngài cũng nhớ theo nó, quên mất mình đang đứng đây. Mã Tổ nhéo lỗ mũi, Bá Trượng la lên. Liền đó Tổ hỏi: “Sao không nói bay qua đi?” Nếu bay qua mất thì ai còn kêu đau đây? Đó là Tổ đánh thức cho mình sống trở lại chỗ chân thật của mình. Chỗ đó chỉ cần nhớ lại là xong. Nói xa xôi cho dài dòng, bây giờ trở về thực tế, cái gì đang ngồi đây, cái gì đang nghe đó?ù Đó là cái thực tế hiện tiền nơi mỗi người, hễ nghe chuyện mà chạy theo chuyện là quên mất chính mình. Nên tu chỉ cần tóm lại bằng một chữ NHỚ mà thôi. Nghĩa là cái mình hằng nhớ thì bây giờ phải quên, cái mình hằng quên thì bây giờ phải nhớ, chỉ bấy nhiêu đó làm kiếp nầy qua kiếp khác cho xong, bảo đảm không sai. Còn học nhiều mà nhớ theo cái học tức là quên mất mình rồi.
Tóm lại, tu có nhiều cách, nói theo chữ nghĩa thì có tám mươi bốn nghìn pháp môn, nhớ không hết, nhưng tóm gọn chỉ một chữ NHỚ là đủ. Vì có pháp môn nào ngoài chữ Nhớ đâu. Một chữ NHỚ gồm thâu tất cả. Quý vị niệm Phật cũng phải nhớ, ngồi niệm Phật mà nhớ chuyện đâu đâu thì làm sao nhất tâm bất loạn cho Phật đến rước được. Còn niệm chú cũng phải nhớ chứ ngồi niệm chú đây mà nhớ chuyện lung tung thì đâu có thành công. Pháp tu Tứ niệm xứ cũng vậy, quán niệm xứ nào cũng phải luôn nhớ trở lại. Tập sống trở lại tức là luôn luôn tiếp xúc với tất cả, mà tiếp xúc với sự có mặt của tâm thì lúc nào cũng sáng hết. Nói chuyện với nhau phải ý thức được sự có mặt của mình ngay đó. Có khi nói chuyện với nhau mà trong đầu nghĩ chỗ khác, đó là không tiếp xúc được với nhau. Cũng vậy, đang đi mà trong đầu lại nghĩ đến chuyện khác, như vậy là không tiếp xúc được với chỗ đó. Rất dễ, mà cũng dễ quên nên nói một bài tâm kinh học hoài không thuộc. Tâm kinh nói rằng: “Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành sâu Bát-Nhã ba-la-mật-đa thì thấy năm uẩn đều không liền qua hết thảy khổ ách. ” Nhưng đang lúc đọc thì nhớ, ra rồi liền quên cho nên vẫn khổ ách như thường, chỉ vì quên thôi. Phải sống trở lại chỗ chân thật nơi mình thì tu mới dễ.
Trong nhà thiền có câu chuyện Thiền sư Hoằng Trí lúc theo Hoà Thượng Đơn Hà Tử Thuần, nhân một hôm đang đứng bàn luận với một vị tăng về công án thiền, trong lúc hứng quá ngài cười to lên. Hoà Thượng Đơn Hà nghe liền quở: “Một tiếng cười của ông làm mất đi bao nhiêu việc tốt rồi. Ông không thấy người xưa nói rằng: tạm thời chẳng còn, đồng như người chết sao?” Nghĩa là ngay đây mà vắng mặt thì giống như người chết thôi, mà ông còn cười nữa. Cười to là hứng, hứng tức là ngay đó quên mất chính mình rồi. Ngài Hoằng Trí nghe vậy liền đảnh lễ ghi nhận. Thời gian sau ngài nói rằng: “Dù cho ở trong thất tối một mình cũng chưa từng dám sơ xuất ”. Tức là lúc nào cũng tu miên mật. Quý vị ngay đây nên bắt đầu ứng dụng trở lại, lúc nào cũng thường nhớ, như vậy sẽ gần với Đạo. Đã bao nhiêu kiếp mình nhớ những chuyện bên ngoài quá nhiều rồi, bây giờ quên cũng đâu có uổng, sao lại còn tiếc. Đừng tiếc nữa, những thứ nhớ đó bây giờ quên đi, còn cái đã quên thì hãy nhớ lại, đó là sống trở lại với thiền, với cái chân thật. Chánh pháp là đó.
Để kết thúc lại, không gì hơn là chúc quí vị thường NHỚ, mà muốn thường nhớ thì phải dám quên. Nhất là quên cái gì? Quên cái TA này. Dám quên cái TA này thì mới thường nhớ được. Còn không dám quên cái TA này thì sẽ không thường NHỚ. Mong tất cả quí vị thành tựu cái thường NHỚ đó là gặp lại Như Lai, gặp chư Tổ thôi.

Thursday, April 19, 2012

THIỀN LÀ SỐNG NGAY THỰC TẠI _ TT Thích Thông Phương ( Sống lầm mất mình 1 cách đáng thương )


I. SỐNG LẦM, MẤT MÌNH
Lâu nay chúng ta sống ở trên đời, nhưng Phật nói mỗi người sống ở đây mà không có thực sống. Vì chúng ta sống mà đánh mất chính mình, sống mà đánh mất thực tại, nên thiếu đi ý nghĩa sống. Như chúng ta đang ngồi đây nghe pháp, nhưng có thực là chúng ta đang ở đây không hay là đang ở đâu? Có khi thân đang ngồi ở đây nhưng tâm để ở nhà, hoặc tâm đang đi lang thang ngoài đường. Đó gọi là sống mất mình, sống với cái đã chết. Cho nên đa số chúng ta luôn luôn đi tìm cái để sống, do thấy thiếu nên tìm cầu. Nhà thiền gọi là cỡi trâu đi tìm trâu.
Có câu chuyện: Gần ngôi Thiền viện có một tiệm bán đậu hũ. Ông chủ bán đậu hũ có tính hiếu kỳ, không biết ở ngôi thiền đường mấy ông thầy làm gì ở trong đó. Nên ông năn nỉ vị sư Hương đăng trông coi việc ở thiền đường, xếp cho ông vào trong đó. Ông cũng ngồi thiền với quý thầy, nhưng ông ngồi một góc ở phía dưới để quan sát cho biết. Thời gian ngồi thiền là một nén hương, khoảng một giờ. Ông tréo chân ngồi, thấy cảnh lặng lẽ khác thường hơn ở nhà, ai cũng ngồi im không ai ngó qua ngó lại. Ông lén lén mở mắt ra, nhìn qua nhìn lại thấy ai cũng mắt ngó xuống, ông cũng bắt chước theo ngồi yên mắt ngó xuống. Bình thường ông sống ở ngoài, bận rộn lăng xăng trong sinh hoạt hằng ngày, bây giờ được một chút duyên ngồi yên trong khung cảnh trang nghiêm lặng lẽ, tâm cũng lặng xuống chút ít. Khi tâm lắng xuống, ông thấy những chuyện quá khứ nó trồi lên, vì lâu nay lăng xăng không có thời gian nhớ bây giờ ngồi yên nó nhớ lại rõ ràng. Sau khi về nhà rồi, gặp ai ông cũng khen ngồi thiền hay quá, tôi thực tập có một buổi thôi mà cảm nhận rất là sáng suốt. Hôm đó, tôi đã nhớ ra được ông lão họ Vương kia mua đậu hũ của tôi tổng cộng còn thiếu năm đồng mà lâu nay tôi quên, giờ nhớ là ông chưa trả.
Mọi người bình thường nghe cũng thấy vui vẻ, nhưng với người chuyên tu thiền thì thấy ông đang ngồi thiền ở trong thiền đường, nhưng tâm ông về nhà bán đậu hũ. Như vậy rõ ràng sống mà đánh mất chính mình. Cũng như chúng ta ngồi đây nhưng không có thực tại sống ở đây, chỉ sống với bóng của quá khứ hoặc ảo tưởng tương lai. Sống với thực tại là ngay bây giờ ở đây, chúng ta phải có mặt sự tỉnh thức ngay đây, chứ không phóng tâm lang thang, mất mình.
Thiền sư Cảnh Thanh đang ngồi, liền hỏi vị tăng bên cạnh:
- Ở bên ngoài là tiếng gì?
Lúc đó trời đang mưa, nên ông tăng thưa:
- Là tiếng mưa rơi.
Thiền sư Cảnh Thanh bảo:
- Chúng sinh điên đảo quên mình theo vật.
Ông tăng hỏi:
- Còn Hòa thượng thì thế nào?
Ngài đáp:
- Vẫn chẳng quên mình.
Đa số người là sống như vậy, đang ngồi đây, nghe tiếng mưa rơi thì chạy ra ngoài hiên, tâm nhớ theo tiếng mưa rơi nên quên mất cái gì đang nghe, đang biết. Thiền sư hỏi bên ngoài là tiếng gì, tức muốn nhắc ông tăng nhớ lại cái gì đang nghe, đang biết rõ ràng, đang hiện có mặt ở đây, chứ không phải ý ngài ở ngoài mái hiên. Nhưng vị tăng quen sống theo duyên, tâm duyên theo tiếng mưa rơi bên ngoài nên chỉ nghe tiếng mưa rơi. Do đó, Thiền sư nói: "Chúng sinh điên đảo quên mình theo vật", quên chính mình đây mà chạy theo bên ngoài. Vị tăng hỏi lại: "Còn Hòa thượng thì thế nào?", Ngài đáp: "Vẫn chẳng quên mình". Thiền sư cũng nghe tiếng mưa rơi, biết rõ tiếng mưa rơi nhưng vẫn không quên mình. Sống như vậy mới gọi là không mất mình, chứ còn ngồi đây mà chạy theo tiếng là quên mất chính mình, là đánh mất thực tại đang hiện hữu.
II. SỐNG NGAY THỰC TẠI, BÂY GIỜ
Trong nhà thiền luôn nhắc mọi người, phải sống trở về với cái thực tại đang hiện hữu sáng ngời, đó là thiền chân thật. Thiền dạy hành giả là sống trở về ngay thực tại, bây giờ và ở đây. Mặt trời tâm phải luôn luôn mọc ngay đây, luôn chiếu sáng không cho mây che khuất. Thiền sư Pháp Loa, Tổ thứ hai của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, có lần ngài Pháp Loa hỏi Tổ Trúc Lâm:
- Khi muôn dặm mây tạnh thì thế nào?
Tổ Trúc Lâm đáp:
- Mưa tầm tã.
Lại hỏi:
- Khi muôn dặm mây che kín hết thì thế nào?
Đáp:
- Trăng vằng vặc.
Theo tâm lý thế gian nghe vậy là không hiểu gì hết, nói chuyện ngược đời. Muôn dặm mây tạnh tức là trời trong sáng, không có vết mây thì làm sao mưa, đây Ngài lại đáp: "Mưa tầm tã". Còn hỏi: "Muôn dặm mây che kín hết" là đang mưa, mà Ngài lại đáp: "Trăng sáng ngời". Theo thế gian thấy giống như nghịch lý, nhưng trong nhà thiền là đánh thức cho hành giả sống trở về ngay thực tại sáng ngời, phải sống "ngay bây giờ đây". Muôn dặm mây tạnh, tức là trời trong sáng, trời trong sáng đây có hai ý: Thiền sư vừa mượn hình ảnh trời trong sáng, nhưng cũng muốn nói bầu trời tâm của mình trong sáng không có vết mây, mà ông còn hỏi chi cho động niệm, động niệm là mây mưa tầm tã rồi. Câu thứ hai hỏi: "Muôn dặm mây che kín thì sao?". Nếu nói tâm mình bị che kín, không còn chỗ nào để ló đầu. Vậy ai biết hỏi đây, đã biết hỏi thì đâu có che, nên Sơ Tổ đáp: "Trăng sáng ngời". Tâm vẫn hiện hữu sao còn chưa tỏ ngộ? Chúng ta thấy Thiền sư đáp, mới nghe dường như nghịch lý, nhưng hiểu ra thì rất chí lý.
Quả thật, tâm thiền của Ngài luôn luôn hiện hữu sáng ngời, chưa từng vắng mặt bao giờ. Ngay lúc đang hỏi đáp, tâm của Ngài vẫn sáng nên đáp một cách trực tiếp bén nhạy. Chân lý thiền rất đơn giản, gần gũi đâu có gì xa lạ. Ngay thực tại đây thôi. Ngay chỗ chúng ta ngồi đây, biết sống trở về là thiền là đạo. Nhưng do con người quen thêm vào, quen tưởng tượng nên thành ra rắc rối, khó hiểu. Nếu chúng ta buông bỏ những tưởng tượng thì thiền rất đơn giản.
Như câu chuyện trà Triệu Châu. Có vị tăng đến chỗ Thiền sư Triệu Châu. Ngài Triệu Châu liền hỏi:
- Ông từng đến đây chăng?
Vị tăng thưa:
- Đã từng đến.
Triệu Châu liền bảo:
- Vậy thì uống trà đi!
Vị tăng khác đến, Sư hỏi:
- Ông từng đến đây chăng?
Vị tăng thưa:
- Chưa từng đến.
Sư cũng bảo:
- Uống trà đi.
Vị viện chủ thấy vậy thắc mắc hỏi:
- Từng đến cũng bảo uống trà đi, chưa từng đến cũng bảo uống trà đi, vậy là sao?
Ngài Triệu Châu liền gọi:
- Viện chủ.
Viện chủ đáp:
- Dạ.
Sư cũng bảo:
- Uống trà đi!
Mới nghe thấy giống như thầy trò đùa chơi, nhưng đó chính là đánh thức cho người học sống trở về ngay thực tại đang hiện hữu, không khởi thêm niệm gì khác. Ông đã từng đến đây, có mặt tại đây thì còn hỏi gì nữa, uống trà đi là xong. Vị tăng kia bảo ông chưa từng đến, chưa từng đến vậy ai đang đứng đây? Đang đứng đây tức là đã đến rồi, mà nói chưa từng đến là ông đang nhớ về chuyện quá khứ hôm qua, hôm kia. Hiện tại đang đứng đây thì ông đang ở đây, cho nên cũng uống trà đi, là xong. Vị viện chủ cũng giống như mình, chuyện đến hay chưa đến là việc của người ta, không dính dáng gì tới ông hết. Gọi thì ông biết dạ, ngay đó đủ rồi khỏi phải hỏi thêm chuyện của người chi nữa, cũng uống trà đi là xong.
Chúng ta thấy các Thiền sư rất thực tế, đang ở đây thì có mặt ở đây, nghĩ cái khác là quên mất thực tại đang hiện hữu gọi là mất mình, là mặt trời bị mây che, cần phải tỉnh lại là xong. Có lần Thiền sư Huyền Sa đang ngồi chỉ một điểm trắng ở dưới nền đất, Ngài hỏi ông tăng kế bên:
- Ông có thấy không?
Vị tăng thưa:
- Dạ thấy.
Ngài nhấn mạnh trở lại:
- Ông có thật thấy không?
Vị tăng nói:
- Dạ thấy.
Ngài hỏi thêm lần thứ ba nữa:
- Ông thấy thật không?
Vị tăng nói:
- Dạ thấy.
Ngài Huyền Sa mới bảo:
- Ông cũng thấy, ta cũng thấy. Vì sao nói là chẳng hội?
Như bây giờ bình hoa ở đây, ai cũng thấy mà sao có người ngộ có người chẳng ngộ? Hai người đồng thấy một điểm trắng rõ ràng, nhưng Thiền sư thì ngộ còn vị tăng chẳng ngộ, là vì vị tăng thấy nó nhưng lại chạy theo nó nên quên mất chính mình. Chúng ta ở đây cũng vậy, nhìn thấy bình hoa rồi đồng hóa mình với bình hoa nên quên mất thực tại. Học thiền rất đơn giản, thực tế ngay trong cuộc sống, ngay nơi thực tại đây thôi. Nhưng chúng ta không thấy được là do tâm mình quen tưởng tượng xa xôi.
Có lần một học giả đến học đạo với Thiền sư Việt Khê, người Nhật Bản. Ông tha thiết hỏi về thiền đạo:
- Bạch thầy! Con đã nghiên cứu về Phật học, Nho học hơn hai mươi năm. Những điều đó con hiểu rất nhiều, nhưng còn một điểm con chưa rõ biết là thiền đạo. Xin thầy giải thích cho con hiểu về thiền đạo.
Ngay đó Thiền sư Việt Khê tát cho một tát tay. Ông bực tức bỏ đi, đến gặp vị thủ tọa ở trong chùa. Vị thủ tọa thấy vẻ bực bội của ông, biết có chuyện nên Ngài cũng nhẹ nhàng bảo:
- Có việc gì vậy? Người học thiền cần phải bình tĩnh, có việc gì mà phải bực bội, thôi ông hãy ngồi đây uống tách trà đi.
Ông nghe vậy cũng hơi cởi mở, ngồi xuống uống trà với Ngài thủ tọa. Trong khi ngồi uống trà thì ông liền tuôn ra những lời bực bội về Thiền sư Việt Khê, đến hỏi đạo chưa gì bị tát cho một bạt tay. Bất chợt, vị thủ tọa cũng đánh vào tay ông, tách trà rơi xuống đất vỡ tan.
Vị thủ tọa mới nói:
- Vừa rồi ông nói là hiểu được Phật học, Nho học chỉ còn có chút thiền đạo là ông chưa hiểu thôi. Bây giờ đây tôi đã đem thiền đạo cúng dường cho ông rồi, ông có biết cái gì là thiền đạo chăng?
Lúc đó ông ngơ ngẩn không biết gì. Ông nghĩ Thiền đạo gì đâu, chưa chi đã bị đánh, tách trà rớt xuống đất. Vậy là cái gì chứ?
Vị thủ tọa hỏi lại lần nữa, ông cũng không biết. Vị thủ tọa mới nói:
- Thật là không xứng cho ông thấy thiền đạo của chúng ta.
Vị thủ tọa bèn cúi xuống nhặt những mảnh vỡ của tách trà lên, lấy giẻ lau khô nước trà ở trên nền đất. Rồi bảo:
- Ngoài những thứ này ra còn có thiền đạo nào nữa không?
Ngay đó ông liền tỉnh ngộ. Ông ở lại tham thiền với Thiền sư Việt Khê.
Vậy thiền đạo ở chỗ nào? Đa số người đi học thiền, cứ nghĩ thiền đạo là cái gì cao siêu trên trời trên mây. Trong khi đó Thiền sư chỉ rất là đơn giản, ngay chỗ việc làm hằng ngày của mình đây, như tách trà rớt xuống, lượm lên lau khô nước. Mọi cử chỉ chúng ta làm trong tỉnh giác, sáng suốt thì đó là thiền đạo. Sống ngay thực tại hiện tiền sáng ngời đó là thiền đạo. Như chúng ta đang làm bếp nấu nướng, làm trong tâm sáng suốt tỉnh táo đó là thiền đạo.
III. BUÔNG CHỖ DUYÊN
Do tâm con người cứ đuổi theo duyên bên ngoài, nhớ cảnh nhớ đối tượng, tâm luôn bám víu nên quên mất thực tại. Bây giờ khéo buông những chỗ tâm duyên theo đó thì sống trở về thực tại. Kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy: "Những người tu hành chẳng thể thành tựu được Vô thượng Bồ-đề, cho đến thành Thanh văn, Duyên giác hay làm quyến thuộc của ma, là đều do không biết được hai thứ căn bản, nên tu học lầm lộn.
Thứ nhất là căn bản sanh tử từ vô thủy đến nay, tức các ông cùng chúng sinh dùng tâm phan duyên làm tự tánh. Thứ hai là thể Bồ-đề Niết-bàn thanh tịnh sẵn có từ vô thủy, là thức tinh nguyên minh hay sanh ra các duyên mà bị các duyên bỏ sót. Do chúng sinh bỏ sót cái sáng suốt sẵn có nên trọn ngày tu hành mà không tự giác được".
Cái biết nguyên vẹn, sáng ngời (thức tinh nguyên minh) hay sanh các duyên tức là nó biết cái này, biết cái kia, biết đủ thứ hết. Nhưng khi nó biết cái nào rồi thì nó chỉ nhớ cái đó thôi, mà quên mất chính nó gọi là các duyên bỏ sót. Cũng như nó biết bình hoa thì nó chỉ nhớ bình hoa mà quên mất chính nó, tức bị các duyên bỏ sót. Cho nên, tu hành trọn ngày mà không có giác ngộ. Bây giờ chúng ta khéo tu chỉ chuyển lại, nó biết cái này, biết cái kia, biết tất cả hết, nhưng không bỏ sót chính nó. Chúng ta học thiền, chỉ khéo buông những chỗ duyên đó, luôn luôn nhớ lại chính nó để nhận trở lại cái "gốc biết". Như vậy, chúng ta cũng thấy nghe, hiểu, biết rõ ràng nhưng luôn luôn sáng ngời, đó gọi là trở về nguồn, sống với thực tại. Ngược lại, chúng ta sống mà đánh mất chính mình gọi là sống mà giống như chết, sống thiếu chủ.
Hằng ngày chúng ta sống là ai sống? Mình sống, nhưng hỏi cái gì là mình thì không biết, đó gọi là sống thiếu hồn. Có vị thầy Tây Tạng, khi qua Tây phương thấy trong nghĩa địa có những ngôi mộ xây cho người chết rất khang trang, tốt đẹp. Vị thầy Tây Tạng mới nói với những người đi theo: "Ở đây người ta xây những ngôi nhà rất tốt đẹp cho những xác chết. Rồi cũng xây những ngôi nhà rất sang trọng cho những xác sống". Qua đây vị thầy Tây Tạng muốn nhắn nhủ cho chúng ta điều gì? Ngoài nghĩa địa là những xác chết, còn đây là những xác sống. Tức là những người còn sống mà thiếu đi cái hồn thì giống như xác, cái xác biết đi, biết đứng, biết cử động, tới lui nhưng thiếu cái hồn nên gọi là xác sống. Như vậy nếu có mặt ngay chỗ đó, nghe vậy chúng ta thấy cũng hổ thẹn. Vì chúng ta sống mà giống như những cái xác biết cử động, biết tới lui nhưng thiếu cái hồn. Vậy chúng ta phải sống sao để thật sự gọi là có hồn, nếu không thì là những xác sống. Chúng ta sống có chủ thì cuộc sống mới sinh động đầy đủ ý nghĩa sống.
Có người phê bình đạo Phật là chán đời nói cái gì cũng vô thường, giả dối không thật. Đó là vì người nghiên cứu chưa tới, chỉ thấy trên lý thuyết Phật nói mọi thứ là giả nhưng không thấy được cái chân thật mà Phật muốn chỉ bày cho con người. Sống với cái chân thật đó mới thấy đời sống chúng ta có giá trị, nếu không thì cuộc đời này vô vị lắm. Người tu mà hiểu đúng ý nghĩa Phật pháp thì rất vui vẻ tươi sáng. Hình ảnh các vị Bồ-tát như Bồ-tát Quán Âm, Bồ-tát Văn Thù, Bồ-tát Phổ Hiền các ngài đâu có buồn. Nghi dung các ngài rất trang nghiêm thanh tịnh ai nhìn vào cũng muốn phát tâm tu theo. Do đó, chúng ta tu Phật phải biết được giá trị của Phật pháp, dạy con người khéo sống trở về ý nghĩa chân thật, đừng tìm kiếm xa xôi.
Tổ Lâm Tế khai thị cho học nhân như sau: "Người học hiện nay chẳng nhận được, là bệnh ở chỗ nào? Bệnh ở chỗ chẳng tự tin. Nếu các ông tự tin chẳng kịp, liền lăng xăng theo tất cả cảnh chuyển, bị muôn cảnh khác chi phối chẳng được tự do. Còn nếu các ông hay thôi những niệm rong ruổi, thì liền cùng Phật Tổ không khác". Chúng ta cũng luôn đang đi tìm tâm phải không? Nếu là tâm mình thì sao lại đi tìm? Vậy ai đi tìm? Đó gọi là đem tâm đi tìm tâm. Như Diễn-nhã-đạt-đa ôm đầu mà chạy la lên tôi mất đầu rồi, giống như người điên. Vậy thì chúng ta có làm chuyện này không? Nếu không điên thì khỏi đi tìm. Nhiều khi chúng ta thấy người khác làm giống như chuyện điên, nhưng kiểm lại không ngờ mình cũng điên theo. Tâm chúng ta do mê lâu đời quá nên quên, bây giờ lại đem tâm đi tìm tâm. Đến khi tỉnh trở lại, mới thấy chúng ta xưa nay đầy đủ hết, đâu có thiếu gì.
Ngài Lâm Tế nhắc thêm: "Các ông muốn biết được Phật Tổ chăng, chỉ là người đang nghe pháp ở trước mặt ông đó. Người học tin chẳng kịp liền hướng ra ngoài chạy tìm kiếm, dù cho tìm kiếm được đều là tướng thù thắng của văn tự, trọn chẳng được ý Tổ sống". Ngài Lâm Tế nhắc chúng ta muốn biết được lẽ thật cùng Phật Tổ không khác, thì chính là "người đang nghe pháp ở trước mặt" thôi. Chính đó là lẽ thật. Phật Tổ giác ngộ cũng giác ngộ ngay chỗ đó, không đâu khác. Do người học tin chẳng kịp, mới hướng ra ngoài chạy tìm kiếm, lo học Phật, học Bồ-tát, tìm thấy Phật, Bồ-tát v.v... nhưng học được những cái đó là Phật, Bồ-tát gì? Phật, Bồ-tát trong kinh điển, trong sách vở; học Phật trong kinh Kim Cang, kinh Pháp Hoa. Còn Phật, Bồ-tát sống là đang ngồi nghe đây. Chúng ta có giải nghĩa được Phật, Bồ-tát thế này thế kia cũng là tướng thù thắng của văn tự. Như Phật là giác, giác gồm có tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Bồ-tát là hữu tình giác, vừa giác cho mình rồi giác hữu tình, là giác cho người. Giải thích rất hay nhưng hỏi Phật, Bồ-tát ở đâu thì không biết.
Có lần Quốc sư Huệ Trung nói chuyện với một pháp sư thời Đường, là Cung Phụng Tử Lân.
Quốc sư hỏi:
- Phật nghĩa là gì?
Ông giải thích:
- Phật nghĩa là giác.
Ngài hỏi lại:
- Vậy Phật có từng mê hay không?
Ông đáp:
- Chẳng từng mê.
Quốc sư Huệ Trung gạn lại:
- Vậy thì dùng giác để làm gì?
Ông trả lời không được.
Như vậy, vị pháp sư chỉ hiểu trên văn tự, nên chưa thấy Phật. Đó là muốn nhắc cho những người học Phật, phải học sao cho thấu được ý nghĩa sống của Phật, chứ không phải chỉ học trên văn tự. Phật chẳng từng mê, vậy dùng giác để làm gì? Nếu người khéo thì cũng có câu trả lời: do chúng sinh mê nên dùng giác để giác ngộ cho chúng sinh. Chúng ta học Phật là học đến những cái gọi là Phật pháp sống, chứ không phải chỉ học trong văn tự, chữ nghĩa.
IV. TÓM KẾT
Thiền là sống ngay thực tại, trả về cho niệm hiện tiền sáng ngời đây thôi, chứ không gì khác. Nhiều người nghe nói thiền tưởng đâu xa xôi, nên nghe học thiền rồi sợ nắm bắt không tới. Nhưng hiểu kỹ rồi thiền đâu có xa, ngay chỗ chúng ta ngồi hiện thực nơi đây. Có lần Mã Tổ đi dạo ngoài vườn cùng với ngài Hoài Hải, thấy bầy vịt trời bay ngang qua, Mã Tổ liền hỏi:
- Đó là cái gì?
Hoài Hải thưa:
- Bầy vịt trời.
Mã Tổ hỏi:
- Bay đi đâu?
Hoài Hải đáp:
- Bay qua mất rồi.
Mã Tổ liền nắm lỗ mũi Hoài Hải nhéo mạnh một cái. Hoài Hải đau quá la lên. Mã Tổ bảo:
- Sao không nói bay qua đi!
Ngay đó Hoài Hải liền tỉnh ngộ.
Thông thường chúng ta thấy bầy vịt trời, chỉ nhớ bầy vịt trời, cho nên nó bay qua mình cũng nhớ nó bay qua. Vậy thì còn cái gì "đang biết", "đang thấy" hiện hữu đây? Nên Mã Tổ liền nhéo lỗ mũi ngài Hoài Hải một cái. Đau quá, Hoài Hải la lên. Mã Tổ nói: "Sao không nói bay qua đi!". Bầy vịt trời bay qua, nhưng cái gì đang biết đau, la lên đây, nó đâu có bay? Ngay đó Hoài Hải liền tỉnh ngộ. Chính đó là cái đang hiện hữu nơi mình, nó đâu có bay đi.
Cũng như chúng ta ngồi nghe pháp đây, cái gì đang nghe? Chúng ta chăm chú nghe thầy giảng, rồi chỉ nhớ theo tiếng thầy mà quên mất chính mình lúc nào không hay. Cho nên học thiền là phải học trở lại, chứ không phải cứ lo nghe tiếng này tiếng kia rồi quên mất chính mình. Đây là phải khéo sống trở về với thực tại luôn hiện hữu. Nhưng do con người có thói quen tưởng tượng, suy lường nhiều quá thành ra thấy thiền xa lạ. Chính Hòa thượng Tôn sư cũng nói: "Thiền tông thực tế đến không ngờ", tức là sát với chúng ta đến không ngờ. Chúng ta đang ngồi có mặt đây, vậy còn phải tìm gì nữa? Lẽ thực là vậy, nhưng vì "quá thực" thành ra chúng ta cho đó là lạ. Bây giờ hiểu rõ được lẽ thực, luôn soi trở về chính mình để sống với lẽ thực đó thì không còn bị lầm nữa.
Đây xin kết thúc bằng câu chuyện thiền: Thiền sư Vô Trụ phó chúc cho người đệ tử tên Vô Hữu một công án thiền như sau:
Ngày xưa có một người đang đứng ở trên một ngọn đồi cao. Ở dưới có ba người du khách đi ngang qua đường nhìn lên thấy người kia đang đứng ở trên đồi. Ba người đi ở dưới mới bàn với nhau.
Một người nói:
- Chắc là anh ta đang mất vật gì thân yêu, cho nên anh đứng đó kiếm.
Một người khác nói:
- Theo tôi, chắc là anh ta đang đợi một người bạn thân nào đó.
Người nọ nói:
- Tôi trông thấy dáng vẻ của anh ta giống như đang đứng thưởng thức không khí mát mẻ trên cao.
Ba người tranh luận hoài không ra lẽ, mới đi lên trên đỉnh đồi gặp ngay anh đó hỏi.
Người thứ nhất hỏi:
- Này anh bạn, có phải anh đang mất một vật gì quý hay không?
Người kia đáp:
- Không, tôi không có mất gì hết.
Người thứ hai hỏi:
- Vậy là anh đang chờ người bạn thân nào đó phải không?
Anh ta nói:
- Không, tôi cũng không có chờ ai hết.
Người thứ ba hỏi:
- Vậy thì anh đang đứng đây hóng mát chớ gì?
Anh ta nói:
- Cũng không phải luôn.
Ba người mới cùng gạn hỏi:
- Vậy thì tại sao anh bạn đứng đây, mà chúng tôi hỏi cái gì anh cũng nói không phải hết?
Anh kia nói:
- Tôi đứng đây chỉ là đứng đây thôi!
Rất là đơn giản, đứng đây chỉ đứng đây thôi. Những người kia là đại diện cho chúng ta đang ngồi đây. Bởi vì trong đầu của chúng ta luôn luôn có vấn đề, cho nên nghĩ người ta đứng đó cũng phải có vấn đề, gọi là suy bụng ta ra bụng người. Như vậy là sống mà quên mất thực tại, lẽ thật người đứng đó là đứng đó thôi, nhưng theo thói quen chúng ta nghĩ đứng đó là phải có vấn đề gì, nên bàn theo những vấn đề do ta suy diễn. Đây là một công án thiền, để nhắc nhở đánh thức cho tất cả người học thiền thấy rõ trong tư tưởng của mình nó quen suy nghĩ, quen có vấn đề, sống mất mình là chỗ đó.
Bây giờ, chúng ta tập sống trở về thực tại, "ngay đây và bây giờ" đây. Cửa giác ngộ đang mở sẵn cho mình. Chúng ta nghe nói giác ngộ tưởng đâu xa xôi, nghĩ đó là chuyện dành cho Phật, còn mình chắc không có phần. Nhưng Phật ra đời để giác cho chúng sinh, kinh Pháp Hoa Phật nói: "Bản hoài của Phật ra đời, là để khai thị cho tất cả chúng sinh ngộ nhập tri kiến Phật". Bản hoài của chư Phật ra đời là để đánh thức cho chúng sinh chân lý giác ngộ có sẵn nơi mình. Ngay nơi tâm là Phật, Phật cũng từ tâm mà Ngài giác ngộ, chúng ta cũng từ tâm mình mà mình giác ngộ. Giác ngộ ở nơi tâm chứ không phải ở chỗ khác. Cho nên, không phải tìm giác ngộ ở trong bộ kinh này, bộ kinh kia. Nhiều người cứ tìm giác ngộ ở trong kinh Pháp Hoa, kinh Kim Cang, kinh Hoa Nghiêm, kinh Niết Bàn v.v... mà quên mất giác ngộ thực là ở ngay nơi tâm mình. Chính đó mới là lẽ thực, là sức sống chân thật có sẵn nơi mỗi người.
Vậy trong đây có ai không có tâm? Ai cũng có tâm tức là có giác. Phật Tổ thấy được lẽ thật đó, nên thương xót chúng sinh tìm mọi cách để nhắc nhở, đánh thức cho tất cả đồng giác ngộ, sáng lên lẽ thật của chính mình. Ngài Lâm Tế nói: "Người học hiện nay sở dĩ không nhận được, là bệnh ở chỗ thiếu tự tin". Đó là đem lại một sức mạnh cho chúng sinh, mỗi người đều có tâm, đều có chân lý giác ngộ sẵn nơi mình. Gốc của chúng ta là giác ngộ chứ không phải là chúng sinh. Chúng sinh là tên gọi tạm lúc còn mê, khi giác rồi chúng ta là Phật. Chúng ta có đủ niềm tin để vươn lên, không nên mặc cảm mình là chúng sinh nghiệp nặng, khó mong giác ngộ. Phật đã chỉ rõ tất cả đều có Phật tánh, đều có tánh giác. Trong kinh Kim Cang, Phật nhấn mạnh: "Chúng sinh tức chẳng phải chúng sinh, đó gọi là chúng sinh". Phật không nói chúng sinh cố định là chúng sinh, mà ngài nói chúng sinh tức chẳng phải chúng sinh, đó tạm gọi là chúng sinh thôi.
Như vậy, Mình là Phật tánh sáng suốt, nên phải vươn lên, tiến lên. Học thiền là sống trở về với thực tại đang sáng ngời, trở về với cái "ngay đây, bây giờ". Có những triết lý của thế gian bàn cãi về thực tại thế này thực tại thế kia, nhưng còn bàn cãi về thực tại thì chưa thấy thực tại. Nếu đã thấy rồi thì không còn gì để bàn nữa. Còn bàn cãi là còn suy tưởng nên xa rời thực tại. Thí dụ có hai người đang nói về anh A, người nói là anh A đó cao lớn, trắng trẻo. Người nói anh A đó cũng hơi lùn lùn, da ngâm ngâm. Rồi cãi nhau hoài không ra lẽ, là vì lúc đó anh A không có mặt ở đó. Nếu thực sự anh A có mặt, chỉ cần chỉ ngay anh bảo: "Đây này!" là xong, không cần cãi. Cũng vậy, người đã thấy rõ thực tại ngay đây thì không phải cãi, còn cãi nhau về thực tại là chưa thấy thực tại. Vì vậy người học thiền cứ lo cãi nhau về thiền thì cũng chưa thấy thiền.
Thực tế, "thiền là ngay đây, bây giờ". Mong tất cả nhận được lẽ thật này, thật sống với thiền sống, chứ không phải sống với thiền chết, để quên mất thực tại sáng ngời ngay đây!
Thầy Thích Thông Phương giảng