Friday, May 11, 2012

Mình là cái gì?

HT. Thích Thanh Từ

image
Vật bên ngoài chỉ phụ thuộc, nghĩa là biết được bao nhiêu hay bấy nhiêu, trọng yếu là phải biết mình, vì con người là trọng tâm của vũ trụ. Biết tất cả mà không biết mình thì cái biết đó chưa thật biết. T

Giảng tại Thiền viện Trúc Lâm - 1997.

Hôm nay, đạo tràng Thái Tuệ về Thiền viện Trúc Lâm cúng dường mùa an cư, quí thầy có ít lời nhắc nhở cho đạo tràng để quí vị tinh tấn tu hành.
Là người Phật tử, quí vị vừa lo sinh sống cho gia đình, vừa lo tu hành, đồng thời giúp đỡ huynh đệ chung quanh cùng biết tu, đó là duyên tốt. Vì vậy tôi sẽ nhắc nhở thêm cho quí Phật tử những điểm trọng yếu trong Phật pháp.
Ðức Phật Thích Ca khi sinh ra đời, một tay chỉ trời một tay chỉ đất, nói câu: "Trên trời, dưới trời, chỉ có ta là hơn hết." Câu này quý thầy đã giảng rộng rồi, nhưng ở đây tôi nhấn mạnh lại trọng tâm. Người ta cứ nghĩ Phật nói thế là bản ngã hơn hết, nhưng sự thật không phải vậy. Với thâm ý của đạo Phật thì trên trời dưới trời chỉ có ta, tức con người là hơn hết.
Tại sao vậy? Vì trong vũ trụ, trời che đất chở nhưng trời đất vô tri, chỉ con người là có tri giác. Ðất chở đất nuôi chúng ta, nhưng đất có biết làm gì đâu, chỉ là hình tướng che chở giúp cho mình có sự sống. Còn trời là mây, mưa, mặt trời, mặt trăng, giúp cho ta đủ điều kiện sống trên thế gian này. Nên nói trời đất vô tri, chỉ có con người tri giác, như vậy tri giác là trên tất cả. Vì thế con người là trọng tâm của trời đất, chớ không phải thường.
Lâu nay chúng ta ai cũng như ai, hầu hết đều coi thường mình, chỉ kính trời trọng đất. Ðó là lỗi lầm rất to. Sợ trời phạt, mong trời thương, cầu thổ địa ủng hộ cho nhiều...  tất cả những việc đó chỉ là phần phụ bên ngoài không đáng kể. Chính yếu là con người. Con người rất quan trọng đối với đạo Phật, nên đức Phật Thích Ca ra đời đã tuyên bố mục tiêu trọng yếu đó. Ngài ra đời là vì đề cao giá trị của con người. Ðó là trọng tâm, khác với các nhà khoa học hay triết học, luôn nghiên cứu tìm tòi bên ngoài, chinh phục vũ trụ mà quên xoay lại con người, chinh phục chính bản thân mình.
Quí Phật tử kiểm nghiệm lại trong đời sống của mình, xét xem chúng ta nhớ mình nhiều hay nhớ bên ngoài nhiều. Sáng thức dậy thì sao? Sửa soạn đi chợ hoặc đi làm công tác, luôn luôn nhớ những việc bên ngoài, chớ không nhớ mình. Lo điều này điều kia, mua sắm đủ thứ. Ngoài chợ có những món hàng mới lạ, nếu trong túi có tiền liền đi mua sắm. Chúng ta ưa thích những gì mới lạ bên ngoài, ít khi nghĩ đến con người mình. Quí vị có khi nào nghĩ mình là cái gì không? Chắc không! Cứ hài lòng với con người như vầy, sự sống như vầy là đủ rồi. Thêm nữa là sự ăn mặc, nhà cửa, xe cộ, lo bấy nhiêu đó mà quên nghĩ mình là cái gì.
Mình là gì không biết mà cái gì cũng lo cho mình. Sắm máy thu thanh, hỏi sắm cho ai, sắm cho mình. Mua chiếc nệm để làm gì? Ðể cho mình nằm. Cái gì cũng mình hết. Nhưng thử hỏi mình là gì thì không biết! Ðó là điểm chính yếu mà tất cả chúng ta quên, chúng ta lơ là.
Ðạo Phật không cho phép người Phật tử như vậy mà chúng ta phải biết mình cho rành rẽ, tường tận. Vật bên ngoài chỉ phụ thuộc, nghĩa là biết được bao nhiêu hay bấy nhiêu, trọng yếu là phải biết mình, vì con người là trọng tâm của vũ trụ. Biết tất cả mà không biết mình thì cái biết đó chưa thật biết. Tất cả tài sản mình được mà hỏi mình là cái gì cũng không biết. Như vậy, tất cả cái được đó đều không giải quyết tận cội gốc của con người. Sống mà không biết mình là gì thì cuộc sống hết sức rỗng, vô giá trị. Nếu chúng ta chỉ lo ăn mặc cho sung sướng, nhà lầu xe hơi, tức là chỉ lo thụ hưởng sung túc, mà mình là gì không biết thì ai hưởng thụ đây?
Ðó là vấn đề mà đức Phật hay người tu hy sinh cả cuộc đời, phăng tìm cho ra manh mối để giải quyết về thân phận con người. Ngày nay chúng ta tu theo đạo Phật cần phải hiểu vấn đề đó, không thể xem thường. Cứ lo ăn lo mặc, lo sống để chờ tới ngày chết, cuối cùng là tan rã. Ví như chúng ta cất cái nhà thật đẹp nhưng biết mai mốt nó sẽ tan nát thì còn quí nó không? Cái không bền, không lâu dài, chúng ta đâu có quí. Vậy thì thân này không lâu dài, tại sao mình lại quí, đó là mê hay giác? Ðó là mê.
Vì vậy đạo Phật dạy chúng ta phải giác, chớ không cho mê. Người mê thì không sáng suốt, không có trí tuệ. Mà không sáng suốt, không trí tuệ thì sống như chết, không có giá trị gì hết! Ý nghĩa quan trọng là phải biết được mình thì cuộc sống mới có giá trị. Dù sống nghèo hay sống thiếu thốn vẫn có ý nghĩa như thường. Còn không biết mình là gì thì cuộc sống hoàn toàn vô nghĩa.
Nhưng muốn biết mình là gì phải làm sao? Chính điểm này tôi muốn hướng dẫn cho quí Phật tử ứng dụng tu tập để tìm lại xem mình là cái gì? Bao nhiêu người dù trí thức hay bình dân đều nghĩ mình luôn luôn hiện tiền, nhưng hỏi mình là gì thì không trả lời được. Như vậy, cái hiện tiền đó cũng chỉ là ảo tưởng thôi. Chúng ta phải tìm ra lẽ thật mình là gì chớ không thể tưởng tượng được. Chúng ta tu không phải tìm cái gì xa xôi ở bên ngoài mà phải xoay lại soi sáng chính mình để tìm xem mình là gì? Cái gì là thật mình? Nếu tìm ra được cái thật mình là ngộ đạo. Ðừng tưởng ngộ đạo là chạy lên non, lên núi, lên mây, lên trời, mà ngộ đạo là tìm ra được cái thật mình. Tìm được cái thật mình rồi thì ngang đó giải quyết xong dòng sinh tử. Không tìm ra được cái thật mình thì luôn luôn sống trong dao động, biến chuyển. Mà dao động biến chuyển là tướng sinh diệt vô thường. Nếu chấp giữ tất cả hình tướng tâm niệm vô thường là mình thì mình là một dòng biến chuyển. Chuyển biến nơi này tới nơi kia không dừng, Phật gọi đó là luân hồi. Ðã luân hồi thì chỉ có giải thoát luân hồi mới là vui.
Tôi thường nói thân này không phải thiệt mình. Nhưng ai cũng bám vào nó, cũng nghĩ nó là mình. Nếu thân này thật mình thì nó nguyên vẹn, nhưng nếu ở trong da thịt chúng ta chỗ nào bị ung nhọt thì có mủ hôi hám. Mủ hôi hám đó là mình chăng? Ðã từ da thịt mình loại ra thì nó đâu phải mình. Nếu là mình thì chúng ta phải mến nó chứ, ngược lại mình rất gớm nó. Như nước bọt ở trong miệng có phải là mình không? Nếu là mình thì khi nhổ ra rồi, mình lấy lại được; nhưng chúng ta có làm như vậy không? Kể cả máu huyết là thiết yếu của sự sống, nhưng chúng ta chích ra chừng một chung máu, rồi bảo uống lại có dám uống không? Nếu thật mình thì đâu nỡ bỏ; đằng này buông ra rồi, chúng ta gớm nó thì làm sao nói mình được. Nếu thân này là mình thì khi thiếu máu, mua máu của người khác đem vô, máu người khác thì đâu phải của mình, nhưng khi đem vô rồi lại nói máu mình. Lạ chưa! Từ bản thân mình loại ra thì chúng ta gớm, còn của người khác đem vào thì nhận là mình. Thật vô lý! Cho nên từ đó mới thấy rõ ràng thân này không thật là mình.
Trong kinh, đức Phật kể lại: Có một người đi sang làng khác, giữa đường gặp sa mạc. Trời tối, ông thấy cái chòi cũ không có người ở, nên vào nghỉ tạm qua đêm. Ðang nằm, có tiếng động bên ngoài, ông trỗi dậy nghe ngóng. Bỗng cánh cửa bị xô vô, thì ra một con quỷ to tướng đang vác cái thây người chết liệng xuống đất. Ông hoảng sợ quá đứng nép sau vách. Bỗng có con quỷ thứ hai chạy vào, dành ăn với con quỷ thứ nhất. Ðứa này nói cái thây của tao, đứa kia nói cái thây của tao, hai đứa giành nhau rồi cãi lộn.
Lúc đó chúng chợt thấy ông đứng bên vách. Con quỷ thứ nhất nói từ đầu tới cuối có ông này làm chứng, nếu ông nói của đứa nào thì đứa đó ăn. Nghe vậy ông run quá, nếu nói của thằng này thì thằng kia bẻ cổ mình, nhưng thôi kệ thà chết chớ không nói dối. Nên ông bảo: "Khi nãy tôi thấy rõ ràng anh A đem cái thây vô quăng ở đây." Thằng kia tức giận quá liền giựt ông một cánh tay. Con quỷ thứ nhất thấy vậy thương, bèn xé cánh tay của thây chết ráp vào cho ông. Vừa ráp xong thì con quỷ thứ hai giựt cánh tay còn lại quăng ra. Con quỷ đầu xé cánh tay thứ hai của thây chết gắn vào. Rồi tới chân phải, chân trái. Hễ con quỷ này xé quăng ra thì con kia lấy chân của thây chết gắn vào. Cuối cùng mệt quá hai con quỷ ngưng cãi, chúng chia hai chân, hai tay của ông bị vứt ra và ăn.
Ông ta hoảng hốt tự hỏi mình là cái gì? Rõ ràng tay chân hiện giờ là của thây chết. Ông mới đi tìm gặp những vị sáng suốt để hỏi xem ông bây giờ là gì. Gặp được một vị A La Hán, đảnh lễ xong, ông thưa:
- Bạch Ngài, con bị hai con quỷ đem tay chân của thây chết ráp vào cho con, bây giờ cái gì là con?
Vị A La Hán nói:
- Tốt lắm! Như vậy là ông sắp ngộ đạo.
Câu chuyện tới đó hết. Quí vị thấy nếu vật tạm bợ hư giả mà chúng ta biết thắc mắc, tìm tòi, không tin nó thật, thì đó là sáng suốt, thấy được lẽ thật. Cuộc đời này có ai thấy được lẽ thật không, có ai thắc mắc mình là gì không? Hay cứ hài lòng. Ðã hài lòng rồi thì tìm mọi thứ cho nó thụ hưởng, chờ đến ngày bại hoại. Ðó là nỗi đau đớn của con người trong kiếp mê lầm. Chúng ta phải ý thức mình là gì, tìm cho ra cái mình đó chính là gốc của sự tu. Người biết quay lại tìm mình là người sắp thấy đạo.
Vì vậy tôi hướng dẫn Tăng Ni ở các Thiền viện cũng như Phật tử trong các đạo tràng khi tụng kinh thì đặt nặng kinh Bát Nhã. Trong kinh Bát Nhã câu đầu: "Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách." Chỉ cần soi lại thân năm uẩn này không thật thì tất cả khổ nạn qua hết. Quí vị có soi lại không? Nhiều khi đọc thì đọc mà không chịu soi lại. Cần phải soi lại thân năm uẩn này xem nó có thật hay không. Nếu thấy rõ ràng nó không thật thì tất cả khổ ách đều qua. Ðiều này hết sức cụ thể.
Thường chúng ta thấy thân này, vọng tưởng này là ta, nên những gì cung cấp cho thân này được khỏe, được sung túc mà người khác đoạt đi thì ta tức giận lên. Ta nghĩ việc gì đúng mà ai nói khác thì nổi giận. Như vậy khổ là do chấp thân, chấp tâm mà ra. Nếu biết thân này không thật, ý nghĩ không thật thì đâu còn chấp, đâu còn giận ai, nhờ thế mọi khổ ách đều qua hết. Người ta chửi, mình cười chơi thôi. Có gì thật mà phải khổ, phải giận, dành hơn, dành thua. Anh không thật, tôi không thật, cái chửi cũng không thật luôn nên chỉ cười vui thôi.
Ngược lại, nếu thấy thật thì động tới xác thịt liền đau tức, động tới ý kiến trái mình liền sân giận. Rõ ràng do chấp thân, chấp tâm mà mình khổ. Vì vậy kinh Bát Nhã nhắc cho chúng ta soi thấy năm uẩn là không thì qua hết thảy khổ nạn. Việc tu hết sức giản đơn, không phải cầu Phật hay cầu ai làm cho mình hết khổ, chỉ cần thấy rõ năm uẩn không thật là hết khổ.
Năm uẩn có sắc, thuộc về vật chất; thọ, tưởng, hành, thức thuộc về tâm; cả hai đều không thật. Biết rõ như vậy thì khổ nạn nào cũng qua hết, chớ không phải Phật hay Bồ-tát, thần thánh nào cho mình hết khổ nạn. Hết khổ nạn là do trí tuệ của chúng ta soi thấy thân năm uẩn không thật. Kinh dạy một câu thôi chúng ta tu cả đời. Tu là phải soi lại chớ không phải phóng ra. Nhưng hiện nay đa số người tu cầu xin nhiều hơn soi lại.
Xét hai phần vật chất và tinh thần: Sắc là sắc chất tức thể xác không thật. Thọ, tưởng, hành, thức tức tinh thần cũng không thật. Thấy rõ như vậy là giác? Mê giác cách nhau chẳng bao xa. Thấy thân thật, cái suy gẫm thật là mê. Thấy thân không thật, cái suy gẫm không thật là giác.
Trong kinh Viên Giác có vị Bồ-tát thưa hỏi Phật:
- Bạch Thế Tôn, thế nào là vô minh?
Phật đáp:
- Chấp thân tứ đại duyên hợp là thật của mình, chấp tâm suy nghĩ lăng xăng là tâm thật của mình là vô minh.
Hết vô minh là giác. Như vậy mê giác như trở bàn tay thôi, gần một bên mà mình tu hoài không được, tại sao? Tại vì mê chấp thấm sâu lâu đời quá rồi. Ngày nay đọc kinh Phật, nghe quý thầy giảng chỉ mới lóe lên chút thôi, chưa hẳn là thấy nó không thật. Chỉ khi nào ngồi lại thấy thân không thật, tâm không thật, tất cả đều do duyên hợp tạm bợ, thấy rõ như vậy thì mọi khổ nạn qua hết.
Ðược vậy sống ở đây cũng giống như Cực Lạc, có gì buồn, có gì khổ.  Chúng ta cũng ăn, cũng uống như mọi người, nhưng không chê khen buồn giận, không mê lầm chấp thân tâm là được. Muốn thế thì phải soi lại mình, không thể phóng ra ngoài nữa. Quí Phật tử cứ phóng ra, không biết quay lại, nên đi chùa hai chục năm vẫn không hết phiền não.
Bây giờ trở lại vấn đề tu tập, chúng ta ngồi thiền để làm gì? Ðể nhìn lại mình. Bởi vì chúng ta hướng ra thì mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi hương, lưỡi nếm vị, gió thổi xúc chạm... tiếp xúc các trần. Lúc đó dù chúng ta có tu vẫn bị ảnh hưởng bên ngoài nhiều. Chỉ khi ngồi yên, mắt nhìn xuống, gác hết năm trần bên ngoài, không cho nó lôi cuốn nữa. Nên giờ ngồi thiền là giờ ngồi để soi lại. Soi thế nào?
Phương tiện ban đầu, chúng ta dùng hơi thở hít vô thở ra đếm một, hít vô thở ra đếm hai, ... như chơi vậy. Nhưng nhờ nhớ hơi thở ra hơi thở vô, hơi thở thì ở trong nên chúng ta mới phản quan. Thấy hơi thở vô, hơi thở ra đều đặn như vậy, nếu thở ra mà không hít vô thì chết. Rõ ràng thân tạm bợ phải không? Vừa khởi nghĩ việc gì liền buông, mình tự nhắc vọng tưởng hư dối không thật. Thân này do tứ đại hợp thành. Hơi thở là gốc, thở ra không hít vào là chết nên sự sống rất mỏng manh. Ðã mỏng manh lại cộng thêm cái tâm chợt có, chợt không là vọng tưởng hư dối. Tập soi sáng lại mình như vậy, gọi là tỉnh giác.
Ngài Ðạo Nguyên ở Nhật Bản nói: "Một giờ ngồi thiền là một giờ làm Phật." Tại sao? Giờ ngồi thiền là giờ giác, còn giờ ở ngoài là giờ mê. Trong một ngày, quí Phật tử có đủ thứ chuyện. Thấy chuyện này, nghe chuyện kia toàn là phóng ra ngoài, chớ không quay lại. Còn giờ ngồi thiền là giờ quay lại mình. Theo hơi thở, thấy vọng tưởng, buông; đó là nhìn lại mình, tỉnh giác rõ ràng, không bị mê lầm. Lúc tỉnh giác đó không phải là Phật là gì? Phật là giác. Chúng ta đang giác nên chúng ta là Phật.
Sở dĩ ngồi thiền ngủ gục bị đánh là sao? Bởi vì trọng tâm là phải giác. Chúng ta ngồi ngủ mê nên đánh cho tỉnh, không để mê nữa. Hiểu vậy mới biết tại sao nhà thiền khắt khe. Vì sợ mình mê theo cảnh, hoặc si mê không biết gì nên phải làm cho mình tỉnh, tỉnh đó là giác. Ðược vậy một giờ ngồi thiền là một giờ làm Phật, chớ ngồi ngủ khò khò thì làm Phật sao được.
Chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa quán hơi thở. Nhiều khi chúng ta thực tập mà không hiểu nên nắm không vững, tu như vậy sẽ không đi tới đâu. Hơi thở vô ra xem như chuyện tầm thường, nhưng nhờ nhớ hơi thở mà chúng ta quay lại. Nếu không nhớ hơi thở thì tâm mình chạy rong. Tu là phải quay lại soi sáng chính mình. Nhờ theo dõi hơi thở vô ra, lúc thở khì mà không hít lại là chết. Chỉ có mấy giây đồng hồ thôi, mới biết như vậy sự sống không bền, không thật. Bao nhiêu đó đủ để chúng ta chứng nghiệm được cuộc sống này.
Ðến vọng tưởng, niệm này nhảy ra niệm kia nhảy vô, chúng ta buông, nó mất; để thấy tâm này cũng không thật. Thấy thân không thật, thấy tâm cũng không thật, không phải tỉnh giác là gì? Nên giờ ngồi thiền là giờ tỉnh giác, giờ ngồi thiền là giờ tối quan trọng, chứ không phải tầm thường. Khi tỉnh giác được rồi, chúng ta mới thấy rõ được mình. Thấy thân này không thật, tâm này không thật thì mọi cố chấp theo đó rã tan. Chấp đã không còn thì khổ đau theo đó hết. Ðây mới chỉ là chặng số một thôi.
Tôi xin hỏi những vị tu hơi lâu một chút, khi ngồi thiền chừng năm ba phút, trong tâm không nghĩ nhớ gì hết, lúc đó chúng ta có biết không? Dạ có biết. Như vậy, có mình hay không có mình? Có mình.
Nếu cái nghĩ là mình thì khi không nghĩ là không có mình. Không nghĩ mà có mình thì cái nghĩ không phải là mình rồi. Bấy nhiêu đó đủ chứng minh cái suy nghĩ không phải là mình, vì nó chợt có chợt không. Những thứ lăng xăng lặng hết thì tri giác hằng hữu. Ðó là mình rồi, thực tế đâu có xa. Như vậy, cái mình chân thật đó không phải là cái suy nghĩ. Nghĩ suy là sinh diệt tạm bợ, không phải chân thật. Còn không nghĩ mà hằng biết, có tiếng động liền nghe, hình ảnh đến liền thấy, gió chạm thì mát v.v... yên tĩnh sáng suốt không nghĩ ngợi gì hết, đó chính thật là mình.
Thường những gì động là vô thường sinh diệt. Thân động cho nên thân vô thường sanh diệt, tâm động nên tâm vô thường sinh diệt. Chấp thân vô thường sinh diệt là thân mình, chấp tâm vô thường sinh diệt là tâm mình, đó là sai lầm. Nếu buông hai thứ chấp đó, chỉ nhận cái không động, không sinh diệt, không có tướng trạng vô thường, hằng yên tĩnh sáng suốt đó, thì làm gì bị dẫn đi trong luân hồi.
Có tu rồi, chúng ta sẽ thấy nó rõ ràng, không còn nghi ngờ gì hết. Sống được với những phút giây chân thật, ta mới thấy khi suy nghĩ dứt bặt thì chân thật hiện tiền, chớ không phải không có. Chúng ta không nhận ra nó là vì mình cứ suy nghĩ hoài, hết chuyện này tới chuyện kia, mãi chạy theo những suy nghĩ thì làm sao biết rằng khi không suy nghĩ, lại có cái chân thật. Vì vậy nói thiền dễ định. Ðịnh là dừng hết những suy nghĩ. Dừng hết suy nghĩ thì cái chân thật hiện tiền. Nhận ra cái đó thì tỉnh thì giác, gọi là giác ngộ. Tức thấy được lẽ thật của thân tâm, giả biết giả, thật biết thật. Ðó là kiến tánh, là thấy đạo. Ðơn giản vậy thôi.
Trong nhà Phật dạy thân, miệng, ý tạo tác các nghiệp, mà chủ yếu là ý. Ý nghĩ tốt, miệng nói tốt, thân làm tốt. Ý nghĩ xấu, miệng nói xấu, thân làm xấu. Ý là chủ tạo nghiệp. Ý nghĩ này lặng đi thì còn cái gì tạo nghiệp. Nghiệp là gốc dẫn chúng ta đi trong luân hồi sinh tử. Nếu hết nghiệp thì cái gì dẫn chúng ta nữa, như vậy không giải thoát là gì?
Cho nên giác ngộ được thân vô thường, tâm sinh diệt, thì cái chân thật hiện tiền không sinh, không diệt. Sống được với cái chân thật này thì không còn tạo nghiệp đi trong luân hồi sanh tử nữa. Như vậy rõ ràng tu là để giải thoát sanh tử.
Mục đích của chúng ta tu không gì khác hơn trọng tâm của đức Phật dạy "xoay lại con người". Vì con người là tối thượng. Dù có bay được trên hư không (bây giờ chúng ta đi máy bay phản lực), hay cất nhà lầu chín chục tầng v.v... đều là vô thường, nay còn mai mất. Chỉ có trở lại tâm chân thật không hình không tướng của mình, là không vô thường; hằng giác không động nên không sinh diệt. Ðó mới là chân thật. Ðược vậy chúng ta sẽ tin lời Phật dạy không hư dối.
Hôm nay tôi nhắc tất cả quí Phật tử hiểu được căn bản của việc tu hành. Vậy từ đây về sau huynh đệ hòa hợp với nhau, với tư cách cư sĩ vừa lo đời, vừa lo đạo. Lo đó chính là lo cho mình. Ðể ngày mai quí vị có nhắm mắt, dù chưa hết niệm sinh diệt thì cũng sinh diệt trong cảnh tốt. Bằng như được hết sinh diệt thì thảnh thơi tự tại, còn gì quí hơn!
Mong quí Phật tử nỗ lực tinh tấn tu hành.

Đạo Phật cứu khổ chúng sinh bằng cách nào ?

HT. Thích Thanh Từ

image
Mọi người chúng ta, khi nào thấy rõ thân này không thật, thấy rõ cái nghĩ tưởng không thật, chừng đó mới hết luân hồi sanh tử khổ đau. Nếu cứ thấy thân duyên hợp là mình, thấy cái nghĩ tưởng sanh diệt là mình, thì luân hồi khổ đau không bao giờ hết.
Ðức Phật dạy hàng đệ tử phải làm việc lợi tha bằng cách bố thí. Bố thí gồm có tài thí, pháp thí và vô úy thí.
Tài thí là giúp người nghèo đói, tai nạn, thiếu thốn về vật chất. Ðem tiền bạc, của cải giúp họ có phương tiện sống qua cơn khó khổ. Ðây là việc làm lợi tha của người Phật tử tại gia. Do đó, Phật tử các chùa thường tổ chức Ban Từ thiện xã hội, chung góp tiền của công sức để giúp đỡ người khó khổ, hoạn nạn như thiên tai bão lụt, bệnh tật, nghèo đói...
Pháp thí là giúp người mê lầm đau khổ bằng chánh pháp. Tăng Ni đem lời Phật dạy trong kinh luận giảng cho họ nghe và hướng dẫn cho họ tu hành để được hết khổ. Ðó là việc làm lợi tha của người xuất gia. Muốn thực hiện điều này, Tăng Ni phải đem hết khả năng của mình để tu học hầu đem chánh pháp giáo hóa cho mọi người hết khổ. Học mới có kiến giải Phật pháp và thế gian pháp để giảng dạy. Tu mới có đạo đức để khắc phục chướng duyên lúc lợi tha, tu mới có đức trí làm chỗ nương cho mọi người.
Phật tử tại gia có phương tiện vật chất để giúp người. Còn tu sĩ xuất gia không thể làm ra tiền của mà chỉ lo tu học đúng chánh pháp và đem chánh pháp bố thí cho mọi người?. Bố thí của cải để giúp người hoạn nạn, nghèo đói bớt khổ là bố thí tài của người cư sĩ . Ðem chánh pháp giảng dạy cho người nghe tu hành để bớt khổ là bố thí pháp của người tu sĩ. Tuy nhiên trong hai cách cứu khổ trên, cách nào giúp con người dứt khổ vĩnh viễn?
Ví dụ có cậu thanh niên hút á phiện, lúc mới hút cha cậu khuyên răn mà cậu không bỏ. Cậu hút lâu ngày thành ghiền, đến cữ không có tiền mua thuốc hút, người cậu quằn quại khổ đau. Người hàng xóm giàu lòng thương cho chút ít tiền để cậu mua thuốc hút. Nhưng ngày khác tới cữ hút, cậu không có tiền mua, cơn ghiền lại nổi lên dày vò làm cậu khổ nữa. Cứ như vậy khổ tiếp tục khổ, không bao giờ hết. Người láng giềng giúp tiền chỉ cứu cậu bớt khổ trong giai đoạn ngắn thôi. Nếu cậu ghiền ấy sớm nghe lời cha, cậu không hút á phiện ngay từ đầu thì bây giờ đâu có khổ.
Thế nên một lời nói phải, nếu chúng ta chịu nghe thì an vui cả cuộc đời. Lời nói không tốn tiền mà cứu khổ cả đời. Còn tiền của chỉ cứu khổ trong giai đoạn ngắn, không dứt tuyệt khổ.
Do đó, đạo Phật đặt vấn đề cứu khổ tinh thần lên trên. Muốn thực hiện cách cứu khổ này cho có kết quả tốt thì Tăng Ni phải thực tu thực học. Bố thí pháp là giúp người hết khổ, nhưng lời nói pháp nói ra không phải chỉ học thuộc rồi nói suông, mà Tăng Ni phải thực hành được những điều mình nói, thì lời giảng dạy của mình mới có giá trị. Giả sử dạy người bớt tham, sân, si, trước hết mình phải không tham, không sân, không si thì người nghe mới tin, mới ứng dụng tu. Còn nếu nói suông mà không chịu thực hành, dạy người bớt tham mà mình tham nhiều làm sao người nghe tin và làm theo lời dạy của mình? Thế nên, người tu muốn giáo hóa phải có đầy đủ đức hạnh và trí tuệ.
Ðể thấy rõ tầm quan trọng của việc bố thí pháp, tôi dẫn thêm một ví dụ nữa. Có một bác đạp xích lô, mỗi ngày đạp còng lưng chỉ kiếm được vài ba chục để nuôi sống gia đình một vợ, hai con. Nhưng bác lỡ ghiền rượu, đạp tới chiều, về ghé quán rượu nhậu hết số tiền đã kiếm được. Ở nhà vợ con đói nheo nhóc, hàng xóm thương tình đem tiền gạo đến giúp, nhưng giúp hoài mà gia đình ấy vẫn khổ vì bệnh ghiền rượu của bác. Bấy giờ có vị tu sĩ đủ trí tuệ và đức hạnh đến dùng lời khuyên nhủ, bác xích lô nghe, liền bỏ rượu. Từ đó, gia đình bác hết khổ và được hạnh phúc, ấm no. Lời khuyên của vị tu sĩ không tốn tiền của mà đã cứu được gia đình bác xích lô hết khổ. Do đó, đối với người xuất gia, đức Phật dạy phải lấy pháp thí làm trên hết. Vì nói một câu đạo lý, người đời nghe hiểu rồi ứng dụng tu thì cả đời sẽ hết khổ.
Trách nhiệm của Tăng Ni chẳng những bố thí pháp mà còn phải bố thí vô úy, tức là cho người sự không sợ hãi. Nếu Tăng Ni mà lo kinh doanh ra tiền của để làm việc tài thí thì không có thì giờ tu học và không đúng bổn phận của người tu. Còn cư sĩ làm ra tiền của để bố thí thì hợp với đời sống thực tại đang sống và đúng với lời Phật dạy. Hiểu như vậy quý vị mới không thắc mắc: Tại sao Tăng Ni chỉ lo thuyết giảng Phật pháp mà ít lo làm việc từ thiện xã hội?
Ðọc lịch sử đức Phật, chúng ta thấy Ngài chỉ thuyết pháp giáo hóa cứu cho vô số người hết khổ, chớ không cứu khổ bằng phương tiện từ thiện xã hội. Ở đây, tôi tạm chia việc cứu khổ của Ngài ra ba giai đoạn:
Giai đoạn một: Ðức Phật dạy cho con người sống đúng tư cách con người là thọ tam quy, giữ năm giới.
Giai đoạn hai: Ðức Phật dạy con người tu ngay đời này, giải phiền não, dứt nhân xấu.
Giai đoạn ba: Ðức Phật chỉ thẳng cho con người biết mình có Phật tánh, biết rõ đầu mối của sự sanh tử để không còn luân hồi sanh tử khổ đau nữa.
1. Giai đoạn thứ nhất: Ðầu tiên, quý Phật tử đi chùa là quy y Tam bảo và giữ gìn năm giới cấm. Nếu giữ tròn năm giới cấm thì quý vị sẽ bớt những cái khổ sau đây:
-- Giữ giới không sát sanh thì khỏi bị thù oán hoặc tù tội về tội giết người.
-- Giữ giới không trộm cắp thì khỏi bị tù đày về tội trộm cắp.
-- Giữ giới không tà dâm thì gia đình không bị phá hại hạnh phúc.
-- Giữ giới không nói dối thì không mất uy tín với mọi người chung quanh.
-- Giữ giới không uống rượu thì không say sưa cuồng loạn, thân ít bệnh, gia đình không xào xáo, không làm rối loạn trật tự xã hội.

Ðó là những điều lợi ích cụ thể và thiết thực nhất của đời sống con người. Nếu một gia đình từ cha mẹ cho đến con cái đều giữ năm giới thì gia đình đó hạnh phúc, an vui. Nếu một xóm làng mọi người đều giữ gìn năm giới thì xóm làng đó rất an ninh. Như vậy, đức Phật có cứu con người hết khổ không? Hơn nữa, người giữ giới không sát sanh là biết tôn trọng, không giết hại sinh mạng của người khác. Giữ giới không trộm cắp là tôn trọng, không cướp tài sản của người khác. Giữ giới không tà dâm là biết tôn trọng, không phá hại hạnh phúc gia đình người khác. Giữ giới không nói dối là biết tôn trọng lẽ chân thật, không lừa gạt, dối trá mọi người. Giữ giới không uống rượu là biết trân quý trí tuệ và sức khỏe của mình, không rủ ren, dắt dẫn người say sưa nghiện ngập. Ðó là những lời dạy rất ích lợi và thiết thực cho đời sống của con người. Nếu hiện đời chúng ta giữ tròn năm giới, bảo đảm chúng ta sẽ là người công dân tốt của quốc gia, xã hội. Và, mai kia chúng ta chết thì năm giới ấy là nền tảng để chúng ta sanh trở lại làm người.
Những giới ấy có công dụng như: không sát sanh thì được sống lâu, không trộm cắp thì được của cải sung mãn, không tà dâm thì được thân xinh đẹp, không nói dối thì lời nói lưu loát, nói ra điều gì cũng được người tin, không uống rượu thì được thông minh, sáng suốt. Như vậy, người giữ tròn năm giới của Phật, chẳng những đời này chúng ta là một con người tốt, mà đời sau chúng ta cũng là một con người có đầy đủ những tính tốt và không thiếu những nhu yếu cần thiết trong cuộc sống.
Bước đầu, Phật dạy chúng ta quy y giữ năm giới là đã đem lại lợi ích an vui cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội. Ðó là Phật đã cứu khổ cho chúng ta thiết thực. Quy y giữ năm giới là việc làm đầu tiên của người cư sĩ mà cũng là việc làm hết sức hệ trọng.
Tuy nhiên, có người cho rằng tôi tu tâm hoặc tu ở nhà được rồi, cần gì phải đến chùa làm lễ quy y. Nếu là người có tín ngưỡng Phật giáo, nhưng chưa quy y, chưa giữ giới, khi lỡ làm những điều trái với giới cấm thì không sợ tội lỗi. Giả sử ông A chưa giữ năm giới, đi dự tiệc, bạn bè mời ông uống rượu, ông không có cớ từ chối, bạn ép là ông uống; uống lâu ngày thành kẻ nghiện rượu làm khổ gia đình. Hoặc người buôn bán chưa giữ năm giới, nói dối để bán được hàng lời nhiều, họ cứ nói không ngại, lâu ngày thành thói quen, chuyện gì cũng nói dối nên mất uy tín, nói không ai tin. Như vậy, có tín ngưỡng mà chưa phát nguyện thọ tam quy, giữ năm giơi thì tín ngưỡng đó chưa cứu được mình thoát khổ. Nhờ phát nguyện giữ giới, gặp điều sai trái, chúng ta sợ không dám làm, vì đã hứa trước Tam bảo rồi nên không dám làm.
Lúc còn nhỏ muốn bỏ một tật xấu, ít khi chúng ta bỏ được. Vì tự hứa với lòng không ai biết, lâu lâu lòng thay đổi nên mình cũng tự tha thứ cho mình. Nếu hứa mà có người làm chứng thì sợ mất uy tín, nên dù lòng có muốn thay đổi cũng không dám đổi. Ðó là cái lý do để Phật tử đến trước tượng Phật và chư Tăng phát nguyện quy y giữ giới.
Vì lời hứa này rất trân trọng, đời đời chúng ta không quên, nhờ oai lực đó mà chúng ta giữ được điều tốt để thành người tốt, có ích cho gia đình, cho xã hội. Như vậy, Tăng Ni khuyên mọi người quy y giữ giới là đã thể hiện lòng từ bi cứu khổ của mình rồi.
Sau khi thành đạo, đức Phật trở về thăm phụ vương và hoàng tộc. Ngài khuyên vua cha và hoàng hậu cùng quyến thuộc quy y giữ năm giới. Về sau, bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề xin xuất gia, đức Phật không cho. Tôn giả A Nan xin giùm, Phật cũng từ chối. Tôn giả bèn kể công ơn di mẫu đã nuôi dưỡng Thái tử từ lúc sơ sinh cho đến trưởng thành, xin Phật hãy vì công ơn nuôi dưỡng mà chấp nhận cho bà xuất gia. Ðức Phật nói Ngài đã đền ơn cho di mẫu rồi. Vì khi Ngài về thăm thành Ca Tỳ La Vệ, Ngài đã hướng dẫn vua cha và di mẫu quy y năm giới. Làm bấy nhiêu đó đã đủ cho Ngài đền ơn sanh thành dưỡng dục rồi.
Việc làm này chúng ta thấy rất nhỏ nhưng sao đủ để đền ơn sanh dưỡng? Ðây là vấn đề chúng ta phải hiểu cho tường tận mới biết cái quý của sự tu hành. Phật thành đạo, thấy rõ chung sanh luân hồi trong sáu nẻo là do hành nghiệp mà sanh. Tạo nghiệp ác thì sanh làm súc sanh, ngạ quỷ... chịu khổ. Năm giới cấm Phật chế ra cho người cư sĩ nhằm ngăn chặn ác nghiệp. Không tạo ác nghiệp thì hiện đời được an vui, đời sau cũng được an vui, ít khổ. Như vậy, không đền ơn là gì? Ðó là tầm quan trọng của việc quy y giữ giới và cũng là bước đầu của từ bi cứu khổ mà đức Phật dạy và Tăng Ni thuyết giảng.
2. Giai đoạn thứ hai: Dứt si mê là gốc của phiền não khổ đau. Tất cả mọi khổ đau của kiếp người, gốc từ si mê mà ra. Một người giàu có, cơm no, áo ấm, ở nhà lầu, đi xe hơi, nhưng tâm họ si mê điên đảo, liệu người ấy có được an vui, hạnh phúc không? Chắc chắn là không. Thực tế trong xã hội có nhiều gia đình dư tiền lắm của mà thiếu an vui, hạnh phúc, bởi lẽ tâm trí còn mê loạn. Người này tham, người kia giận, người nọ đố kỵ, ganh ty... Tham, giận, đố kỵ... nổi lên liền bất an, đau khổ. Cái đau khổ này, không phải thiếu ăn, thiếu mặc mà do si mê. Vì si mê chấp thân này là ta nên cái gì đẹp quý, khởi lòng tham chiếm đoạt cho mình. Chiếm đoạt không được thì sân giận nổi lên bức xúc, đau khổ. Khi nào thấy thân này không thật là giảm si mê, si mê giảm thì tham sân cũng giảm.
Làm sao thấy thân này giả? Ðọc kinh, Phật nói thân này do đất nước gió lửa hợp thành, nó sẽ hoại nên không thật. Ai cũng biết như thế, nhưng vẫn cứ tham, vẫn cứ sân, vì chưa hằng thấy thân này giả tạm, không thật. Thân này do tinh cha hợp với huyết mẹ và thần thức gá vào mà thành. Nhờ ăn cơm uống nước và hít thở không khí mà sống. Ðó là vay mượn bốn đại bên ngoài. Ăn cơm là vay mượn đất, uống nước là vay mượn nước, hít thở không khí là vay mượn gió. Mượn vô rồi trở ra, mượn mà không trả cũng không sống, trả mà không mượn cũng chết. Thở ra mà không hít vào thì chết ngay, hoặc hít vào mà không thở ra cũng chết. Không khí ở ngoài là của trời đất, mượn vô chốc lát trả ra nói là hơi thở của tôi. Mượn tách nước, ít tiếng đồng hồ trả ra nói mồ hôi của tôi, nước tiểu của tôi... Mạng sống của thân này là sự mượn trả tứ đại mà cho là mình. Có vô lý không? Cái mượn trả không phải là mình mà cho là mình thật, không si mê là gì?
Kiểm lại cái gọi là mình đang sống, có thật an ổn, hạnh phúc không? Nếu mượn trả suông sẽ cho là hạnh phúc an vui, nếu mượn trả không suông thì đau đớn, quằn quại. Vậy cuộc sống của chúng ta là gì? Có thật không? Chỉ là sự mượn trả tứ đại tạm bợ. Thế mà chúng ta cho là mình thật, rồi chấp vào đó sanh nhơn ngã sân giận đủ thứ. Thấy như vậy không si mê là gì? Trong cuộc sống, nếu hằng nhớ mình đang mượn trả thì không lầm, đã không lầm thì không chấp. Vậy si mê ban đầu là chấp ngã. Nếu thấy rõ cái ngã là thân này không thật thì bớt tham lam, nóng giận, bớt si mê, sống giữa đời này bớt đau khổ. Ðó là Phật chỉ cho chúng ta thấy thân này do duyên hợp, hư dối, không thật, để chúng ta bớt si mê chấp ngã, giảm bớt khổ đau. Ðó là bước thứ hai của từ bi cứu khổ mà Phật dạy và Tăng Ni trì tụng thuyết giảng. Song, cách cứu khổ này ít người biết đón nhận, chỉ những ai khéo tiếp thu và khéo ứng dụng mới nhận được lợi ích này.
3. Giai đoạn thứ ba: Dứt vô minh thoát luân hồi sanh tử. Ở đoạn trước mới phá si mê chấp thân là ngã. Phần này nói phá vô minh chấp tâm là ngã. Vô minh là đầu mối dẫn con người đi trong luân hồi sanh tử. Vòng luân hồi sanh tử là mười hai nhân duyên, vô minh dẫn đầu. Muốn dứt luân hồi sanh tử là phải hết vô minh, đạo Phật dạy tu để giác ngộ; giác ngộ là trí tuệ sáng lên, vô minh hết. Mọi khổ đau gốc từ vô minh mà ra, nếu giác ngộ thì hết vô minh, hết vô minh thì hết khổ.
Vô minh theo giáo lý nguyên thủy là thấy biết không đúng như thật. Chẳng hạn thân này do tinh cha hợp với huyết mẹ, thần thức gá vào mà thành, vay mượn đất nước gió lửa bên ngoài để sống. Thế mà nhận cái vay mượn là mình thật. Ðó là thấy biết không đúng như thật, là vô minh. Nếu thấy rõ thân này do tinh cha hợp với huyết mẹ, thần thức gá vào mà thành, vay mượn tứ đại bên ngoài mới tồn tại, không phải là ta. Ðó là thấy đúng như thật, thấy như vậy là sáng.
Vô minh theo kinh Viên Giác là chấp thân tứ đại này là thân ta thật, chấp tâm nghĩ tưởng lăng xăng là tâm ta thật. Chấp thân tâm này là ta thật, đó là vô minh. Theo nghĩa này, mỗi người chúng ta có ai không vô minh? Vậy làm sao không chấp thân tâm là ta để được minh? Như ở trên đã nói, thân này do tứ đại bên ngoài bồi bổ thường xuyên mới sống còn. Cái mà do vay mượn mới sống còn thì không phải là ta thật. Thấy rõ như vậy thì bớt phần chấp thân. Còn chấp cái nghĩ suy tốt xấu, hơn thua... là tâm mình thì sao phá? Bây giờ chúng ta thử kiểm lại xem từ sáng tới chiều có bao nhiêu lần nghĩ tốt, nghĩ xấu, nghĩ khôn, nghĩ dại... ? Cộng lại có cả trăm ngàn lần nghĩ như thế. Nghĩ nhiều như vậy thì chúng ta nhận cái nghĩ nào là mình? Cái nghĩ tốt là mình hay cái nghĩ xấu là mình? Nếu cái tốt là mình thì cái xấu là ai? Chẳng lẽ cả trăm thứ đều là mình? Cả trăm thứ ấy là mình, quý vị có chấp nhận không? Nếu thật là mình thì trước là mình, sau cũng là mình. Nhưng trước tốt, sau xấu, trước khôn, sau dại... mình nhiều dạng như thế ư? Cái nghĩ suy biến đổi như thế thật không phải là mình. Ðó là giai đoạn thứ nhất chấp nghĩ tưởng là mình không đúng.
Giai đoạn thứ hai: Nếu chấp cái nghĩ tưởng là mình thì có những phút giây không nghĩ tưởng gì hết, lúc đó có mình không? Lúc nghĩ tưởng là mình, vậy lúc không nghĩ tưởng không có mình sao? Nhưng tại sao không nghĩ tưởng mà vẫn biết? Có biết tức có mình. Có mình lúc không nghĩ tưởng, tức là không suy nghĩ mà vẫn có mình. Như vậy, cái nghĩ tưởng không phải là mình. Nghiệm lại thật kỹ mới thấy lẽ thật tại chỗ này. Lại nữa, nếu chấp cái nghĩ tưởng là mình, vậy thử tìm coi cái nghĩ tưởng ở đâu? Khi tìm nó thì nó mất tiêu, không còn dấu vết. Xét kỹ cái nghĩ tưởng, đủ duyên thì nó khởi lên, hết duyên thì nó lặn mất. Vậy nó đâu có thật, nếu có thật thì nó vắng mặt ở chỗ này phải có mặt ở chỗ khác. Cái nghĩ tưởng không thật mà chấp là mình có phải vô minh không? Cái vô minh này tệ hơn cái vô minh chấp thân là mình ở trước.
Mọi người chúng ta, khi nào thấy rõ thân này không thật, thấy rõ cái nghĩ tưởng không thật, chừng đó mới hết luân hồi sanh tử khổ đau. Nếu cứ thấy thân duyên hợp là mình, thấy cái nghĩ tưởng sanh diệt là mình, thì luân hồi khổ đau không bao giờ hết. Tại sao vậy? Vì cái nghĩ tưởng sanh diệt là cái động, thân duyên hợp là cái động. Phàm cái gì duyên hợp và động thì luôn luôn biến chuyển, nó hợp tan, tan hợp không dừng, vì vậy mà luân hồi sanh tử mãi. Do đó, Phật mới chỉ cho người đời thấy tường tận thân và cái nghĩ tưởng không thật, để dứt cái vòng luân hồi đau khổ. Ðó là Phật cứu chúng ta, giải thoát sanh tử khổ một cách rốt ráo. Nói như thế chắc có người thắc mắc: Thân không thật là mình, nghĩ tưởng không thật là mình. Vậy cái gì thật là mình? Tôi xin trả lời: Cái biết thân này không thật và nghĩ tưởng không thật, "cái biết" đó không phải là cái giả dối. Nếu nó giả dối thì đâu biết được thân và nghĩ tưởng không thật! Cái bị biết là thân và nghĩ tưởng, hai cái này không thật, cái hay biết mới là thật.
Tóm lại, khi thấy rõ thân này không thật, nghĩ tưởng không thật, nhận ra "cái biết" hằng hiện hữu nơi mình, chừng đó mới hết khổ. Ðó là giáo lý từ bi cứu khổ của đạo Phật. Chúng ta học Phật, học từ thấp lên cao, bước đầu là tam quy, ngũ giới. Sau đó biết thân tâm là vô thường, vô ngã... tiến lên bước nữa là biết vô minh là nguồn gốc của luân hồi sanh tử khổ, không sống với vô minh, mà hằng sống với trí tuệ là "cái biết" hằng hữu nơi mình. Ngang đây mới hết khổ. Ðó là cách cứu khổ của đạo Phật mà Tăng Ni thường giảng dạy cho người đời nghe để tự học cho hết khổ.

Luân hồi

HT. Thích Thanh Từ

image
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được. người học Phật khi mới vào đạo không hiểu đúng tinh thần Phật giáo, về sau sẽ hỏng cả một đời tu. Người có trách nhiệm hướng dẫn không thể xem thường kẻ mới học, cần phải xây dựng một cơ sở vững chắc, đi đúng đường hướng của Phật dạy. Hiểu Phật giáo một cách đúng đắn, mới mong thành một Phật tử chân chính.
Lời Đầu Sách
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được. người học Phật khi mới vào đạo không hiểu đúng tinh thần Phật giáo, về sau sẽ hỏng cả một đời tu. Người có trách nhiệm hướng dẫn không thể xem thường kẻ mới học, cần phải xây dựng một cơ sở vững chắc, đi đúng đường hướng của Phật dạy. Hiểu Phật giáo một cách đúng đắn, mới mong thành một Phật tử chân chính.
Vì muốn chỉ lẽ chính tà cho người mới vào đạo khỏi lầm lẫn, nên chúng tôi mạnh dạn chỉ thẳng những điều sai lầm hiện có trong Phật giáo. Làm như thế, không có nghĩa la chúng tôi muốn vạch lưng chỉ thẹo cho kẻ khác thấy, mà cốt yếu muốn gầy dựng lại nếp sống Phật giáo phù hợp với hiện tại và mai sau. Chúng ta sống trong thời khoa học, cấn phải truyền bá Phật giáo thích ứng với chân lý gần với sự thật, chúng ta đừng làm méo mó khiến kẻ bàng quan hiểu lầm Phật giáo. Với nhiệt tình chúng tôi một bề đả phá những mê tín đang ẩn náu trong Phật giáo, để cho bộ mặt Phật giáo trắng sạch hơn, không còn những thứ lọ nhơ làm cho lem luốc. Tinh thần tồi tà phụ chính, chúng tôi chịu trách nhiệm với những gì chúng tôi đã nói và hoàn toàn chịu trách nhiệm với những ai không hài lòng phiền trách chúng tôi.
Kính ghi

THÍCH THANH TỪ

LUÂN HỒI

I- MỞ ĐỀ
Có một số người bảo “nhà Phật nói luân hồi để ru ngủ con người trong giấc mơ mê tín “. Chúng ta khảo sát kỹ coi câu ấy có đúng thế không? Đó là nhiệm vụ của người truyền bá Phật giáo, cần phải làm sáng tỏ vấn đề này. Bởi thuyết luân hồi là một thuyết quan trọng trong nhà Phật. Nếu là mê tín thì trong đạo Phật mê tín hay sao? Hẳn không phải thế, đạo Phật là đạo giác ngộ, truyền bá những lẽ thật của mình giác ngộ cho chúng sinh biết là nhiệm vụ của đức Phật, cần phải nghiên cứu tường tận giải bày rõ ràng để mọi người được hiểu khỏi sinh nghi ngờ là một diều cần yếu không thể thiếu được. Lý luân hồi là một cơ cấu hệ trọng trong Phật pháp, bao gồm cả nhân quả, nghiệp báo là căn bản đạo đức của người tu Phật. Không thông lý luân hồi, người Phật tử khó bề tiến tu được. Do đó chúng ta cần phải hiểu cho thấu đáo.
II- ĐỊNH NGHĨA
Luân hồi là xoay vần, cứ mãi đảo lên lộn xuống xoay vần trong khuôn khổ cố định. Mọi sự đổi thay biến chuyển không đứng yên một vị trí nào. Hằng xê dịch biến thiên từ trạng thái này sang trạng thái khác, từ hình tướng này sang hình tướng khác. Tất cả sự biến thiên tùy duyên thăng trầm không nhất định là luân hồi.
III- LUÂN HỒI LÀ SỰ THẬT
Qua định nghĩa trên, chúng ta thấy luân hồi là một triết lý thực tiễn không còn gì phải nghi ngờ. Bởi vì con người và vũ trụ hiện tại đều nằm chung trong một định luật “biến thiên”.
a/ Quả đất luân hồi: Nhờ khoa học phát minh cho biết quả địa cầu chúng ta đang ở xoay tròn quanh một cái trục trong không gian. Do sự xoay tròn này, phía nào của mặt trời là sáng, phía bị khuất là tối. Từ đó, con người mới đặt ra thời gian. Sự xoay tròn này không phải luân hồi là gì ? Quả đất xoay khiến có ngày đêm  và hai mươi bốn tiếng đồng hồ nhịp nhàng theo chiều quay của trái đất, lại có chia Xuân, Hạ, Thu, Đông, do sự xê dịch gần và xa mật trời. Từ sự xoay tròn của quả đất, nảy sinh thời gian, thời gian và trái đất đều là luân hồi. Quả đất là chỗ tựa nương để sống còn của vạn vật và con nguời; bản thân nó đã luân hồi thì những vật tựa nương vào nó thì làm sao thoát khỏi luân hồi. Thế thì cả vũ trụ lẫn vạn vật cùng toàn thể chúng sinh đều là luân hồi. Đó là một sự thật căn cứ trên khoa học, chứ không phải là chuyện huyền thoại mơ hồ. Thể theo sự nhận xét tổng quát này, chúng ta cần đi chi tiết hơn cho dễ hiểu.
b/ Vạn vật luân hồi: Muôn vật trên quả địa cầu đều cùng chung luân hồi.
Về sinh vật từ cái cây cọng cỏ bởi do hạt nảy mầm tăng trưởng thành cây, sinh hạt, đảo đi lộn lại mãi không cùng. Các loài động vật thì từ trứng nở thành con, con lại sinh trứng; hoặc từ bào thai thành hình, khi trưởng thành lại có bào thai, lẩn quẩn loanh quanh không cùng. Đó là chúng ta nói sự luân hồi trong cuộc tiếp nối. Đến ngay bản thân sự vật cũng bị luân hồi, chúng sinh trưởng thành là do đất, nước, gió, lửa, khi tan hoại cũng trở về đất, nước, gió, lửa, tụ lại tán ra theo duyên biến chuyển chẳng cùng. Bản thân đất, nước, gió, lửa cũng bị luân hồi. Như sáng sớm chúng ta lấy thau múc một phần ba thau nước đem để ngoài trời nắng, đến chiều thau nước cạn khô. Thử hỏi nước đi đâu? Nước mất hết rồi sao? Nước không đi đâu, nước cũng chẳng mất, chẳng qua nước là thể lỏng do ánh nắng nóng bốc lên thành thể hơi, hơi theo gió bàng bạc trong hư không nào có định xứ. Thể hơi gặp khí lạnh đọng lại rơi xuống thành nước, nước lại bốc thành hơi, cứ thế mãi luân hồi không cùng. Gió, lửa, đất cũng thế, tùy duyên từ hình thái này đổi sang hình thái khác, đổi đổi thay thay không có ngày cùng. Tìm chỗ bắt đầu và chung cục của chúng không thể được. Hình tướng trạng thái luôn luôn đổi thay, sự thật vẫn không bao giờ mất. Từ một hình tướng thô đổi thành một trạng thái tế, với cái nhìn thô thiển người ta bảo là mất, thật sự nào có mất chỉ là biến thái.
c/ Con người luân hồi: Nói đến con người tạm chia thành hai phần, vật chất và tinh thần, như bóng đèn và điện. Ngọn đèn phát huy được ánh sáng phải có đủ hai điều kiện hỗ tương nhau. Có bóng đèn mà không có điện trở thành vô ích, có điện mà không có đèn cũng vô nghĩa. Sự hỗ tương giữa điện và bóng đèn không thể tách rời, không thể đặt giá trị thiên trọng, không thể xem như chủ khách. Cần phải thấy sự tương quan bất khả phân ly. Tinh thần và vật chất của con người cũng thế, mọi sự phân chia khinh trọng...đều sai ý nghĩa chân thật của nó. Vì muốn thấy sự luân hồi tường tận, chúng ta tạm nhìn con người ở hai mặt để dễ bề nhân xét:
-Vật chất luân hồi: phần vật chất nơi con người, nhà Phật chia tổng quát làm 4 phần: đất, nước, gió, lửa. Những loại cứng trong thân người như : da, thịt, gân, xương, tóc, lông, răng, móng...thuộc về đất. Các loại ửớt như : máu mủ, mồ hôi, đàm dãi, nước mắt, nước mũi...thuộc về nước. Hít không khí vào cho phổi hô hấp, quả tim đập, các mạch máu chảy.... mọi thứ động thuộc về gió. Nhiệt độ trong người làm cho thức ăn tiêu hóa, máu không đông đặc, ấm áp toàn thân.... thuộc về lửa. Bốn thứ này thiếu một là con người chết ngay. ở đây chúng ta phân tích sự luân hồi từng thứ:
+ Đất luân hồi: Thâu nhận tế bào mới, đào thải tế bào cũ. Thay mới đổi cũ không thể nào dừng, ấy là luân hồi. Cho đến thân này sống nhờ những thứ có chất bột (đất), khi chết nó tan hoại trở thành đất, khi sống mượn những chất đất bồi dưỡng, lúc chết trả lại cho đất. Hợp lại tan ra, tan ra hợp lại, không phải luân hồi là gì?
+ Nước luân hồi: Máu từ quả tim chạy khắp các mạch, , rồi trở về quả tim, chạy ra trở về, trở về chạy ra, sự tuần hoàn như vậy gọi là luân hồi. Cho đến khi sống mượn nước đem bồi bổ chất ướt trong thân, lúc chết chảy ra trở về lòng đất. Sự mượn trả mà không bao giờ mất ấy gọi là luân hồi.

+ Gió luân hồi: Hít không khí vô, thở không khí ra, hít vô thở ra cả đời như vậy là luân hồi. Nhờ cái động của thở hít không khí mà các cơ quan trong toàn thân hoạt động, các cơ quan hoạt động là thân sống. Đến khi thở không khí ra mà không hít lại, liền ngừng hoạt động, tức là thân chết. Thế thì là sự sống của thân này đích thực do luân hồi của gió, gió ngưng luân hồi thì thân phải hoại diệt.

+ Lửa luân hồi: Do nhũng thức ăn có chất nóng nuôi dưỡng phần lửa trong thân. Lửa dùng sưởi ấm toàn thân, thiêu đốt vật thực, lại do vật thực bồi bổ chất lửa. Cứ tiêu dùng bồi bổ, bồi bổ tiêu dùng, đảo đi lộn lại là luân hồi. Khi tiêu dùng mà không bồi bổ kịp, lửa từ từ tắt, con người chết. Lửa ấy trở về với thiên nhiên, tùy duyên chuyển biến trong không gian, mà chưa bao giờ mất là luân hồi.

Tóm lại, tứ đại tụ họp quân bình nhau là con người sống khoẻ mạnh, nếu thiếu quân bình là ốm đau, phân tán thì tử vong. Trong khi tứ đại tụ họp trong thân này luôn luôn biến chuyển tuần hoàn, không được ngăn trệ ứ động. Vừa bị ngăn trệ ứ động là thân này nguy ngập. Sự biến chuyển tuần hoàn của tứ đại trong thân con người gọi chung là vật chất luân hồi. Sở dĩ nói luân hồi vì biến chuyển mà không phải mất hẳn.

-Tinh thần luân hồi: ( tâm sở luân hồi) – Phần tinh thần của chúng ta luôn luôn thay đổi bất thường, không bao giờ đứng yên ở một vị trí. Những thứ buồn vui, yêu ghét, thương giận, lành dữ, phải quấy... thường thay mặt đổi mày như trên sân khấu. Có khi chúng ta hiền lành như ông Phật, có lúc giận dữ như con cọp đói. Nhiều lúc vui vẻ yêu thương, lắm khi bực bội thù địch. Những tâm trạng đổi thay không lùi được, chính tự thân chúng ta cũng không thể ước đoán nổi tâm trạng củ minh sẽ xảy ra những cái gì. Sự buồn vui thương ghét đổi thay thăng giáng nơi nội tâm chúng ta là luân hồi.
Nói chung con người chúng ta, hai phần vật chất lẫn tinh thần đều là tướng trạng của luân hồi. Sự luân hồi của chúng ta là sự hoạt động sống còn của ta. Biết rõ vật chất tinh thần chỉ đổi thay hình tướng trạng thái, chứ không một vật nào mất. Nếu thấy mất chẳng qua do cái nhìn cạn cợt nông nổi mà kết luận như thế. Thực thể của nó là “biến thiên mà bất diệt”. Thấy đến chỗ tận cùng ấy, mới khỏi nghi ngờ về lý luân hồi. Sự luân hồi ngay trong hiện tại này là hiện tại luân hồi. Đến sự tụ lại tan ra, tan ra tụ lại của thân con người là luân hồi đời này sang đời khác.

Mọi sự tụ tán đều tùy duyên khiến hình tướng, trạng thái đổi khác. Ví dụ nước do duyên nóng bốc thành hơi, gặp duyên lạnh cô đọng thành khối. Sự biến thái này đều do duyên quyết định. Duyên quyết định cho sự luân hồi của con người là gì ? Là nghiệp. Nghiệp là động cơ chính yếu trong cuộc luân hồi của con người.

IV - ĐỘNG CƠ LUÂN HỒI:

Nghiệp là hành động từ thân tâm con người tạo thành. Khi thành nghiệp rồi nó thúc đẩy dẫn dắt con người đến chỗ thành quả của nó. Chính nó là động cơ quan yếu đẩy mãi trong vòng luân hồi không dừng của tất cả chúng sinh. Cơ quan tạo nghiệp có ba thứ: thân, miệng và ý. Nói đến nghiệp là nói đến sự toàn quyền quyết định nơi mọi người chúng ta. Không ai tạo nghiệp thế cho chúng ta, cũng không ai có thể cho chúng ta, cũng không ai có thể thay thế nghiệp của chúng ta. Chính chúng ta là chủ nhân tạo nghiệp, cũng là chủ nhân thọ báo. Trọng trách của mọi sự khổ vui hiện tại và mai sau đều do chúng ta quyết định. Chủ trương nghiệp là chủ trương giành lại toàn quyền cho con người. Chúng ta là ông chủ nhân của chúng ta hiện tại và vị lai. Không phải một đấng thượng đế hay một tha nhân nào khác tạo thành một cuộc sống an vui hay đau khổ cho chúng ta. Mà chính do thân miệng ý của chúng ta trong quá khứ cũng như trong hiện tại gây nên. Chúng ta thừa nhận nghiệp do mình tạo ra, đã tước hết mọi quyền năng của các đấng thiêng liêng, của định mạng, của tướng số và của rủi may. Nghiệp là hành động, là thói quen nên có thể chuyển đổi, chỉ cần nỗ lực và bền chí. Nghiệp có nghiệp thiện và nghiệp ác.
a/ Nghiệp ác: Nghiệp ác là hành động làm cho người khổ và mình khổ, hoặc ở hiện tại hay ở vị lai. Hành động này do ba cơ quan tạo nên: thân, miệng, ý.
- Thân làm ác: Để cho thân buông lung thích hành động giết hại sinh mạng con người, hoặc thích trộm cửụựp tài sản người, hoặc đắm say dâm dật trái phép, là nghiệp ác của thân. Vì hành động này làm cho người khổ mình khổ, nếu hiện tại chưa đến thì vị lai cũng chịu.
- Miệng làm ác: Miệng ưa nói lời dối trá, lời ác độc, lời ly gián, lời thêu diệt, là nghiệp ác của miệng. Vì những lời nói này khiến người nghi ngờ bực tức đau khổ mang tai họa, nên hiện tại hoặc vị lai mình cũng phải nhận lấy hậu quả đau khổ ấy.
- Ýù làm ác: Si mê, tham lam, nóng giận là nghiệp ác của ý. Chính nó là động cơ thúc đẩy thân làm ác, miệng nói ác. Bản thân nó thì chưa làm hại được ai, song do nó khiến thân sát phạt người, miệng chửi bới nguyền rủa người. Thân, miệng mà không cộng với tham sân si thì tự nó không có lỗi lầm gì. Thế nên tuy nói ba cơ quan tạo nghiệp, mà ý là cơ quan hệ trọng hơn cả, nó là chủ động của hai cơ quan kia.
b/ Nghiệp thiện: Những hành động đem lại sự an ổn vui vẻ chẳng những có trong hiện tại mà còn đến vị lai. Cũng do ba cơ quan tạo thành nghiệp thiện: thân, miệng, ý.
- Thân làm lành: Thân không giết hại người, không trộm cướp tài sản người, không dâm dật phi pháp là nghiệp thiện của thân. Tại sao không làm ba việc ấy là thiện? Bởi vì con người quý nhất là sinh mạng, chúng ta không hại sinh mạng họ thì họ đến với chúng ta một cách an ổn không sợ sệt. Thứ yếu là tài sản, con người tự thấy tài sản là huyết mạch của họ, chúng ta nhất quyết không trộm cướp thì họ đến với chúng ta cũng như chúng ta đến với họ, đều được an vui không hồi hộp lo âu về mất của. Hạnh phúc của gia đình là vợ chồng hoà thuận tin yêu trinh bạch với nhau, nếu vợ chồng có tình ý riêng tư với ai là gia đình mất hạnh phúc. Chúng ta gìn giữ không theo sự dâm dật phi pháp, đến với gia đình ai thì họ đều an ổn vui vẻ không nghi ngờ sợ sệt chi cả. Giữ gìn ba điều này, chúng ta đã ban sự an ổn vui tươi cho bao nhiêu người rồi, cũng chính là đem lại sự an ổn vui tươi cho gia đình chúng ta.
- Miệng làm lành: Miệng kh6ng nói dối trá, không nói ác độc, không nói ly gián, không nói thêu dệt là miệng làm nghiệp lành. Vì sao? Bởi vì nói dối trá khiến người nghi ngờ mất niềm tin, đã không tin nhau làm gì có thương mến. Thế nên nói dối là căn bản khiến con người mất hết tình thương. Nói ác độc khiến người nghe sinh phẫn nộ bực dọc đau khổ. Nói ly gián làm cho thân thuộc họ phải chia lìa, tạo thành cái khổ ải biệt ly. Nói thêu dệt là không đúng chân lý, khiến người không tìm ra được lẽ thật. Chúng ta quyết định giữ gìn miệng không nói bốn điều trên là tạo dược tình thân giữa mình và người, đem lại cho mọi người sự an ổn, bảo vệ được tình thân của người, giúp cho người dễ nhận ra lẽ thật. Thế là chúng ta đã tạo điều kiện tốt đẹp cho xã hội biết mấy.
- Ýù làm lành: Ý không có tham, sân, si là ý làm nghiệp lành. Chúng ta thường thấy mọi sự bất bình đổ vỡ đều phát nguồn từ tham sân si. Nếu chúng ta không để tham, sân, si dẫn dắt hoành hành thì cả cuộc đời chúng ta được an ổn, cũng là nguồn an ổn cho mọi người. Ba thứ này gọi là tam độc, vì nó gây đau khổ cho mình và người không thể lường trước được. Người nào kềm cương giữ thắng được nó, bảo đảm được một đời sống an lành, cũng bảo vệ được an ninh trật tự cho mọi người. ngược lại, kẻ nào buông cương thả thắng, nó sẽ lôi đời họ vào hố sâu nguy hiểm, cũng gây hại họa cho khách bàng quan không ít. Thế nên, không cho tham sân si nổi dậy là gìn giữ an ổn vẹn toàn cho mình và mọi người.
c/ Khả năng của nghiệp: Nghiệp là cái không có hình tướng mà có khả năng đáng kể. Ví như gió, tuy không thấy hình tướng mà nó thổi đất nước đều lung lay. Nghiệp cũng thế, bình thường chúng ta không thấy nó, mà nó lôi chúng ta đi khắp nẻo luân hồi. Sỡ dĩ nó có khả năng mạnh mẽ như vậy là do tập quán lâu ngày. Như người tập hút thuốc, buổi đầu khói thuốc chỉ cảm thấy khó chịu, nhưng tập lâu ngày thành ghiền, khi ghiền rồi với giá nào cũng phải tìm cho có nó. Thử hỏi cái ghiền ấy hình tướng ra sao, mà điều khiển con người một cách mãnh liệt như thế? Quả thật không ai biết tướng mạo của nó, nhưng khi nó đòi hỏi, người ta phải chạy ngược chạy xuôi tìm ra thuốc hút. Bệnh ghiền rượu khả năng còn mạnh hơn, từ những hớp rượu cay xé mồm, tập mãi thành quen, bắt đầu ghiền rượu, khi ghiền không có rượu khiến người ta phải ụa phải mửa, oằn oại nhọc nhằn, ngáp trời ngó đất, quả thật chi phối hết khả năng con người. chúng ta tự đặt câu hỏi, ai đem bệnh ghiền đó đến cho chúng ta? Chính chúng ta tự tập, tập lâu thành ghiền , cái ghiền ấy do mình tạo rồi mình chịu. Cái ghiền ấy có ma lực gì mà đày đoạ hành hạ con người đến thế? Hắn không có ma lực gì, chẳng qua tập lâu thành thói quen,  thói quen càng lâu sức càng mạnh. Đã tự chúng ta tập thành bệnh, khi muốn hết bệnh cũng tự chúng ta gan dạ tự bỏ nó, không ai có thể bỏ thế cho chúng ta. Khả năng của bệnh ghiền giống như của bệnh nghiệp chi phối chúng ta trong lục đạo luân hồi vậy. Tự chúng ta tạo nghiệp lành hoặc nghiệp dữ, tạo càng lâu thì sức mạnh càng lắm. Đến cuối cùng chúng chi phối dẫn dắt chúng ta đi váo con dường lành hay dữ tùy chỗ gây tạo của mình. Không phải hoá công đày đoạ, không phải thượng đế bày ra, chính chúng ta tự tạo rồi tự thọ. Khi đã thành nghiệp, chúng ta khó cưỡng được nó. Thế nên, biết chọn nghiệp lành để tạo là đã tự gây một sức mạnh đưa mình đến cõi lành. Cắm đầu gây nghiệp ác là là tạo áp lực lôi mình vào cõi dữ,. Chính đây là quyền lực chọn của con người, quyền định đoạt số phận ở mai hậu. Nếu cứ sống say chết ngu,û đẩy đâu đi đấy, những kẻ này về sau than trời trách đất nào có ích gì. Chúng ta có đủ thẩm quyền để quyết định đời mình hiện tại và vị lai, tại sao chúng ta lại bỏ mất hết các giá trị cao cả ấy. Những kết quả tốt xấu dở hay ở hiện tại và mai kia đều nằm sẵn trong tay chúng ta, chúng ta có quyền phán quyết một bản án tốt xấu trong đời sống mai sau của mình. Đừng cầu khẩn van xin bất cứ một năng lực nào ngoài chúng ta. Nói đến khả năng nghiệp là khả năng của chúng ta, nghiệp và chúng ta không phải là hai. Nếu chúng ta khôn ngoan khéo léo lo tạo nghiệp lành, chúng ta dại khờ ngu muội gây tạo nghiệp ác. Khổ vui sẽ tùy nghiệp mà đến với chúng ta một cách chân thành.
V - TẤT YẾU CỦA LUÂN HỒI
Tạo nghiệp là nhân, thọ báo là quả. Tất yếu của sự luân hồi là nhân quả. Lăn lộn trong ba cõi sáu đường đều tùy thuộc nhân quả. Mình đã gây nhân nhất ủịnh mình phải chịu quả, quả khổ quả vui là do gây nhân khổ vui. Nhân quả là lẽ công bằng chân thật, bởi mỗi cá nhân gây tạo khác nhau, nên sự thọ nhận cũng sai biệt. Sự công bằng từ nhân đến quả, không phải sự công bằng do ai khác áp đặt cho mình. Nếu do kẻ khác áp đặt cho mình là đã bất công rồi,. Ngày nay chúng ta tạo nhân ngày mai chúng ta thọ quả, thực là rõ ràng rành mạch biết bao. Song nói nhân quả là căn cứ trên thời gian suốt cả quá khứ hiện tại vị lai, trong quá khứ có cái gần có cái xa, vị lai cũng thế. Khiến có những kết quả xảy đến mà đương sự không bao giờ nhớ. Lại có những sự kiện gây nhân mà không thấy kết quả. Do đó nhân quả trở thành rắc rối khó khăn, người ta khó tin, khó nhận. Nhưng sự thật lúc nào cũng thật, bởi khả năng nhớ hiểu của con người quá giới hạn, nên có những thắc mắc thế thôi. Nếu người nhận hiểu sâu về lý nhân quả thì cuộc sống này đã có tiêu chuẩn nhắm đến và an ổn vô cùng . Vì mọi kết quả hiện chịu trong đời đều do nhân gây ra từ thưở trước , nên khổ không oán hờn, vui không ngạo mạn. Mình làm mình chịu, chỉ quý ngay đây phải chọn lấy nhân tốt mà làm, để mai kia khỏi phải thọ quả đau khổ, cho nên trong kinh nói: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Kẻ trí sợ nhân, người ngu thì sợ quả. Do cái nhìn thấu suốt và cái nhìn nông cạn, nên có chia Bồ Tát và chúng sinh. Nhân có thiện ác thì quả cũng có khổ vui.
Những kẻ gây tạo nghiệp ác, ắt phải thọ quả khổ trong ba đường dữ, địa ngục ma quỷ, súc sinh. Nghiệp ác là mình làm cho kẻ khác khổ, cân xứng với nhân mình gây,  thọ quả khổ một nơi trong ba đường dữ. Nhân khổ có khi không thành quả, do nữa chừng mình biết hối cải, hoặc chuyển đổi. Nhân khổ nhất định thọ quả khổ, do sự nuôi dưỡng một cách sung mãn. Ví như có người uống rượu mà không ghiền , vì họ biết giới hạn chừa bỏ. Có người uống rượu nhất định phải ghiền rượu, vì họ mãi tiếp tục và say mê. Có nhân khổ mà không thọ quả khổ, cũng như thế.
Người gây nghiệp thiện ắt thọ quả vui trong cõi người., cõi A Tu La và cõi trời. Cân xứng của nghiệp lành mình đã tạo, nhiều ít thấp cao, kết quả cũng có hơn kém thấp cao. Có khi người ta nghiệp lành mà không hưởng quả lành . ví như một số sinh viên vào học y khoa, có người không đủ khả năng học hoặc lười biếng học, nên tuy học y khoa mà không thể thành bác sĩ. Có người đủ khả năng lại cần cù học tập, nhất định một ngày kia sẽ thành bác sĩ. Từ nhân đến quả còn cần có những sự kiện trợ giúp đầy đủ mới được viên mãn. Không có thể có nhận định tất nhiên rằng có nhân là có quả. Bởi vì thời gian từ nhân đến quả là giai đoạn biến động, hoặc được tăng trưởng, hoặc bị tiêu mòn, tùy theo những sự kiện trợ giúp. Biết thế chúng ta có thể chuyển nhân xấu thành tốt, hoặc nhân tốt trở ra xấu.
Sự tất yếu của luân hồi tùy thuộc nhân quả, không có kẻ nào khác áp đặt khổ vui cho chúng ta, cũng không có bàn tay nào lôi kéo chúng ta phải đi đường này hay lối khác, mọi sự kết quả đều cân xứng với nhân mình gây tạo. Nắm vững yếu tố này, mới thấy chúng ta trọn quyền định đoạt số phận của chúng ta. Nếu cuộc đời của chúng ta hiện được tươi sáng hay đen tối, đều do sự khéo léo hay vụng về của ta ngày xưa. Can đảm nhận lấy trách nhiệm của mình, không oán trách kêu ca, không than thân tủi phận. Chúng ta gan dạ trong cuộc sống hiện tại, song phải khôn ngoan chọn lối đi ở ngày mai.
VI - THOÁT LY LUÂN HỒI
Đạo Phật giải thích rõ lý luân hồi, nhưng không phải để mãi chịu luân hồi. Biết luân hồi tường tận rồi, Phật chỉ ra con đường thoát ly luân hồi. Đúng như ý nghĩa biết khổ, chúng ta mới tìm cách thoát khổ. Luân hồi là vòng loanh quanh lẩn quẩn, nhào đi lộn lại không thể thoát ra. Chấp nhận trong vòng quanh quẩn đó, do người không tìm được manh mối thoát ra, hoặc không đủ khả năng thoát ra. Như các nhà khoa học phát minh ra sức hút của trái đất, mọi vật cam chịu trong vòng vọt lên rớt xuống, không sao thoát ra ngoài được. Nhưng cũng chính các nhà khoa học chế phi thuyền đủ khả năng vọt ra vòng hút của trái đất, đi thám hiểm các hành tinh khác. Biết rõ sức hút của trái đất rồi, mới chế được phi thuyền vọt ra ngoài sức hút. Cũng thế, Phật giải thích lý luân hồi rồi, mới dạy phương pháp thoát ly luân hồi. Mục đích của đạo Phật là thoát ly sinh tử luân hồi, không chấp nhận sự loanh quanh trong vòng sinh tử. Còn trong sinh tử dù dài ngắn khổ vui, đạo Phật đều kết luận là đau khổ., vì cùng một số phận vô thường. Chỉ thoát được luân hồi mới là an vui giải thoát.
VII - KẾT LUẬN
Đạo Phật nói lý luân hồi cũng là phát minh một sự thật của vạn vật và con người. vì đối tượng của đạo Phật là con người, nên chung quy đặt nặng về sự luân hồi của con người. Con người nhận hiểu thấu đáo về lý luân hồi, nếu họ không có khả năng thoát khỏi lý luân hồi, tự chọn lựa cuộc luân hồi an vui và thoải mái. Nếu họ có khả năng thoát ly luân hồi, do hiểu luân hồi tiến tu đạo giải thoát. Biết được lý luân hồi, chúng ta biết được lẽ công bằng của con người , cũng nhận thấy sự tự do căn bản ở chúng ta. Mọi mê tín ỷ lại đều tiêu tan, do biết ta là người quyết định thân phận của mình. Tất cả oán hờn tủi hận đều sạch hết, vì có ai áp đặt sự đau khổ cho mình mà than thở. Quả chúng ta là con người độc lập tự do của chính mình trong hiện tại và vị lai. Dù chưa giải thoát, biết lý luân hồi, chúng ta cũng sáng suốt và yên ổn trong đời sống này. Mọi tương lai đều nằm trong tay chúng ta, chúng ta trọn quyền chọn lấy một tương lai nào theo sở thích của mình.

TAM ĐỘC

I - MỞ ĐỀ
Rắn độc, thuốc độc là thứ người đời rất kinh sợ, nhưng không đáng sợ bằng Tam độc. Vì rắn độc, thuốc độc hại người chỉ một thân này, tam độc hại người đến bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp. Nếu đáng sợ chúng ta nên sợ Tam độc hơn tất cả thứ độc khác. Thế mà, người đời chẳng   những không sợ tam độc, lại còn nuôi dưỡng chứa chấp bảo vệ, khiến nó càng ngày càng tăng trưởng. Do đó người đời luôn sống trong mâu thuẫn, một mặt cầu được an ổn tươi vui, một mặt nuôi dưỡng Tam độc là động cơ bất an và đau khổ. Có khác gì người kia muốn gia đình được bình an, mà nuôi kẻ giặc trong nhà. Thế thì sự bình an chẳng những không có mà đau khổ tan hoại sẽ đến nay mai. Người học đạo chúng ta phải sáng suốt nhận diện đúng mặt thật kẻ phá hoại, tiêu diệt chúng thì sự an vui sẽ đến với chúng ta. Tam độc là nguồn đau khổ của chúng sinh, là cội rễ bất an của nhân loại, chúng ta phải hiểu nó và cố gắng trừ nó.
II - HÌNH  TƯỚNG TAM ĐỘC
Tam độc là ba thứ độc ác mang đau khổ đến cho con người, phá hoại mọi hạnh phúc an vui của con người. theo thứ tự thông thường của nó là Tham, Sân, Si; song đặt đúng trật tự từ gốc ra ngọn phải nói SI, Tham, Sân.
1. SI – Si là si mê. Không biết đúng lẽ thật giả, không nhận ra phải trái, không thấy được tà chính , ngu tối mờ mịt là tướng trạng của Si. Cái si mê căn bản nhất là là nhận lầm thân giả dối làm cái ta chân thật, tâm sinh diệt làm cái ta vĩnh cữu. Nơi ta đã nhận lầm thì đối tất cả đều lầm, phát sinh bao nhiêu thứ tội lỗi về sau đều gốc từ cái lầm này mà ra.
Thân là tướng duyên hợp hư giả mà lầm chấp thân mình là thiệt . Đã thấy thân thiệt rồi, sinh bao nhiêu thứ bảo vệ giữ gìn nuôi dưỡng tô điểm cho thân, giành giật đuổi bắt tìm cầu cho được những nhu cầu mà thân đòi hỏi. Nhưng không bao giờ có sự thoả mãn của bản thân, vì nó là một thứ ghẻ lỡ, càng được lại càng đòi hỏi. Chính nó là cái gốc của lòng tham vô tận sau này. Lầm chấp thân là thật thì mọi sự vật lệ thuộc về thân cũng thấy là thật. Do đó chẳng những lo tìm cách bảo vệ những sự vật lệ thuộc . chúng ta cố giữ gìn thân mình, cố tìm kiếm những nhu cầu để thoả mãn thân mình, cố bảo vệ những sự thật về mình, kẻ khác cũng thế. Ai cũng muốn thoả mãn, muốn bảo vệ, song mình được thì kẻ khác phải mất, đó là chỗ đụng nhau của con người. nhân loại tranh đấu nhau để được từng mảnh vụn vật chất, gốc từ chấp thân thiệt phát sinh. Bởi cho thân là thật, một khi nó sắp hoại thì mọi sợ sệt lo âu không sao kể hết.
Về tâm, cho những thứ suy tư nghĩ  tưởng cảm xúc phân biệt.... là tâm mình thật. Song những thứ ấy là tướng duyên theo bóng dáng trần cảnh, chợt có chợt không, bỗng sanh bỗng diệt, không có thật thể cũng không lâu dài. Bám vào cái giả dối tạm bợ ấy cho là tâm mình. Khi đã chấp là tâm mình rồi, mình nghĩ cái gì cũng cho là đúng, mình tưởng cái gì cũng cho là hay, mình phân biệt điều gì cũng cho là phải. Bảo vệ ý kiến mình chống đối ý kiến kẻ khác. Nếu sự chống đối của một cá nhân, là ý kiến bất đồng trong phạm vi cá nhân. Nếu sự chống đối của quần chúng này với quần chúng khác, là tranh đấu ý thức hệ. Bất đồng ý kiến là mầm đau khổ triền miên từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Nhưng mà, ý kiến làm sao đồng được , bởi mỗi người sống trong mỗi môi trường khác nhau, sự huân tập hấp thụ khác nhau, kể cả những chủng nghiệp của thời quá khứ cũng khác nhau, đương nhiên vọng tưởng tâm thức phải khác nhau. Bởi những thứ ấy do huân tập mà có nên những bất đồng ấy không thể tránh khỏi. Thế mà chúng ta lại bảo thủ ý kiến của mình là đúng, kẻ khác ắt cũng nhận ý kiến họ là đúng, hai cái đúng ấy là gốc đấu tranh. Nếu nói thẳng, ý kiến không có đúng, chỉ vì phù hợp với một số người nào với khoảng thời gian nào, đến những người khác và thời gian khác là sai. Vì thế, người cố chấp ý kiến mình đúng , quả là họ đã sai. Càng cố chấp bảo thủ ý kiến mình là nguyên nhân đau khổ trầm trọng của con người. chỉ khéo léo dung hoà buông xả để cùng vui vẻ với nhau, là người khôn ngoan nhất.
2.THAM - Do chấp thân là thật nên khởi tham lam mọi nhu cầu vật chất cho thân. Lòng tham là cái hang không cùng , cái túi không đáy, cho nên không biết đến đâu là đủ. Không có; tham lam muốn có; đã có, tham lam muốn thật nhiều, càng được lại càng tham. Tham mà không toại nguyện liền nổi sân. Quả thật tham là nhân đau khổ vô hạn, con người đến khi sắp tắt thở vẫn chưa thoả mãn lòng tham. Tham có nhiều loại:
Tham muốn thân này sống mãi không chết, người ta coi cái chết là một họa hại tối đại của con người. Thế nên, thăm hỏi nhau, chúc mừng nhau, người ta luôn mồm cầu khỏe mạnh , cầu sống lâu trăm tuổi. Bởi có ám ảnh mình sống lâu, nên kinh doanh sự nghiệp đuổi theo danh vọng, mê say sắc đẹp, thích uống ăn ngon lành... cho thoả mãn thân này. Vì sợ chết nên người ta luôn tránh né tiếng chết, dù cho đến khi bệnh ngặt sắp chết, đi mua hòm về vẫn nói nhắc cái “thọ”. Sự thể tham sống đầy ngập nơi con người, có người mang thân sống một cách khổ đau đen tối, mà nghe nói chết cũng sợ sệt. Song có sinh nhất định phải có tử, là một định án không thể di dịch, làm sao tránh được. Chỉ có sợ chết mà không biết đường tránh, đây là nỗi khổ tuyệt vọng của con người.
Vì tham sống lâu nên người ta muốn được nhiều tiền của để đảm bảo đời sống. Muốn được tiền của nhiều, người ta phải tranh đua giành giật với nhau. Đã là giành giật thì có kẻ được người mất, kẻ được vui cười thì người mất tức tối. Vì thế người được càng nhiều thì thù hận càng lắm. Có khi trong lúc giành giật, chỉ nghĩ phần được về mình, người ta đã càn lấn, dẫm đạp lên trên sinh mạng người khác. Cho nên cái được của ta cũng là mồ hôi nước mắt của người. người tham tiền của nhiều thì đau khổ cũng nhiều. Bởi vì đâu phải muốn là được, phải lao tâm nhọc trí, phải tốn hao bao nhiêu sức lực mới được. Đã được lại sợ người ta phá, tìm mọi cách giữ gìn bảo vệ, nhưng có khi nó cũng ra đi. Khổ công quá nhiều mới được, được rồi lại mất, thực là khổ đau vô kể.
Danh vọng là những hạt nước lóng lánh trước ánh nắng mặt trời, người thích những danh vọng cao sang, nhưng khi nắm vào tay nó liền tan biến. Song người thế gian nào có biết chán, cứ một bề ngó lên, được một bậc lại muốn lên một bậc. Chính vì tham lam mong muốn, người ta phải chạy chọt cầu cạnh bợ đỡ những người có khả năng đưa mình lên. Mong cầu mà được, người ta lại thêm mong cầu. Mong cầu mà không được, người ta phải khổ đau sầu thảm. Danh vọng là miếng mồi ngon, nên ta mong ước kẻ khác cũng mong ước. Nếu ta nắm được nó trong tay thì kẻ khác cùng tìm đủ cách để gỡ ra. Vì thế, người xưa đã nói “càng cao danh vọng càng đầy gian nan“. Ít có người ngồi trên chiếc ghế danh vọng được an ổn suốt đời. Song vì tính cách hào nhoáng của danh vọng hấp dẫn mọi người dán mắt vào đó không biết mỏi. Đuổi bắt danh vọng, như những đứa bé đuổi bắt bóng, cuối cùng chỉ chuốc lấy sự mệt nhừ. Còn ai khôn ngoan khéo biết dừng, người đó sẽ được an ổn.
Sắc đẹp cũng là một thứ men say khiến nhiều người đam mê đeo đuổi. Bao nhiêu danh từ hạnh phúc yêu đương êm tai, ngọt dịu, thúc đẩy khách si tình chìm trong biển ái. Rốt cuộc chỉ là những ảo tưởng đảo điên, do con người điên đảo bày bịa. Hạnh phúc là chiếc mặt nạ của khổ đau. Một khi lột chiếc mặt nạ ấy ra liền lộ nguyên hình đau khổ. Nhưng con người là bệnh nhân của sắc dục, mặc dù biết nó là nhân đau khổ, mà họ vẫn la cà bê bết, không chịu tránh xa. Người ta đuổi theo sắc dục không bao giờ biết chán, như người khác uống nước muối càng ngày càng khát. Nó mang họa hại cho bản thân chóng tàn cỗi, lại thêm nhiều sầu thảm khổ đau. Đam mê sắc dục là người tự phá hoại sinh mạng của chính mình.
Những thức ngon ăn uống chỉ có giá trị khi còn tại lưỡi, nuốt qua khỏi cổ nào có ra gì. Thế mà người đời vì miếng ăn giành giật nhau, giết hại nhau. Tốn bao nhiêu mồ hôi, bao nhiêu sức lực, chỉ vì một món ăn ngon. Hôn nay thích ăn món này, ngày mai đòi món ăn nọ, sự thèm khác đòi hỏi thôi thúc người ta phải khốn khổ nhọc nhằn suốt đời. Rốt cuộc muốn đời sống chỉ vì nô lệ cho cái lưỡi. Dù có người bảo rằng ăn uống bồi bổ sức khỏe con người cần thiết cho cuộc sống. Song chúng ta chỉ cần ăn những thứ có đủ sinh tố nuôi dưỡng cơ thể là tốt, đừng cầu kỳ món ngon vật lạ, đừng đòi hỏi chả phụng khô lân. Biết chọn thức ăn bồi dưỡng thân này khỏe mạnh là đúng, chớ để cả đời nô lệ cho cái lưỡi.
Lại có lắm người thích nhàn rỗi thảnh thơi, thong thả qua ngày, chẳng ưng làm lụng việc gì. Họ tự cho thân sung sướng là trên hết, không muốn làm động móng tay. Quan niệm này lâu ngày trở thành lười biếng hèn nhát. Họ là những khối thịt thường được vất lên chiếc giường, ném xuống chiếc võng. Cả ngày họ chỉ biết thụ hưởng, mà không ưng làm một công tác gì để có lợi cho mình và giúp ích cho xã hội. Nếu một đời sống mà tập như thế, kẻ đó tự chuốc bệnh hoạn vào thân và vô ích cho xã hội. Càng ở không càng thấy thân lừ nhừ nhọc mệt, vì thân này là một cái máy hoạt động, nếu không chịu hoạt động máu huyết không được lưu thông, gân cốt không dẻo dai, là cái cớ để bệnh hoạn. Người cố ở không cho sung sướng, đâu ngờ họ tự chuốc bệnh hoạn khổ đau.
3. SÂN: Sân là nóng giận. Do tham lam mà không toại nguyện, hoặc bị ngăn trở liền nổi sân. Một khi nổi sân thì mọi tội ác nào cũng dám làm, mọi khổ đau nào cũng dám tạo. Tất cả sự hung tợn dữ dằn ác độc đều do sân mà phát sinh. Sân có loại bộc phát, loại thầm kín.
Nghe một lời nói trái tai, thấy một hành động không vừa ý liền nổi nóng la ó ầm ầm là sân bộc phát. Loại sân này rất nguy hiểm, song đối phương dễ thấy dễ biết. Những điều gì mình muốn bị kẻ khác ngăn trở, liền nổi giận mặt đỏ, miệng thốt ra lời bất hảo, tay chân quơ múa, toàn thân cử động một cách mất điều hòa. Nếu khi này đối phương nhường nhịn đi thì khả dĩ dịu lại, bằng không thì cơn ấu đả khó tránh. Một phen nổi sân là một trận bão bùng họa hại hiểm nguy không thể lường trước được. Mọi hiểm nguy họa hại trong đời sống của chúng ta đều do sân mang lại. Người ôm ấp lòng sân là kẻ chứa chấp rắn độc trong nhà, tai họa đến một cách dễ dàng chỉ trong giây phút.
Có người được sức mạnh dằn ép lửa sân bộc phát, nhưng họ lại nuôi dưỡng nó một cách ngấm ngầm. Khi nghe nói trái tai, họ nổi giận, mà ghim ở trong lòng. lòng sân này thầm lặng mà ác độc vô kể, vì đối phương không biết được để ngừa đón. Những kẻ có lòng sân thầm kín là con người sâu độc nguy hiểm. Đây là đóng lửa than, khó thấy mà lâu tàn. Người ôm lòng sân này như ngôi nhà đẹp mà chứa đầy hơi độc. Những kẻ thiếu tinh tế, nhận xét hời hợt, không sao tránh khỏi bị hơi độc làm ngạt thở. Song hại được người chính mình cũng không an ổn gì. Thế nên sân là mối hiểm họa cho mình cho người, mọi khổ đau trong đời này đều do sân gây ra.
III-  TRỪ TAM ĐỘC
Như trên đã thấy, tam độc là họa hại vô cùng bất tận của con người. chúng ta phải nổ lực thủ tiêu chúng thì đời mình mới an ổn và đem lại an ổn cho mọi người. tam độc như một cây to, si là gốc cây, tham là thân cây, sân là cành lá. Trừ tam độc, chúng ta phải nhắm thẳng vào gốc của nó mà đoạn diệt. Gốc của nó tức là si, nên phương pháp trừ nó phải là trí tuệ. Ở đây chúng ta phải dùng hai phương pháp để trừ diệt chúng:
1/ Quán vô thường:
Bởi do si mê chấp thân này là thật và cuộc sống lâu dài, nên khởi lòng tham sống lâu, tham của cải, tham danh vọng... ở đây chúng ta dùng trí tuệ quán chiếu theo chiều thời gian, xem thân này quả thật sống lâu dài hay không? Như Phật đã nói: “ mạng người sống lâu trong hơi thở“ đây là một sự thật của kiếp người, chỉ một hơi thở ra không hít vào đã chết. Dù có đến trăm ngàn lối chết, song bất cứ lối chết nào cũng thở khì ra mà không hít lại là song một cuộc đời. Thời gian thở ra không hít lại khoảng bao lâu, quả thật ngắn ngủi vô cùng, chỉ trong vòng một tít tắc đồng hồ. Như thế, chúng ta kết luận mạng người sống bao lâu, mà tham lam đủ thứ. Càng xét nét chúng ta càng thấy thân này thật quá mỏng manh, một luồng gió độc suông vào cũng có thể chết, dẫm chân lên con rắn độc bị cắn cũng có thể chết, đi đường sẩy chân ngã bổ cũng có thể chết, ngồi trên xe đụng nhau cũng có thể chết, một gân máu bể cũng có thể chết v.v.v.v. sự còn mất của thân này quá nhanh, không có gì bảo đảm cho sự sống của nó hết. Phút giây nào còn sống là biết nó sống, phút giây khác không chắc nó lại còn. Một cơn bất thần liền ngã ra chết, nên nói thân này là vô thường. Đã thấy thân mỏng manh như vậy thì sự tham lam cho thân  còn có giá trị gì. Do trí tuệ thấy đúng như thật thân này vô thường, mọi sự tham lam theo đó được dừng, lòng sân hận cũng nguội lạnh.
Những suy tư nghĩ tưởng của tâm thức cũng đổi thay từng giây phút cũng thay hình đổi dạng luôn luôn nên cũng thuộc vô thường. Trong một ngày mà buồn giận thương ghét, đổi mày thay mặt không biết bao nhiêu lần . mọi sự đổi thay ấy là tướng trạng vô thường, còn gì tranh chấp là chân lý. Chấp suy tư nghĩ tường của mình là đúng chân lý quả là việc dại khờ, có khi nào lấy một cái búa trong bóng để đập nát một viên đá thật được. Cũng thế, vọng tưởng là cái vô thường tạm bợ làm sao dùng nó suy ra một chân lý muôn đời. Chấp chặt những nghĩ tưởng mình là đúng chân lý, quả là phi lý rồi.
2/ Quán duyên sinh:
Si mê chấp thân này là thật, chúng ta hãy dùng trí tuệ đứng về mặt không gian xem xét coi có đúng hay không? Từ tinh cha huyết mẹ cộng với thần thức hoà hợp thành bào thai, khi ra khỏi lòng mẹ phải nhờ tứ đại bên ngoài nuôi dưỡng bồi bổ thân này mới sinh trưởng. Thế là do hoà hợp mà có thân, cũng do hoà hợp được sinh trưởng. Đã là duyên hợp thì không phải một thể, chỉ là hợp tướng từ duyên sinh. Như cái nhà là hợp tướng của nhiều duyên, trên hợp tướng ấy không có cái nào là chủ của cái nhà, cái nhà là giả tướng của nhiều duyên hợp lại. Nếu chúng ta chỉ cây cột cũng không phải cái nhà, cây kèo cũng không phải là cái nhà, cho đến tất cả không có cái nào là cái nhà. Cái nhà ấy là một giả tướng do duyên hợp, thân này cũng thế. Mọi sự duyên hợp đều hư giả, chúng ta tìm đâu cho ra lẽ thật của thân này. Trên cái không thật mà lầm chấp cho là thật quả thực si mê. Thấy rõ thân này duyên hợp không thực, là trí tuệ. Thấy thân này không thật rồi, còn gì tham lam nhiễm trước nơi thân. Đối với thân không tham nhiễm thì mọi nhu cầu của nó còn có nghĩa lý gì. Thấy thân đúng lẽ thật thì si mê tan tành tham sanh cũng theo đó biến hoại.
Đến như suy tư nghĩ tưởng thương ghét... trong tâm đều do sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà phát sinh. Bản thân của những tâm lý ấy không tự có, do căn trần thức hóa hợp mà sinh. Đã do duyên hợp thì không thật thể, cái không thật mà cố chấp là thật thực quá si mê. Dùng trí tuệ soi thấu những tâm tư theo duyên thay đổi đều là hư giả, chúng ta đã đập tan được cái si mê chấp ngả nơi nội tâm con người. biết rõ bao nhiêu thứ suy nghĩ tưởng tượng đều là ảo ảnh, còn gì chấp chặt cái nghĩ mình là đúng, cái tưởng mình là thật nữa. Do đó, chúng ta buông xả mọi vọng tưởng giả dối, sống một đời an lành trong cái mình làm của tâm tư.

KẾT LUẬN:
Tam độc là cội nguồn đau khổ của chúng sinh. Trừ diệt được nó chúng sinh sẽ hưởng một đời an vui hạnh phúc. Khổ vui vốn do chứa chấp tam độc hay tống khứ chúng đi, đây là căn bản của sự tu hành. 3 thứ độc này, si là chủ chốt, diệt được si thì 2 thứ kia tự hoại. Nhằm thẳng vào gốc ma đốn thì thân và cành đồng thời ngả theo. Vì thế, trong mười hai nhân duyên cái đầu là vô minh, muốn cắt đứt vòng mắc xích luân hồi của nhân duyên, chỉ nhắm thẳng vô minh, vô minh diệt thì hành diệt v.v.v. si độc là động cơ chính yếu của tam độc, chận đúng được si thì toàn thể tam độc đều dừng. Đức Phật thấy dược cội gốc của đau khổ và đầu nguồn của thoát khổ, nên ngài dạy Phật tử cứ theo cái gốc ấy mà trừ, người ứng dụng đúng như thế sẽ ít tốn công mà kết quả viên mãn. Si là gốc đau khổ cũng như vô minh là gốc luân hồi vì diệt tận gốc ấy, đức Phật dạy dùng cây búa trí tuệ đập tan nó hoặc thấp sáng ngọn đuốc trí tuệ phá tan màn đêm vô minh, bởi lẽ ấy đạo Phật là đạo giác ngộ chỉ có giác ngộ mới diệt tận cội rễ si mê, chỉ có mặt trời giác ngộ xuất hiện thì đêm tối vô minh mới hoàn toàn hết sạch. Diệt được tam độc của mình là tự cứu bản thân, cũng đã đem sự an ổn lại cho mọi người chung quanh. Một việc làm tự lợi _ lợi tha đầy đủ, tất cả Phật tử chúng ta phải tận lực cố gắng thực hiện kỳ được mới thôi. Được vật mới xứng đáng là người Phật tử chân chính.
TỪ BI
I - MỞ ĐỀ
Tình thương là nguồn an ủi vô biên của chúng sanh đang đau khổ,  là bể nước cam lồ mát ngọt để cho những người đang bị lửa trần gian thiêu đốt mặc tình nhảy ùm tắm gội. Song phải là tình thương hoàn toàn vị tha, không nhuốm một tí xíu mùi vị kỷ. Nếu là tình thương vị kỷ, chẳng những không làm vơi được nổi khổ của chúng sinh, trái lại còn dìm họ chìm sâu trong biển khổ. Tình thương vị tha là vô biên không giới hạn, tràn ngập mọi loài, chan hoà trong nhân loại. Người mang tình thương này ra chan rải cho chúng sinh, quả là một từ mẫu đang săn sóc đàn con dại. Bao nhiêu khổ đau, mọi đều ấp nạn vừa gặp tình thương này chúng đều tan biến. Cao cả thay! Quí báu thay! Đẹp đẽ thay! Những ai đã cưu mang ôm ấp tình thương vô bến hạn này.
II - ĐỊNH NGHĨA
Từ là ban vui. Bi là cứu khổ. Cứu khổ ban vui cho người gọi là từ bi. sự vui khổ của người xem như vui khổ của chính mình, chia vui sớt khổ cho nhau đấy là lòng từ bi. Vì thế, ban vui cứu khổ cho người mà không thấy ta là kẻ ban ơn, kia là kẻ thọ ơn. Tận tâm tận lực vì người, không có một niệm một mảy may vì mình, là từ bi. Đây mới thật là tình thương chân thật. Nếu có một điểm nhỏ xíu vì mình là không phải tình thương chân thật. Có vì mình mà thương người, chính đó là thương mình không phải thương người. một tình thương vì mình thì không phải là thương, bởi trái sở cầu của mình liền giận. Hoàn toàn vì người hoàn toàn cho người mới là tình thương vô biên không giới hạn. Tình mẹ thương con chưa hẳn là từ bi, vì con không nghe lời mẹ liền giận. Tình thương từ bi là tình thương đồng hóa khổ vui của người như của mình. Mình khổ càng kíp lo giải quyết cho hết khổ, mình không cần biết ơn mình, mình không kể ơn với mình. Cảm thông sự khổ vui của mọi người như thế, khởi tình thương ban vui cứu khổ là lòng từ bi. Cứu giúp để mong đền đáp là sự đổi chác không phải lòng từ bi. thương yêu để thoả mãn nhu cầu riêng của mình, là lợi dụng tình thương, không phải từ bi. mọi sự xót thương cứu giúp người không xen lẫn một ý vì mình thật là lòng từ bi.
III - MỚI TẬP TỪ BI
Muốn phát âm từ bi, chúng ta phải tập cảm thông sự khổ vui với mọi người. Thấy người khổ cảm như chúng ta chịu khổ, nỗi khổ của người xem như nổi khổ của chúng ta. Dùng mọi khả năng sẵn có dẹp khổ cho người cũng như tiêu diệt khổ của chính bản thân mình. Người hết khổ là chúng ta hết khổ, không cần đòi hỏi nào, ngoài sự hết khổ của người. Đã xem cái khổ của người như của mình, nên nhiệt tình sốt sắng cứu giúp mà không điều kiện. Người khỏi khổ là mình an vui, không có một hậu ý gì với người mình cứu giúp. Nếu có hậu ý, chỉ mong đem lại cho họ sự an vui vĩnh cửu. Thấy người vui cũng như mình được vui. Những cái vui của mình đã sẵn sàng chia sớt với người, bằng cách giải bày, bằng cách chia sẻ, bằng cách mong mỏi, chia sớt với nhau cùng được vui chung thật là hạnh phúc trên trần gian. Chỉ để một mình vui, ai sao mặc kệ, là kẻ ích kỷ xấu xa, chính họ không bao giờ thấy sự an vui chân thật. Chúng ta phải thấy cái vui của mình là cái vui của mọi người, cái vui của người chính là cái vui của mình. Cùng khổ cùng vui mới là tình thương chan hòa tràn ngập. Chỉ biết cái khổ vui riêng tư của mình là tự đóng khung trong một nhà giam riêng biệt, kẻ ấy suốt đời không bao giờ biết vui. Chúng ta trải lòng mình ra hòa nhịp với mọi con tim, chứa chan tình thương không bến hạn. Bởi cảm thông nhau trên nỗi khổ vui, chúng ta mới có nhiệt tình tích cực cùng sớt khổ chia vui. Mọi bức tường ngăn cách mỗi bản ngã con người, chúng ta mạnh dạn đạp đổ cho sự cảm thông không bị giới hạn. Thông cảm được sự khổ vui của mọi người, chúng ta bắt đầu phát tâm từ bi. Vì thế, mới tập từ bi là tập cảm thông.
Tuy nhiên lòng từ bi là không giới hạn, song mới tập từ bi phải phát xuất từ gần lan dần ra xa. Chúng ta tập cảm thông từ những người sống chung, thân thuộc với chúng ta, dần dần đến những người xa lạ bên ngoài, đó là trá hình từ bi, chớ chưa phải thực chất từ bi. Chúng ta phải tập lòng từ bi cho có căn bản, sự kết quả chắc chắn sẽ đúng như nguyện.
IV - ĐÃ TẬP TỪ BI
Lòng từ bi đã phát hiện nơi chúng ta, mọi sân hận tham lam theo đó tiêu diệt. Người từ bi không thể nổi nóng chửi đánh kẻ khác. Đã thấy sự đau khổ của người chính là đau khổ của mình. Chỉ thấy kẻ khác với mình không liên hệ nhau mới đành lòng làm họ khổ. Quả thật cảm thông được nổi khổ đau của người, lòng sân vừa dấy khởi liền tắt ngúm. Bởi nước từ bi tràn ngập thì không có lý do lửa sân nổi dậy. Lửa sân cháy hừng hực, chính là lúc nước từ bi đã khô cạn. Tự người gặp cảnh khổ, người có lòng từ bi còn không nở lấy mắt ngó, cần phải tìm đủ mọi cách để giải khổ cho người. Nếu khả năng chúng ta không thể giải cứu được, lòng vẫn xót xa đau đớn. Huống là, đích thân mình làm khổ cho người, lòng từ bi không cho phép dùng ngôn ngữ hành động làm khổ kẻ khác. Bao giờ chúng ta thích làm khổ mình, chừng đó mới vui vẻ làm khổ người. Gặp khổ chúng ta biết rầu buồn than thở, nỡ nào làm khổ kẻ khác cho đành. Kết quả đầu của lòng từ bi là diệt sạch sân hận của chính mình.
Người từ bi đâu đành tranh giành hơn thua được mất với người. Bởi kẻ được thì vui người mất phải khổ , giành giật nhau là làm khổ cho nhau. Lòng từ bi là cứu khổ, vô lý lại đi làm khổ người. Tham lam là thu góp, giành giật. Từ bi là ban bố cứu giúp. Mang lòng từ bi là mọi hành động có tính cách tranh đua giành giật không còn. Chính của mình còn đem ra ban bố cho người, không thể có giành giật của người về cho mình. Lòng từ bi với tham lam là 2 con sông chảy ngược. Có cái này thì không thể có cái kia. Lòng từ bi đi đến đâu thì đau khổ tan đến đấy, như ánh nắng soi đến đâu thì băng tuyết đều tan. Từ bi không dung đau khổ, dĩ nhiên từ bi không chứa chấp tham lam. Từ bi tràn lấn tham lam phải rã rời.
Với mọi lớp người trong mọi cảnh huống, chỉ một bề mang tình thương chân thật đến với họ. Không một hành động ngôn ngữ khiến cho họ phải phiền hà, thuần túy ban vui cứu khổ. Hành động như thế là thuận hạnh từ bi. Lòng từ bi này một bề thể hiện tình thương, chiều theo sở nguyện của người. Làm trái ý người là khiến họ đau khổ, thuận hạnh từ bi là không trái ý nguyện của chúng sinh.
Song tâm ý chúng sinh điên đảo, có cái khổ trá hình an vui họ lại thèm thuồng ưa muốn, người sẵn lòng từ bi, có khi cần đổi cái khổ nhỏ cho họ cái vui lớn, vẫn phải làm. Hoặc những chúng sinh ngỗ nghịch mãi tạo tội không chán người từ bi cần phải ngăn chặn bằng cách trừng trị dữ dằn. Hiện tướng dữ để điều phục đưa người về chỗ an vui, là nghịch hạnh từ bi. Hạnh từ bi này vừa mới trông như kẻ ác, nhưng mãi kia mới thấy rõ lòng từ. Người thể hiện hạnh từ bi này phải sáng suốt, thật là làm một việc khó làm. Dù thuận hay nghịch thì hạnh cũng là một nguồn ban vui cứu khổ. Bản chất từ bi là nhẹ nhàng mát mẻ, nên mọi chúng sinh bị nhiệt não gặp từ bi là đều được an lành.
V - CỨU CÁNH TỪ BI
Lòng từ bi được viên mãn khi nào mọi vọng thức không còn. Vì vọng thức chạy theo nghiệp phân biệt có yêu có ghét, khó mang tình thương chân thật bình đẳng lại cho chúng sinh. Khi nghiệp thức đã sạch, chỉ một tâm thể thênh thang bình đẳng bao trùm tất cả chúng sinh, không phân biệt ngã nhân bỉ thử, làm gì có thương ghét nảy sinh. Sống với tâm thể này chỉ tràn trề lênh láng một tình thương. Tình thương không phân biệt, không còn chủ khách đối đãi, bao dung không giới hạn, mới là tình thương chân thật hay viên mãn lòng từ bi. Còn thấy đối đãi là còn phân biệt, còn dụng công, mọi sự đối đãi đã tiêu dung, biết lấy đâu làm giới hạn. Cho nên ví lòng từ bi thênh thang như trời cao, bát ngát như bể cả. Từ bi trong chỗ không phân biệt không dụng công nên gọi là vô duyên từ.
VI - KẾT LUẬN
Từ bi là tình thương hoàn toàn bất vụ lợi. Bọn ác quỷ sân hận tham lam tật đố gặp từ bi đều chắp tay quỳ gối quy hàng. Có mặt từ bi ở đâu thì mọi khổ đau tan biến ở đó. Từ bi ngọt ngào như dòng sữa mẹ, từ bi mát nhẹ như dòng gió chiều thu, từ bi trong sáng như ánh trăng rằm, từ bi phát sinh muôn ngàn công đức như lòng đất phì nhiêu nuôi dưỡng vạn vật. Chúng ta tôn trọng kính mến những ai đã mang sẵn lòng từ bi, tán thán ca ngợi ai phát tâm từ bi, ước mơ mong mỏi ai sẽ học tập từ bi. Mọi người chúng ta gắng công khơi dậy dòng suối từ bi, để một ngày kia chảy tràn ngập trần gian đang nhiệt não. Hạnh phúc ở nhân gian nếu có, khi nào nguồn nước từ bi tràn về. Tất cả chúng ta đừng mong đấng nào cứu khổ, chỉ chắp tay cầu nguyện mọi người hãy phát tâm từ bi. Ngọn lửa khổ đau dập tắt, khi được trận mưa từ gội nhuần. Chân thành mong ước mọi người đều phát lòng từ bi.
KẾT LUẬN
Những vấn đề đã trình bày qua, chúng tôi cố gắng trong một khuôn khổ rất nhỏ hẹp, giống như việc “lấy thúng úp voi”, khó tránh khỏi lỗi khó hiểu và thiếu sót. Chúng tôi chỉ mong độc giả nhận được then chốt của mỗi vấn đề, cần đi sâu vài chi tiết, sẽ nhờ những quyển kinh sách khác, hoặc nhờ sự dắt dẫn của Tăng NI hay Thiện Hữu. Tóm lại then chốt thiết yếu có thể nói:
Phật là người đã giác ngộ và giải thoát sinh tử, đó là vị trí căn bản của Ngài. Chúng ta đừng xê dịch, đừng tô điểm, đừng ép buộc Ngài phải rời chỗ căn bản ấy.
Phật pháp là những lời giảng dạy chỉ ra lẽ thật: Lẽ thật trên hình tướng sự vật là nhân quả, lẽ thật trong sự cấu tạo kết hợp là duyên sinh, lẽ thật thầm lặng trong bản thể là chân không hay Phật tánh.
Học Phật là tiến bước trên con đường giác ngộï, là nhận hiểu phán xét những lẽ thật của Phật dạy, đem chỗ nhận hiểu ứng dụng vào cuộc sống của con người. Thực hiện được những điều này, cần nhờ cặp mắt trí tuệ sáng suốt mới thành công.
Tu Phật là ứng dụng những lẽ thật đã nhận xét vào cuộc sống hằng ngày của mình. Gỡ sạch mọi phiền não kiến chấp đang trói buộc khắn chặt trong tâm tư của chúng ta, đem lại sự an lạc ngay trong hiện tại và miên viễn ở vị lai. Chẳng những thế, tu Phật còn có nghĩa vượt ra ngoài vòng đối đãi sinh diệt, thoát khỏi mọi khuôn khổ hạn buộc, làm người tự do tự tại.
Với những điểm chủ yếu trên, chúng ta nhận thức chắc chắn sâu xa, là trong tay đã có sẵn ngọn đuốc sáng, trên con đường về quê ắt không đến nỗi lạc lầm. Giá trị của Phật pháp là biết để hành, không phải biết để nói. Thật hành sâu chừng nào, càng thấy giá trị Phật pháp cao chừng ấy. Biết để nói, là người trình bày đủ mọi thức ăn, mà bụng vẫn đói; là nhân viên phát ngân trong ngân hàng cả ngày đếm tiền, khi ra về chỉ hai tay không. Chúng tôi ước mong độc giả của quyển sách này không đến nỗi như thế.

MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM

1.      Nghĩ đến thân thể đừng cầu không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì dục vọng dễ sinh.
2.      Ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu xa nỗi dậy.
3.      Cứu xét tâm tính thì đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo.
4.      Xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.
5.      Việc làm đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành thì lòng khinh thường kiêu ngạo.
6.      Giao tiếp đừng cầu lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa.
7.      Với người thì đừng mong tất cả đều thuận theo ý mình, vì được thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu hãnh.
8.      Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân có ý mưu đồ.
9.      Thấy lợi đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì si mê phải động.
10. Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân quả chưa xả.

BỞI VẬY ĐỨC PHẬT DẠY

Lấy bệnh khổ làm thuốc thần.
Lấy hoạn nạn làm giải thoát.
Lấy khúc mắc làm thú vị.
Lấy ma quân làm bạn đạo.
Lấy khó khăn làm thích thú.
Lấy kẻ tệ bạc làm người giúp đõ.
Lấy người chống đối làm nơi giao du.
Coi thi ân như đôi dép bỏ.
Lấy sự xả lợi làm vinh hoa.
Lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh.
 
LUẬN BẢO VƯƠNG TAM MUỘI