HT Thanh Từ đã nói :
Bởi vậy tu thật là khổ sở. Tôi thấy đường lối tu của mình có lẽ bế tắc. Cho nên mỗi sáng mỗi tối tôi lạy Phật sám hối. Tôi sám hối đơn giản lắm, chỉ quì trước bàn thờ Phật khóc, nói: “Con nghiệp chướng sâu dày, nay xin thành tâm sám hối, xin Phật cho con nghiệp chướng tiêu trừ.” Tôi lạy khóc kể lể chớ không biết nói gì nữa. Thầy không có, bạn cũng không, đành chịu. Kinh sách mình nắm vững mà tu không được, tu tới đâu kẹt tới đó. Do đó tôi ráng lễ Phật sám hối. Trong vòng ba tháng thì một chuyện xảy ra, hư thực không thể lường. ( CN củng giống HT giai đoạn này , tu tới đâu mắc kẹt tới đó , khổ ghê )
Một đêm nọ, tôi ngủ mộng thấy đi vào một ngôi chùa rất cổ, có thể giống như chùa Trung Hoa hay chùa Phước Hậu hồi chưa sửa vậy. Tôi bước vô nhà Tổ thấy có hai vị. Vừa thấy, tôi liền biết đây là Tổ sư Huệ Khả, đây là Tổ sư Tăng Xán. Tổ Huệ Khả mặt hơi vuông, đầu tóc ngắn, còn Tổ Tăng Xán mặt tròn tóc dài như một tháng chưa cạo. Tôi thấy rõ, nhớ hình dáng tới bây giờ vẫn không quên. Tôi liền chạy kêu Trụ trì: “Hai Tổ ngồi trên này, Trụ trì đâu mà không trà nước gì hết?” Tôi vừa kêu thì hai vị đứng dậy bước ra rồi đi thẳng.
Giật mình thức dậy, tôi chắc mình cũng có duyên với chư Tổ, nhất là Tổ Huệ Khả. Bởi vậy thấy Tổ tôi nhớ rất rõ. Chùa Vĩnh Tràng ở Mỹ Tho có một tượng đội mũ ở ngoài, dáng đội mũ thì không giống Tổ, nhưng gương mặt vuông vuông rất giống.
Sau đó, tôi tiếp tục cố gắng sám hối và ngồi thiền, hết cái này đổi cái kia. Có hôm tôi đổi qua tu thoại đầu, cũng đắc lực lắm. Lúc đầu đặt câu hỏi: “trước khi cha mẹ chưa sanh mình là cái gì” rồi ngồi tu. Trước đây tôi có dịch cuốn Tham Thiền Yếu Chỉ của ngài Hư Vân nên nắm vững lắm. Tu như vậy đến một hôm đề không được nữa. Nó cứng như đá, như cây, kỳ cục lạ lùng! Rồi tôi cứ ngồi trơ trơ, đề thoại đầu mãi không lên. Quí vị thấy, thật là cay đắng! Cuối cùng tôi xả ra khóc, rồi lạy Phật chớ không biết làm sao!
Một đêm thứ hai tôi nằm mộng, thấy Tổ Huệ Khả hẳn hoi. Ngài lại nói một bài thơ, nghe không biết bài thơ gì mà câu chót là: “Không bình không trắc.” Rồi tôi giật mình thức dậy. Khuya buổi đó tôi ngồi thiền, ngẫm nghĩ tại sao “không bình không trắc”? Tôi ngồi yên, vừa đặt câu hỏi như vậy, tự nhiên sáng được lẽ đó. Sáng được lẽ đó rồi, tôi cười hoài ba ngày, không biết nói gì. Sau đó tôi đem các kinh sách trong Tạng ra đọc, nhất là cuốn Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự(*). Ngang đây tôi mới hiểu rõ những gì chư Tổ nói, thấy được lý Thiền tông.
Bởi vậy, khi mình quyết chí tu, dù hiện tại không gặp pháp tu thích hợp thì long thần hộ pháp cũng gia hộ trợ giúp. Với quyết tâm của mình, mọi việc làm đều có kết quả. Vậy nên tôi mới nói: Đừng than mình sống thời mạt pháp. Hãy nghĩ dù chúng ta ra đời gặp Phật mà tu lơ là, lôi thôi thì tuy là thời chánh pháp kết quả tu hành cũng giống như thời mạt pháp. Còn bây giờ là thời mạt pháp, nhưng nếu mình quyết tử để tu thì cũng có thể chuyển như thời chánh pháp không khác. Tôi cương quyết nói như vậy vì đó là điều tôi thấy rõ ràng.
Từ khi đọc cuốn Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự, tôi mới thấy rõ những gì Tổ chỉ và nắm vững được đường lối tu thiền. Chư Tổ chỉ dạy hết sức đầy đủ tại sao mình không biết tu! Giờ biết rồi không thể làm thinh tu một mình, nên tôi xả thất ra lập Thiền viện.