Sắc trẻ không dừng, dường như ngựa chạy
Mạng người vô thường, mau hơn nước dốc.
Ngày nay dầu còn, khó bảo đảm ngày mai.
Đại chúng! mỗi người nên nhứt tâm cần cầu tinh tấn: Chớ biến nhát trễ lười, phóng túng ngủ nghỉ; ban đêm phải nhiếp tâm niệm Phật tham thiền, chớ để thời gian luống qua vô ích mà sau nầy phải ăn năn…”Nhưng phàm muốn làm việc ǵ cho được lợi ích, chúng ta cần phải “biết làm”; ở đây muốn y chỉ lời dạy: “nhiếp tâm niệm Phật, tham thiền”, niệm Phật tham thiền”, lẽ tất nhiên chúng ta phải biết làm sao để “nhiếp tâm”, niệm Phật, tham thiền cho trúng cách đúng phương pháp, tức là biết cách “tọa thiền niệm Phật”. Văy trước khi học về phần thật hành, chúng ta nên hiểu sơ qua về mục đích của phương pháp Tọa thiền.
A) Mục-đích của phương-pháp tọa-Thiền
Tọa thiền là một phương pháp rất thông dụng chẳng những trong đạo Phật mà ở ngoài đạo cũng vẫn có từ xưa.
Tọa thiền nghĩa là ngồi để tham cứu một vấn đề ǵ. Thế nên tọa thiền không phải là một phương pháp chứng quả thành đạo, mà là một trong vô lượng phương tiện giúp cho thân được an, để cho tâm không loạn và được chánh niệm chánh quán. Ngoại đạo chỉ chú trọng nơi thân mà không để ư đến tâm, trong khi thật ra, tâm mới là phần chánh, đáng chú trọng hơn cả.
B) Phương-pháp Tọa-Thiền
Dưới đây là phần thực hành mà ngài Hòa Thượng Vạn Đức dạy với tất cả sự kinh nghiệm mà ngái đă thâu hoạch từ nhiều năm. Phần nầy chia làm ba: 1. Điều-thân Thân lúc nào cũng làm duyên trợ cho Tâm, thế cho nên nếu thân có những cữ động thô thiển, khí lực sôi nổi, và lẽ tất nhiên tâm ư sẽ phù động, do đó khó mà nhập định được. Cho nên trước khi Tọa thiền, cần phải điều ḥa thân trước nhất. Vậy phải điều ḥa thân bằng cách nào:
a. Phải điều-dưỡng sự ăn uống.
Sự ăn uống đối với thân rất hệ trọng, v́ thường bệnh phát sanh do nơi sự ăn uống. Có những thực vật hạp với cơ thể người này lại không hạp với người kia và trái lại; dầu sao, không nên dùng những thứ có dầu mỡ nhiều, tránh những chất hăng, kích thích thần kinh như café đậm, rượu, trà đăm, thuốc hút v.v… mà chỉ nên dùng những món ăn sơ sài trong sạch.
Trước giờ tọa thiền, không nên ăn quá no mà chỉ ăn vừa đủ, v́ nếu ăn quá no sẽ làm mệt dạ dày, ngồi không yên ổn. Không ăn chiều lẽ tất nhiên là thích hợp đặc biệt với việc tọa thiền niệm Phật
b) Y-phục
Trước khi tọa thiền phải tắm rửa cho thân thể được sạch sẽ để tránh khỏi sự ngứa ngẩm trong ḿnh.
Sau đó, tiết lạnh th́ mặc áo ấm, trời nóng th́ dùng y phục mỏng mảnh rộng rải và sạch sẽ.
Đai lưng (lưng quần) lúc nào cũng phải nới rộng ra.
Những điều trên đây giúp cho sự hô hấp dễ dàng và không bị lay chuyển v́ thời tiết.
c) Giữ thân cho được ngay thẳng và vững vàng
(Nghĩa là làm thế nào mà khi quên nó, nó không nghiên ngă hay lay động). Muốn được như vậy, chỉ có cách duy nhất là ngồi,v́ đi, đứng hay nằm không thể đạt được hai mục đích vừa nói trên.
Nhưng nếu ngồi mà tḥng hai chân xuống, th́ khi quên, thân lại không vững; hơn nữa lúc ở trong nhà, thất, có bàn ghế giường v.v…th́ không nói chi, nhưng khi ra ngoài vườn tược đồng ruộng hay đến núi rừng để tọa thiền, khó t́m ra chỗ ngồi có thể tḥng chân xuống được dễ dàng .
Thế nên chỉ có cách rút chơn xếp bằng lại là giúp cho chúng ta ngồi ngay thẳng và vững vàng mà thôi.
d) Cách ngồi
Có nhiều cách ngồi mà hành giả cần phải chọn lựa cho thích hợp với mình
Chân.
1. Toàn già (cũng gọi là kiết già hay Kim Cang tọa)
Gát bàn chân trái lên đùi bên mặt, gát bàn chân mặt lên đùi bên trái, gót hai bàn chân đều phải sát vào bụng.
2. Bán dà, có hai cách:
- Hàng ma tọa: gát bàn chân mặt trên đùi bên trái (như ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát) – Kiết tường tọa: gát bàn chân trái lên đùi bên mặt (như ngài Phổ Hiền Bồ tát).
-Trong ba cách ngồi, khi ngồi phải tập cho hai gối đồng sát xuống chiếu như nhau, hai mông cũng chịu đều như nhau th́ mạch máu không bị cấn tất không bị tê, cũng không nên dùng nệm quá dầy. Một điều nên để ư, là thường thường lúc ban sơ, khi vừa ngồi kiết già hay nghe một chân nặng một chân nhẹ. Để sửa chữa vào khuyết điểm đó, chỉ có cách là dùng hai tay chống xuống chỗ ngồi để nưng toàn thể thân lên và hạ bên chân hay mông nhẹ xuống trước, bên nặng xuống sau, đôi ba lần th́ hai chân hoặc hai mông sẽ đều, không c̣n cảm tưởng nặng nhẹ nữa.
Hai bàn tay để ngửa, bàn tay mặt th́ đặt lên trên bàn tay trái, vừa sát bụng và để nhẹ trên hai bàn chân, hai đầu ngón tay cái đâu lại(Tam muội ấn).
Phương pháp để bàn tay như vậy, theo Cổ Đức nói, làm cho điện lực trong thân lưu thông đều đặn, không biến thoát ra ngoài và giúp cho tâm dễ an ổn.
Lưng —Tay chơn đều đâu vào đó rồi, phải lay chuyển thân thể độ ba bốn lần cho nó được ung dung và phải giữ xương sống cho ngay thẳng, chẳng khác nào một cây cột đối với cái nhà. Nếu cột xiêu th́ nhà đổ vậy.
Đầu, cổ — Đầu và cổ cũng phải giữ cho ngay, nhưng không được ngước thẳng quá.
Mắt — Mắt hơi nhắm lại, để chỉ c̣n thấy tướng trắng hay sáng sáng bên ngoài thôi; đừng mở hẳn sẽ tán loạn; mà cũng đụng nhắm hẳn sẽ bị hôn trầm.
Miệng — Miệng phải ngậm lại, chót lưỡi để trên chưn răng hàm trên, răng phải để cho thong thả, đùng cắn cứng lại, nhờ đó hơi thở sẻ nhẹ nhàng.
2. Điều Tức
Khi thân đă nghiêm chỉnh rồi, lúc bấy giờ hành giả mới bắt đầu thở ra nhẹ nhàng nhưng cho dài, tâm nghĩ tất cả ô trược trong thân đều tựu theo không khí mà ra ngoài hết .Đến khi hít vô, cũng phải nhẹ nhàng và cho dài, nghĩ bao nhiêu cái chi thanh tịnh ở bên ngoài đều vào trong hết.
Làm như vậy được hai ba lần hay đến năm bảy lần nếu cần, cho trong thân được khoan khoái.
Sau đó phải giữ hơi thở nhẹ nhàng thong thả, suông êm, dài ngắn cho quân b́nh.
Nên để ư, khi điều ḥa hơi thở hành giả thường gặp hai lỗi sau đây.
a) Phong tướng. Tức là hơi thở ra hít vào, nghe có tiếng gió, do v́ thở quá mạnh.b) Suyển tướng, tức là tuy thở ra vào không nghe tiếng nhưng lại gấp rút hoặc rít sáp không thông.
Nếu khi ngồi tĩnh tọa mà thấy hai tướng trên đây, đó là triệu chứng tâm không được an định.
Nếu khéo điều nhiếp, dùng sổ tức thở ra hít vào thong thả, ít lâu sẽ thuần thục, tự nhiên hơi thở sẽ điều ḥa, huyết mạch được lưu thông, trong người sẽ được ung dung khoan khoái.
Thế nên điều ḥa hơi thở là một công phu rất hệ trọng đối với phép tịnh tọa.
3. Điều Tâm
Trước khi tọa thiền, hành giả có phát tâm trước, hoặc sổ tức, hoặc quán bất tịnh, hoặc niệm Phật v.v…
Nếu đă phát tâm niệm Phật, th́ hành giả phải nghĩ Ta bà ngũ trược, nhớp nhơ, là nguồn gốc của muôn ngàn thống khổ, nơi thân và hiện cảnh, phải làm thế nào thoát ly cho được, tức là phải yểm ly sanh tử nơi Ta bà mà cầu sanh về Cực Lạc.
Hành giả nhớ ngay đến cảnh Cực Lạc thuần vui không khổ, có đủ thắng duyên thắng cảnh trợ lực cho hành giả mau thành Phật quả quảng độ chúng sanh, — đến đức Phật A Mi Đà tướng hảo quang minh, lúc nào cũng duỗi ḷng từ tiếp dẫn chúng sanh về Lạc Quốc.
Lúc bấy giờ hành giả khởi niệm câu dài : “Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi tiếp dẫn Đạo Sư A Mi Đà Phật “ rồi lần lần thâu ngắn lại c̣n sáu chữ “Nam mô A Mi Đà Phật” hay bốn chữ:“A Mi Đà Phật” lúc đầu niệm lớn, sau niệm thầm để nhiếp tâm cho nó an trụ vào đó. Khi niệm ra tiếng hoặc thầm, đều cần phải gắng cho tiếng nổi rơ trong tâm chẩm răi, tâm ư nghe rơ từng tiếng từng chữ, tức là “Quán trí hiện tiền” nếu không, tâm sẽ tạp niệm (tán loạn) hay ngủ gục(hôn trầm).Nếu tán loạn, không rơ, lơ là, hay khi hôn trầm muốn đến hành giả phải cử tâm ngay bằng cách chú ư đến câu niệm Phật.
Có khi hành giả cố gắng kềm tâm, nhưng tâm vẫn chạy và nếu tâm vẫn chạy măi, th́ có cách phải niệm Phật và nghĩ ở đầu hai ngón tay cái, đầu hai ngón chơn cái hoặc nghĩ ở nơi cái rún mà niệm.
Làm như vậy thần kinh hệ sẽ hạ xuống, tức cái tâm sẽ hạ xuống mà bớt tán loạn.
Còn nếu bị hôn trầm, thì phải nghĩ ở đỉnh đầu hay ở trán mà niệm thì sẽ hết, với ý chí phấn khởi.
Hoặc hành giả có thể niệm theo phương pháp“Thập niệm kư số” Thập niệm kư số” là khi niệm Phật, phải ghi nhớ rành rẽ từ một đến mười câu, hết mười câu liền trở lại một, cứ như thế xoay vần măi. Nhưng phải niệm trong ṿng mười câu mà thôi, không được hai mươi hoặc ba mươi câu, lại không được lần chuỗi v́ dùng tâm ghi nhớ. Có thể phân làm hai đoạn từ một đến năm, từ sáu đến mười. Hoặc c̣n thấy kém sức lại chia làm ba hơi, từ một đến ba, bốn đến sáu, bảy đến mười.
Cần để ư: niệm nhớ và nghe phải rơ ràng, vọng niệm mới không xen vào được.
Dùng phép này lâu sẽ được nhứt tâm.
Điều tâm là pháp môn tu chủ chánh. Nếu có sự biến chuyển nơi thân, không nên để ư đến, mà phải chuyên ǵn chánh niệm.
c) Phương pháp giải tọa (xả thiền)
Khi xả thiền, hành giả làm ngược lại tất cả, nghĩa là trước hết phải xả nơi tâm, kế xả nơi tức và sau cùng mới xả thân.
1.Xả Tâm. – Hành giả phải nhớ lại coi hiện giờ ḿnh ngồi chổ nào , nảy giờ ḿnh làm ǵì, nhớ coi ḿnh có bị tán loạn hay hôn trầm không, và mặc dầu có hay không, cũng vẫn hồi hướng công đức về tây phương để trang nghiêm Tịnh độ.
2.Xả Tức. – Sau khi xả tâm xong, hành giả mở miệng thở ra vài hơi thật dài để cho khí nóng trong người giảm bớt và để hồi phục lại trạng thái b́nh thường như trước khi tỉnh tọa.
3. Xả Thân. – Tâm, tức điều xả xong, lúc bấy giờ hành giả se sẽ rao động nơi lưng và cổ, khi mạch lạc chạy đều, từ từ duổi hai tay ra, lấy hai bàn tay xoa nhè nhẹ với nhau, rồi xoa lên mắt, kế từ từ mở mắt. Sau đó uốn lưỡi một vài lần và nuốt chút nước miếng.
D) Những điều cần để tọa thiền có kết quả Hôn trầm, là một chướng trong việc tu thiền, thế nên thân phải bớt ngủ nghỉ. Phật dạy đầu hôm cuối đêm th́ tham thiền, nửa đêm th́ tụng kinh để tự tiêu tức, nhưng nếu ḿnh không kham nổi th́ nên bớt sự ngủ nghỉ. Ban đêm th́ chỉ nghỉ ba canh, từ 11 giờ đến 4 giờ sáng thôi, đó là lời dặn ḍ của Cổ đức vậy. C̣n nơi tâm th́ phải có sự điều nhiếp theo ba cách dưới đây: 1. Không niệm tham dục. 2. Không niệm sân hận. Nếu thực hành hai cách này mà không đắc lợi trên đường chánh định, hành giả phải kiểm điểm lại nơi tâm có sanh tội lỗi chi không, hằng ngày phải nói lời dịu dàng, ḥa nhă cho tâm lóng xuống, đối với người và vật, giữ tâm cho mát mẻ và luôn luôn nhẹ nhàng. 3. Ngoài giờ tĩnh toạ phải giữ câu niệm Phật không rời tâm. Tâm tương ứng với chánh định phát ra khinh an, trong thân sẽ thấy khoan khoái. Thân tâm hiệp nhứt, thân cảnh không hai, lúc bấy giờ hành giả ở trong định vắng lặng sẽ thấy thân tướng Phật, nghe Phật thuyết pháp và những cảnh giới nhiệm mầu không sao kể xiết… Đó chính là tướng niệm Phật thiện căn phát hiện do nơi công phu tọa thiền niệm Phật thành công vậy.
HT Thích Trí Tịnh
( Tài liệu nầy chính Hòa Thượng Trí Tinh đă dạy cho sinh viên Tăng, Ni và cư sĩ nam, nữ tại Đại Học Vạn hạnh.)
Nguồn: Giác Ngộ Online
0 comments:
Post a Comment