Thursday, October 14, 2010

Cách chữa bệnh ho lâu năm

Câu hỏi:
Tôi tên Thời Trần đã nhờ ông chỉ dẫn cách chữa bệnh ho. Ông đã cho tôi rất nhiều tài liệu nhưng vì tôi không có kiến thức về Đông y nên tôi không hiểu và không áp dụng được. Tôi rất cảm ơn Ông. Tôi xin Ông chỉ dạy giùm việc sau đây:
Tôi bị bệnh ho rất lâu, ho rất nhiều, tôi bị bệnh này từ lúc tôi bị đi cải tạo ở trong rừng sâu nước độc. Tối họ có nhiều đàm nhớt màu trắng, lúc nào cũng khạc ra đảm được sau cơn ho. Trong thời gian dài cải tạo trong rừng, không thể đi khám bệnh được, tôi xin người nhà gởi thuốc trụ sinh để chích nhưng chỉ đỡ ho nhưng không hết được bệnh. Hầu như là tôi ho suốt năm, trong 12 tháng hầu như không có tháng nào được khỏi bị họ. Những người đồng cảnh ngộ đặt tên tôi là “người ho dai dẳng”. Đến khi mãn cải tạo, tôi về nhà mà cũng không hết bệnh. Khi tôi sang đây cũng tiếp tục bị ho, trong 1 năm họa hoằn lắm mới được 3, 4 tháng là khỏi ho. Cứ ngửa cổ ho hoài và có đàm nhớt, khạc nhổ dính tòn ten. Bác sĩ ở đây cũng không trị được, chụp hình phổi thì nói là không có gì, không bị viêm hoặc bệnh nào của phổi. Rất khó chịu về bệnh này. Tôi thường xuyên sám hối trước Tam Bảo và nguyện xin gặp thầy, gặp thuốc hay để trị bệnh. Có lần khó chịu quá, ho lộn ruột và muốn ngất xỉu, tôi đi khám bệnh đột xuất thì gặp 1 bác sĩ mới thực tập tìm ra nguyên nhân là tôi bị Allergy nên cho tôi uống thuốc Allergy. Tôi khỏi bệnh được một thời gian, nhưng đến đầu mùa đông năm nay tôi cũng bị ho trở lại và ho đàm như những thời gian trước. Ai chỉ gì tôi cũng chữa theo mà không hết bệnh. Thời gian trước, có những Đạo hữu đã cho tôi đĩa của Ông dạy trị bịnh bằng những loại thuốc rẻ tiền và đĩa Ông dạy về khí công. Tôi nhờ người chủ chợ sang tận Chicago mới mua được giùm tôi 3 loại thuốc là Bát Vị Quế Phụ, Lý Trung Hoàn, Bách Hợp Cố Kim Hoàn, mỗi thứ 12 lọ, mỗi lo 200 viên. Xin Ông vui lòng chị dẫn giùm tôi cách uống như thế nào để tôi xử dụng cho đúng. Tôi có thể uống mỗi ngày cả 3 thứ được không? Tôi cũng bị tay chân lạnh vào mùa đông. Ngoài ra còn bệnh ăn uống khó tiêu, bụng hay bị sôi, thường bị xả hơi dưới (đánh giắm.)
Từ lúc tôi ăn gạo lứt muối mè thì bệnh sôi ruột và xả hơi dưới có bớt nhưng không hết hẳn. Riêng bệnh ho thì không hết dù tôi vẫn ăn gạo lứt muối mè. Tôi ăn kiêng và đơn giản không có nhiều món và ăn ít không ăn nhiều, lúc nào bao tử cũng trống một khoảng, không tham ăn nhiều và món ngon có huyết nhục để cho nhẹ bụng. Xin Ông vì lòng từ bi chỉ dạy tôi cách uống 3 loại thuốc trên. Tôi định tập cách vỗ tay 4 nhịp để hỗ trợ cho việc uống thuốc. Tôi không có phương tiện học khóa khí công. Tôi đã già và rất ít đi xa, ngay cả việc xử dụng máy vi tính cũng không biết. May nhờ đứa con gái chỉ cho tôi cách email nên tôi mới liên lạc được với Ông. Xin Ông thông cảm và hỷ xả cho tôi nếu có gì lầm lỗi cũng như đã làm phiền và mất thì giờ của Ông. Tôi xem trên đĩa DVD của Ông, tôi rất thán phục tinh thần sống đạo đức của Ông do đó tôi mới dám gọi email này đến Ông. NẾU THẾ GIỚI NÀY CÓ NHIỀU NGƯỜI CÓ TINH THẦN VỊ THA NHƯ ÔNG thì sẽ được an lành và hạnh phúc rất nhiều.
Trận trong kinh chào Ông và cảm ơn Ông nhiều.
Trần An Thới
Thầy Đỗ Đức Ngọc trả lời :
Thưa ông,
Ông bị phong hàn nên phối yếu, ăn uống không đầy đủ nên áp huyết thấp, sức đề kháng yếu nên bị ho lâu. Bệnh mãn tính cần chữa thời gian lâu.
Để tăng sức đề kháng, cần phải đo áp huyết hai cánh tay, nếu dưới 110/80mmHg mạch dưới 65 chân tay lạnh, phổi lạnh, thì phải uống thêm thuốc bổ máu sirop Đương Quy Tửu mua ở tiệm thuốc Bắc (Tankwe – Gin hay Tankwe – Gao) , dùng 2 muỗng canh pha với 1 ly nước nóng, uống trong bữa ăn, ngày 2 lần. Uống mỗi ngày 2 lần, đến bao giờ áp huyết lên 130/90mmHg mạch 70 – 80 thì ngưng.
Sáng ngậm trong miệng 30 viên Bách Hợp Cố Kim Hoàn, để bổ phổi, ngừa ung thư phổi. Uống đều trong 6 tháng.
Sau khi ăn cơm trưa, ngậm trong miệng 20 viên Lý Trung Hoàn, giúp tiêu hóa thu nạp chất bổ của thức ăn và tán đàm. Uống trong 6 tháng
Tối đi ngủ ngậm trong miệng 30 viên Bát Vị Quế Phụ để điều chỉnh áp huyết, tăng thân nhiệt, ấm chân tay, khi áp huyết lên 130/90mmHg mạch 70 – 80 thì ngưng.
Kiêng ăn thức ăn hàn, lạnh, như khổ qua (mướp đắng), cam chanh làm mất máu. Nên ăn chất gừng làm ấm bao tử, nếu bao tử lạnh, thức ăn biến thành đàm.
Chúc ông mau khỏi bệnh Có gì thắc mắc xin cứ email cho tôi. Ngày thứ năm tôi nghỉ vacances đến ngày 11/1/2010 mới liên lạc với ông tiếp tục.
Thân
doducngoc
o O o
Kính Ống,
Xin cám ơn sự chỉ dẫn của ông
Tôi tên Trần An Thới, năm nay tôi được 68 tưới, hiện cư ngụ tại thành phố Grand Rapids, tiểu bang Michigan USA. Tôi đã nhận được email của Ông chỉ dạy về tình trạng bệnh của tôi và cách xử dụng thuốc để trị bệnh. Những lời chỉ dẫn của Ông thật là rất quý báu cho chúng tôi. Ông đã nói trúng hết những bệnh của tôi do nguyên nhân nào đã gây ra. Khi đã biết được nguyên nhân thì việc chữa bệnh hầu như dễ dảng rất nhiều. Những lời chỉ dẫn của Ông rất tận tình và đến nơi đến chốn. Thật rất hiếm người có tấm lòng vị tha bác ai như Ông. Tấm lòng của Ông giống như những bậc tu hành chân chính hoặc giống như những vị Bồ Tát. Tôi đã áp dụng triệt để cách ngậm trong miệng 3 loại thuốc mà tôi đã có sẵn, còn loại thuốc ĐƯƠNG QUY TỬU [TANKWE - GÌN HAY TANKWE - GAO] tôi chưa gởi mua được vì phải nhờ chủ chợ Việt đi bỏ hàng ở Chicago mua giùm. Lần trước từ lúc gởi đến lúc có thuốc phải mất thời gian 3 tuần lễ. Xin Ông vui lòng cho biết loại thuốc bổ này những người ăn chay trường xử dụng cơ trở ngại gì không? . Nếu thứ thuốc này bào chế bằng các loại thảo mộc mà không pha lẫn với sinh mạng của loài vật thì thật quý vô cùng. Chúng tôi sẽ phổ biến để giúp những Tăng, Nỉ và cả những người tu tại gia đã phát tâm ăn chay dài hạn để trưởng dưỡng lòng từ bi. Khi thân thể được khỏe mạnh thì mặt tính thần cũng được sáng suốt và dễ tu hành hơn
Kính thưa Ông, hiện nay áp suất máu và tim mạch của tôi có chiều hướng tăng lên khi đã xử dụng 3 loại thuốc mà Ông đã chỉ dẫn, không còn quá thấp như lúc trước. Chứng bệnh ho của tôi cũng giảm dần. Tôi xin vâng lời Ông triệt để kiêng cứ những món ăn có tính cách quá âm hàn, khiến lạnh bụng và những trái cây thuộc loại chua khiến bị mất máu. Đồng thời trong những bữa ăn tối thường ăn thêm những lát gừng mỏng để ấm bao tử. Thức uống của tôi thường là trà già 3 năm [trà Bancha] hoặc nước gạo lứt rang.
Trước khi dứt lời, tôi xin chân thành cảm ơn Ông đã chỉ dạy cho tôi để chữa trị bệnh khổ về thân. Tôi thành kính dâng lên lời cầu chức thân tâm của Ông được thưởng an lạc, cuộc sống an lành và phúc hạnh, công hạnh giúp đời được sâu dầy, phước thọ của Ông được tăng trưởng như ý muốn.
Thầy Đỗ Đức Ngọc trả lời :
Xin cám ơn ông đã báo tin bệnh của ông đã thuyên giảm, đó là một khích lệ lớn cho thầy thuốc. Xin chúc ông mau khỏi bệnh. Dưới đây là thành phần và cách dùng thuốc cây cỏ đông y dược. Sirop Đương Quy Tửu, không có pha lẫn sinh mạng của loài vật, chư tăng ni có thể dùng được.
Những bệnh có thể uống được thuốc bổ máu Đương Quy Tửu (Tankwe gin)
Những bệnh thuộc hư chứng, tây xét xét nghiệm tìm không ra bệnh, nguyên nhân do thiếu khí huyết trầm trọng, áp huyết rất thấp dưới 90/65mmHg, mạch có thể nhanh hay chậm, dễ bị tây y chẩn đoán lầm thành bệnh thần kinh, bệnh si khờ, điên, mất trí nhớ, tê bại liệt, ung thư tử cung, ung thư bao tử, ung thư não, không đủ sức làm việc, hay mệt mỏi, chóng mặt hoa mắt, mắt tối xầm tự nhiên té ngã, chân tay yếu đi hay bị té ngã .Những triệu chứng đó tây y chữa ngọn dưới nhiều tên bệnh khác nhau, nhưng đông y chữa vào gốc bệnh thiếu khí huyết, cần phải bổ khí huyết, khi áp huyết lên được 120-130/75-85mmHg, mạch tim trở lại bình thường 70-80 là khỏi bệnh.
Ngoài phương pháp tập động công, tĩnh công thiền, đông y cho dùng thuốc bổ khí huyết gọi là Đương Quy Tửu những triệu chứng bệnh thuộc ngọn kể trên đều dứt hẳn
Thành phần :
Đương Quy (Angelicae sinensis)
Xuyên Khung (Rhizoma Chuanxiong)
Thục địa (Rehmanea)
Bạch Thược (Paeoniae Alba)
Đảng Sâm (Codonopsis Pilosulae)
Hoàng Kỳ (Astragali)
Phục Linh (Poria)
Cam Thảo (Glycyrrrhizae(Pyro)
Mật Ong (Honey)
Thân
doducngoc
o O o
Kinh
Ông, Tôi  đã nhận được những phương cách đây trị bệnh của Ông đã gởi tặng cho chúng tôi. Cách trị nào giống với bệnh chúng tôi thì chúng tôi sẽ áp dụng trị. Tôi xin lỗi Ông về email kỳ rồi tôi kể lể quá nhiều thành ra dư thừa và làm mất thì giờ của Ông.
Xin Ông vui lòng cho tôi hỏi thêm:
1/ – Áp huyết của tôi hiện nay đã lên sau thời gian 3 tháng dùng thuốc nên tôi ngừng uống Đương Quy Tửu và ngậm Bát Vị Quế Phụ vì sợ sẽ tăng áp huyết lên cao quá mức trung bình. Hiện tại tôi chỉ còn ngậm 2 loài Bách Hợp Cố Kim Hoàn (buổi sáng 30 viên) và Lý Trung Hoàn sau khi ăn cơm trưa [20 viên] , như vậy cần phải thêm số lần ngậm trong ngày?Xin Ông chỉ dạy.
2/ – Tôi đọc trong những cách trị mà Ông đã cho chúng tôi có đề cập đến “Bổ Trung Ích Khí Hoàn” là loại thuốc làm mạnh chức năng tỷ, vị, để chuyển hóa thức ăn thành chất bổ mà không biến thành đàm. Như vậy giữa 2 loại thuốc “Lý Trung Hoàn” và “Bổ Ích Khi Trung Hoàn” thứ nào tốt hơn, để tôi gởi mua trong kỳ mua thuốc sắp tới?
3/ – Tôi bị bệnh ho đàm của người lớn tuổi do phế thận hư hàn, đàm trắng lỏng ít, thường vướng cổ họng rất ngứa và khó chịu do thời tiết mùa đông ở đây quá lạnh và do đi làm trong hãng lạnh hơn 7 năm (nhiệt độ thường từ 0 độ đến 4 độ C). Tôi sẽ tập luyện như những lời Ông đã chỉ dẫn cho Thầy giáo Phương hỏi về cách trị bệnh ho kinh niên, chắc chắn là tốt cho tôi? .
Thỉnh thoảng có những đề tài trị bệnh mới, xin Ông vui lòng tiếp tục giúp chúng tôi để làm tài liệu phòng bệnh, trị bệnh và phổ biến. Chúng tôi cảm ơn Ông rất nhiều.
Trận trọng kinh chào Ông.
Thầy Đỗ Đức Ngọc trả lời :
1-Áp huyết ở cả hai tay của ông lên đến 130/80mmHg mạch 70-80 là tốt. Ngưng không dùng sirop bổ máu Đương Quy Tửu nữa. Còn tập bài động công Vỗ Tay 4 Nhịp 200 lần khi bàn tay ngón tay nóng ấm thì cũng không cần dùng đến Bát Vị Quế Phụ nữa.
2-Công dụng của Bổ Trung Ích Khí Hoàn là trị suy nhược co thể, huyết trắng, sa tử cung, tỳ vị suy yếu. Còn Lý Trung Hoàn : trị các chứng thương hàn, ỉa chảy, nhưng không khát nước, ói mửa, bụng đau, tay chân lạnh, cảm hàn. Như vậy Lý Trung Hoàn ngừa cảm lạnh chân tay lạnh nhiều hơn. Bổ Trung Ích Khí giúp mạnh tỳ vị.
3-Muốn vừa chữa ho hàn, bổ phổi, mạnh tỳ vị, tiêu đàm, chữa bằng hai cách :
a-Chữa ngọn bằng Nhị Trần Thang, công dụng chữa tỳ vị có đờm do thấp hàn, ra tiệm thuốc bắc hốt thuốc thang những thành phần sau :
Bán Hạ chế, Phục Linh, Trần Bì, mỗi thứ 8g. Chích Thảo 4g. Ô Mai nhục 1 trái. Gừng 7 lát.
Sắc 3 chén nước còn 0.8 phân, uống lúc đói. Uống 6 thang.
b-Ngừa bệnh và biến chứng bằng thuốc viên Lý Trung Hóa Đờm Hoàn : Trị Tỳ Vị hư hàn, đờm dãi ở trong dâng lên, ói mửa, ăn ít, đại tiện không bình thường, ho nhiều đờm, ăn không tiêu. Trước mỗi bữa ăn ngậm 20 viên.
c-Chữa gốc : Bổ phổi bằng Bách Hợp Cố Kim Hoàn. Sáng và tối mỗi lần ngậm 30 viên.
4-Khi người lạnh, áp huyết xuống, tập bài Đứng Hát Kéo Gối Lên Ngực 200 lần, sau đó ngậm miệng để giữ khí và nhiệt độ trong người, sẽ cảm thấy khỏe, người ấm nóng, áp huyết tăng.
Thân
doducngoc

Wednesday, October 13, 2010

Cuộc đời và đạo nghiệp của HT Tuyên Hóa -- MP3 rất hay và vui .

Tuesday, October 12, 2010

Mười Phương Pháp Tu Hành --- HT Tuyên Hóa

Đây là mười phương-pháp dạy trong kinh Hoa-Nghiêm, nơi phần Trị-Địa-Trụ ở phẩm Thập Trụ. Thật sự ra phương-pháp này không hạn cuộc nơi chư Tăng Ni, mà dành cho mọi người tu Bồ-Tát Hạnh, tại gia và xuất gia. Song nói rằng dành cho chư Tăng Ni là bởi chư Tăng Ni có điều kiện, nhân duyên thù thắng để thực hiện phương-pháp này. Đồng thời, sinh-hoạt của tăng chúng là sinh-hoạt hướng về sự giác-ngộ, phù-hợp hoàn-toàn với mười phương-pháp của kinh nêu ra. Phương-pháp ấy như sau:
1. Tụng tập đa văn
Tức là học hỏi sâu rộng Phật-Pháp. Học để biết rõ Phật-lý, chân lý. Học để tài bồi đức-hạnh. Do đó đối tượng của việc học là chân lý, đưa tới sự giải-thoát phiền-não, phá tan sự mê hoặc của bản ngã.
2. Hư nhàn tịch tịnh
Đây là thái-độ tự tại với đời. Nếu "đa văn" có nghĩa là chất chứa những tri-kiến, chuyện thị-phi của thế-gian, thì mình chắc chắn chiêu-cảm lấy đủ chuyện thị-phi, phiền-não ở đời; do đó mình sẽ kẹt trong vòng luẩn quẩn của "việc đời". Nếu "đa văn" có nghĩa là huân-tập chân lý trong kinh-điển, tiêu-hóa (internalize) đạo lý giải-thoát, thì mình sẽ trở nên tự tại. Bởi thế, hư nhàn tịch-tịnh là thái-độ vứt bỏ chuyện đời, chuyện hơn thua, tranh chấp, chuyện lợi lộc cho mình. Mọi thứ tính toán cho mình đều không phải là nhàn, là tịch.
3. Cận thiện tri thức
Nghĩa là gần gũi những bậc thầy có kiến-địa, giác-ngộ hay giải-thoát. Hoặc gần gũi những bậc thầy có trí-huệ và đạo-đức để dắt dẫn mình tu hành. Bậc thiện-tri-thức phải là bậc đi trước mình nhiều bước trên đường tu, do đó có thể khiến mình phát bồ-đề tâm, dạy mình trương dưỡng và thành-thục bồ-đề tâm; cứu giúp lúc mình gặp bế-tắc; chỉ bảo lúc mình còn đầy khuyết điểm. Do gần gũi thiện-tri-thức mình mới thành-tựu được đa văn, tức là nghe nhiều những lời chỉ dạy của bậc thầy.
4. Pháp ngôn hòa duyệt
Nghĩa là nói năng ôn-hoà vui-vẻ. Lời nói chỉ có thể ôn-hoà, duyệt-lạc khi mà tâm mình thật sự ôn-hoà. Do đó mình phải tập thái-độ không tranh: không tranh-chấp với ai; bất kỳ việc gì, hãy sẵn sàng nhận lỗi, chịu thua. Không đấu lý, không tự bào chửa. Khi tâm mình không thấy ai là kẻ thù, không có thành-kiến về ai cả, cũng không cho rằng mình hay mình giỏi, cách mình làm việc là độc nhất đúng đắn thì mình rất dễ tự tại, ôn-hoà. Nếu chú ý kỹ mình sẽ thấy có những lúc nhất định nào đó, mình hay thích lên giọng, cộc cằn. Những lúc ấy, trí-huệ hay tâm mình không còn khống-chế làm chủ lời nói nữa, bấy giờ thói quen hư xấu khống chế cái lưỡi mình. Bởi vậy, phải tập lắng nghe lời mình nói, quán-sát và chú ý từng lời, khiến lời không ngược lại với tinh-thần "Bất tranh".
5. Ngữ tất tri thời
Tức là nói cho đúng lúc. Cổ-nhân dạy rằng khi nói chuyện, hãy xem mặt đối phương. Nếu người ta tỏ thái-độ khó chịu, không muốn nghe, buồn-bực thì chớ nói nữa. Gặp lúc đối phương không chú ý, đang bận rộn, đang nói, thì chớ ngắt lời, chớ nói. Biết đối phương không thích, không muốn nghe một đề tài gì đó thì chớ đem nó ra nói, bàn luận. Biết đối phương không có thì giờ đàm luận, thì chớ giông dài. Việc vô-ích, vô nghiã, việc thế-tục thì người tu không nên nói. Người xuất gia nếu thích đàm luận chuyện thế-tục, chuyện tranh-chấp, lợi lộc riêng tư thì chỉ khiến người tại gia khinh thường và chỉ-trích. Chỉ nên nói những việc khiến người nghe phát khởi lòng tin, phát bồ-đề-tâm, hoặc giải-trừ được bế-tắc và phiền-não trong đời sống. Nên tập quán-sát thời-cơ, nhân-duyên rồi hãy phát biểu.
6. Tâm vô khiếp bố
Tức là tâm không sợ hãi , bố-úy. Không sợ hãi rằng pháp quá thâm sâu, mình không thể thọ nhận. Không bố-úy rằng pháp quá khó tu, mình không thể thực-hành. Khi tâm có hy-vọng, có mong cầu thì tâm ấy lúc nào cũng có bố-úy sợ hãi. Bởi vậy tập luyện tâm thái không khiếp-bố là tập luyện tính không cầu. Hễ được dạy pháp nào thì tu pháp ấy, không mong cầu quả báo, không nghĩ tới mình sẽ được lợi-ích gì.
7. Liễu đạt ư nghĩa
Tức là dùng trí-huệ tư-duy, giải đạt thâm nghiã. Đây không phải là hiểu bề ngoài, hay học thuộc làu. Liễu đạt nghiã-lý tức là thấy được sự thể hiện của nghiã-lý ấy trong cuộc sống. Ví như khi nghiên-cứu đoạn: "Thế-gian vô-thường, quốc độ nguy thuý..." mình cần phải thấy sự vô-thường ấy, không phải chỉ qua mặt chữ, lời văn, mà là qua trực-giác và sự cảm nhận thực tại cảnh vô-thường ở trần-gian.
8. Như pháp tu hành
Trong quá trình liễu đạt thâm nghiã, sẽ có những lúc mình không dùng suy nghĩ để hiểu rõ, cũng không thể dùng cảnh-giới bên ngoài để minh chứng, những lúc ấy, đòi hỏi mình phải dùng cảnh-giới thiền-định để giải đáp. Bởi vậy người tu cần phải "Như pháp tu hành" để phát triển năng-lực thấu hiểu chân-lý bén nhạy hơn khả-năng của đầu óc suy tư này. Như pháp có nghiã là làm đúng theo sự chỉ dẫn, đúng với chân-lý, đúng với giới-luật, hợp với đạo đức nhân nghiã. Khi tu không như pháp thì tức là tu không đúng theo lời thiện-tri-thức chỉ dạy, hoặc giả không phù hợp với tinh thần của kinh Phật, hoặc là tự mình sáng tác ra phương-pháp cách thức hoàn-toàn không theo một tiền-đề, hệ-thống hay quy củ, giới-luật nào cả. Có kẻ ở trong chúng nhưng tự mình làm ra vẽ khác biệt, lập dị; Khi không cùng tu, không hoà-đồng với đại-chúng, mình phải quan-sát, xem mình có tu như pháp hay chăng. Hễ như pháp tu hành thì không bao giờ có "cái mình", "cái tôi" đặc biệt "nổi" hơn kẻ khác cả.
9. Viễn ly ngu mê
Gốc ngu mê là ở lòng dục-vọng, phiền-não, chấp-trước. Khi tu mình hãy nhớ mục tiêu là dứt trừ những thứ ấy. Càng tu phải càng bớt phiền-não, bớt nóng giận, bớt cống cao, bớt dục-vọng. Do đó sẽ thêm sáng-suốt, nên Phật dạy phải "siêng tu giới, định, huệ để dứt trừ tham, sân. si". Phải để ý năm thứ mà dục-vọng thèm khát nhất: 1/ Tiền tài, vật chất, tivi, video. 2/ Sắc đẹp trai gái: cửa sắc dục mà không thoát được thì tu pháp môn cao siêu tới đâu cũng vô-ích, không thể giải-thoát. Kinh Lăng-Nghiêm dạy: "Dâm tâm không trừ, không thể thoát trần". 3/ Danh vọng, địa vị, tên tuổi: Mong được kẻ khác cung kính, trọng vọng cũng là hình-thức mê-muội vô cùng. 4/ Ăn uống: Thích ăn ngon, ăn sang cũng là một dục vọng đáng sợ; bởi vì thực dục chỉ là biến hoá từ sắc dục mà ra. 5/ Ngủ nghỉ: Hay nói đúng hơn là lòng ưa thích hưởng thụ, sung-sướng, làm biếng, ngồi không cho qua ngày. Khi lòng ưa thích này biến thành nghiện thì càng nguy hại hơn nữa, ví dụ như ngày nay nhiều người nghiền thuốc, rượu, bài bạc, chơi computer hay xem phim bộ, v.v.. Năm thứ trên đều cần phải lánh xa.
Nói về duyên của sự ngu mê thì có lẻ nên nói thêm về những thứ khiến mình nẩy sinh tà-kiến: 1/ Tivi, video với những chương-trình đầy dẫy bạo lực, dâm-dục, ô-nhiễm. 3/ Bạn xấu hay kẻ thiếu tri-kiến về chân-lý; Nếu người bạn có quá nhiều thói hư tật xấu thì khó thể giúp đở, gây ảnh hưởng tốt cho mình, mà mình nếu không đủ trí huệ và phương tiện, cũng không giúp đở gì y được.
10. An trụ bất động
Tâm chỉ bất động khi nào tâm an-trụ hay thấy được sự thật, chân-lý bất biến. Bởi vậy trong mọi chuyện, mọi việc, mình phải phát-triển con mắt biết thẩm-thấu sự thật hay chân-lý, gọi là Trạch-Pháp-Nhãn. Phải biết nhìn xuyên thủng hiện-tượng hay hình-tướng để biết đặng chân-lý. Khi ấy tâm mình lúc nào cũng an-định, dù ở bất cứ hoàn-cảnh trắc-trở, xáo-động nào đi chăng nữa. Khi tâm không còn bị tình-dục, phiền-não, vọng tưởng quấy nhiểu, thì lúc ấy tâm mới thật sự an-trụ bất động. Mười phương-pháp trên, đa số đều dùng trí-huệ để dẫn dắt, từ đó khởi thêm lòng đại bi thì mới tới được chỗ viên mãn. Song những phương-pháp trên, có thể nói, vô cùng thực tiển cho những ai sống trong tùng lâm: cứ tu tập theo chúng thì đường đạo ắt phải tiến-bộ.

Monday, October 11, 2010

CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN HẠNH PHÚC--- ĐỨC ĐẠT-LAI LẠT-MA

Bản gốc tiếng Anh: The compassion life - NXB: Wisdom Publications, Boston, 2001.
Bản tiếng Pháp: Les voies spirituelles du Bonheur - NXB: Presses du Châtelet, Paris, 2002
Hoang Phong Việt dịch
1
LỢI ÍCH CỦA TỪ BI
Hạnh phúc và Đạo Pháp
Kinh nghiệm sống của tôi chẳng có gì là phi thường, trái lại rất bình dị và thấm đượm tình người, đơn giản chỉ có thế thôi. Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật. Quê quán của tôi là một tỉnh lỵ Tây tạng mang tên Amdo, người dân nơi đây có tiếng  hay cáu kỉnh – đến độ mỗi khi có một người Tây tạng nào nổi xung thì thường bị gán cho là dân gốc Amdo ! Nhưng hôm nay, nếu đem so sánh tánh khí của tôi với lúc tôi còn mười lăm tuổi, thì quả thật là khác biệt rất nhiều. Ngày nay, cảm thấy bực dọc đối với tôi là chuyện hết sức hiếm hoi, và nếu như chuyện ấy có xảy ra đi nữa thì cũng chỉ thoáng qua. Sự tuyệt vời này giúp cho tôi luôn luôn hân hoan trong cuộc sống, chẳng qua đấy cũng là nhờ tôi biết tu học và luyện tập.
Trong kiếp sống này, tôi phải bỏ trốn quê hương và được sống còn đến hôm nay là hoàn toàn nhờ vào lòng nhân từ của kẻ khác. Tôi đã mất mẹ, các vị thầy và các vị giám hộ của tôi cũng vậy, trong số họ hầu hết đã qua đời. Mỗi khi nghĩ đến những thảm trạng đó, tất nhiên là tôi đau buồn. Nhưng những đau buồn đó không làm cho tôi điên đảo, vì những gương mặt thân yêu của những ngày xưa dù không còn nữa, nhưng những gương mặt mới lại hiện đến với tôi. Nhờ thế mà tôi vẫn hạnh phúc và giữ được tâm thức an bình. Theo tôi, thái độ biết đặt mọi thử thách trong một bối cảnh bao quát hơn là một đức tính kỳ diệu của bản tính con người. Theo quan điểm của tôi, sự kỳ diệu ấy bắt nguồn từ lòng từ bi và tình thương yêu.
Bản chất tự nhiên của con người
 Một số bạn bè nói với tôi rằng họ biết rõ những phẩm tính của tình thương và lòng từ bi, nhưng nếu phải đem ra ứng dụng vào thực tế thì quả thật họ không thể nào thực hiện được. Đối với họ, thế giới của chúng ta không phải là nơi mà những phẩm tính tuyệt vời ấy có thể đem đến bất cứ một ảnh hưởng hay một sức mạnh nào ; sự tức giận và hận thù đã ăn quá sâu vào lòng chúng ta từ lâu và sẽ còn khống chế nhân loại cho đến muôn đời.
Tôi không chia xẻ với họ quan điểm ấy. Chúng ta đây là những con người, và giống người của chúng ta hiện hữu trong hình dạng giống như thế này đã được khoảng chừng hơn một trăm nghìn năm. Tôi nghĩ rằng nếu như tâm thức chúng ta từ trước đến nay từng bị khống chế bởi nóng giận và hận thù, thì dân số thế giới lẽ ra phải giảm xuống thì mới đúng. Nhưng đâu phải thế ; dù chiến tranh triền miên, nhưng hành tinh này chưa bao giờ lại đông đảo đến thế. Theo quan điểm của tôi, sự kiện ấy chứng minh cho thấy tuy nóng giận và hung bạo lúc nào cũng xảy ra trên thế giới, nhưng tình thương và từ bi vẫn luôn luôn trội hơn nhiều. Nếu các cơ quan « truyền thông » thường xuyên đề cập đến những tin tức không hay, kể cả việc liên miên thông báo các thảm trạng, đấy chẳng qua vì các hành vi từ bi đã trở thành quá tự nhiên trong đời sống thường nhật, vì thế mà người ta không còn để ý đến nữa.
Chỉ cần quan sát bản chất con người trên một khía cạnh thật sơ đẳng, ta cũng sẽ nhận thấy bản chất đó mang đức tính hiền hoà nhiều hơn là hung hãn. Hãy lấy thí dụ trường hợp của xúc vật : những con thú hiền lành có cơ thể thích nghi với bản tính hiền lành, trong khi cơ thể của thú săn mồi lại khác hẳn, phù hợp với bản chất săn mồi của chúng. Con nai và con hổ có hình thù thật khác nhau. Khi đem so sánh cấu tạo cơ thể của ta và của chúng, ta sẽ thấy ta giống con nai hay con thỏ hơn là giống con hổ. Có phảỉ là răng của ta tương tợ với răng của con thỏ hay chăng ? Chắc chắn là ta không có răng nhọn như răng nanh của con hổ. Cả móng tay và móng chân nữa, cũng thế. Tôi không thể búng móng tay để gây ra thương tích cho một con chuột. Quả thật, nhờ vào trí thông minh, con người biết phát minh và sử dụng các loại dụng cụ và tìm ra nhiều phương cách để nâng cao sự sống, nhưng trên mặt cấu tạo cơ thể, đúng hơn con người phải thuộc vào loại sinh vật hiền lành.
Thật vậy, chúng ta là những sinh vật có lối sống xã hội. Thiếu tình thân ái, thiếu một nụ cười, sự sống quả là đáng buồn ; cô đơn là một thứ gì không chịu đựng nổi. Sự tương liên giữa con người là một quy luật tự nhiên – tức trong chiều hướng ta cần phải lệ thuộc vào kẻ khác để sống còn. Trong một số trường hợp, chỉ vì một vần đề nội tâm nào đó, ta nhìn những người chung quanh với đầy hận thù, và trong hoàn cảnh như thế ta sẽ không thể nào tìm thấy hạnh phúc và giữ cho tâm thức được an bình ? Qua những kinh nghiệm tự nhiên và sơ đẳng ta cũng có thể nhận thấy sự tương liên – trao đổi tình thương giữa con người với nhau – là chìa khoá của hạnh phúc.
Sự kiện đó càng trở nên rõ rệt hơn khi ta nhìn vào sự sinh hoạt cơ bản của ta. Muốn vượt lên trên mức độ thấp nhất là sự sống còn, ta cũng cần có một mái nhà, thức ăn, bạn đồng hành, thân hữu, một nguồn tài lợi nào đó, lòng quý mến của kẻ khác, v.v. Ta đâu có thể tự cung phụng lấy một mình những nhu cầu trên đây, ta bắt buộc phải dựa vào kẻ khác. Hãy tưởng tượng một người nào đó muốn sống một mình trong một nơi hẻo lánh không người ở : dù cho can trường đến đâu, sức khoẻ tốt đến đâu và trình độ học vấn cao cách mấy, người này cũng không thể tự hào cho mình đã đạt được hạnh phúc và cuộc sống sẽ được nẩy nở toàn vẹn trong những điều kiện cô đơn như thế. Thí dụ một người sống giữa chốn rừng sâu, trong một vùng bảo tồn thiên nhiên ở Phi châu chẳng hạn, một nơi chỉ toàn là thú vật, với trí thông minh và sự khôn ngoan hắn có thể trở thành một vị chúa tể rừng xanh, nhưng không hơn không kém. Thử hỏi hắn có bạn hữu hay không ? Hắn có cần đến một tên gọi hay không ? Nếu muốn trở thành một vị anh hùng thì hắn có thể thực hiện được không ? Nhất định là không, bởi vì chỉ có cách chung sống với nhiều người khác mới thực hiện được những gì vừa kể mà thôi.
Tuổi trẻ, sức khoẻ và sinh lực đôi khi đem đến cho ta cái cảm giác có thể tự lập, tự cường, giống như ta không cần đến bất cứ kẻ nào khác. Nhưng thật ra đấy chỉ là một ảo giác. Ngay ở cái tuổi tốt đẹp nhất trong cuộc đời, ta vẫn cần có bạn hữu, có phải thế chăng ? Lý do thật đơn giản, chỉ vì ta là con người. Cái sự thực đó lại càng rõ rệt hơn nữa khi về già. Đối với tôi đây, tôi đã sáu mươi ngoài và đã cảm thấy nhiều dấu hiệu già nua. Tôi thấy trên đầu có thêm nhiều tóc bạc, đôi khi đau đầu gối, ngồi xuống và đứng lên khó khăn. Với tuổi tác, ta lại càng lệ thuộc hơn vào sự chăm sóc của kẻ khác : chẳng qua đấy là phần nào thân phận của tất cả chúng ta.
Trên một khía cạnh nào đó, ít nhất ta cũng có thể bảo rằng kẻ khác chính là nguồn gốc đem đến hân hoan, hạnh phúc và giàu có cho ta, tuy vậy những điều đó không phải chỉ là hậu quả đơn giản của sự kiện tương liên giữa ta và kẻ khác trong đời sống thường nhật mà thôi. Trên thực tế, tất cả những những cảm nhận êm ái mà ta hằng ấp ủ, hoặc ta mong muốn sẽ thực hiện được, đều đòi hỏi phải có sự tương giao. Đấy là những gì thật hiển nhiên, và đồng thời cũng phù hợp với sự tu tập của một người Phật tử, vì kể cả những người đã đạt được các cấp bậc thực hiện thật cao trên đường tu tập cũng vậy, họ vẫn cần đến sự hổ trợ và tương tác lẫn nhau. Thật thế, trong một cấp bậc Giác ngộ hoàn hảo nhất, kể cả lòng tư bi của một vị Phật cũng không thể đương nhiên có thể hiển lộ nếu không có sự tương liên với kẻ khác : tức là những kẻ nhận lảnh những hành vi Giác ngộ ấy.
Ngay trong trường hợp đối với những người chỉ biết tìm cách thoả mãn các quyền lợi hoàn toàn ích kỷ – hạnh phúc, tiện nghi và những đòi hỏi cá nhân, mặc kệ sự an vui của kẻ khác –, tôi vẫn nhất định chủ trương họ cũng phải cần đến kẻ khác. Những hành vi tiêu cực cũng không thể thực hiện được nếu không có kẻ khác làm đối tượng để thực hiện. Thí dụ như muốn gian lận thì cũng phải có kẻ khác cho ta đánh lừa.
Tất cả những biến cố trong sự sống, tất cả lịch sử đều liên hệ đến số phận của kẻ khác, chặt chẽ đến đỗi nếu chỉ có một người đơn chiếc thì đừng nghĩ đến việc thực hiện được bất cứ  một điều gì. Vô số những sinh hoạt hằng ngày của con người, dù tích cực hay tiêu cực, đều không thể thực hiện được khi loại kẻ khác ra bên ngoài. Nhờ có kẻ khác ta mới làm ra đồng tiền, dù cho việc kiếm tiền là mục đích duy nhất của đời ta cũng vậy. Cũng thế, muốn dựng lên một người lừng danh hay muốn hạ bệ một kẻ nào đó, nhưng nếu ta đơn độc chỉ có một mình, thì dù có kêu gào thật to thì cũng chỉ có tiếng vang dội lại mà thôi. 
Sự tương liên là một quy luật tự nhiên và căn bản. Quy luật đó không những áp đặt cho những sinh vật tiến hoá sống thành xã hội như chúng ta đây ; mà các loài côn trùng, không tôn giáo, không luật pháp, không giáo dục cũng vậy, cũng nằm chung trong quy luật đó, nếu muốn sống còn chúng phải dựa vào sự nhận biết bẩm sinh giúp cho chúng biết tìm nhau để hợp tác và liên hệ với nhau. Trên một cấp bậc tinh tế và cao nhất, kể cả vật chất cũng tùy thuộc vào sự tương liên. Tất cả mọi hiện tượng, từ hành tinh mà chúng ta đang sống, cho đến các miền đại dương, những tầng mây trên trời, rừng sâu và hoa lá đang bao quanh ta, tất cả đều hiện hữu bằng cách liên đới với những hệ thống năng lực tinh tế. Thiếu sự tương tác thích nghi và cần thiết, tất cả những thứ vừa kể sẽ tan biến và tự hũy hoại.
Nhu cầu về tình thương
Câu hỏi lớn nhất nêu lên trong kinh nghiệm sống của chính ta – dù ý thức hay vô tình – là câu hỏi sau đây : ý nghĩa của sự sống là gì ? Tôi cho rằng mục đích của tất cả chúng ta trong sự sống là được hạnh phúc. Từ lúc chào đời, bất cứ một con người nào cũng tha thiết được hạnh phúc và tìm cách lẩn tránh khổ đau. Không một hoàn cảnh xã hội nào, không một nền giáo dục hay một hệ thống tư tưởng nào có thể làm thay đổi được mục tiêu đó. Chúng ta đều đi tìm sự thỏa mãn, xu hướng đó phát xuất từ nơi sâu kín nhất trong chúng ta. Tôi cũng không hiểu là cả vũ trụ này với vô số những vì sao, hành tinh và thiên hà có hàm chứa một ý nghĩa nào sâu xa hơn nữa hay chăng, nhưng ít ra chúng ta đây, những con người bình dị sinh sống trên địa cầu này, chúng ta đều có trọng trách tự tạo ra cho chúng ta một cuộc sống hạnh phúc.
Chúng ta không phải là những đồ vật sáng chế, cũng không phải đơn thuần chỉ là vật chất ; chúng ta có tình cảm và biết cảm nhận. Nếu như ta chỉ là những thực thể cơ khí, thì các máy móc khác có thể làm nhẹ bớt khổ đau cho ta và làm thỏa mãn các nhu cầu của ta. Nhưng những tiện nghi vật chất không hội đủ điều kiện để thực hiện việc ấy. Không có một vật gì, dù cho đẹp đẽ và quý giá đến đâu đi nữa, cũng không đủ sức giúp cho ta tím thấy cái cảm giác được kẻ khác yêu thương. Chúng ta cần đến một thứ gì đó sâu xa hơn mà tôi gọi đấy là tình yêu mến giữa con người. Nhờ vào tình thương mến đó, hay từ bi cũng thế, tất cả những tiện nghi vật chất mới có thể trở thành những đóng góp mang tính cách xây dựng. Thiếu tình yêu thương giữa con người với nhau, những tiện nghi vật chất đơn thuần không thể nào đem đến thỏa mãn, cũng không thể tạo ra cho ta một mảy may an bình trong tâm thức, hoặc đem đến bất cứ một thứ hạnh phúc nào khác.
Thực vậy, thiếu tình yêu thương giữa con người, ngay cả những tiến bộ vật chất cũng có thể biến thành những khó khăn làm nặng nề thêm cho sự sống. Nguồn gốc và bản chất của của chúng ta chứng minh cho thấy không có một con người nào sinh ra trong cõi đời này mà lại không cần đến tình thương. Ngược lại với chủ trương của một vài trào lưu tư tưởng hiện đại, người ta không thể nào đơn giản hoá con người thành một sinh vật đơn thuần thuần chỉ có vật chất.
Rốt lại, chính tình thương và lòng từ bi đã tạo ra những niềm phúc hạnh quan trọng nhất cho con người, cũng thật dễ hiểu vì đấy là nhu cầu sâu kín nhất của tất cả chúng ta. Nếu một cá nhân nào đó, bất kể là có năng khiếu gì và lanh lợi đến đâu, khi đã rơi vào cảnh cô đơn và bị kẻ khác bỏ quên, con người đó cũng không thể sống còn được. Dù cho ta có cảm thấy thừa sức và hoàn toàn tự cường trong suốt thời kỳ sung mãn của đời ta, nhưng đến khi đau ốm, già nua, cũng như trong khi còn non dại, ta vẫn phải trông cậy vào kẻ khác. Hãy quán xét cẩn thận xem tình thương và từ bi đã từng giúp đỡ cho ta biết bao nhiêu trong cuộc sống của chính ta.
Đối với vấn đề sáng tạo và tiến hoá của vũ trụ, dù cho các truyền thống tôn giáo có chủ trương khác nhau, nhưng tất cả chúng ta đều phải công nhận đã được cha mẹ sinh ra. Nói một cách bao quát hơn, sự tạo tác ra chúng ta không hẳn chỉ là hậu quả của dục tính, vì cha mẹ cũng dự phần quyết định sinh ra con cái. Sự quyết định đó dựa trên trách nhiệm và lòng bác ái – tức cha mẹ chấp nhận bổn phận chăm sóc con cái cho đến lúc biết tự lập. Vì thế ngay từ lúc khởi sự tác tạo ra chúng ta, tình thương yêu giữa cha mẹ đã góp phần trực tiếp vào sự hình thành đó.
Trong những dịp tiếp xúc với các nhà khoa học, nhất là những khảo cứu gia trong các lãnh vực Thần kinh học, tôi đã hiểu được là ngày nay người ta đã chứng minh cho thấy ngay trong lúc mang thai, tình trạng tâm thần của người mẹ – an bình hay dao động – sẽ tạo ra ảnh hưởng rất lớn đối với tình trạng thể chất và tinh thần của hài nhi trong bụng. Vì thế người mẹ phải giữ tâm thức thật an bình và thanh thản, điều ấy thật quan trọng. Sau khi sinh, những tuần lễ đầu tiên cũng giữ một vai trò quyết định cho sự nẩy nở của đứa bé. Người ta nói với tôi rằng một trong các yếu tố then chốt giúp cho bộ não đứa bé phát triển một cách lành mạnh và nhanh chóng là sự nâng niu của người mẹ. Nếu trong thời kỳ quyết định đó, đứa bé bị bỏ lây lất hay bị bỏ quên, không một ai dòm ngó đến nó, hậu quả về tâm lý sẽ rất tai hại.
Tình thương và sự chăm sóc là yếu tố chủ yếu trong suốt tuổi thơ của một con người. Khi một đứa bé sống với một người cởi mở và biết yêu thương, tự nhiên nó sẽ cảm thấy hạnh phúc và được che chở. Ngược lại, nếu làm cho nó phải gánh chịu đau đớn, sự sợ hãi sẽ xâm chiếm lấy nó và tạo ra những hậu quả tai hại cho sự nẩy nở. Ngày nay, rất nhiều trẻ con lớn lên trong các gia đình ly tán. Chúng thiếu hẳn tình thương, và rồi sau này có thể chúng sẽ không còn biết yêu thương cha mẹ nữa, và đồng thời chúng cũng mất hết khả năng yêu thương kẻ khác. Quả thật đấy là điều hết sức đau buồn.
Khi đứa bé lớn lên và đi học, nó cũng phải được thầy cô giúp đỡ. Nếu một người mang trọng trách giáo dục, ngoài bổn phận giáo huấn về kiến thức họ còn phải biết ý thức bổn phận dìu dắt đứa bé bước chân vào đời, làm được như thế thì người ấy mới thực sự là một người đáng tin tưởng và kính trọng, bởi vì những gì mà họ trao cho đứa bé sẽ in đậm trong tâm thức nó và sẽ không bao giờ phai mờ. Trong trường hợp ngược lại, nếu thầy cô không thật sự quan tâm đến tương lai của đứa bé, thì những môn học mà họ giảng dạy sẽ trở thành phụ thuộc và không lưu lại lâu bền trong trí nhớ của đứa bé sau này.
Cũng thế, trong một bịnh viện, nếu được một vị y sĩ tận tình chăm sóc, bịnh nhân sẽ cảm thấy yên tâm. Sự quyết tâm của người y sĩ làm tất cả những gì có thể làm được để chăm sóc cho bịnh nhân đã là một liều thuốc điều trị rồi, dù trên phương diện chuyên môn, người đó có phải là một vị thầy giỏi hay không. Ngược lại, nếu một vị y sĩ lạnh lùng, không tỏ lộ một chút tình người nào cả, lúc nào cũng khô khan, hấp tấp hoặc thiếu sự sốt sắng, thì dù cho vị ấy là một lương y uy tín, chẩn bịnh đúng và chữa trị giỏi đi nữa, người bịnh vẫn lo âu. Dù sao đi nữa, tình trạng tinh thần của người bịnh cũng giữ một vai trò quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến kết quả trị liệu.
Ngay trong sự tiếp xúc thường nhật, nếu một người nào đó biết ăn nói đầm ấm, cuộc đối thoại sẽ thú vị hơn, dù cho chủ đề chẳng có gì là lý thú. Ngược lại, nếu một người ăn nói lạnh lùng hoặc hung hãn, ta sẽ cảm thấy khó chịu và muốn cho câu chuyện sớm chấm dứt. Trước một sự kiện dù tầm thường hay những biến cố thật quan trọng, cảm giác được kẻ khác yêu thương thật cần thiết để đem lại hạnh phúc cho ta.
Gần đây, một nhóm khảo cứu gia Hoa kỳ cho tôi biết là trên quê hương họ con số người mang bịnh tâm thần rất cao, vào khoảng mười hai phần trăm dân số. Hình như những hội chứng trầm cảm không phải là hậu quả của sự thiếu thốn vật chất, mà đúng hơn là những chướng ngại cản trở sự trao đổi và đón nhận tình thương yêu.
Dù cho không hoàn toàn ý thức đi nữa, ta vẫn nhận thấy nhu cầu về tình thương giữa con người đã nằm sẳn trong gien từ lúc mới sinh ra đời. Tình yêu thương đó có thể phát sinh từ một con vật và cũng có thể phát sinh từ một con người mà thói thường ta vẫn xem như kẻ thù, tình thương yêu ấy thu hút một cách tự nhiên tất cả mọi người, từ một đứa bé cho đến những kẻ đã trưởng thành.
Nguồn gốc sâu xa của sự thành công
Chúng ta đây là những con người, chúng ta đều có khả năng tìm thấy hạnh phúc và biết yêu thương, nhưng cũng có những loại tiềm năng có thể biến ta thành một kẻ bất hạnh và nguy hại cho kẻ khác. Những loại tiềm năng như thế đều hàm chứa trong mỗi con người. Muốn được hạnh phúc, cần phải phát huy những khía cạnh tích cực và hữu ích và đồng thời giới hạn những khía cạnh tiêu cực. Những hành vi tiêu cực, chẳng hạn như trộm cắp hay nói dối, đôi khi có vẻ như tạo được thoả mãn tức khắc, nhưng lâu dài sẽ đem đến khổ đau. Các hành vi tích cực, trái lại sẽ luôn luôn đem đến một sức mạnh nội tâm quan trọng. Nhờ vào sức mạnh nội tâm, ta sẽ bớt sợ hãi và tự tin hơn ; nhờ thế ta mới có thể quan tâm đến kẻ khác một cách dễ dàng hơn, có thể vượt qua biên giới của tôn giáo, văn hoá hay bất cứ những khó khăn nào khác. Vì thế thật quan trọng phải quan sát và phân tích cẩn thận những tiềm năng sâu kín trong ta, vì nó có thể tạo ra điều thiện và cả điều xấu. 
Tôi gọi thái độ trên đây là cách khơi động tình người. Tôi luôn luôn quan tâm chủ trương tìm hiểu những giá trị căn bản nơi mỗi con người, chẳng hạn như lòng từ bi, quan tâm đến kẻ khác và sự tự nguyện. Dù theo tôn giáo nào, dù hữu thần hay vô thần, nhưng nếu thiếu những giá trị vừa kể ta sẽ không thể nào tìm thấy hạnh phúc được.
Ta thử phân tích những lợi ích của từ bi và tình thương yêu trong đời sống thường nhật xem sao. Chẳng hạn, khi mới thức giậy, ta cảm thấy khoan khoái, tinh thần vui vẻ và thoả mãn, cánh cửa nội tâm sẽ mở rộng giúp ta đưa tay đón lấy một ngày đang hiện ra trước mặt. Trong ngày hôm ấy, nếu như ta có gặp một người mà ta không thích, ta vẫn đủ sức để nói lên một lời thân thiện với kẻ đó. Tiếp theo đấy, biết đâu ta cũng có thể đàm thoại với họ, tuy rằng trước đây ta vẫn xem họ là một người khó thương, để rồi cả hai bên cùng trao đổi với nhau những quan điểm thật ích lợi. Khi ta tạo được một bầu không khí tích cực và thân thiện, sự sợ hãi và bất an tự nhiên sẽ biến mất giữa họ và ta. Đó là phương cách khá dễ để có thêm bạn bè và để nhìn thấy những nụ cười mới mẻ hiện ra với ta.
Nhưng nếu trong một ngày nào đó mà ta cảm thấy bực bội và cáu kỉnh, cánh cửa nội tâm sẽ tự động khép lại trong ta. Với tâm trạng này, dù cho gặp lại một người bạn thân thiết nhất đi nữa, ta vẫn cảm thấy thiếu thoải mái và căng thẳng. Các thí dụ trên đây cho thấy những thái độ bên trong của ta đã nắm giữ vai trò quyết định ảnh hưởng đến những cảm nhận hằng ngày trong cuộc sống. Để có đủ sức mạnh giúp tạo ra những xúc cảm an vui cho chính bản thân ta, cho gia đình và cả tập thể những người chung quanh, ta cần phải ý thức rằng nguồn gốc sâu xa của sức mạnh đó nằm sẳn trong mỗi cá nhân, tức trong mỗi con người chúng ta – ấy là tình thân ái, lòng từ bi và tình người. 
Không phải từ bi chỉ đem đến lợi ích trên mặt tâm thức mà còn giúp cho thân xác được khoẻ mạnh. Theo nền y khoa tân tiến ngày nay, và cũng dựa vào kinh nghiệm của bản thân tôi, sự thăng bằng của tâm thức và sức khoẻ luôn luôn đi đôi với nhau. Thật rõ ràng, sự giận dữ và những dao động trong tâm thức làm cho ta dễ ốm đau, ngược lại khi tâm thức an bình và hướng về những điều tích cực, thân xác sẽ khó bị bịnh tật hơn. Điều ấy chứng minh cho thấy phần thân xác là nơi tiếp nhận tình người và cả sự an bình xuất phát từ nơi tâm thức.
Đồng thời tôi cũng tin rằng, khi ta chỉ biết nghĩ duy nhất đến bản thân mình, thì cái nhìn của ta về mọi sự vật chung quanh cũng sẽ trở nên hẹp hòi. Và vì lẽ đó, những buồn phiền nhỏ nhặt cũng hoá thành trọng đại, tạo ra lo sợ và bất an, giống như bị tràn ngập bởi mọi thứ bất hạnh. Ngược lại, khi biết nghĩ đến kẻ khác và tìm cách giúp đỡ họ, sự quán nhận của ta về thực tại sẽ trở nên bao quát hơn. Khi mở rộng tầm nhìn, những vấn đề cá nhân sẽ mất đi tầm quan trọng, và điều đó sẽ làm thay đổi tất cả.
Khi âu lo cho kẻ khác, sức mạnh nội tâm sẽ toả rộng trong ta, dù cho ta đang phải bận tâm đối đầu với những khó khăn hay những vấn đề riêng tư khác. Nhờ vào sức mạnh nội tâm ấy, buồn phiền của riêng ta sẽ trở nên kém quan trọng và không còn ám ảnh ta nữa. Nếu biết vượt lên trên những vấn đề cá nhân để quan tâm đến kẻ khác, ta sẽ vững vàng hơn trên mặt đạo đức, sẽ cảm thấy tin tưởng, can đảm, và an bình hơn. Điều đó chứng minh cho thấy cách thức suy tư đã tạo ra ảnh hưởng quan trọng như thế nào.
Khi ta thật sự hành động vì sự an vui của chúng sinh, quyền lợi và những mong ước cá nhân của ta cũng sẽ theo đó mà thành tựu, giống như những sản phẩm phụ thuộc phát sinh một cách tự nhiên. Trong tập sách « Đại luận về con đường đưa đến Giác ngộ », vị Lạt-ma Tông Khách Ba (Tsongkapa), một vị thầy lừng danh trong thế kỷ XV, đã viết như sau « Khi một người tu tập biết hành động và suy tư thật mạnh về sự an vui của kẻ khác, họ sẽ nhìn thấy những nguyện vọng của mình tự nhiên được thành tựu, giống như những sản phẩm phụ thuộc sinh ra một cách đương nhiên, không cần đến một cố gắng nào cả ». Một số quý vị có lẽ đã từng nghe tôi nói đến điều sau đây, vì tôi vẫn thường nhắc đi nhắc lại điều này, theo một ý nghĩa nào đó, người ta có thể nói rằng những người Bồ-tát, tức những vị tu tập Đạo Pháp bằng từ bi, là những người « ích kỷ một cách hết sức khôn ngoan », trong khi đó chúng ta lại cư xử giống như những người « ích kỷ một cách vô cùng đần độn ». Nếu chỉ biết nghĩ đến chính mình, bất chấp sự thiệt thòi của kẻ khác, chúng ta sẽ không tìm được hạnh phúc và sẽ sống trong bất an. 
Nhân ái và yêu thương còn có những lợi ích khác nữa, tuy rằng những lợi ích ấy không dễ cho ta nhận thấy ngay. Tu tập Phật giáo nhắm vào rất nhiều mục đích, một trong những mục ích ấy là được tái sinh thuận lợi trong kiếp sau. Mục đích này chỉ có thể thực hiện được khi nào ta biết tự giữ gìn không làm hại đến kẻ khác và đồng thời biết mở rộng lòng vị tha và nhân từ. Thật là hiển nhiên, trong số sáu giáo pháp Ba-la-mật là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định và trí tuệ, người Bồ-tát phải đặt trọng tâm vào sự giúp đỡ và ân cần với những người chung quanh.
Vì thế, yêu thương và hơi ấm trong tim ta là những đức tính sâu kín giúp đem đến thành công trong sự sống, sự thăng tiến trên đường tu tập để đưa đến mục đích tối hậu : sự Giác ngộ. Vì thế từ bi và yêu thương bao giờ cũng quan trọng, từ lúc mới bước chân vào đời, trong giữa cuộc sống hay đến lúc phải nằm xuống. Những đòi hỏi đó và những giá trị đó không giới hạn trong bất cứ một giai đoạn nào, một địa danh nào, một xã hội nào hay một nền văn hoá nhất định nào.
Chúng ta chẳng những cần đến từ bi và tình yêu thương giữa con người với nhau để sống còn, mà những phẩm tính đó còn đem đến cho ta thành công trong cuộc sống. Thái độ ích kỷ, không những sẽ tạo ra nhiều điều bất hạnh cho kẻ khác mà còn ngăn cản không cho ta tìm thấy hạnh phúc mà ta hằng mong ước. Đã đến lúc ta cần phải suy nghĩ về những điều trên đây và chọn lấy một thái độ thích nghi, có đúng vậy hay chăng ? Dù sao đi nữa, đấy cũng là niềm tin của riêng tôi.
http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-81_4-4024_5-50_6-1_17-4_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark