Friday, November 5, 2010

OÁN HẬN NÊN GIẢI KHÔNG NÊN KẾT

Hôm nay là ngày nghỉ, quý Phật tử trong đạo tràng thay vì đi chơi hay ở nhà dưỡng sức, ngược lại quý vị dành hết thời gian đến thiền viện đông đủ vừa tu học, nghe pháp để huân tập thêm chủng tử giải thoát, đó là điều rất quí. Quý thầy nhắc nhở thêm một đề tài rất gần gũi với việc tu tập trong cuộc sống chúng ta, đó là “Oán Hận Nên Giải Không Nên Kết”, tức là hận thù nên mở không nên buộc.
Trước tiên, dẫn câu kinh Pháp Cú, Phật dạy:
                    Hận thù diệt hận thù
                    Đời này không có được.
                    Không hận, diệt hận thù
                    Là định luật ngàn thu.
Tức là đem hận thù diệt hận thù hay lấy oán trả oán thì oán càng thêm. Còn không đem oán trả oán thì đó mới là định luật ngàn thu. Bài kệ này có liên quan đến tích chuyện, chắc quí Phật tử cũng có nghe.
Ngày xưa có một đứa con trai, cha chết sớm nên luôn hiếu thảo chăm sóc mẹ. Bà mẹ thương con nhọc nhằn định cưới vợ cho con. Nhưng anh từ chối, nói: “Con nguyện ở vậy để chăm sóc mẹ già, nếu có thêm vợ thì tình thương này bị chia sớt”. Người mẹ thấy con mình hiếu thảo nên thương nói tới nói lui hoài, cuối cùng anh cũng bằng lòng.
Bà cưới vợ cho con trai, nhưng cô nàyï không sinh con được. Vì nôn nóng bà muốn cưới vợ nhỏ cho con, nhưng anh từ chối không chịu nên bà nói đi nói lại nhiều lần, cô vợ nghe được và nghĩ: “Trước sau gì mẹ cũng cưới thêm vợ nhỏ, nếu bây giờ mình chủ động cưới vợ nhỏ cho chồng thì hay hơn”. Cô mới tìm trong xóm và cưới về một cô vợ trẻ cho chồng, nhưng lòng rất lo sợ.
Cô nghĩ: Về sau, nếu cô vợ nhỏ có con thì quyền trong nhà nắm hết, mình sẽ mất quyền hành. Nghĩ thế rồi, cô ân cần dặn vợ nhỏ: “Khi nào em có thai thì nói cho chị biết trước để chị mừng”. Cô vợ sau còn trẻ thật thà khi hay mình có thai liền báo ngay cho vợ cả. Vợ cả lén bỏ thuốc phá thai vào thức ăn khiến vợ nhỏ bị hư thai.
Hai lần như vậy. Mấy chị em bạn của cô vợ sau nghi ngờ và tìm hỏi rồi trách cô vợ nhỏ thật thà quá. Lại dặn: Lần sau đừng nên cho cô kia biết.
Đến lần thứ ba mang thai, cô không cho vợ cả biết. Nhưng cái thai dần dần lớn, cô vợ cả thấy tức mình quyết tìm cách phá thai. Vì cái thai quá lớn làm ảnh hưởng đến người mẹ, khiến cô vợ sau chết luôn. Trước khi chết, cô này biết nên oán hận, thề kiếp sau sẽ làm Dạ xoa ăn thịt kẻ thù rửa hận.
Cô chết đầu thai làm con mèo trong nhà đó. Còn người vợ cả bị anh chồng biết được chưởi mắng, nên giận tức thành bệnh rồi cũng chết luôn. Người vợ cả chết rồi sanh làm con gà mái cũng trong nhà đó. Cứ mỗi lần con gà mái đẻ trứng thì bị con mèo ăn hết trứng. Đến lần thứ ba thì ăn luôn con gà mái.
Đây là nhân quả, là oan trái. Con gà mẹ này trước khi chết cũng oán hận thề hẹn kiếp sau sẽ đòi nợ. Gà mái này chết sanh làm con beo, còn con mèo không bao lâu cũng chết sanh làm con nai cái. Mỗi lần con nai cái sanh con thì bị con beo ăn thịt. Đến lần thứ ba thì ăn luôn con nai mẹ.
Bấy giờ con nai mẹ cũng thề kiếp sau sẽ trả thù nữa. Nai mẹ chết sanh làm Dạ xoa, còn con Beo chết sanh làm cô gái thuộc dòng tôn quí ở thành Xá Vệ gần tinh xá Kỳ Hoàn.
Khi cô gái lớn lên lập gia đình sanh được đứa con đầu lòng thì Dạ xoa tìm đến. Do có thần thông nên nó biến làm một người chị em bạn giả vờ đến thăm hỏi rồi bảo đưa đứa bé cho nó ẵm bồng và bắt ăn luôn.
Lần thứ hai cũng vậy, đến lần thứ ba thì cô này biết nên bàn với chồng định trốn về nhà cha mẹ mình ở.
Lần này nữ Dạ xoa lại bị Tỳ Sa Môn Thiên Vương, một trong Tứ Thiên Vương bắt đi làm việc. Khi xong việc về mới biết cô kia đã sanh xong và trốn đi nơi khác.
Nó vội vã đi tìm kiếm. Lúc đó nhằm ngày đặt tên cho đứa bé. Hai vợ chồng thấy con cũng lớn nên bàn nhau dắt về nhà cũ, nghĩ đã thoát nạn rồi. Khi đi ngang qua hồ nơi tinh xá Kỳ Hoàn, khí trời nóng nực cô mới trao con cho chồng rồi xuống tắm. Tắm xong, cô lên ẵm con thay để chồng xuống tắm. Bỗng cô thấy nữ Dạ xoa chạy tới, hoảng hốt kêu chồng cứu giúp nhưng không kịp.
Cô bồng đứa bé chạy thẳng vào tinh xá Kỳ Hoàn. Lúc đó Phật đang thuyết pháp. Cô liền đặt đứa bé xuống chân Phật xin Ngài cứu cho. Vừa lúc, nữ Dạ xoa chạy tới cổng tinh xá nhưng không vào được. Quý vị biết sao không ?
Bởi vì đây là nơi Phật ở, bên ngoài có chư thiên, hộ pháp giữ gìn nên chư hộ pháp chận lại không cho vào. Đức Phật biết nên bảo ngài A Nan ra gọi nó vào.
Khi ấy, đức Phật mới thuật lại tiền kiếp oan trái nhiều đời cho cả hai và hội chúng nghe. Nhờ vậy, hai người đều nhớ lại. Xong, Phật dạy: “nếu các ngươi không gặp được Như Lai thì oan trái này sẽ buộc nhau mãi mãi, ân oán kết qua kết lại, đời này đời kia cho hết kiếp địa cầu này cũng không xong. Các ngươi chớ lấy oán trả oán, chỉ có tình thương mới dập tắt hận thù thôi”. Rồi Đức Phật mới nói bài kệ trên.
Nghe Phật nói kệ xong, Dạ xoa đắc quả Tu-đà-hoàn. Sau khi giải tỏa được oán hờn của hai bên, đức Phật bảo cô gái dẫn nữ Dạ xoa về nhà chăm lo cho ăn uống. Còn nữ Dạ xoa cũng giúp vợ chồng cô bằng cách dự đoán trước mùa màng đắc thất, nên vợ chồng cô thường được trúng mùa. Những người hàng xóm thấy vậy cũng đến nhờ mách bảo rồi cúng dường Dạ xoa. Vậy là oan trái được giải.
Đó là một bài học cho chúng ta thấy rõ, nếu oan trái kết hoài thì đời này đời khác không bao giờ hết, càng ngày càng sâu. Nếu chúng ta gặp phải oan trái như thế thì biết đây không phải là chuyện ngẫu nhiên đến với mình mà do có oan khiên từ đời trước. Vậy phải làm sao?
Phải khéo mở không nên kết thêm. Vì là người phật tử học Phật, phải nhớ rõ tất cả mọi người sống trên đời này đều sống trong nhân quả, không ai ra khỏi nhân quả hết. Cuộc sống của mỗi người đều do nhân quả chứ không phải chuyện ngẫu nhiên. Cho nên người biết, hiểu thì thấy nhẹ nhàng nếu không biết thì cứ lo trách trời trách Phật và càng kết thêm oán hờn thì đó là điều không tốt.
Ở đây nhờ có ánh sáng của Phật soi đến nên giải tỏa những nỗi oan kết nhiều đời, giúp đương sự được an vui trong chánh pháp.
Sau này, đời Thanh ở Trung Hoa cũng có câu chuyện tương tự.
Tại tỉnh An Huy– Trung Quốc, có vị thương nhân tên Trình Bá Lân, sống ở Dương Châu thuộc miền Giang Tô. Ông kính tin Bồ-tát Quán Thế Âm nên thường tụng niệm kinh Phổ Môn và xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm.
Vào mùa hạ năm Ất Dậu, loạn binh kéo qua thành Dương Châu. Ông sợ nên cầu nguyện Bồ-tát gia trì. Đêm đó, ông nằm mộng thấy Bồ-tát bảo cả nhà con có 17 người thì 16 người kia đều khỏi nạn, chỉ riêng mình con là không tránh khỏi nạn này. Sau khi ông tỉnh dậy nhớ lời Bồ-tát nên rất lo sợ nghĩ trong nhà chỉ có ông niệm Phật tại sao lại không tránh khỏi nạn? Vì thế ông hết lòng hướng về Bồ-tát cầu nguyện.
Đêm sau, ông lại nằm mộng thấy Bồ-tát nói đời trước con đãù từng chém 26 đao làm chết một người, nên đời nay người đó là Vương Ma Tử sẽ đến đòi nợ, con phải trả nợ đó.
Con hãy khéo dặn 16 người trong nhà vào ngày đó phải dời qua bên chái thuộc phía Đông căn nhà. Còn con ở ngay nhà giữa rồi dọn sẵn cơm canh như đãi tiệc ngồi chờ đó sẵn, chớ đừng làm liên lụy đến những người trong gia đình. Khi tỉnh dậy ông làm theo lời Bồ-tát.
Đúng ngày đó, quả nhiên có một tên lính ở trong nhóm loạn binh đi vào nhà ông. Ông lịch sự đón tiếp, mời vào nhà ăn uống như có tiệc vậy. Kế tiếp mới hỏi: Ngài có phải tên Vương Ma Tử không?
Anh kia ngạc nhiên hỏi: - Vốn chưa từng quen biết, sao lại biết tên tôi?
Ông nói: - Đời trước tôi thiếu nợ ngài 26 đao nên giờ cũng cần đền trả. Ngài hãy giết tôi, nhưng xin hãy tha cho mấy người trong gia đình.
Tên loạn binh này làm lạ hỏi ra mới biết ông được Bồ-tát báo mộng cho biết như vậy.
Tên loạn binh nghe xong mới cảm động tự than: Đời trước ngươi chém ta 26 đao nên bây giờ ta đến để đòi nợ ngươi, nhưng nếu bây giờ ta giết ngươi thì đời sau ngươi lại đến đòi nợ ta nữa. Cứ thế oan oan tương báo hoài biết tới khi nào mới xong. Thôi thì ngay đây, chúng ta giải tỏa hết ân oán nợ nần. Nói xong, tên lính trở ngược sống đao nhấp nhấp 26 cái vào người ông Trình Bá Lân như trả xong thù rồi thôi. Thế là hai người tha thứ cho nhau, oan trái nhiều đời giải tỏa. Đó là điểm đáng học. Nghĩa là oan trái nên cởi không nên cột.
Người tu hiểu lý nhân quả biết rõ không có chuyện gì ngẫu nhiên nên bình tỉnh vui vẻ trả nợ thì nợ càng mau hết, còn không khéo kết sâu thêm thì nợ càng dày.
Người phật tử hiểu đạo khéo ứng dụng Phật pháp vào cuộc sống, đừng kết thêm oan gia, vì oan gia càng kết thì càng khổ thêm, phải khéo tránh.
Hòa thượng Hư Vân có kể câu chuyện về gia đình họ Đinh, chính Ngài là người giải tỏa oán kết. Kể rằng:
Có gia đình họ Đinh ở Đặng Xuyên, ông này từng làm chức Hiếu Liêm đời Thanh. Ông có đứa con gái 18 tuổi. Một hôm, cô tự lăn ra chết giấc, khi tỉnh dậy cô bỗng nhiên đổi giọng nói tiếng đàn ông và hung tợn chỉ mặt cha mắng: “Cái thằng họ Đinh kia, ta là Đổng Chiêm Bưu đây! Trước kia ở Đại Lý Tây Xuyên, mi ỷ quyền cậy thế, vu oan cho ta làm phỉ (làm giặc) hại ta mất mạng, mi còn nhớ không? Ta đã đầu cáo việc này với Diêm Vương và đã được phép theo báo mối thù suốt 8 năm qua”. Nói xong, cô cầm dao rượt cha. Ông cha sợ quá trốn đi nơi khác không dám ở nhà. Mà con quỉ này ngày nào cũng đến nhập vào cô gái, mỗi lần như vậy cô rất hung tợn, làm cả nhà đều sợ. Những người trong xóm tụ lại xem rất đông.
Hôm ấy, hai thầy Tố Cầm và Tố Trị là đệ tử ngài Hư Vân nhận lệnh xuống núi. Thấy vậy hai thầy dừng lại, đem lòng từ bi khuyên oan hồn kia thôi hãy buông tha đừng làm như thế, khiến cho địa phương không được yên ổn.
Con quỷ bất bình nói: “Các ông là người xuất gia đừng có xía vào chuyện này. Các ông cứ lo chuyện xuất gia đi”.
Hai thầy này mới giải thích: “Đành rằng ông và chúng tôi không liên quan gì hết. Nhưng sư phụ tôi có dạy rằng oán thù nên giải chứ không có nên buộc. Thù hận càng buộc thì nó càng sâu, bao giờ mới hết được”.
Con quỷ hỏi: - Sư phụ của ông là ai?
Hai thầy đáp: - Hòa thượng Hư Vân, Trụ trì chùa Chúc Thánh trên núi.
Con quỷ nói: - Tôi có nghe danh Ngài nhưng chưa gặp. Không biết Ngài có chịu truyền giới cho tôi không ?
Hai thầy nói: - Hòa thượng là bậc đại từ đại bi sẵn lòng độ cho tất cả chúng sanh đau khổ, lẽ nào lại không chịu.
Hai thầy khuyên gia đình họ Đinh nên xuất tiền làm phước để cầu siêu cho oan hồn này được siêu thoát.
Con quỷ căm giận không chịu. Lại nói: - Hắn là người thương thiên bại lý, tôi không cần tiền của hắn.
Hai vị mới nói: - Vậy yêu cầu dân địa phương bỏ tiền ra làm phước để cầu cho hồn ông được sớm siêu thoát được không ?
Con quỉ vẫn căm giận nói: - Thù này không trả thì oán hận không nguôi được. Đã có thù thì phải báo cớ sao phải thôi! Sau đó lại nói: - Thôi! để tôi về thỉnh ý
Diêm Vương xem sao! Ngày mai hai thầy hãy đến đây đợi tôi. Nói xong con quỷ thoát xác đi mất.
Lúc đó cô gái tỉnh dậy, không biết gì hết, thấy người lạ bèn ngại ngùng đi vào trong.
Hôm sau, con quỷ đến rất sớm, thấy hai vị tăng này đến trễ nó trách sao thất tín. Hai thầy giải thích là còn trở về trình lên sư phụ. Ngài bảo là việc tốt cho phép chúng tôi đi đến báo cho ông.
Hai thầy đích thân đưa quỉ về chùa cùng với 20 người địa phương đi theo.
Hòa thượng nghe kể hết đầu đuôi sự việc, Ngài mới lên điện thắp hương đảnh lễ rồi truyền giới cho nó. Từ đó, mọi việc được an ổn, cô gái không còn bệnh. 
Đó cũng nhờ Phật pháp nên giải được oan trái. Đúng là nhờ có duyên lành nên được cởi mở. Còn không thì oan trái đó cứ kết qua kết lại hoài biết bao giờ mới xong.
Trong kinh Pháp Cú Phật dạy:
                        Người ngu si thiếu trí, 
                        Tự ngã thành kẻ thù, 
                        Làm các nghiệp không thiện, 
                        Phải chịu quả đắng cay.
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
Biến tự ngã mình làm kẻ thù của mình là sao? Là tự mình làm nghiệp không thiện để rồi chịu quả khổ, quả dắng cay.
Tự mình đem đau khổ lại cho mình chứ không phải người ngoài đem đau khổ lại cho mình. Nghĩa là tạo nghiệp xấu, gây đau khổ cho người thì quả đau khổ đó sẽ trả lại cho mình. Như vậy không lo tự trách mình lo trách ai.
Quí Phật tử xét kỹ xem ai đã đem quả báo xấu ác đến cho mình? Chính mình tự tạo thôi. Mình tạo cái nhân xấu trước rồi quả xấu đó mới đến với mình. Như vậy mới nói chính mình làm khổ mình mà lại không hay. Đã hiểu như vậy rồi thì phải khéo sống để tránh nhân quả xấu. Tránh đau khổ cho mình cũng là thấy được oan trái rất là đáng sợ.
Nên người khéo tu thì không kết oan trái thêm với người mà phải cởi mở. Phải tập sống có tâm từ, bớt gây hờn, gây hận, cũng không đem oán hận đến cho người. Đây Phật dạy rất rõ, chính mình tự biến mình thành kẻ thù của mình chứ không ai khác.
Ngài Đạt Lai Lạt Ma cũng có dạy cách giải tỏa những oán hờn: “Đây là cách để biết được cái kẻ thù đích thực đang nằm trong lòng chúng ta, đâu phải ở bên ngoài. Đừng lo tìm bên ngoài mà phải soi lại để thấy rõ nó nằm ngay trong lòng mình đó. Đó chính là tính ích kỷ, lòng quyến luyến và sự tức giận của chúng ta”.
Nó chính là kẻ thù trong lòng mình, gây đau khổ cho mình, vậy mà chỉ lo nhìn bên ngoài. Ngài bảo chúng ta nên biết: “khả năng kẻ thù gây ra cho chúng ta rất là hạn hẹp. Nếu người nào đó thách thức kích động chúng ta thì chúng ta nên kiềm chế lại không tức giận, tập lâu rồi thuần thục sẽ không còn tức giận, dù người đó có làm gì thì cũng không thể gây hại cho chúng ta.
Trái lại, khi họ gây những cảm giác vô cùng tức giận, hay chính lòng ham muốn của ta xuất hiện thì chúng tạo nên sự rối loạn trong tâm hồn chúng ta. Tâm khởi lên sự tức giận nào đó thì ta sẽ cảm thấy bất an trong tâm mình. Ngay lúc đó chúng phá hoại sự an lạc trong tâm, cũng như tạo nên sự buồn phiền hủy diệt công đức tu hành của chúng ta”.
Rõ ràng kẻ thù ở ngay trong lòng mình chứ không ở đâu xa. Nghĩa là khi tức giận không kiềm chế được làm hành động đáp trả lại thì chính khi đó ta đã tự hủy diệt công đức tu hành của mình. Như tu một tháng mà khi nóng giận chưởi người ta chừng một tiếng đồng hồ thì sao? Thì công phu một tháng sẽ tiêu hết phải không?
Rõ ràng nếu làm như vậy thì đúng là mình hại mình. Mình hại mình trước chứ đâu có ai hại mình. Và mỗi khi mình tức giận ai đó thì mình cứ tưởng người ta khổ chứ sự thật thì mình khổ trước. Khi mình tức giận thì trong tâm bứt rứt, sôi sục tự đốt mình, là mình khổ trước người ta rồi.
Thấy được điều đó thì chúng ta phải giải tỏa chứ không kết thêm, phải biết kiềm chế. Cho nên, mỗi người phải tu tập cái tâm, thấy rõ oán hận là khổ không chút nào vui hết.
Cho nên, đừng nghĩ rằng mình giận ai đó là giận cả đời, nhiều khi chúng ta hiểu lầm nói giận ai đó là giận cả đời không quên, tưởng đâu như vậy là hay, nhưng đâu phải vậy.
Nếu mà giận cả đời là khổ cả đời luôn. Lâu lâu gặp người đó thì sao? Mình khổ trước thôi.
Quí vị nghĩ, sống trên đời này mà giận cả đời chừng 20 người thì sao? Thì mình ít khi cười được lắm! Lâu lâu ngồi nhớ lại chuyện giận hờn thì làm sao cười được? Rồi lâu lâu nghĩ đến anh kia thật là đáng tức, chị kia thật đáng hận... Vậy là cả ngày sẽ không có nụ cười.
Nên Phật dạy “Oán tắng hội khổ”. Người không ưa mà cứ gặp hoài thì khổ. Chúng ta phải tu tập tâm xả để cởi mở bớt thì đó là cái hạnh đưa đến an vui. Còn kết hờn kết oán thì chỉ làm khổ, khổ mình mà khổ cho người nữa. Quý phật tử nghĩ lại xem, mình sống trên đời này được bao lâu? Năm bảy chục năm là dài.
Chư Phật lại dạy đời người chỉ sống trong hơi thở, mà đã sống trong hơi thở thì hờn giận làm cái gì? Ai mà luôn nhớ mạng sống của mình trong hơi thở thì còn hờn giận làm gì! Bởi ai cũng nghĩ mình sống năm bảy chục năm nên mới hờn cho đã giận. Còn nghĩ mạng sống của mình chỉ trong hơi thở thì còn thời gian đâu mà giận. Giận nhiều hay ít rồi cũng chết, vậy giận làm gì? Nếu luôn nhớ nghĩ như vậy thì cởi mở, sanh thêm lòng bi mẫn với nhau, thôi gây đau khổ thêm cho nhau.
Đây không phải nói trên lý thuyết, mạng sống con người trong hơi thở là lẽ thật. Vì chúng ta nhìn theo con mắt chúng sanh nên thấy nó lâu dài, nếu xét kỹ thì mạng sống đúng là chỉ trong hơi thở. Chúng ta đang sống tạm trong hơi thở, nếu hít vô thở ra mà không hít vô nữa thì sao? Thì chết liền. Rõ ràng là sống trong hơi thở chứ gì.
Nếu hơi thở ra mà không hít vào là chết. Như thế mới thấy cuộc sống con người rất mỏng manh, có gì đâu để kết oán, kết hờn với nhau. Hơn nữa, thế gian này đã quá nhiều đau khổ rồi còn đem đau khổ đến cho nhau chi nữa. Nên giờ đây phải tập sống với tâm xả, xả bớt và xả dứt “cái tôi” này, đó là cái căn bản. Tham sân si đều từ “cái tôi” đó, xả là phải xả cái gốc chứ còn xả cái này cái kia mà không xả “cái tôi” cũng là chưa xả hết đâu!
Bởi vì tham là tham cho ai? Còn sân là tại sao sân? Là tại đụng tới tôi. Nếu không có tôi thì ai sân? Còn si thì tại sao si? Tại mê cái tôi này, tưởng đâu nó là mình thì đó là si. Mình có phải cái thân này không, phải cái tâm này không? Quí vị kiểm kỹ xem thân này là cái gì? Do đất, nước, gió, lửa hợp thành. Mà đất là cái gì? Là thứ vô tri đâu có biết gì! Nước có hiểu biết gì? Gió có hiểu biết gì? Lửa có hiểu biết gì? Thế mà cho mình là mấy thứ vô tri như vậy nên si là ở chỗ đó.
Nếu nói theo hình tướng thì do da, gân, thịt, xương, máu huyết tụ lại thành thôi chứ có gì đâu! Đúng ra nói đây là bộ xương, ngoài có da bọc lại, trong đó có một số máu gân vậy thôi! Vậy xương thịt nó có biết gì không? Rồi gân máu nó có biết gì không? Và thần kinh nó có biết gì không? Thường thì người ta nói thần kinh biết nhưng người chết dây thần kinh vẫn còn mà nó đâu có biết, có cái gì đó gá vào thôi. Rồi chấp mình cũng là mấy cái thứ đó, rõ ràng là si.
Bây giờ khoa học tiến bộ càng thấy rõ hơn, cái túi máu mà lúc chưa truyền vô người mình thì nó là của ai? Nhưng khi truyền vô người mình rồi thì sao? Nói nó là của tôi. Rõ ràng si là ở chỗ đó.
Hiện nay, quả thận người ta cũng thay được. Và khi lấy trái thận của người khác ghép vô thân mình còn trái thận của mình khi cắt bỏ ra thì đó là của ai? Cũng như con mắt bị hư bỏ ra ngoài rồi thì của ai? Hoặc cái chân bị tai nạn cưa bỏ ra ngoài rồi thì cái chân đó của ai?
Cho nên, gốc si là cái tôi mà xả cái tôi rồi thì mấy cái kia cũng theo mà xả hết. Dù cho chúng ta có xả cái này, xả cái nọ, xả cái kia mà không xả cái tôi thì “cái si” vẫn còn. Nên quý vị thấy những người có tâm tốt bỏ ra cái này cái nọ cái kia để cứu trợ thì đó là tâm xả nhưng chỉ lo xả cái này mà không xả cái tâm si thì sao? Thì nhiều khi bố thí cũng bị phiền não.
Bố thí cho mà bị người giành giựt thì cũng phiền não. Có khi bố thí cho người cái này mà khi ra ngoài người không cần đem bỏ đi hoặc cho lại người khác thì sao? Buồn!
Vật chất mình đã đem cho người rồi mà cứ nghĩ của mình. Đúng ra, mình đã cho người ta rồi thì là của người ta, tùy người sử dụng. Nếu đã cho rồi mà vẫn còn nhớ cái đó là của mình nên buồn nên trách. Cho nên, người khéo xả cái tôi này trước thì xả bên ngoài mới yên. Nếu chỉ lo xả ở ngoài mà không xả cái tôi thì vẫn còn sanh chuyện. Đó là cái gốc. Và cũng chính vì cái tôi đó mà thành ngăn cách với tất cả.
Như trong kinh Pháp Hoa dạy, khi đức Phật Đại Thông Trí Thắng thành Phật, thì ánh sáng soi khắp mười phương, tất cả chúng sanh bỗng nhiên thấy nhau hết. Tức là không còn ranh giới giữa cõi này cõi kia. Chúng sanh nhờ ánh sáng của Phật soi thấy rõ nhau nên ngạc nhiên nói, thế gian này chúng sanh nhiều quá mà sao lâu nay không thấy? Vậy lâu nay bị cái gì che mà không thấy? Bị cái tôi này che. Khi ấy nhờ ánh sáng Phật phá tan mọi ranh giới nên chúng sanh thấy nhau.
Nếu bây giờ chúng ta được ánh sáng Phật soi khắp khiến cho thấy hết tất cả chúng sanh thì có vui không? Thật là vui phải không?
Hiện nay, tất cả ngồi hết trong phòng mà còn không thấy nhau, có khi ngồi sát bên mà không thấy là tại sao? Đó là bị cái tôi này ngăn cách, nên xả hết cái tôi này là sẽ gần gũi, cảm thông được với nhau, được an vui, bớt ngăn cách. Cho nên, chúng ta học Phật, nhờ ánh sáng Phật soi sáng giúp chúng ta hiểu lẽ thật rồi cởi mở bớt không chấp, khiến vô minh càng tan.
Nhiều khi chúng ta thấy có những chuyện rất đáng buồn. Hai anh em, chị em trong nhà mà còn ngăn cách nhau như trời với đất, vì tranh giành của cải với nhau, rồi có thành kiến trở thành xa lạ với nhau.
Ở đây, chúng ta có duyên tốt được gần gũi Phật pháp, được sinh hoạt cùng một đạo tràng, nhưng có khi ngăn cách cũng không thấy nhau. Khi đã có thành kiến với nhau rồi thì dù chạm mặt nhau cũng không thấy nhau, rõ ràng là bị cái tôi này ngăn che.
Nên người muốn tu thì phải xả bớt, muốn xả bớt thì phải thường xuyên quán chiếu như vậy. Quán chiếu để mở thêm trí tuệ, công phu quán chiếu rất là quan trọng.
Ở đây, hàng ngày đạo tràng đều tụng kinh Bát-nhã, ai cũng biết thân này là thân do năm uẩn họp thành nên vô thường hư dối không thật, nhưng có thấy được thân này là không chưa? Cho nên, hiểu là một lẽ, làm là một lẽ. Tụng kinh trên lý thì đúng là năm uẩn đều không nhưng mà điều đó chỉ mới là cái hiểu của Phật chứ chúng ta thì chưa thông.
Vì vậy, hàng ngày mỗi người phải thường xuyên tập quán chiếu đến khi nào mình thật sự thấy nó là không, thì lúc đó mới là cái thấy của mình, lúc đó mới cởi mở những phiền não giận hờn. Chính đó là chỗ chúng ta ứng dụng tu, nên ở đây mỗi vị cũng từng nghe học Phật nhiều rồi, giờ khéo ứng dụng để có thực sống.
Đối với những oán hận trong lòng thì nên cởi mở không nên buộc, vì càng ôm hận thì càng gây khổ cho nhau, càng kết khổ sâu thêm và như vậy tâm vô minh của mình càng phủ dày. Thế nên phải tu tập tâm xả để cởi mở bớt và nhớ rõ mọi việc trên đời đều có nhân có quả hết.
Phật dạy cuộc sống hiện tại của chúng ta gọi là thừa tự nghiệp, chúng ta là người kế thừa nghiệp. Đời trước mình làm nghiệp gì thì bây giờ mình kế thừa (tiếp nối) nghiệp ấy. Xưa mình làm việc tốt thì nay mình kế thừa nghiệp tốt. Xưa mình làm việc xấu thì nay mình kế thừa nghiệp xấu. Hiểu vậy đó, thì từ đây mỗi người phải sống sao cho đúng với nhân quả tốt để tránh buồn khổ về sau, tránh những cái không hay để về sau không kế thừa những cái không tốt. Chúng ta học nhiều lý nhân quả quá nên xem thường, cần thiết là mỗi người phải hiểu cho thật kỹ lý nhân quả để sống không lầm, được như vậy thì cuộc sống vươn lên, tốt đẹp rồi. Và điều không thể quên là: “oán hận nên giải không nên kết, từ bi diệt hận thù, là định luật ngàn thu”.

NIỆM VỀ CÁI CHẾT

I/ CHẾT LÀ ĐỊNH LUẬT CHUNG CHO TẤT CẢ THẾ GIAN.
Lâu nay, chúng ta nghe nói nhiều về vấn đề sự sống, đề tài nói chuyện hôm nay là “Niệm Về Cái Chết”.
Thường người ta hay sợ chết, không dám nghĩ hay nói đến cái chết, cho dù gần chết cũng vậy, khi cái chết đến thì hoảng hốt. Còn chúng ta là người học đạo, phải luôn nghĩ về cái chết để khi đến giây phút đó không lấy làm lạ. Bởi vì ai cũng phải chết, có sanh thì có tử là lẽ thường nhiên, không ai tránh khỏi được.
Hòa Thượng Ân sư có bài pháp “Con Tàu Kỳ Lạ”, nói về chiếc xe lửa đặc biệt có nhiều toa mà không người lái. Toa trên tàu có nhiều hạng: từ hạng nhất, hạng nhì….cho đến các hạng thấp xấu. Mỗi hành khách có hành lý riêng, cùng đi chung một con tàu. Trên tàu có vô số người lính, áp tải hành khách lên các toa khác nhau. Tàu tự động chạy từ thành phố ra biển. Vì con tàu chạy đường dài, nên có người mệt thì ngủ vùi, có người lo ăn uống hay vui chơi suốt đêm, có người khi say sưa thì cãi nhau rồi đánh nhau……. Bao nhiêu cảnh chen lấn, giành giựt, ồn ào đều xảy ra trên tàu, nhưng con tàu vẫn cứ tiến ra biển. Tàu chạy qua nhiều phong cảnh, cảnh vật bên ngoài thay đổi liên tục. Cảnh đẹp thì thích ý, có người muốn tàu chạy chậm để ngắm xem cho kỹ. Còn cảnh không thích ý, thì muốn tàu chạy nhanh. Nhưng con tàu vẫn chạy đều đều không theo ý ai hết. Hành khách trên tàu bị các cảnh vật trước mắt và những lo nghĩ, quên mất điểm đến cuối cùng của tàu là gì?
Những hành khách đi trên tàu không phải ai cũng đến được bến đổ. Có những trường hợp gặp nhiều chuyện buồn bả, bất như ý, phiền muộn, đau khổ…., nhiều hành khách đã nhảy ra cửa tàu tìm cái chết trước khi tàu đến bến. Hoặc có những sự tranh giành, cãi nhau về chỗ ngồi, về tiện nghi, họ quăng ném nhau ra khỏi toa tàu…, tất cả tạo nên những sự náo động nguy hiểm, bất an cho hành khách và con tàu.
Tuy vậy trong số những hành khách trên tàu, có vài người biết rõ số phận của mình là tàu sẽ đi thẳng xuống biển, nên âm thầm lặng lẽ ngồi tìm những miếng cao su vụn, kết lại thành những chiếc phao để dành sẵn. Khi họ làm công việc này, lại bị những người xung quanh nhìn bằng con mắt khinh khi, chê cười cho là những người khùng điên, làm việc không đáng. Mặc ai nói cười gì thì nói, họ vẫn tiếp tục làm việc của mình.
Thế rồi, con tàu cũng đến bến đổ cuối cùng, trước mắt là biển cả bao la, con tàu vẫn tiến tới. Những hành khách trên tàu bây giờ mới hoảng hốt, lo sợ la lối yêu cầu con tàu ngừng lại. Nhưng con tàu không ngừng. Tại sao? Vì đây là con tàu không người lái. Và cuối cùng tàu đâm xuống biển. Tất cả hành khách theo con tàu đều chìm xuống biển, riêng chỉ có những người bị gọi là điên khùng lại có phao, họ ôm phao bình tỉnh bơi vào bờ.
Hợp pháp câu chuyện: Những người lính áp tải trên tàu là nghiệp lực, đưa đẩy dẫn con người đi vào chiếc tàu. Còn các toa tàu hạng nhất, nhì, tốt, xấu……, tùy theo nghiệp báo tốt, xấu của mỗi người mà ngồi vào toa của mình. Như hiện tại, người tạo nghiệp tốt thì sanh ra trong hoàn cảnh tốt, còn nghiệp xấu thì sanh vào hoàn cảnh xấu. Phong cảnh, cảnh vật bên ngoài là năm trần. Các trần cảnh bên ngoài luôn thu hút lôi kéo con người khiến quên mất, không nhớ được điểm cuối cùng kia. Còn những hiện tượng tâm lý vui buồn, thương ghét bên trong là tam độc, bát phong luôn thường thổi đến.
Sự vận chuyển liên tục của con tàu là thời gian. Thời gian cứ trôi đều, và điểm khởi đầu cùng điểm cuối của con tàu là con đường sanh và tử.
Bắt đầu đi là sanh ra, chạy tới chỗ cuối là tử, ai sanh ra rồi cũng đến điểm cuối cùng là cái chết, đó là điều chắc chắn không tránh khỏi. Nhưng vì vô minh nên ta say đắm những dục trần trước mắt, tạo nghiệp chịu khổ, không nhớ được điểm cuối là cái chết.
Người tỉnh giác biết phải lo tu tập đạo nghiệp, kết những cái phao, dù khi ngồi kết bị chê cười là ngu, là điên, nhưng vì đã có hướng đi, thấy được cái gì phải tới trước mắt, nên ai nói gì thì nói, họ cứ làm công việc của mình. Đó là cái khéo của người biết tu, nhẫn chịu sự nhạo báng chê cười của mọi người, chỉ lo kết phao chuẩn bị cho điểm đến cuối cùng của đời mình.
Có người lý luận tu cũng chết, không tu cũng chết, vậy tu làm chi? Do đó họ mặc tình hưởng thụ. Quả thật, trong thế gian này, từ vua chúa giàu sang đến kẻ cùng cực nghèo hèn, cuối cùng rồi ai cũng chết, đó là chuyện thường tình. Nhưng trong cái chết của mỗi người lại có điểm khác nhau.
Người không biết tu, chết trong mê lầm tối tăm, hoảng sợ đau khổ, chới với không có điểm tựa. Còn người biết tu khi chết được bình tỉnh, an ổn vào bờ, vì đã lo chuẩn bị phao sẵn từ trước. Điểm khác nhau là như thế! Người biết rõ lẽ vô thường, khi cái chết đến không bị bở ngỡ.
Trong kinh Pháp Cú kể câu chuyện: Có bốn vị Phạm Chí tu đắc được ngũ thông, nên biết trước là bảy ngày nữa mình sẽ chết. Họ nghĩ đã có ngũ thông vì sao lại đành chịu chết? Nên cùng nhau bàn tìm lối thoát. Vị thứ nhất nói: “Tôi dùng thần thông lặn xuống lưng chừng biển sâu, trên thì không nổi lên, ở dưới không chạm đáy, quỷ vô thường không biết rõ chỗ nào để đến bắt”. Vị thứ hai nói: “Tôi dùng thần thông vạch núi Tu-di vào trong giữa núi rồi khép lại. Quỷ vô thường có đến cũng không thể bắt được”. Vị thứ ba nói: “Còn tôi dùng thần thông biến mất, ẩn trong hư không, đâu có thể tìm ra được”. Vị thứ tư nói: “Tôi vào giữa chợ đông người lộn xộn, khi quỷ tới không biết ai, gặp người nào bắt người đó”. Bốn người đều làm theo như vậy. Nhưng đúng vào thời gian đó các vị đều chết hết. Người ở biển thì nổi lên; người trên hư không thì rớt xuống; người trong núi thì trồi ra, và người trốn trong đám đông thì nằm chết giữa chợ.
Đức Phật nghe được chuyện liền nói bài kệ:
                    Dù trốn giữa hư không, 
                    Hay biển khơi, núi rộng, 
                    Không một nơi nào cả, 
                    Tránh khỏi được tử vong.
Vậy, chúng ta sợ chết có khỏi không? Sợ cũng không khỏi vậy sợ làm gì? Quan trọng là không mê lầm, sáng suốt biết rõ từng sự việc là tốt rồi.
Vua Trần Thái Tông (Việt Nam) là một ông vua thiền sư ngộ đạo, có sức sống thật sự. Tuy làm vua, sống cuộc đời cao sang vương giả mà lúc nào Ngài cũng lo kết phao. Nên trong bài “Nói rộng về sắc thân” nhà vua cảnh tỉnh cho nhau: “Chẳng luận giàu nghèo đồng vào cõi chết, hoặc để trong nhà thì vòi đục tửa sinh, hoặc ném ra đường thì quạ ăn chó xé. Người đời bịt mũi đi qua, con hiếu thì lấy mền quấn giấu; nhặt thu hài cốt, chôn cất thịt xương, quan quách phó cho đóm lửa ma trơi nơi hoang dã, mả mồ giao cho muôn dặm núi sông. Khi xưa tóc đen má ửng, ngày nay xương trắng tro đen.”. Khi chết rồi con cháu thương thì lấy mền quấn, bỏ vô hòm mà chôn. Đem quan quách phó mặc cho đóm lửa ma trơi nơi đồng hoang, đâu có ai ở đó mà giữ. Mồ mả giao cho muôn dặm núi sông ngoài hoang dã, mục đích cuối cùng cuộc đời, là hiện tượng như vậy.
Đó là điều chúng ta phải luôn quán niệm kỹ về cái chết, để không bị mê lầm và cũng là chuẩn bị cho tự thân của mỗi người, biết trước lẽ thật chắc chắn là như vậy, khi việc đến sẽ không bị bở ngỡ. Người Tây Tạng có câu: “Ngày mai hay đời sau điều gì tới trước, ta không thể biết được!”. Tức là hôm nay sống, nhưng ngày mai chưa biết còn sống hay không, ngừng thở là chết qua đời sau rồi. Lẽ thật của sự vô thường là như vậy, phải quán kỹ để chuẩn bị cho chính mình.
II/ CÁI CHẾT CÓ TRONG CÁI SỐNG.
Thấy rõ cái chết trong cái sống, nên chúng ta cần phải quán kỹ cái chết ngay trong cái sống, chớ không phải ở nơi nào xa xôi. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật hỏi vua Ba Tư Nặc: “Đại vương! Ngay nơi thân đang tồn tại của Đại vương, nay Như Lai muốn hỏi: Thân thịt này của Đại vương là thân kim cương bất hoại hay sẽ biến hoại?”. Đáp: “Bạch Thế Tôn! Thân con hiện nay rốt cuộc rồi sẽ bị biến hoại”. Đức Phật bảo: “Đại vương! Ông chưa từng diệt, làm sao biết mình sẽ biến diệt?”. Đáp: “Bạch Thế Tôn! Cái thân biến hoại vô thường của con hiện nay tuy chưa từng diệt, nhưng con thấy trước mắt, từng niệm dời đổi mãi không dừng, như lửa tàn thành tro, dần dần tiêu tan. Vì tàn hoại không dừng, nên con biết chắc thân này sẽ diệt mất”. Vua Ba Tư Nặc quán thấy từng niệm thay đổi không dừng, biết rõ thân là vô thường, thay đổi sẽ bị hoại diệt.
Đoạn sau Phật hỏi kỹ hơn: “Đại vương! Thân thể của ông đâu phải già liền?”. Vua Ba Tư Nặc thưa: “Bạch Thế Tôn! Nó âm thầm dời đổi. Cái thân già nua này thay đổi trong vòng 10 năm. Nếu con suy nghĩ kỹ hơn, chẳng những nó thay đổi trong khoảng 10 năm, 20 năm mà thực thay đổi trong từng năm. Chẳng những thay đổi trong từng năm, mà thực thay đổi trong từng tháng. Chẳng những thay đổi trong từng tháng, mà thực nó thay đổi trong từng ngày. Chiêm nghiệm thật sâu, quán sát thật kỹ thấy nó thay đổi trong từng sát na, trong từng mỗi niệm không hề dừng nghỉ. Thế nên con biết thân này cuối cùng phải chịu sự biến đổi, và hoại diệt”.
Chúng ta muốn thấy sự thay đổi của thân này cũng phải trải qua thời gian 10 năm. Mười năm nhìn lại mới thấy già, chớ còn một hai năm thì chưa thấy đổi thay. Có người nói còn trẻ đi tu uổng! Đó là thấy theo kiểu mê muội. Sự thật cái thân chúng ta nó chết từ từ, nó luôn luôn thay đổi. Như từ đây đi Đà Lạt phải qua đoạn đường dài 7 cây số, nhưng muốn qua 7 cây số thì phải đi qua từng bước, từng đoạn rồi từng cây số mới hết 7 cây số đến nơi. Thân này cũng vậy, nó thay đổi trên từng niệm sanh rồi diệt, mới qua 20, 30, 60, 70 năm. Như vậy, nhà vua đã quán kỹ thấy rõ sanh diệt trong từng niệm, nên biết chắc thân này rồi sẽ hoại diệt. Tức là thân này luôn chết trong từng sát na, không phải đợi đến 70 tuổi mới chết. Ngay khi sống đã có chết rồi. Vậy chúng ta đang ngồi đây là đang ngồi trong cái chết, chết trong từng sát na. Xét cho cùng về bản chất của thân là như thế. Luôn luôn nhớ như vậy chúng ta sẽ cởi mở được rất nhiều điều, mỗi khi lỡ có buồn giận ai mà nhớ nó đang ngồi trong cái chết, thì còn có ai buồn ai giận, đó là lẽ thật.
Trong kinh A Hàm có kể: Khi tuổi đức Phật đã lớn, một hôm Ngài đi khất thực trong thành Xá Vệ trở về thọ trai xong, sau đó cảm thấy trong người hơi lạnh, nên ra ngoài hương thất ngồi phơi nắng. Ngài vén y để lộ làn da lưng nhăn nheo ra nắng. Tôn giả A Nan từ xa thấy vậy, mới đến xoa lưng cho đức Phật, than: “Ôi! Da dẻ của Thế Tôn không còn láng mịn như thuở xưa nữa, lưng đã hơi khòm tới trước rồi. Ôi! Còn đâu những gì của thời trai tráng”. Phật bảo: “Đúng vậy A Nan! Cái già có sẵn trong cái trẻ, cái chết nằm trong cái sống, thân của Ta rồi đây sẽ hoại diệt, một lúc nào đó không tránh khỏi”. Nhân đó, đức Phật cũng nhắc nhở cảnh tỉnh chúng ta, Ngài bảo cái già nằm sẵn trong cái trẻ, cái chết nằm sẵn trong cái sống, đừng nghĩ là 70 tuổi mới già. Phải thường quán kỹ như vậy, để thấy lẽ thật của thân này, chuẩn bị cho giờ phút cuối của mình, để đến lúc đó không chới với hoảng hốt, không bất ngờ mà lại rất bình tỉnh, vì đã có kết phao rồi.
Sau khi đức Phật Niết Bàn, chư vị Tỳ kheo dùng kệ tán:
                        Thân này như bèo bọt 
                        Mỏng manh có gì vui 
                        Phật được thân kim cang 
                        Còn bị vô thường phá 
                        Thân kim cang chư Phật 
                        Đều về với vô thường 
                        Tan mau như tuyết non 
                        Huống những chúng sanh khác.
Phật được thân kim cang, 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp rồi cũng bị vô thường đến tám mươi tuổi nhập Niết Bàn, huống là thân chúng ta. Quán kỹ thân Phật, rồi quán lại thân chúng ta có được bao nhiêu tướng tốt, đâu có gì là quý. Quán như vậy khi cái chết đến chúng ta không luyến tiếc, dính mắc vào thân này, lúc ra đi sẽ nhẹ nhàng an lạc. Còn dính mắc đi không nỡ, ở không được thì khó chết, vì bị giằn co vậy. Cho nên học hiểu, quán kỹ để sống đúng lẽ thật, đó là tạo những chiếc phao cho mình trước khi vô thường đến là đã biết tu rồi.
III/ THẤY NGƯỜI KHÁC CHẾT NHỚ ĐẾN MÌNH.
Chúng ta cần luôn quán chiếu mọi sự việc, khi thấy người khác chết, phải nhớ tới mình cũng sẽ chết. Đừng nên nghĩ việc đó là của người ta, không dính tới mình, người ta chết chớ mình không có chết, đó là một sai lầm lớn. Trong kinh A Hàm ghi khi Phật ở tại tinh xá Kỳ Hoàn dạy các vị Tỳ kheo quán về cái chết như sau:
Ở thế gian có 4 hạng ngựa:
1- Loại ngựa vừa thấy bóng roi của chủ liền sợ, đi theo ý chủ.
2- Hạng ngựa này phải đợi cây roi chạm vào lông mới sợ.
3- Hạng ngựa thứ ba, đợi roi đánh đụng da bị đau mới chạy.
4- Hạng thứ tư, đợi roi đánh mạnh đau thấu xương mới chạy.
Và Phật hợp pháp, để độ bậc trượng phu qua bờ giải thoát, cũng có 4 pháp:
1- Có những người chỉ nghe ở trong thôn xóm, có kẻ nam người nữ bị bệnh, khổ đau bức ngặt sắp chết. Nghĩ mình rồi cũng vậy, nên liền sanh nhàm chán đối với pháp thế tục, để hết lòng tu thiện. Đó là bậc trượng phu điều thuận, như ngựa thấy bóng roi liền chạy.
2- Có người nghe chưa đủ, phải chính mắt mình thấy kẻ nam người nữ trong xóm bệnh, bị khổ ngặt nghèo sắp chết. Cảnh này khổ quá, rồi mình cũng sẽ đi tới chỗ đó, nên thức tỉnh lo tu. Đó giống như loại ngựa thứ hai.
3- Chỉ cho người chính mắt thấy cảnh khổ của người cũng chưa chịu tỉnh. Phải chính mắt mình thấy, bà con thân quyến của mình bị bệnh, khổ ngặt nghèo mới chịu tỉnh, còn người kia là người dưng không dính dáng đến mình. Đó là giống hạng ngựa thứ ba ở đây.
4- Hạng người này phải đợi chính thân mình bệnh khổ mới tỉnh.
Phật dạy 4 hạng người giống như 4 loại ngựa của bậc hiền nhân cỡi. Hạng người thứ tư còn dở nhưng cũng có tỉnh, chớ còn nhiều người không chịu tỉnh, thấy người ta chết là chuyện người ta. Tới khi chính mình khổ cũng chưa tỉnh, còn lo sự nghiệp trăm năm, lo xây mồ mả kiên cố nguy nga, mua cái hòm chắc đến trăm năm mới mục, vẫn không chịu tỉnh. Cổ đức có bài kệ nhắc nhở mọi người thức tỉnh tu hành:
                            Ngã kiến tha nhân tử 
                            Ngã tâm nhiệt như hỏa 
                            Bất thị nhiệt tha nhân 
                            Khán khán lâm đáo ngã.
                            ***
                            Ta thấy người khác chết 
                            Lòng ta nóng như lửa 
                            Không phải nóng đốt người 
                            Thấy sẽ đến phiên ta.
Thấy người khác chết lòng mình như lửa đốt. Cái nóng đây là thấy người ta chết, biết mình cũng sẽ đến cái chết. Người lanh lợi nhạy bén là như vậy, thức tỉnh nhanh chớ không phải nghĩ đó là việc riêng của người khác. Đây là pháp cảnh tỉnh chúng ta sống bớt buông lung, và có liên hệ tốt với nhau. Như vậy, thấy rằng thân này không bền chắc, không nên quá mê đắm vào nó để bớt tạo nghiệp, đó là con đường tu. Nếu không hiểu được như vậy, mê đắm vào thân này chấp nó là mình, rồi theo đó tạo đủ muôn ngàn thứ nghiệp, Phật gọi đó là vô minh, là điên đảo. Từ “điên đảo” rất hay. Điên là điên khùng. Đảo là đảo ngược, lộn ngược. Cũng vậy, cái không phải mình mà nhận là mình, không phải thật nhận là thật, đúng là điên đảo. Nhờ Phật pháp chỉ dạy, chúng ta luôn luôn quán chiếu, mở sáng trí tuệ để thấy đúng lẽ thật, đó là chỗ Phật thương xót, đánh thức cho chúng ta tiến tu, chớ không phải cứ mê lầm lo tạo nghiệp.
Trong kinh Tọa Thiền Tam Muội có bài kệ:
                            Ngày nay làm việc này 
                            Ngày mai làm việc kia 
                            Tham đắm không thấy khổ 
                            Bất giác giặc chết đến.
Ngày nay làm việc này, ngày mai làm việc khác, cứ lo tham đắm liên tục, bất chợt cái chết đến, không có phao, không có gì hết…….
                            Lăng xăng lo việc mình 
                            Việc người cũng chẳng yên 
                            Giặc đến không hẹn trước 
                            Lúc đến không trốn thoát.
Việc mình lăng xăng, việc người cũng vậy, cái chết đến lúc nào không hay, không hẹn trước, không trốn thoát gì được.
                            Như con nai khát nước 
                            Cắm đầu bên suối uống 
                            Thợ săn chẳng thương xót 
                            Chẳng để uống rồi giết.
Con nai khát nước đến bờ suối uống, thợ săn rình sẵn là giết ngay, không để cho nó uống nước xong mới giết. Cũng vậy khi cái chết đến, nó không nói đợi người đó làm xong việc đó rồi hãy chết, nó không hẹn và không chừa ai cả.
                            Người ngu cũng như vậy 
                            Siêng năng lo sự nghiệp 
                            Chết đến chẳng hẹn lúc 
                            Ai sẽ bảo hộ ông?
Người mê cứ lo tạo nghiệp này, nghiệp nọ, không lo kết phao, khi chết đến lấy gì bảo hộ. Lúc đó thì đâu có hẹn lại được, là việc này tôi chưa làm xong hãy đợi cho tôi làm xong. Như ngoài đời có nhiều người nói bận nhiều việc, hoặc là còn lo cho mấy đứa cháu còn nhỏ, nên không có thời gian tu. Khi tuổi thọ hết, vô thường đến không hẹn đợi chờ ai cả, phải theo nó ra đi thôi.
                             Lòng người mong giàu sang 
                            Hưởng ngũ dục chưa thỏa 
                            Như các hàng vua chúa 
                            Không ai mà khỏi chết.
Tham cầu giàu sang, sống một đời đầy đủ vật chất như vua chúa cũng phải chết.
                            Bậc tiên trì chú tiễn
                            Cũng không khỏi chết sống 
                            Voi dữ vô thường đến 
                            Trùng kiến cũng thành đất.
Những vị tiên trì chú trường thọ, hoặc uống thuốc trường sanh bất tử mong không chết, song cuối cùng rồi cũng chết, cho nên hiện tại chúng ta không gặp ông tiên nào hết. Cho đến những vị trời sống ở cõi trời Phạm Thiên, hoặc cõi trường thọ hưởng hết phước rồi cũng chết, không ai thoát khỏi; từ loài lớn đến loài nhỏ như trùng, kiến cũng thành đất. Phật dạy chúng ta quán kỹ, thấy rõ được lẽ thật cái chết đến là như vậy, để chuẩn bị tinh thần không nên nghĩ chúng ta còn sống lâu chưa đến nổi, không phải vậy. Phải lo chuẩn bị khi cái chết đến không chới với, hoảng sợ mà phải rõ sanh tử là lẽ thường nhiên, sợ cũng không khỏi được. Có chuẩn bị trước thì hay hơn, bình tỉnh ra đi an bình hơn.
Một bậc thầy Tây Tạng có dạy: “Một trong những lý do chính, khiến ta lấy làm khó khăn lo sợ khi đối mặt với cái chết, là vì ta tảng lờ sự thật về vô thường. Chúng ta cứ khăng khăng, muốn mọi sự đều tiếp tục như cũ, đến nổi ta tưởng rằng chúng vẫn như vậy, nhưng đó chỉ là ảo tưởng”.
Ngài dạy, do chúng ta tảng lờ, lờ qua cái chuyện vô thường, không dám nghĩ đến, khiến ta lấy làm khó khăn lo sợ khi đối mặt với cái chết. Thí dụ ở đời già sắp chết phải sắm cái hòm, không dám gọi là cái hòm mà gọi là cái thọ, rõ ràng như vậy. Tức là né tránh sự thật về vô thường, nên khi nó đến thì sợ hãi chới với. Vì thế, chúng ta phải luôn luôn quán chiếu, phải nhớ mỗi khi mình đang đi, đang bước là đang đi trong cái chết, khi cười cũng đang cười trong cái chết, luôn nhớ như thế thì lúc nào cũng tỉnh.
IV/ MỞ MẮT TUỆ THẤY ĐÚNG LẼ THẬT.
Chúng ta học đạo thấy rõ như vậy rồi, phải mở mắt trí tuệ thấy đúng lẽ thật, không đi theo những sự mê lầm nữa. Học Phật phải thực hành đúng theo Phật pháp, là trừ bỏ lo buồn khổ não, thân này là vô thường nhất định phải chết, phải thấy đúng vậy không bỏ lờ qua.
Không lầm chấp thân này là mình, mình không phải cái chết đó, bản chất thân này là hoại diệt, phải thấy đúng lẽ thật như vậy là mở mắt trí tuệ của chính mình nhìn thấy, chớ không phải để hiểu.
Học Phật là học lời dạy của Phật, như nói thân này là vô thường thì chúng ta cũng hiểu được, nhưng đó là của Phật chưa phải của chúng ta. Chúng ta phải luôn luôn quán chiếu chính mình, tự thấy như vậy mới chính là của mình, đó mới là quan trọng. Nhưng thường đa số người học Phật, chỉ học cái của Phật mà thôi. Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ nhất, có bài kệ nói về cái chết như sau:
                        Thân thể nằm dài trên giường lần cuối 
                        Miệng thì thào những lời trăn trối 
                        Tâm ngắm nhìn ký ức lần cuối diễn ra 
                        Bi kịch ấy khi nào sẽ đến với ngươi ?
Cái thân khi nằm trên giường lần cuối, thì lúc đó miệng thì thào những lời trối trăn, dặn dò con cháu. Khi ấy, tâm ngắm nhìn ký ức lần cuối, diễn ra những cuộn phim của cả cuộc đời quay lại. Mỗi người hãy tự hỏi xem, cảnh ấy khi nào sẽ đến với mình đây? Phải thấy bằng chính con mắt trí tuệ của mình và tiến thêm một bước cảm nhận trong cái thân vô thường có cái không vô thường, trong cái sanh tử có cái vô sanh. Người mở được mắt tuệ rồi là tiến lên, chớ không chịu theo sự vô thường đó, mà phải vươn lên một cách tự tại bình thản, học Phật là phải như vậy. Nhưng đa số người thế gian đành chịu vậy, bởi vì nghĩ ông bà, tổ tiên, cha mẹ mình cũng chết, thì mình cũng chết, thôi đành chịu không làm gì khác được.
Do đó chúng ta phải noi theo sự tu hành của Phật, chính Phật là gương nhắc nhở cho chúng ta. Khi Phật dạo 4 cửa thành thấy cảnh người già, bệnh, chết thì Ngài liền tỉnh, hỏi Xa Nặc có ai khỏi chết không? Xa Nặc trả lời ai rồi cũng phải chết, Thái tử cũng chết luôn. Ngài băn khoăn hỏi ai sanh ra cũng chết, không cách nào vượt ra khỏi cái chết hay sao? Cho nên chính điều này thúc đẩy Ngài bỏ hoàng cung đi tìm giải thoát, quyết chí tìm cho ra cách giải quyết, tức là có sanh có tử phải có nguyên nhân của nó, chớ không phải ngẫu nhiên. Khi tìm ra nguyên nhân đó, chấm dứt được nguyên nhân đó, là giải quyết được vấn đề. Đức Phật làm được chuyện đó, tức là Ngài không chịu cúi đầu theo nó. Chúng ta học Phật cũng vậy, cũng không chịu như vậy, phải ở trong đó vươn lên, nhận rõ trong sanh tử có cái vô sanh, để sống trở về với cái vô sanh đó, vươn lên khỏi sanh tử, chớ không chịu cúi đầu theo sanh tử.
Trong quyển “Con người siêu việt” Ngài Milarepa có nói: “Vì sợ chết tôi đi vào trong núi, liên tục trầm tư về tính chất bất định của giờ chết. Bỗng bắt gặp thành trì bất tử vô tận của tâm bản nhiên. Bây giờ tất cả nỗi sợ hãi đều tan biến, và trong sanh tử mở cái thấy trí tuệ vô sanh”. Ngài sợ chết nên tìm cách giải quyết cái chết, bằng việcï đi vào núi tu hành, trầm tư liên tục về giờ chết bất định. Ngẫm xét về cái chết khi nó đến với bản thân. Cuối cùng, Ngài giác ngộ, bắt gặp thành trì bất tử vô tận là tâm bản nhiên, chân tâm sẵn có của chúng ta, nhận được cái tâm bản nhiên, cái này không chết, tất cả nỗi sợ chết đều tan biến.
Ngay trong sanh tử mở được trí tuệ vô sanh, thấy rõ mình không phải là cái chết này. Khi sống được với tâm bản nhiên rồi, cái chết đến thì chúng ta an ổn, vì đã có phao. Đó là kinh nghiệm. Ngài nhắc nhở chúng ta niệm về cái chết để vượt lên cái chết, mở sáng trí tuệ, không phải niệm về cái chết để mà chán đời.
Nhiều người ở thế gian, nghe học Phật nói gì cũng sanh tử vô thường, làm con người ta chán đời, không còn muốn làm gì cả. Cho nên, nhiều người phê bình đạo Phật là đạo bi quan, yếm thế, đó là chưa hiểu đúng về đạo Phật. Còn ở đây, đức Phật dạy rất rõ, Ngài chỉ cho chúng ta nhận định cái nào thật, cái nào giả để không lầm cái giả, trở về sống với cái thật. Niệm về cái chết, là để vượt lên cái chết, đó là con đường mỗi người con Phật phải đi. Muốn vậy, mỗi người phải có kinh nghiệm tu hành, nghĩa là phải quán chiếu trong từng tâm niệm của mình, giải quyết ngay trong từng tâm niệm để sáng tỏ được tâm bản nhiên. Nhận được tâm bản nhiên, là hết còn lo sợ chết, giúp tăng thêm kinh nghiệm hành thiền.
Đây là một trong những kinh nghiệm tinh yếu hành thiền của Phật giáo Tây Tạng.
Có bốn điểm chúng ta phải luôn quán chiếu, nhớ kỹ để rút thêm kinh nghiệm tu hành:
1- “Khi một niệm quá khứ đã chấm dứt, mà niệm vị lai chưa sanh, trong khoảng hở giữa hai niệm, có phải là có một ý thức về thực tại, mới mẻ nguyên sơ, không bị thay đổi bởi một mảy may khái niệm nào, thuần là một sự tỉnh giác nguyên vẹn hay không? Đấy! Tâm bản nhiên là thế đấy”. Nghĩa là khi niệm trước diệt, niệm sau chưa sanh, liền có khoảng hở. Bây giờ chúng ta phải khéo thấy, làm sao nhảy vào khoảng hở đó, là chúng ta làm chủ được niệm, thì tâm bản nhiên ngay chỗ đó, chơn tâm nằm ngay chỗ đó.
2- “Tuy nhiên, nó không ở mãi trong trạng thái như vậy, bởi vì một niệm khác lại khởi lên. Đấy chính là ánh sáng chiếu ra của tâm bản nhiên”. Chúng ta tu chưa được miên mật liên tục, nên một niệm khác khởi lên, phải khéo soi trở lại đừng theo nó.
3- “Nhưng nếu bạn không nhận ra niệm ấy, đúng như bản chất của nó ngay khi nó khởi, thì nó sẽ trở thành một ý tưởng khác như trước, đây gọi là “dây chuyền vọng tưởng” và là nguồn gốc của sanh tử”. Nghĩa là ngay niệm sau khởi lên, không nhận rõ đúng ngay bản chất của nó, thì thành ra ý tưởng khác. Có niệm tưởng mới xen vào là thành ý tưởng khác dẫn đi trong sanh diệt nên gọi là “dây chuyền vọng tưởng” là niệm này tiếp nối niệm kia. Niệm trước diệt niệm sau chưa sanh thì có khoảng hở, phải nhảy vào khoảng hở đó. Nếu nhảy chưa được, chưa kéo dài được thì niệm sau sẽ sanh khởi nữa. Khi niệm sau sanh khởi, nhận rõ bản chất của nó, nếu không nó thành ra ý tưởng mới và lại tiếp tục sanh khởi mãi. Như vậy là niệm niệm tiếp tục sanh diệt không gì khác, con đường đó gọi là nguồn gốc sanh tử.
4- “Nếu bạn có thể nhận chân được bản chất thật sự của ý tưởng (vọng tưởng), ngay khi nó khởi lên, thì cứ để yên đừng theo đuổi thêm. Bất cứ ý tưởng nào khởi lên, đều tự động tan vào khoảng bao la của tâm bản nhiên, và bạn được giải thoát”. Tức là ý tưởng khởi lên, chúng ta không theo nó thì nó sẽ tan, lỗi là tại chúng ta theo nó, nên bị nó dẫn. Do đó, chúng ta cần phải khéo tỉnh giác, thấy sâu vào lẽ thật ngay thân tâm của mình, đó là mở mắt trí tuệ, vượt lên sanh tử, chính ngay trong sanh tử là vô sanh. Vậy thân này chết nhưng ánh sáng đó không chết, tâm bản nhiên không chết, đó là con đường vượt qua sanh tử. Vì vậy, khi chúng ta niệm về cái chết là để vượt qua cái chết, cần phải nhớ như vậy.

V/ TÓM KẾT.
Tóm lại, cái gì có sanh thì có tử, từ thân chúng ta cho đến cảnh vật bên ngoài, phải nhớ chắc chắn như sau:
1- Thân chúng ta có sanh thì có tử, tâm có sanh thì có diệt, còn tâm không sanh thì không diệt. Đó là hai lẽ thật rõ ràng, nhận rõ để không lầm, cần phải nhận ra cái tâm không sanh không diệt đó để vươn lên.
2- Có sanh thì có tử là lẽ thường nhiên, không ai tránh khỏi, không phải của riêng ai. Vậy thì cái chết đến với chúng ta cũng không lấy làm lạ, vì đây là cái chết của tất cả, đừng nhớ cái này là của riêng mình để bớt sợ.
3- Thân này có sanh thì có tử, tức là không phải là ta, không phải của ta. Nhớ như vậy khi mất nó thì kệ nó, không dính dáng gì tới cái bản lai diện mục của chính mình. Thiền sư Pháp Loa khi sắp tịch nói bài kệ: 
                        Muôn duyên cắt đứt một thân nhàn, 
                        Hơn bốn mươi năm giấc mộng tràng, 
                        Nhắn bảo mọi người thôi chớ hỏi, 
                        Bên kia trăng gió rộng thênh thang.
Tuy bỏ cái này nhưng bên kia trăng gió rộng thênh thang, có gì phải lo sợ! Vua Trần Thái Tông trong những ngày cuối cuộc đời, vua có bệnh quốc sư Đại Đăng vào thăm hỏi: “Bệ hạ bệnh chăng?”. Vua đáp: “Tứ đại là bệnh, cái này xưa nay sanh tử không can hệ, mà dính kẹt trong bệnh hoạn sao?”. Rồi mấy hôm sau, khi sắp mất, vua Thánh Tông muốn nhờ hai vị quốc sư Phù Vân và Đại Đăng đến nói pháp xuất thế cho Ngài nghe. Thái Tông gằn giọng bảo: “Đến trong đây bớt một mảy tơ dường trên thịt khoét thương tích, thêm một mảy tơ như trong mắt để bụi. Ba đời chư Phật bốn mắt nhìn nhau, sáu đời Tổ sư thoái thân có phần. Dù Phù Vân nói huyền, Đại Đăng thuyết diệu đều là lời thừa, có ích gì đối với cái này”. Nói xong Ngài lặng lẽ ra đi, thọ 60 tuổi.
Chúng ta thấy khi nhà vua bệnh được quốc sư Đại Đăng đến thăm bệnh, mà Ngài vẫn xác định “Tứ đại bệnh còn cái ấy đâu có bệnh, cái ấy đâu có dính dáng gì trong bệnh hoạn”. Để thấy là nhà vua hằng sống được trong đó, nên mới an nhiên trả lời như vậy. Rồi khi vua cha sắp mất, Thánh Tông nhờ hai vị quốc sư đến trợ niệm giúp vua cha, nhưng vua cha không cần vì Ngài đủ sức làm chủ lấy bản thân, nên nói: “Đến trong đây bớt một mảy tơ thì dường như trên thịt khoét thành thương tích, thêm một mảy tơ như trong mắt có bụi”. Nghĩa là trong đó không cần thêm bớt gì nữa, như vậy là như vậy, thêm hay bớt chỉ là tạo thêm thương tích mà thôi. “Ba đời chư Phật bốn mắt nhìn nhau, sáu đời Tổ sư thoái thân có phần”, tức là chỗ ba đời chư Phật nhìn nhau không có kẻ hở cho ông dòm vào, cũng là chỗ chư Tổ phải lùi lại, ông làm sao bám. Vì thế hai vị quốc sư có bàn huyền nói diệu gì, thì cũng không dính dáng, chỉ như lời nói bên ngoài, lời dư thừa thôi. Nói xong rồi thì vua lặng lẽ ra đi.
Đúng là làm chủ trong sanh tử. Làm vua bao nhiêu việc mà Ngài còn rảnh rang tu được, có sức tự chủ trong sanh tử, còn chúng ta thì sao? Việc chúng ta đâu có nhiều hơn ông vua! Chúng ta còn nhiều thời gian lắm, lại đổ thừa công việc bề bộn tu không được, vậy là sao?
Qua tấm gương của vua Trần Thái Tông, chúng ta phải hổ thẹn cho mình. Nhà vua có chỗ sống chân thật nên khi bỏ thân này không có lo sợ, còn chúng ta khi phải bỏ thân này thì sao? Đó là chỗ chúng ta phải luôn học, luôn nhớ để quán chiếu. Trong kinh Di Giáo, lời dạy sau cùng trước khi Phật nhập Niết Bàn là: “Đây là vật tội ác và đáng bỏ, giả gọi là thân, nó chìm đắm trong biển sanh già bệnh chết. Như thế có người trí nào trừ diệt được thân này, như giết bọn giặc cướp mà chẳng vui mừng”. Lời đức Phật dạy nhắc nhở chúng ta bỏ thân là trừ được giặc, là vui chớ không phải buồn. Đó là chỗ chúng ta học suốt đời đến khi nhắm mắt chưa chắc đã xong, nào phải chỉ học vài ba hôm rồi thôi. Phải luôn ghi nhớ để trừ tham luyến về tấm thân này, để ngày ra đi chúng ta được nhẹ nhàng tự tại.
Đây không phải là chuyện trên chữ nghĩa, mà là chỗ cần phải sống. Một bậc thầy của Tây Tạng đánh thức mọi người: “Bạn có bao giờ hiểu, thân chứng về sự vô thường hay chưa? Bạn đã thâm nhập nó trong từng ý tưởng, động tác, hơi thở, đến nổi cuộc đời bạn nhờ vậy đổi mới hay chưa?”. Nhắc mọi người chúng ta luôn luôn tự kiểm lại mình có thật sự hiểu, thân chứng về sự vô thường chưa? Phải thâm nhập trong từng ý tưởng, động tác, hơi thở, phải đi đứng, nằm ngồi, nói cười luôn nhớ về cái chết, thì cuộc đời chúng ta mới đổi mới được. Mỗi người phải tự hỏi mình hai câu sau:
1- Tôi có nhớ hay không rằng tôi cùng mọi người, mọi vật đang tiến dần đến cái chết, và vì thế phải đối xử với mọi chúng sanh bằng lòng bi mẫn?
2- Sự hiểu biết về chết và vô thường nơi tôi, có thực đã trở nên bén nhạy, cấp thiết đến độ tôi đang dành mọi giây phút còn lại của đời tôi để theo đuổi sự nghiệp giác ngộ hay không? Nếu bạn có thể trả lời: “có” ù cho cả hai câu hỏi ấy, thì bạn mới thật sự đã thâm nhập lý vô thường.
Qua hai câu hỏi này có nghĩa là chúng ta phải luôn luôn hỏi mình, có nhớ là chúng ta đang chết hay không? Mình và mọi người ai cũng đang chết, thông cảm cùng hoàn cảnh thì phải đối xử với nhau cho tốt đẹp. Và sự hiểu biết về chết và vô thường, có thật sự cấp thiết đến độ chúng ta dùng tất cả thời gian còn lại của đời mình, để dành cho sự nghiệp giác ngộ hay không? Nếu có thể trả lời: “có”ù cho cả hai câu hỏi, thì chúng ta mới thực thâm nhập lý vô thường, còn chưa là vẫn chưa thật hiểu vô thường.
Hiện nay, có người học Phật thường nói: “Tôi học “minh tâm kiến tánh”, còn nói “vô thường” là chuyện quá xưa, là chuyện của mấy người sơ cơ mới học”. Sự thật, ở đây người nào trả lời “có” trong hai câu hỏi này, mới thật sự hiểu lý vô thường. Chúng ta phải luôn nhớ như vậy, bài học này chúng ta phải học suốt đời, thì việc tu hành sẽ tăng tiến, mới đúng là thấy biết sáng suốt.