Tuesday, August 9, 2011

Nhận diện sân hận _Phan Minh Đức

Sân hận là một dạng tâm lý tiêu cực tồn tại tiềm ẩn trong mỗi con người, nó thường sinh khởi, bộc phát mỗi khi gặp điều kiện nhân duyên thích hợp.




Đức Phật xem sân hận là một loại độc tố có khả năng tàn phá tâm hồn và thể xác con người không chỉ trong đời này mà cả những đời sau. Trong các kinh đức Phật thường gọi sân cùng với tham, si là Tam độc. Đức Phật còn ví sân như lửa dữ, như giặc cướp: “Cái hại của sân hận là phá hoại các pháp lành và cả danh thơm tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau người khác không thích thấy mặt người sân hận. Phải biết lòng sân hận còn hơn lửa dữ, thường phải đề phòng không cho nó xâm nhập. Giặc cướp công đức không gì hơn giận dữ” (kinh Di Giáo). Cũng trong bài kinh trên, đức Phật ví sân hận như con rắn độc. Ngài dạy các thầy Tỳ kheo, nếu như có rắn vào liêu phòng thì phải đuổi nó ra, kẻo bị nó làm hại. Cũng vậy, nếu trong tâm có những con rắn độc tham, con rắn độc sân, con rắn độc si thì phải mau trừ bỏ, nếu không sẽ bị chúng làm hại.



Lòng sân hận chẳng những làm cho bản thân con người bị bức bách, khổ não, mà còn mang lại sự bất an cho tha nhân và xã hội. Đối với bản thân, người ôm lòng sân hận dễ gây lầm lỗi, tạo những nghiệp bất thiện làm nhân khổ cho đời này và đời sau. Khi cơn giận nổi lên, người ta không làm chủ được cảm xúc, không kiểm soát được suy nghĩ, hành động, lời nói, từ đó dễ tạo ra những nghiệp bất thiện từ thân (hành hạ, đánh đập người khác, phá hoại tài sản, của cải, bất kính người trên, không thương kẻ dưới…), khẩu (nói lời cay độc, chửi rủa, mắng nhiếc, xúc phạm người khác…), ý (nghĩ điều sai quấy, xấu ác làm tổn hại người khác). Lòng sân hận che mờ tâm trí khiến cho con người không nhận ra bản chất của sự việc, không có khả năng xử lý các tình huống gặp phải một cách tích cực, đúng đắn có lợi cho mình và người. Lòng sân hận khiến cho con người không có được cảm xúc an lạc hạnh phúc, cuộc sống mất đi niềm vui, ý nghĩa.



Theo Tâm lý học Phật giáo (Duy thức học), sân là một trong 6 căn bản phiền não: Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Bởi đây là phiền não gốc rễ ăn sâu trong tâm thức con người nên gọi là căn bản phiền não. Sân thuộc nhóm “Câu sinh phiền não,” tức loại phiền não xuất hiện cùng lúc với con người (câu sinh-cùng sinh ra). Có nghĩa là khi sinh ra, trong tâm thức con người đã có mầm mống loại phiền não này.



Theo thuyết Alaiya duyên khởi thì sân cũng như các pháp khác đều do nhân duyên mà sinh khởi. Khi gặp điều kiện, nhân duyên thích hợp thì các bản hữu chủng tử sân hận (hạt giống sân hận có sẵn do đã tích tập nhiều đời) trong tâm thức sẽ sinh khởi, càng huân tập nhiều chủng tử sân hận (hạt giống sân hận) thì các bản hữu chủng tử sân hận càng được nuôi dưỡng, tiếp sức để có điều kiện sinh khởi và phát triển. Nếu các chủng tử sân hận thường xuyên được gieo trồng, tưới tẩm, hun đúc, chúng sẽ trở thành tập khí (thói quen), những tập khí này tạo nên một tính cách, cá tính con người: Nóng giận, đầy sân hận, cộc cằn, thô lỗ, thích bạo lực, manh động.



Sân hận có nhiều trạng thái, nhiều mức độ, nhiều biểu hiện, ví dụ như: Bực tức, giận hờn, nổi nóng, oán hận, căm thù…có khi biểu hiện qua nét mặt (nhíu mày, nhăn mặt, trợn mắt, nghiến răng…), thái độ, lời nói (la lối, nạt nộ, quát tháo, gào thét, nói lời thô lỗ cộc cằn, dọa nạt…), cử chỉ, hành động (đánh đập người hoặc súc vật, quăng ném đồ đạc, hành hạ, giết chóc…), nhưng cũng có khi không biểu hiện ra mà được giữ kín trong lòng. Một số điều kiện, nhân duyên làm cho sân sinh khởi: Căng thẳng, mệt nhọc, đói khát, đau bệnh, bị khiêu khích, bị đả kích, bị oan ức, bị làm tổn thương tinh thần hoặc thể xác, quyền lợi bị xâm phạm, chiếm đoạt, danh dự bị tổn thương, gặp cảnh bức ngặt như lạnh, nóng, đói, khát, nghèo khó, túng quẫn, gặp hoàn cảnh bất như ý, ý đồ, tham muốn, khát vọng bị cản trở, không thực hiện được, không được thỏa mãn v.v..



Ngoài tác hại đối với cá nhân, xã hội về phương diện đạo đức, phương diện tinh thần như đã nói ở phần trên, sân hận còn nhiều tác hại đối với sức khỏe con người, làm ảnh hưởng đến chất lượng đời sống. Về phương diện sức khỏe, khi tức giận, ngay lập tức cơ thể tăng tiết adrenalin làm tim đập nhanh và tăng huyết áp, hô hấp không bình thường, suy nghĩ lung tung. Nếu tâm trạng thường xuyên căng thẳng thì các tuyến trong cơ thể sẽ hoạt động sai lệch, dẫn đến dễ mắc các bệnh về tim mạch, tiêu hóa. Theo Y học phương Đông, bệnh tật do thất tình (7 tình chí, 7 loại tình cảm, tâm lý): Hỷ, nộ, ái, ố, bi, kinh, khủng (hay hỷ, nộ, ái, ố, ai, cụ, dục) mà sinh ra. Thất tình làm tổn thương tinh thần, làm mất cân bằng âm dương là nguyên nhân chính sinh ra bệnh tật. Trong bảy tình chí (thất tình) thì nộ (nổi giận) chính là sân. Đông y cũng cho biết thêm: Tức giận hại gan, mừng quá hại tim, lo âu hại tỳ, bi thương hại phổi, hoảng sợ hại thận…Trong lĩnh vực tâm lý, sân hận, tức giận, có thể dẫn đến triệu chứng trầm cảm, sống thụ động, khép kín, sầu não, u uất, chán chường, bất cần đời, tự hủy hoại bản thân, không quý trọng sự sống…



Sự sân hận, tức giận có tính lây lan như một căn bệnh truyền nhiễm. Sống trong môi trường sân hận, không khí căng thẳng, nặng nề, sự sân hận, tức giận có thể từ người này lây lan sang người khác. Một người mang tâm trạng sân hận, đang tức giận, bực bội sẽ khiến cho những người xung quanh cũng cảm thấy ngột ngạt và căng thẳng, bực bội theo. Một người nổi nóng có thể làm người khác nổi nóng theo. Lòng sân hận giống như một ngọn lửa, nó có thể cháy lan ra khắp nơi.



Theo Tâm lý học, có hai cách giải quyết sự tức giận: Một là kiềm nén, hai là cứ để nó bộc phát ra. Kiềm nén sự tức giận sẽ gây ra những hậu quả không tốt cho sức khỏe, do đó người ta khuyến cáo nên sử dụng cách thứ hai là để cho sự tức giận bộc phát. Dĩ nhiên là không thể để sự tức giận làm tổn hại bản thân và người khác, người ta trút giận lên đồ vật để giải tỏa tâm lý căng thẳng bực bội của mình. Người ta ném vỡ những cái đĩa, đánh vào bao cát, đánh vào gối hoặc quay mặt vào tường mà la hét cho hả giận.



Theo Phật giáo, cả hai cách trên đều không phải là phương pháp tốt để chuyển hóa lòng sân hận, sự tức giận. Bởi vì sự kiềm nén cơn giận ở trong lòng chẳng những có hại cho sức khỏe, mà đó còn là một hình thức nuôi dưỡng cơn giận, giữ cơn giận ở dạng tiềm ẩn, đến một lúc nào đó khi gặp điều kiện thích hợp, khi không thể kiềm chế được nữa thì cơn giận lại bộc phát, thậm chí mức độ càng đáng sợ hơn cơn giận lúc ban đầu. Cách để cho cơn giận bộc phát (la hét, đánh đập súc vật, quăng ném đồ đạc) có thể giải tỏa phần nào sự tức giận nhưng không triệt để làm tiêu tan cơn giận, vì không phải trực tiếp trút giận lên đối tượng làm cho mình tức giận, hoặc vì chưa giải quyết được vấn đề đã khiến mình tức giận. Cho nên đây cũng chỉ là cách tạm thời, không phải là giải pháp tối ưu. Hơn nữa cách tìm đối tượng để trút giận mỗi khi tức giận như thế sẽ dần dần tạo thành thói quen xấu, hễ mỗi khi tức giận thì lại quăng ném đồ đạc, đập vỡ bát đĩa, đánh bao cát, gối ôm, hoặc la hét, thét gào…



Phật giáo có nhiều cách để hóa giải lòng sân hận, sự tức giận một cách hiệu quả:



1. Phương pháp chánh niệm: Ý thức rõ cơn giận đang có mặt trong tâm. Việc nhận biết sự hiện diện của cơn giận giúp chúng ta kiểm soát nó trước khi nó chế ngự tâm trí chúng ta. Nếu hướng tâm chú ý đến đối tượng làm cho chúng ta tức giận thì cơn giận trong ta càng thêm lớn. Nhưng nếu hướng tâm vào bên trong, quán sát, theo dõi cơn giận, cảm xúc giận dữ của mình thì cơn giận trong ta sẽ dần dần lắng xuống. Trong pháp quán Tứ Niệm Xứ, đức Phật đã dạy các thầy Tỳ kheo quán tâm ở nơi tâm bằng cách thức đó. Hành giả theo dõi tâm mình, biết rằng tâm có tham khi tham khởi lên, biết rằng tâm có sân khi sân khởi lên, biết rằng tâm có si khi si khởi lên. Hành giả luôn chánh niệm tỉnh giác.



Phương pháp quán niệm hơi thở cũng giúp chúng ta làm chủ cơn giận. Mỗi khi tức giận, nên hít thở sâu, hơi thở chậm, đều, êm, nhẹ, để tâm ý tập trung theo dõi hơi thở vào, hơi thở ra. Biện pháp này giúp tâm lý ổn định, chúng ta có được sự bình tĩnh, có bình tĩnh mới đủ sáng suốt để xem xét sự việc và có cách giải quyết, ứng xử phù hợp.



2. Phương pháp chuyển hóa cơn giận: Sau khi nhận biết rõ sân đang khởi lên trong tâm, bằng phương pháp chánh niệm hơi thở chúng ta làm cho cơn giận lắng dịu. Sau đó chúng ta tiếp tục dùng ý niệm chuyển hóa cơn giận để cơn giận hoàn toàn biến mất khỏi tâm. Đây là phương pháp triệt tiêu cơn giận nếu như phương pháp chánh niệm chưa làm cho cơn giận mất hẳn.



Trong kinh Pháp Cú, đức Phật dạy: “Người kia không hiểu rằng: Tất cả mọi người đều sẽ bị hủy diệt bởi luật vô thường, cho nên mới phí sức tranh luận hơn thua. Nếu họ hiểu rõ điều đó thì chẳng còn tranh luận nữa”. Khi quán niệm lời Phật dạy, thấy rằng ai rồi cũng sẽ chết, mọi sự hơn thua chẳng có nghĩa lý gì. Tức giận để làm gì? Hơn thì sao? Thua thì sao? Tại sao không để cho lòng thanh thản, sống vui vẻ mà lại gây thêm phiền phức, làm cho cuộc sống bị xáo trộn, bất an. Hãy để dành thời gian, hơi sức làm những việc có ích cho bản thân và cuộc đời.



Việc quán nhân duyên, nghiệp báo cũng giúp chúng ta dứt trừ sân hận. Khi nghĩ rằng tất cả những gì xảy đến với chúng ta đều có nhân duyên cả, từ đó dễ dàng chấp nhận những điều không như ý. Chúng ta biết rằng thái độ buông xả, chấp nhận trả nghiệp báo và không tiếp tục tạo nhân bất thiện là một thái độ sáng suốt. Trong kinh Pháp Cú, đức Phật đã dạy rất nhiều về điều đó: “Nó lăng mạ tôi, đánh đập tôi, phá hoại tôi, cướp đoạt của tôi”, ai còn ôm ấp tâm niệm ấy thì sự oán hận không thể dứt.” (kệ thứ 3), “Nó lăng mạ tôi, đánh đập tôi, phá hoại tôi, cướp đoạt của tôi”, ai bỏ được tâm niệm ấy thì sự oán hận tự dứt”(PC.4), “Ở thế gian này, chẳng phải hận thù trừ được hận thù, chỉ có từ bi trừ được hận thù. Đó là định luật ngàn thu”(kệ thứ 5)



3. Tu tập Tứ vô lượng tâm: Từ, bi, hỷ, xả là phương pháp tối ưu giúp chúng ta chuyển hóa hoàn toàn hạt giống sân hận trong tâm, cởi bỏ oán kết, trải rộng tình thương, làm lan tỏa năng lượng từ bi đến với mọi người dù đó là đối tượng làm cho ta sân hận.

http://www.daophatngaynay.com/vn/Tap-chi-Dao-Phat-Ngay-Nay/Bai-viet-chon-loc/8221-Nhan-dien-san-han.html

Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh dạy về cách nhất tâm, tinh tấn và chuyển hóa vọng niệm

Thích Hoằng Tri thực hiện

Đại lão Hoà thượng Thích Trí Tịnh sinh năm 1917, được suy cử Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN từ năm 1984 đến nay, là một bậc Tòng Lâm thạch trụ, đã phiên dịch nhiều bộ kinh lớn, khiến cho giáo nghĩa Đại thừa được lưu thông, Phật pháp được lưu truyền trong tứ chúng. Hoà thượng tinh thông cả thiền giáo, là tấm gương sáng, bậc chân tu sáng ngời đạo hạnh trong lòng Tăng Ni, Phật tử Việt Nam, là bậc thầy mẫu mực của Tịnh tông để các liên hữu cùng noi bước. Sau đây là những lời pháp nhủ của Hoà thượng dành cho Đạo Phật Ngày Nay.




Các bậc tổ sư thường dạy đồ chúng cách tâm niệm để làm phương châm hành trì. Xin Sư ông cho chúng con một lời khuyên dưới hình thức một lời tâm niệm?



Người xưa thường nói: “Sanh tử sự đại” nhưng mình đã quen sống trong sanh tử, ai cũng vậy hết, nên không thấy quan trọng. Kỳ thật, lấy mắt đạo mà nhìn vào thì đó là việc lớn của mọi người, của chúng sanh. Đã lăn lóc mãi trong nhiều đời, hiện tại nếu không cố gắng thì những đời sau cũng vẫn lẩn quẩn trong vũng lầy sanh tử mà thôi.



Gặp được Phật pháp rất khó! Trên đời này không có pháp nào thoát ly sinh tử, chỉ có giáo pháp của Phật mới ra khỏi sanh tử luân hồi. Vì thế, gặp được rồi thì mình phải cố gắng để vững bền trong chánh pháp. Cho nên, Phật dạy tất cả đều phải tinh tấn, nhất tâm. Nhưng chúng ta lại có cái lỗi là luôn phóng dật, giãi đãi. Trong Luật, những khi có việc gì thì các vị Trưởng lão, các vị Đại đức đều khuyên nhắc: “Phải tinh tấn, chớ phóng dật”. Chỉ có hai điều đó thôi! Phóng dật ở thân khẩu thì dễ biết, còn ở tâm ý thì rất khó biết. Hễ duyên theo lục trần đều là phóng dật. Phóng dật thì trôi theo sanh tử. Tinh tấn thì đạt Niết-bàn. Người tu hành phải tinh tấn thì mọi khó khăn đều sẽ vượt qua, mọi công đức sẽ đạt được.



Trong một số bài giảng, Sư ông thi thoảng sử dụng từ “tu mót” để khích lệ tứ chúng tinh tấn tu tập. Xin Sư ông giải thích thêm ý nghĩa của tu mót là gì?



Các bậc tổ đức ngày xưa khi vào trong đạo liền tìm cách để được định và tuệ. Chúng ta trong thời mạt pháp, lăn lóc trong ồn náo, nhiều chuyện, nhiều việc, nhiều người nên tôi thường nhắc nhở sự tu hành của mình giống như là “tu mót”. Mót thời gian để tu, đừng bỏ qua. Gặp việc thì làm việc. Rảnh việc thì nhiếp tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Được một phút thì tốt một phút. Được một giờ thì tốt một giờ. Thế nên đừng bỏ qua việc tu mót.



Ví như những người ở quê ngày xưa đi mót lúa, tuy chỉ mót lúa nhưng vẫn đủ lúa gạo để ăn, vẫn nuôi thân, nuôi gia đình được. Mình đây cũng vậy, nếu cố gắng mót thì cũng được đầy đủ đạo pháp, nuôi lớn pháp thân, huệ mạng của chính mình. Nếu huynh đệ thực hành một thời gian rồi nghiệm lại sẽ thấy “tu mót” lại nhiều hơn thời khoá tu hành chính. Vì thế nếu bỏ qua tu mót thì bỏ phí rất nhiều thời gian.



Ai cũng có công việc hết, nhưng rồi cũng có xen kẽ, lúc tâm trí mình được rảnh rang thì gắng giữ ba điều: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Được vậy, phóng dật bớt dần lại, tương ưng với phần tinh tấn. Nếu trọn đời mình sống trong chánh pháp của đức Phật thì đường đạo mỗi ngày sẽ mỗi tăng tiến.



Sư ông vừa dạy niệm Tam bảo. Vậy trọng tâm của pháp niệm này là gì?



Ai nấy cần phải nhất tâm và chánh niệm. Chánh niệm đứng đầu là ba niệm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Đừng để nó rời. Niệm Phật thì niệm hồng danh, niệm tướng hảo, niệm công đức. Niệm Pháp thì phải thuộc kinh, vì nhớ đến kinh pháp tức là niệm Pháp. Niệm Tăng thì ở nơi đức Quán Thế Âm Bồ-tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát hay Phổ Hiền Bồ-tát, cho đến Di Lặc Bồ-tát, Địa Tạng Bồ-tát đều là Bồ-tát Tăng đáng để cho chúng ta nghĩ đến các ngài và công hạnh của các ngài. Nếu tâm mình thường nghĩ tưởng như vậy thì bớt phóng dật, tất được tinh tấn. Tinh tấn dần từ một ngày, hai ngày, ba ngày, cho đến nhiều tháng nhiều năm thì lần lần cội bồ-đề mà mình vun trồng sẽ càng thêm to lớn, vững mạnh.



Làm thế nào để vượt qua các vọng niệm?






Vọng tâm, vọng niệm dễ sanh. Những phiền não, nghiệp chướng cũng dễ phát khởi. Do vì cảnh duyên bên ngoài trợ giúp mấy thứ đó phát triển, tăng trưởng. Mình ở trong thời mạt pháp, lấy sức người để tu hành cũng giống như ở nơi giữa dòng sông, chẳng những là nước mà lại có sóng lớn nữa, luôn luôn lúc nào cũng có sóng hết. Trong đó phải bơi lội thì việc đó cần cố gắng lắm mới được. Có cố gắng mới thành công.




Do đó, cần lập nguyện. Chí nguyện lớn sẽ giúp mình thêm cố gắng và vững chãi hơn ở đường đạo. Chí nguyện phải thật vững để giúp cho nghị lực, vì có chí nguyện ắt có nghị lực. Như thế mới vững vàng được ở nơi những luồng sóng dập dồn, nếu sơ suất liền bị chìm. Nói tiếng chìm, huynh đệ cần phải suy nghĩ cho kỹ.



Ở cõi ngũ trược này, phát chí nguyện phải dũng mãnh, nghị lực phải dũng mãnh. Ở trong cái khó mà tu tập thì hạnh đức cao vời. Khó thì dễ hư nhưng thành tựu được thì công cao. Do đó, trong kinh Duy Ma Cật nói: “Bồ-tát ở nơi cõi đời này, có những công đức mà nơi cõi khác không có được” chính là ý này vậy.



Huynh đệ biết khó thì phải cố gắng. Lập chí lập nguyện cố gắng vượt lên. Luôn luôn kiểm soát tâm ý của mình lẫn cả về hành động và lời nói. Kiểm soát nếu thấy không đúng thì sửa lại cho đúng. Ai cũng đều có lỗi, nhưng có lỗi mà biết sửa đổi thì thành tốt. Mong rằng chư huynh đệ đều nhất tâm, tinh tấn tu hành!



Khi tu sĩ chúng con làm Phật sự thì phải tiếp duyên. Vậy, tiếp duyên thế nào để Phật sự thành công mà không bị vướng dính duyên trần?



Sống trong cuộc đời, muốn được thong thả, rảnh rang thì đừng dính đến quyền lợi. Làm việc hễ thuận duyên thì làm, không thuận thì phải khéo léo nhẫn chịu để vượt qua. Không phải hàng xuất gia không bị dính mắc vào quyền lợi. Huống nữa, chính quyền lợi đó sẽ đem đến những tai hoạ cho thân mình. Mấy huynh đệ tuổi còn trẻ, đường còn dài, phải lưu ý lắm mới được.



Người đời có sự nghiệp của người đời. Người xuất gia có sự nghiệp của người xuất gia. Chỉ là lớn hay nhỏ thôi. Tuy vậy, mình nhớ tạo sự nghiệp phải được như con nhện, đừng như con tằm nhả tơ rồi phải chết trong kén của nó. Tôi chỉ luôn luôn mong cầu công đức. Tôi khuyên các huynh đệ không mong cầu những cái lợi như người đời thường nghĩ. Cái lợi của người tu chính là thiện căn công đức, đâu phải là tiền bạc, vật chất. Mấy huynh đệ phải nhớ mình ở chỗ nào, nơi nào cũng phải gây tạo thiện căn công đức, đừng chạy theo những vật chất bên ngoài.



Tôi luôn làm theo khẩu hiệu ngầm của riêng mình. Những việc đúng pháp, về mặt tinh thần hoặc vật chất thì “không cầu cũng không từ”. Nghĩa là không tìm cầu cũng không từ chối. Đây là khẩu hiệu để tôi lập thân. Chẳng hạn, nếu có duyên cất chùa, mà cái duyên đó nó tự đến, nhận thấy đáng thì không từ chối. Cho đến tứ sự cúng dường cũng vậy, những vật gì không dùng nhưng cũng không từ chối. Mình không sử dụng thì chuyển đến người khác, cho đại chúng dùng.



Nếu làm việc gì, dù có cái lợi lớn trước mắt nhưng khi làm có cái hại xen vô trong hiện tại hoặc tương lai thì quyết không làm, không tham dự. Ví dụ như danh vị, tiền bạc, lời khen tặng … Nếu được lợi thì phải xem có cái hại hay không. Nếu có thì phải tránh xa. Thấy hại mà vẫn chạy vô thì bị nghiệp dẫn.




Tôi thấy việc tu hành đã trải qua mấy mươi năm, nhờ ứng dụng những điều trên mà không bị tổn thất, chịu cái hại lớn, mà lại thấy việc nhẹ nhàng, thảnh thơi. Tôi đã nói tận đáy lòng. Mấy huynh đệ thấy đúng lý thì nên bắt chước làm theo, để sự tu hành không bị vướng kẹt, thiện căn công đức luôn được tăng trưởng. Đó là điều tôi muốn ở tất cả mấy huynh đệ.



Xin Sư ông cho chúng con một lời khuyên để chúng con áp dụng tu hành!



Ngày tháng trôi qua mau lắm, một năm không mấy chốc mà đã hết rồi. Già, bệnh, chết mãi đeo theo người, không chừa ai hết. Mong các huynh đệ ai nấy đối với pháp của Phật, không biết nhiều thì cũng biết ít, noi theo chỗ hiểu biết của mình mà tinh tấn tu hành, luôn luôn nghĩ đến vô thường, sanh tử. Thân này tuy không bền lâu, mình phải cố gắng nương theo thân người này để tu hành, vượt qua biển sanh tử, lên đến bờ giải thoát. Nếu chưa được vậy thì cũng làm nhân duyên thù thắng cho những đời sau, đạo tâm kiên cố, căn lành tăng trưởng.




Thời gian qua thật mau, đừng để luống uổng, phải thường nghĩ vô thường. Nhớ lại thuở trước, chỗ mình đang ngồi, đang quỳ ở đây là nơi mấy em cháu (bây giờ cũng sáu, bảy mươi tuổi rồi) đứng hái trái sim, thì mấy huynh đệ biết nó thuộc rừng rú. Rồi mình khai hoang, cất chùa. Thấm thoát cây gỗ của chùa cũng mục. Từ đó, biết rằng thời gian trôi mau lắm, năm sáu chục năm thoáng chốc đã qua. Vì vậy, nên nhớ lời Phật dạy, phải luôn nghĩ đến vô thường. Thân này còn đây, ngày mai không bảo đảm.



Pháp của Phật rõ ràng, chỉ ở nơi mình có chịu làm hay không chịu làm đó thôi. Nên gắng tinh tấn giữ đạo tu hành. Cầu mong mấy huynh đệ căn lành mỗi ngày thêm lớn, công đức mỗi ngày tăng trưởng.



Chúng con thành kính tri ân Sư ông đã khai tâm mở trí chúng con. Chúng con xin y giáo phụng hành.Chúng con xin y giáo phụng hành.Chúng con xin y giáo phụng hành.






http://www.daophatngaynay.com/vn/Tap-chi-Dao-Phat-Ngay-Nay/Bai-viet-chon-loc/5987-Dai-lao-Hoa-thuong-Thich-Tri-Tinh-day-ve-cach-nhat-tam-tinh-tan-va-chuyen-hoa-vong-niem.html

Nói lời yêu thương

Một câu chuyện về tình yêu thương:Có một cậu bé ngỗ nghịch thường bị mẹ khiển trách. Ngày nọ giận mẹ, cậu chạy đến một thung lũng cạnh khu rừng rậm.


Lấy hết sức mình, cậu hét lớn:



- “Tôi ghét người”.



Từ khu rừng có tiếng vọng lại:



- “Tôi ghét người”.



Cậu hoảng hốt quay về sà vào lòng mẹ khóc nức nở. Cậu bé không sao hiểu được từ trong rừng lại có người ghét cậu. Người mẹ nắm tay con, đưa cậu trở lại khu rừng. Bà nói:



- Giờ thì con hãy hét thật to: "Tôi yêu người".



Lạ lùng thay, cậu vừa dứt tiếng thì có tiếng vọng lại: "Tôi yêu người".



Lúc đó người mẹ mới giải thích cho con hiểu: "Con ơi, đó là định luật trong cuộc sống của chúng ta. Con cho điều gì, con sẽ nhận điều đó. Ai gieo gió thì gặt bão. Nếu con thù ghét người thì người cũng thù ghét con. Nếu con yêu thương người thì người cũng yêu thương con.



Đến một nơi xa lạ, không người thân, không bạn bè, ta cảm thấy bơ vơ, lạc lỏng và có phần e ngại mọi người xung quanh. Không biết ai là người tốt, ai là người xấu sẽ ám hại mình.



Ta lo lắng và thu mình lại, nét mặt trở nên đăm chiêu, căng thẳng, nụ cười lúc này không còn hiện diện. Và nếu chẳng may rơi vào tình cảnh bị “ma cũ bắt nạt ma mới”, cảm xúc sẽ càng trở nên ảm đạm. Ấn tượng không mấy tốt đẹp này làm ta cảm thấy hụt hẫng và thất vọng. Con đường gập ghềnh, chông gai trong cuộc hành trình thực hiện ước mơ và hoài bão đang dần hiện ra, khác xa so với những tưởng tượng thuở còn vụn dại và ngây ngô. Bởi khi đó, ta tin rằng thế giới này luôn có công bằng, người thiện sẽ được quả báo tốt, còn người ác thì bị trừng trị thích đáng. Ta tự nhủ mình không làm điều gì sai, chỉ tại người không muốn chấp nhận, hoặc cũng có thể đang thử thách mình.



Vậy là bằng tất cả niềm tin còn sót lại, ta bắt đầu tiến hành công cuộc cải tạo thế giới, vực dậy bản tính lương thiện sẵn có trong mỗi người. Ta cư xử hòa nhã, nói năng chừng mực và luôn sẵn sàng giúp đỡ mỗi khi ai đó cần đến. Dù có đôi lúc hồ hởi và nhiệt tình quá mức làm người nghĩ rằng ta đang tìm cách lợi dụng họ, tỏ ra tốt bụng nhưng trong lòng đầy toan tính. Quả là tình ngay nhưng lý lại không thể biện minh. Người thì nhìn nhận tích cực, người thì phán xét, mỉa mai, xem đây như là một chuyện lạ giữa thời buổi thân mình lo chưa xong còn can dự vào việc của người dưng nước lã.



Cứ thế, mọi việc tiếp diễn ngày qua ngày, tháng qua tháng, dần dần đến một lúc nào đó khi đỉnh điểm của nỗi oan ức lên đến cao trào, không cầm cự được, không kiên trì tới cùng, ta có thể rơi vào tâm trạng chán chường, mặc kệ ra sao thì ra, không cần phải bận tâm đến những chuyên tầm phào đó nữa. Ta đang nói đúng giọng điệu của người. Nghi kỵ khởi lên mỗi lúc càng thêm lớn mạnh và ta trở thành như họ, một ma cũ sẽ đi tìm mà trút cơn tức giận, bức bối trong người lên những ma mới khác.



Ngay giây phút thực hiện những hành động “xấu xa” kia, có thể trong thoáng chốc ta nhận ra một sự thật đã tồn tại nơi người khi mới gặp lần đầu. Đó là người đã từng bị những tổn thương như ta đang trải qua lúc này. Vậy thì, làm sao có thể trách người bởi họ đã phải nếm mùi cay nghiệt, bị lừa gạt, bị đối xử thậm tệ nên bây giờ, một vòng tròn vây kín, tua tủa những mũi nhọn được họ lựa chọn trang bị cho mình để tự nhắc nhở rằng sẽ không có lần thứ hai. Mỗi người như vậy, đang tỏa ra xung quanh mình những nguồn năng lượng mang đầy tính tiêu cực, hoặc phòng thủ, hoặc sẵn sàng tấn công, những tín hiệu vô hình trong tâm tưởng nhưng hiển hiện không thể rõ hơn qua lời nói và cử chỉ khi đối duyên xúc cảnh, khi đang trong các cuộc gặp gỡ tưởng thân tình nhưng ai nấy cũng đều ngấm ngầm dè chừng nhau.



Cười đấy, vỗ tay và hoan hô đấy, nhưng tất cả, có thể chỉ là một cách để khẳng định sự chuyên nghiệp của bản thân, để có lợi thì tiếc gì những việc nhỏ nhặt này. Chỉ là, nó không thật, nó giả tạo và gượng ép, trước áp lực của đám đông. Ngay sau đó, ta có thể thuê người theo dõi đối phương, soi mói, tìm kiếm những điểm yếu của nhau để thị uy, để lấn lướt và dành lấy phần thắng về mình.



Tất cả chỉ bởi quan niệm thói thường “đời mà, biết tin ai bây giờ”, “tôi còn chưa tin tôi, tin người sao được”. Những ý niệm vang vọng khắp nơi, làm nẩy bật những tốt lành trong tâm hồn mỗi người, khiến chúng ta không còn thân tình tối lửa tắt đèn có nhau nữa mà dường như đang tồn tại những ngôn ngữ xa lạ tự nói tự hiểu cho chính mình. Mỗi người đang trở thành những ốc đảo khô cằn, không sự sống như đúng nghĩa của nó. Bởi sống là trao gửi yêu thương đến cho nhau, cùng chung tay tạo dựng một thế giới tươi đẹp và an vui. Chỉ hai tiếng “Yêu thương” dù thì thầm trong tâm tưởng lúc này nhưng có thể một ai đó đang cảm nhận được, có thể tạo nên những âm ba rung động lan tỏa ra khắp mọi phương trời, dệt nên những màng lưới vững chắc nâng đỡ bước chân ta đi giữa cuộc đời.



Tham khảo: câu chuyện “Cho và Nhận”.



http://thientinhtam.wordpress.com/2011/07/10/ni-l%e1%bb%9di-yu-th%c6%b0%c6%a1ng/

The Power of Words