Sunday, April 22, 2012

Stronger (What Doesn't Kill You)



You know the bed feels warmer
Sleeping here alone
You know I dream in colour
And do the things I want

You think you got the best of me
Think you had the last laugh
Bet you think that everything good is gone
Think you left me broken down
Think that I'd come running back
Baby you don't know me, cause you're dead wrong

What doesn't kill you makes you stronger
Stand a little taller
Doesn't mean I'm lonely when I'm alone
What doesn't kill you makes a fighter
Footsteps even lighter
Doesn't mean I'm over cause you're gone

What doesn't kill you makes you stronger, stronger
Just me, myself and I
What doesn't kill you makes you stronger
Stand a little taller
Doesn't mean I'm lonely when I'm alone

You heard that I was starting over with someone new
They told you I was moving on over you

You didn't think that I'd come back
I'd come back swinging
You tried to break me, but you see

What doesn't kill you makes you stronger
Stand a little taller
Doesn't mean I'm lonely when I'm alone
What doesn't kill you makes a fighter
Footsteps even lighter
Doesn't mean I'm over cause you're gone

What doesn't kill you makes you stronger, stronger
Just me, myself and I
What doesn't kill you makes you stronger
Stand a little taller
Doesn't mean I'm lonely when I'm alone

Thanks to you I got a new thing started
Thanks to you I'm not the broken hearted
Thanks to you I'm finally thinking bout me
You know in the end the day you left was just my beginning
In the end...

What doesn't kill you makes you stronger
Stand a little taller
Doesn't mean I'm lonely when I'm alone
What doesn't kill you makes a fighter
Footsteps even lighter
Doesn't mean I'm over cause you're gone

What doesn't kill you makes you stronger, stronger
Just me, myself and I
What doesn't kill you makes you stronger
Stand a little taller
Doesn't mean I'm lonely when I'm alone

Phật pháp nhiệm màu Kỳ 29: Phật tử Hạnh An

THỪA KẾ NGHIỆP_ TT Thích Thông Phương


I. THỪA KẾ NGHIỆP
Đạo Phật luôn đề cao tinh thần nhân quả, chúng ta sống trong cuộc đời này đều là sống trong nhân quả. Cuộc sống chúng ta hiện nay là thừa kế cái quả của đời trước, gọi là thừa kế nghiệp. Chữ nghiệp trong Phật giáo có ý nghĩa sâu. Một số người thường quan niệm, mỗi người sinh ra đều có số mệnh. Người có số giàu thì giàu, người có số nghèo thì nghèo, người có số xấu thì xấu v.v... Trong nhà Phật không nói số mệnh mà cho là nghiệp. Nếu nói là định mệnh thì sẽ ngăn chặn con đường tiến hóa, số mệnh định sẵn như vậy rồi không thể chuyển được nữa. Do con người tin như vậy nên đầu hàng số phận.
Trái lại, Phật giáo cho là nghiệp chúng ta tu có thể chuyển hóa được. Nghiệp tức là những hành động tạo tác của con người trong đời trước hay đời này. Nghiệp do chúng ta tạo, nên có thể chuyển đổi. Nếu lỡ tạo nghiệp xấu nghiệp ác, chúng ta thức tỉnh biết đó là sai quấy, quyết tâm sửa đổi thì sẽ chuyển thành nghiệp lành nghiệp tốt, đó là tu. Có tu mới đưa con người tiến hóa thăng hoa, đem lại niềm tin cho chính mình. Theo tinh thần Phật dạy, tất cả chúng ta đều sống trong nhân quả, sống với quả hôm nay là do nhân đời trước.
Quả lành dữ, khổ vui hoặc ngu trí, sang hèn đều có nhân đời trước chứ không phải ngẫu nhiên. Do con người tạo nghiệp không đồng nên sanh ra mỗi hoàn cảnh không đồng. Có những người cùng sanh ra trong một gia đình, một cha mẹ nhưng có đứa thông minh, có đứa không được thông minh. Có đứa giàu, có đứa không làm ăn được. Theo khoa học nói gien cha mẹ sao thì con cái như vậy, nhưng đôi khi cha mẹ rất thông minh mà con thì ngu đần. Hoặc cha mẹ không thông minh mà con là thần đồng, vậy đâu phải do gien. Vì vậy, nếu lấy tinh thần khoa học mà giải thích thì không giải thích hết được.
Phật pháp thấy rõ điều này rất đơn giản, đều do nhân quả nghiệp báo của con người đã tạo đời trước. Như đời trước đã tạo nghiệp sáng suốt trí tuệ, nên đời này lưu lại sanh ra người đó phát triển trí tuệ sớm. Có những đứa bé thần đồng, sanh ra đã biết được những điều nó chưa học. Có những người mới gặp nhau lần đầu đã thấy có cảm tình, hoặc mới gặp mà cảm thấy ghét cay ghét đắng. Do cái gì? Do nghiệp duyên đời trước, ai gần gũi với mình nên gặp nhau đã có cảm tình. Còn người kia trước cũng có nghiệp duyên trái nghịch nên thấy lần đầu đã không có cảm tình. Đó là tinh thần nhân quả Phật dạy.
Hình tướng mỗi người cũng vậy, hàng triệu người không ai giống ai. Trong kinh Thập Thiện, Phật dạy Long vương, Ngài nói: “Ông có biết trong hội này và trong biển cả, bao nhiêu là hình sắc, chủng loại mỗi khác nhau, tất cả như thế đều do tâm tạo nghiệp lành hay dữ nơi thân khẩu ý mà ra". Do chúng sanh trước kia tạo nghiệp sai biệt nên khi sanh ra cũng có những sai biệt. Chúng ta ngồi ở đây mỗi người đều có tâm tư, suy nghĩ sai biệt nhau nên hiện ra dáng vẻ khác nhau. Tuy ngồi chung một nơi nhưng trong tâm mỗi người là mỗi cảnh giới riêng. Như hai đứa trẻ sanh đôi giống y nhau nhưng vẫn có một hai điều gì đó khác. Vì tâm tư của mỗi người có những nét hơi khác nên trên hình tướng cũng có vẻ khác nhau.
Phật dạy mỗi người sanh ra là sống trong nhân quả, sống trong nghiệp lực. Con người không làm chủ được mình, mà do nghiệp làm chủ chúng ta. Người học Phật, biết sân giận là xấu nhưng gặp chuyện thì cũng sân, không làm chủ được. Như người bệnh tiểu đường, biết ăn ngọt là không tốt nhưng gặp ngọt cũng thèm. Hoặc có những vị nghiện rượu, thuốc biết là bệnh nhưng không bỏ được, cũng bị nó dẫn. Như vậy nghiệp làm chủ mình chứ mình không làm chủ được. Nhà Phật gọi là bị nghiệp sai sử.
II. TU LÀ CHUYỂN NGHIỆP
Tu Phật là chuyển nghiệp, vì Phật dạy nghiệp không cố định. Cái gì có sanh thì phải có diệt, nghiệp cũng vô thường. Nghiệp do chúng ta tạo ra thì chính mình có thể chuyển đổi nó. Có người không hiểu, yếu đuối cứ an phận với nghiệp lực nên than sao nghiệp tôi nặng quá. Tất cả chúng sanh đều có thể chuyển được hết. Đức Phật là tấm gương cho mọi người, Phật hiện ra nơi đời giống như chúng ta không phải ở trên trời rơi xuống. Nếu như Ngài ở trên trời hiện xuống thành Phật thì không ai dám tu theo Ngài, vì nghĩ Đức Phật quá cao siêu là một vị trời còn mình ở dưới đất đâu bằng được. Đức Phật đến cuộc đời này là một con người, có cha mẹ sanh ra, lớn lên lập gia đình, sống thụ hưởng ngũ dục trong cung vua. Rồi thái tử đi dạo bốn cửa thành thấy cảnh già, bệnh, chết. Hình ảnh cho Ngài tỉnh thức là vị Sa-môn từng bước ung dung trong cuộc đời. Ngài hỏi Sa-môn chân lý để thoát cảnh sanh già bệnh chết. Được Sa-môn giải thích con đường tu hành giải thoát, nên Ngài quyết định ra đi tìm cầu chân lý.
Con người đã có sanh thì có chết, sanh tử đều có nguyên nhân của nó, nếu tìm được nhân sanh tử thì sẽ có cách giải quyết quả sanh tử. Theo tinh thần khoa học, quả từ nhân mà có. Như các nhà bác học, thấy bệnh chó dại phải tìm ra nguyên nhân nào gây ra bệnh chó dại. Tìm được con vi trùng chó dại trừ diệt nó thì sẽ hết bệnh. Phật cũng vậy, Ngài quyết chí vượt thành xuất gia tìm đạo, cuối cùng đến cội Bồ-đề thiền định. Sau đêm bốn mươi chín, Ngài giác ngộ thành Phật, thấy rõ nguyên nhân của sanh tử luân hồi là mười hai nhân duyên. Đó là nhân để có sanh tử, nếu dứt được tập nhân thì giải thoát sanh tử, chứng đạt Niết-bàn. Ngài thành tựu được, sau đó chỉ dạy cho mọi người như Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên v.v... tu chứng A-la-hán, chấm dứt cội gốc sanh tử luân hồi. Như vậy, nghiệp chuyển được, chứ không phải cố định.
Mọi người chúng ta khi thấy cảnh người sanh già bệnh chết, nghĩ đó là chuyện thường nên an phận. Ai sanh ra cũng chết, nên mình chết là chuyện thường không nghĩ gì thêm khác. Nhưng với Thế Tôn, Ngài quyết tìm nguyên nhân để giải quyết dứt điểm nó. Do đó, Ngài vượt lên chuyển được nghiệp. Điều này cho chúng ta thấy rằng, Ngài là con người Ngài đã làm được thì chúng ta cũng là con người như Ngài thì ai cũng có thể làm được. Theo ý nghĩa Phật là người giác ngộ, chúng ta cũng có thể giác ngộ như Phật.
Nhưng Phật giác ngộ ở đâu? Ngài giác ngộ từ tâm. Vậy mọi người có tâm thì đều có giác ngộ. Chúng ta học lịch sử Phật, nếu nói lại cho người khác nghe mà dùng từ không chính xác sẽ bảo: Đức Phật có cha là vua Tịnh-phạn, mẹ là hoàng hậu Ma-da, vợ tên Gia-du, có con là La-hầu-la. Nói như vậy là chưa chính xác, vì Phật làm gì có vợ, có con. Thái tử Tất-đạt-đa mới có vợ có con, sống trong hoàng cung rồi vượt thành xuất gia đi tìm đạo. Đến khi chứng ngộ mới gọi là Phật. Như vậy, Phật là một bậc Toàn giác, từ một con người bình thường sau đó giác ngộ nên gọi là Phật. Như vậy, mọi người đều có thể tu chuyển nghiệp được. Chúng ta không nên mặc cảm “tôi tội lỗi quá chắc tu không được”. Nếu vậy Phật ra đời làm gì? Phật ra đời để chỉ dạy cho chúng sanh tu, tu là sửa, sửa cái xấu thành cái tốt.
Cũng như Ương-quật-ma-la, là một tên sát nhân. Ông nghe theo lời thầy chỉ dạy, lấy một nghìn lóng tay của người xâu thành chuỗi đeo sẽ được truyền dạy pháp bí yếu của ngoại đạo. Từ đó, ông đi giết người lấy được chín trăm chín mươi chín ngón tay, chỉ còn lại một ngón cuối cùng. Ai thấy ông cũng sợ nên tránh mặt hết. Khi đó, vua sai quân lính đến bắt ông ta về trị tội, nếu không là nỗi kinh hoàng cho muôn dân. Bà mẹ nghe vậy lo sợ nên đi đến báo cho ông hay, nhưng ông lại định giết mẹ để lấy cho đủ số lượng một nghìn lóng tay. Đức Phật dùng Phật nhãn quan sát thấy ông có duyên hóa độ, và không muốn ông mang tội đại ngũ nghịch là giết mẹ. Nên Phật xuất hiện trước mặt ông, thế là ông rượt theo Phật. Ông càng rượt nhưng sao thấy Phật vẫn cách xa, nên mới la lên: “Cồ-đàm, ông hãy dừng lại!”.
Đức Phật bảo: “Ta dừng đã lâu rồi, chỉ có ông chưa dừng thôi”.
Ông ngạc nhiên hỏi: “Ngài đang đi, tôi chạy không kịp mà nói dừng khi nào?”.
Phật bảo: “Ta dừng đây là dừng những tâm tham, sân, sát, nghiệp v.v... những cái đó chính ông chưa chịu dừng”.
Ngay đó, Ương-quật-ma-la có sự tỉnh ngộ. Sau đó Phật thuyết pháp, giáo hóa cho ông và ông chứng A-la-hán, giải thoát được nghiệp sanh tử. Như vậy, một người dữ tợn cũng có thể chứng thánh, chuyển được nghiệp. Cũng như Tỳ-kheo ni Liên Hoa Sắc, bà có sắc đẹp, trước cũng tạo nghiệp rất nhiều sau được ngài Mục-kiền-liên độ.
Nhân duyên thế này: Một hôm, Mục-kiền-liên đi khất thực ngang khu vườn, có một vị nữ trung niên rất đẹp đứng đón, dùng những lời lẽ mời mọc, gợi chuyện muốn chọc phá Ngài. Mục-kiền-liên là vị đệ nhất thần thông, nhìn qua biết đây là một cô gái kĩ nữ đến để mê hoặc mình. Tôn giả dùng thần lực thấy được những uẩn khúc chứa chất trong lòng người phụ nữ này.
Nên ngài mới nói: “Thật đáng thương cho cô, tuy hình dáng bên ngoài thật đẹp, trang sức lộng lẫy nhưng bên trong chứa đầy ô uế không dừng. Thân thể cô bất tịnh, tâm hồn cô ô uế vùng vẫy trong bùn nhơ. Như con voi già đang sa lầy, vùng vẫy chừng nào nó càng lún sâu chừng ấy”.
Người phụ nữ nghe vậy giật mình, cảm xúc, rơi lệ. Tại sao vị này biết hết cảm xúc trong lòng mình.
Cô mới thưa: “Bạch Tôn giả, Ngài đã biết rõ tâm của tôi, tôi cũng không qua mắt được ngài. Tôi nghe danh ngài là thần thông đệ nhất, tôi không tin thần thông có thể vượt qua được sắc đẹp. Tôi biết mình là người nhiều tội lỗi và cũng nghĩ đến việc hướng thiện, nhưng bây giờ quá tuyệt vọng vì tội lỗi quá nhiều. Tôi là một kẻ không thể cứu vớt được, vì với một quá khứ ghê sợ sau này tôi sẽ bị quả báo không lường trước được”.
Tôn giả Mục-kiền-liên an ủi: “Cô không nên tự làm khổ mình như vậy, cũng đừng có thất vọng, tội nghiệp dù có nặng đến đâu nếu một phen sám hối thì đều có thể cứu vãn. Y phục dơ có thể giặt giũ cho sạch; thân thể ô uế có thể dùng nước tẩy rửa, tâm không thanh tịnh có thể dùng Phật pháp rửa sạch. Dòng sông nhơ nhớp chảy ra biển cả, biển lớn có thể làm sạch được nước trong sông. Lời dạy của Đức Thế Tôn chúng tôi cũng đủ sức làm lòng người ô uế trở nên thanh tịnh, khi biết sám hối những tội nghiệp quá khứ”.
Mục-kiền-liên đã đem lại niềm tin cho Liên Hoa Sắc, tội lỗi nhiều nhưng cũng có thể rửa sạch nếu chúng ta biết chuyển hóa tu tập. Nhưng cô lại thưa: “Tội lỗi quá khứ của tôi quá khủng khiếp, tôi kể ra e Tôn giả bỏ chạy”.
Ngài Mục-kiền-liên nghe vậy cũng cố an ủi: “Cô hãy nói ra đi “.
Cô nói: “Tôi tên là Liên Hoa Sắc, con gái của vị trưởng giả giàu có trong thành Thức-xoa-thi-la. Năm mười sáu tuổi, cha mẹ lập gia thất cho tôi nhưng không lâu cha tôi qua đời, bà mẹ góa bụi bèn tư thông với chồng tôi. Biết được việc này tôi quá đau lòng, lúc ấy tôi sanh được một đứa con gái, tôi bỏ lại cho chồng nuôi. Sau đó, tôi tái giá với một người ở tỉnh khác, anh ta là một thương gia. Nhân một lần đi buôn bán xa ở thành Thức-xoa-thi-la trở về, ông ta lén mua một nàng thiếp giấu riêng ở một nơi nào đó. Tôi được người cho biết và nổi máu ghen, tôi quyết tìm người con gái đó để xử cho một trận. Nhưng khi gặp mặt, tôi mới té ngửa, không ai xa lạ mà chính là đứa con gái chồng trước của tôi”.
Nói đến đó bà khóc nghẹn. Tôn giả an ủi: “Cô không nên thương tâm quá độ, người mà biết rõ quá khứ vị lai thì xem đó là luân hồi nhân quả. Đó là nhân quả mà cô đã tạo đời trước nên bây giờ nó trở lại chứ không phải ngẫu nhiên đâu. Thật ra đời người là một bể khổ”.
Sau đó cô kể tiếp: “Với nỗi khổ đau như vậy, tôi bỏ nhà đi. Bắt đầu tôi chán ghét thế gian, nên mang thân này làm kĩ nữ mua vui cho thiên hạ, đùa cợt với mọi người đàn ông khiến cho gia đình họ tan vỡ, vợ họ đau khổ để trả thù đời. Do đó tội lỗi tôi không thể lường được, tôi chỉ biết kiếm tiền để xài phung phí gieo bao đau khổ cho người. Bây giờ đây tôi không biết phải sám hối như thế nào?”.
Tôn giả Mục-kiền-liên nghe qua biết cô còn chút thiện tâm, mới đem giáo lý nhân quả của Phật giải thích cho cô nghe, mọi việc đều có nhân, có quả, do nhân đời trước đã tạo nên đời này phải chịu quả báo như vậy. Bây giờ muốn chuyển đổi thì phải khéo tu chứ không phải để như vậy hoài. Sau khi nghe tôn giả thuyết pháp, Liên Hoa Sắc tỉnh ngộ mới đi theo Tôn giả về gặp Phật. Sau đó bà được Phật độ, tu hành chứng thánh vị A-la-hán, cũng nổi tiếng đệ nhất thần thông trong hàng ni chúng.
Đây là bài học đánh thức mọi người thấy rằng dù cho tội lỗi nhiều như vậy, thì tánh giác cũng không mất. Nên nhà Phật có câu “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Người nhiều ác nghiệp nếu tỉnh giác tu hành có thể chuyển đổi thành thánh. Vậy thì số phận, định mệnh có thể chuyển chứ không phải an bày như nhiều người đã nghĩ. Liên Hoa Sắc tội lỗi nhiều như vậy còn chuyển đổi được tu chứng A-la-hán. Chúng ta ngày nay tội lỗi đâu nhiều như bà mà lại nghĩ không thể tu được. Chúng ta nếu chịu tu, chịu chuyển hóa thì sẽ có kết quả tốt.
Trong Phật pháp có Tứ Chánh Cần, tức là bốn điều siêng năng tinh tấn. Thứ nhất là điều ác chưa sanh thì ngăn không cho nó sanh. Thứ hai là điều ác đã sanh rồi thì khéo tinh tấn, siêng năng để trừ diệt nó. Thứ ba là điều thiện chưa sanh làm cho nó sanh. Thứ tư những điều lành đã sanh làm cho nó phát triển hơn.
Vậy thì điều ác chưa sanh chúng ta ngăn dứt đừng cho nó sanh, điều ác đã sanh thì chúng ta tinh tấn tu hành trừ cho nó dứt sạch. Những điều thiện chưa sanh làm cho nó phát triển lên, càng phát triển nhiều điều thiện thì điều ác càng bớt. Giống như làm ruộng vườn, ruộng vườn trồng nhiều hoa quả cây ăn trái thì bớt cỏ, còn lười trồng hoa quả rau cải thì cỏ hoang mọc nhiều, rắn rết ẩn núp. Cũng vậy, chúng ta tạo nhiều điều thiện thì điều ác bớt lại, còn điều ác nhiều thì rắn rít ẩn thêm nhiều phiền não, đau khổ. Phật dạy chúng ta phải khéo biết tu để vươn lên, chuyển nghiệp mới mong đem lại cho chính mình sự an vui vĩnh cửu.
Trong kinh Pháp Cú có dạy:
                    Tự mình làm điều ác,
                    Tự mình sanh nhiễm ô.
                    Tự mình không làm ác,
                    Tự mình thanh tịnh mình.
                    Tịnh, không tịnh tự mình,
                    Không ai thanh tịnh ai.


Nghĩa là mình làm điều ác thì tự mình làm ô nhiễm, tự mình không làm ác tức là làm điều thiện là tự thanh tịnh cho mình. Tự mình làm cho mình trong sạch, thanh tịnh hay không thanh tịnh là quyền của mình. Phật không đem đến thanh tịnh cho mình, mà Ngài chỉ dạy cách thức làm cho mình thanh tịnh. Phật chỉ con đường cho chúng ta đi nên gọi Phật là đại đạo sư. Phật là đại y vương, vị thầy thuốc cho thuốc chúng sanh để uống. Chúng sanh có uống thì mới hết bệnh được, không uống thì vẫn bệnh. Tịnh hay không tịnh là tự mình, Phật đem lại niềm tin cho mọi người, để tự mình có niềm tin tiến lên vì nghiệp từ tâm mà tạo.
Tâm nghĩ lành thì con người làm lành, tâm nghĩ ác thì con người làm điều ác, tâm sân thì tạo nghiệp sân v.v... Cho nên tâm là gốc của nghiệp. Muốn chuyển nghiệp phải chuyển từ tâm, không nên lo chuyển cảnh ở bên ngoài. Chúng ta nóng giận rồi mua trái cây cúng Phật, cầu Phật cho con đừng nóng giận, được không? Nóng giận là từ tâm của chúng ta, chúng ta đi chùa học Phật nhớ lời Phật dạy: nóng giận là nhân xấu tạo thành những quả xấu cho mình, luôn nhớ vậy thì sẽ bớt giận. Hết giận thì thanh tịnh, phải tự mình chuyển hóa như vậy, không phải chỉ lo cầu Phật bên ngoài. Đạo Phật rất thực tế, chúng ta học Phật phải chứng nghiệm được lời Phật dạy ngay trong đời sống chứ không phải đợi qua kiếp sau. Đây là một chân lý, là lẽ thật ngay bây giờ. Chúng ta thực hành chứng nghiệm ngay cuộc sống này sẽ bớt phiền não, thêm an vui. Chúng ta tu là phải sáng suốt, thấm được giá trị của Phật pháp mới thấy Phật pháp cao quí biết chừng nào và càng vững niềm tin bằng trí tuệ chân thật.
Như vậy, muốn chuyển nghiệp phải chuyển tâm, chuyển tâm phải học pháp. Phật có dạy bài kinh: ngày xưa có vị Bà-la-môn tu theo pháp tịnh thủy hành, tức là dùng nước để rửa sạch tội lỗi. Mỗi ngày hai thời sáng chiều ông đều xuống nước tắm. Phật biết ông có chủng tử lành nên đến cảm hóa, hỏi: “Tại sao ông tu pháp đó, để làm gì?”. Ông bảo: “Tu dùng nước để rửa sạch tội lỗi, buổi sáng tạo tội lỗi gì đó, buổi chiều xuống tắm rửa sạch, còn tối lỡ làm tội lỗi thì sáng xuống tắm để rửa”. Phật liền nói bài kệ cảnh tỉnh:
                    “Chánh pháp là ao hồ,
                    Giới là bến nước tắm,
                    Không cấu uế, trong sạch,
                    Được người lành tán thán”.

Tức là lấy chánh pháp làm ao hồ, giới là bến nước tắm, giới là những điều mà Phật ngăn cấm. Người phật tử qui y thọ năm giới thì giới là bến nước tắm đó, xuống bến nước tắm đó thì không cấu uế, trong sạch, tắm bằng nước Phật pháp thì trừ được uế tạp, sạch hết tội lỗi mới qua bờ bên kia. Người trí luôn tắm bằng nước pháp, trong sạch thân tâm qua được bờ giải thoát.

III. KHÔNG LẦM NHÂN QUẢ
Như vậy, muốn vui phải tránh tạo nhân ác, muốn hạnh phúc phải tạo nhân lành nhân tốt, đó là nhân quả rõ ràng. Người không hiểu đạo khi gặp đau khổ chỉ biết than trời trách Phật. Trái lại, người hiểu đạo khi khổ họ biết đây là nhân mình đã tạo đời trước, khổ này là quả phải trả cho xong. Giống như chúng ta đã vay nợ, bây giờ người ta đòi thì phải trả cho hết. Nếu người ta đòi mình không thèm trả còn cãi lại thì nợ càng chồng thêm, khổ càng thêm khổ. Chúng ta biết rõ là nhân đời trước đã gieo bây giờ nhẫn nhục trả, đồng thời tạo nghiệp lành thì mới mong mau hết nợ.
Ngài Huyền Trang từ Trung Quốc sang Ấn Độ tìm học kinh điển của Phật. Khi ngài đến Đại học Na-lan-đà gặp Luận sư Giới Hiền - lúc đó Sư trên một trăm tuổi. Khi Luận sư Giới Hiền nghe ngài Huyền Trang qua, Ngài cảm động rơi nước mắt, trong chúng mới hỏi tại sao. Ngài Phật Hiền thay Sư thuật lại: “Trước kia, Hòa Thượng có bệnh thấp khớp, đau nhức mình mẩy rất khổ sở suốt hai mươi năm. Thuốc men gì cũng không hết, có lúc buồn quá Hòa Thượng muốn uống thuốc cho chết sớm. Nhưng Hòa Thượng nằm mộng thấy ba vị hình tướng trang nghiêm rất đẹp, một vị là Bồ-tát Di-lặc một vị là Bồ-tát Quán Âm, một vị là Bồ-tát Văn-thù. Bồ-tát Văn-thù nhắc nhở Hòa Thượng: “Thân người là vô thường, mỏng manh, đáng chán nhưng không nên hủy hoại thân này. Thân này như chiếc bè gỗ để mình qua sông, nếu qua sông bị chới với, bị chìm thuyền mà gặp khúc gỗ mục cũng phải ôm để vào bờ. Cũng vậy, chúng ta phải tạm mượn thân này để tu hành, không nên bám chắc vào nó quá cũng không nên ghét bỏ nó làm cho thân hủy hoại. Sở dĩ bị thế này là vì đời trước ông là vị quốc vương chinh chiến nhiều nên sát hại vô số sinh mạng. Nhân quả phải trả, đáng lẽ phải đọa nhưng do đời nay ông biết tu nên chuyển thành nghiệp bị bệnh đau nhức giống như những mũi tên đâm. Đó là chuyển nghiệp nặng thành nghiệp nhẹ, hết nghiệp này ông sẽ mau đắc đạo thôi. Thời gian sau, sẽ có một vị tăng từ Trung Hoa qua học pháp, ông tận tình chỉ dạy cho vị đó thì nghiệp của ông sẽ hết”. Bây giờ nghe ngài Huyền Trang qua, đúng như những gì trong mơ đã thấy nên Hòa Thượng xúc động khóc”.
Như vậy, ngài Giới Hiền biết rõ nghiệp quả của mình rồi thì nhẫn nhục chịu, nỗ lực tu nên dần dần hết nghiệp. Người học Phật hiểu rõ tất cả đều do nhân qua, đều có nhân duyên, không có gì là tự nhiên cả. Tổ Bồ-đề Đạt-ma có dạy: “Người tu hành khi gặp phải những cảnh khổ phải tự nghĩ rằng ta từ trong vô số kiếp lâu xa đã bỏ quên gốc chạy theo ngọn, nên bị trôi nổi lang thang trong các cõi. Trong đó phần nhiều chúng ta đã dấy tạo bao nhiêu điều trái nghịch, oán ghét, hận thù. Nay đây tuy không có phạm phải nhưng đó là quả ươm từ nhiều đời trước. Khi quả đã chín mùi thì sẽ rụng xuống, chứ chẳng phải là trời thần hay người nào đem đến cho mình. Khi quả trổ thì chúng ta sẵn lòng nhận chịu, không nên sanh tâm oán trách. Kinh nói gặp khổ chẳng lo buồn, tại sao? Vì biết thấu suốt duyên cớ của nó”.
Tổ dạy, nếu trong đời nay chúng ta tu hành có gặp cảnh khổ thì phải nhớ rằng mình sống luân hồi trong biển khổ. Trong vạn kiếp luân hồi đâu phải lúc nào chúng sanh cũng tạo điều lành, điều tốt. Có khi tạo những điều oán ghét, oan trái với người mà chúng sanh đâu nhớ, bây giờ quả nó đến để đòi chứ không gì khác. Do đó chúng ta phải nhẫn chịu để tạo nghiệp lành, chuyển oán trách khổ đau thành hoan hỷ an vui mới mong hết nghiệp.
Phật dạy nhân quả có ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Đời này con người không làm điều ác nhưng đời trước đã tạo những điều ác đó, nay quả đời trước đã chín nên chúng ta phải hái nó trước. Đồng thời đời nay chúng ta tạo những điều lành, thì như mới trồng cây, cây nào trồng sớm sẽ có quả trước, cây này trồng trễ sẽ có quả muộn. Khi hiểu rõ nhân quả, chúng ta sẽ có niềm tin trong sáng vào Phật pháp. Hiểu nhân quả rồi thì khỏi đi coi bói, gặp nghịch cảnh biết đây là mình đã tạo ở đời trước, mau mau tạo điều lành để chuyển dần thôi. Cũng như Phật dạy tu phước tích thiện sẽ chuyển nghiệp nặng thành nghiệp nhẹ. Như chú Sa-di còn bảy ngày nữa sẽ chết, thầy của chú đã chứng đạo biết quá khứ vị lai nên cho chú về thăm nhà bảy ngày. Trên đường về thăm cha mẹ, chú Sa-di đi qua con suối thấy bầy kiến bị cuốn chới với giữa dòng nước, chú thấy cảm thương nên bẻ nhánh cây khô thả xuống cho kiến theo nhánh cây bò lên bờ, xong việc chú về nhà. Lâu ngày về thăm, nên cha mẹ giữ chú lại thêm ít bữa. Khi chào cha mẹ về tới chùa thì quá mười ngày, ông thầy ngạc nhiên tính có bảy ngày là chú sẽ chết mà sao giờ quá hạn thấy chú vẫn bình an?
Vị thầy mới hỏi: “Trên đường đi con có làm điều gì lạ không?”.
Chú Sa-di đáp: “Dạ, không”.
Thầy hỏi lại bảo chú nhớ kỹ xem, chú chợt nhớ bèn thưa: “À, mà trên đường về thăm cha mẹ, con đi qua dòng suối thấy bầy kiến đang chết đuối giữa dòng, thấy thương nên con bẻ nhánh cây khô cho nó bò lên”.
Ông thầy bảo: “Đó là phước lành con đã tạo khiến thêm tuổi thọ cho con. Vì cứu được bầy kiến, tạo công đức lành mà chuyển đổi được nghiệp yểu mạng cho con”.
Vì vậy, luận trên nhân quả, chúng ta khỏi phải đi coi thầy bói chỉ lo tu tạo công đức lành tốt thì sẽ chuyển đổi được nghiệp lực của chúng ta.

IV. TÓM KẾT
Nghiệp do chính chúng ta tạo, hiểu như vậy chúng ta sẽ không đổ lỗi cho ai. Đồng thời cũng là trả lại quyền tự chủ cho mình, mình làm thì mình chịu, rồi mình tự cải tạo đời sống để tiến lên, lấy lại niềm tin cho chính mình. Phật dạy ai cũng đều có Phật tánh, đó là đức tánh sáng suốt chứ không phải xấu xa. Dù là tên ăn trộm tội lỗi nhưng người đó cũng có cái tâm lành. Tên trộm đâu muốn mình thành người xấu, biết ăn trộm là xấu nên mới lén rình lấy. Tuy biết vậy nhưng bị nghiệp làm chủ rồi dẫn đi, vô minh che nhiều quá chứ cũng biết đó là điều xấu. Trong sâu thẳm nội tâm của mỗi người đều có tánh thiện, nếu chúng ta biết khai thác, phát huy thì những điều xấu này sẽ chuyển dần thành tốt. Đó là tu. Mỗi người đều có cái gốc tốt lành để phát triển, Phật là từ chúng sanh giác ngộ tiến lên thành Phật. Phật biết phát triển sớm và chỉ đường cho chúng sanh để ai cũng biết phát huy ra điều đó để tu thành Phật.
Vua Trần Nhân Tông khi đi tu, Ngài giác ngộ có làm bài kệ về Cư Trần Lạc Đạo:
                    Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,
                    Đói đến thì ăn mệt ngủ liền.
                    Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,
                    Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.
Trong nhà có báu, báu đây không phải vàng bạc, hột xoàn, kim cương mà là mọi người đều có Phật tánh. Tánh giác sáng suốt là của báu, báu trong Phật pháp không cần tìm kiếm ở bên ngoài mà phải biết phát huy, khai triển nó ra thì sử dụng được. Đó là chuyển những tập nghiệp, chuyển chúng sanh thành Thánh hiền. Ngược lại, nếu người cứ chôn vùi của báu tức nhiên làm mãi chúng sanh. Chúng ta phải có niềm tin tiến lên, khai thác được của báu trong nhà để dùng mãi không hết. Như vậy, Phật đã chỉ đường, đã trao thuốc cho chúng sanh rồi. Việc còn lại là tự mỗi người lấy thuốc ra uống cho mau hết bệnh. Phải tự lực đi bằng đôi chân của chính mình mới mong mau về nhà. Vậy mong rằng tất cả chúng ta phải khéo tu tập, phát triển thiện tâm của mình tiến lên trên đường học Phật. Ngõ hầu mang lại lợi ích cho chính mình, đồng thời tác động đến mọi người xung quanh để ai ai cũng cảm nhận được giá trị thiết thực của Phật pháp. Từ đó con người gầy dựng niềm tin, hướng về ánh sáng Phật pháp để chuyển hóa khổ đau sống đời an lạc. Được như vậy, chúng ta sẽ làm tăng trưởng công đức, gián tiếp truyền bá Phật pháp, xứng đáng là người đệ tử Phật.

 

TẬP NÓI LỜI XIN LỖI_ TT Thích Thông Phương


I/ AI CŨNG CÓ LỖI
Sống trên đời này không ai là không có lỗi. Khắp thế gian này không người nào dám tự hào là mình không có lỗi, nên phải biết nói lời xin lỗi.
Người xưa nói “Nhân vô thập toàn”. Nghĩa là làm người không ai hoàn toàn, mà không hoàn toàn tức là còn có lỗi, có sai sót. Hầu hết mọi người còn sống trong mê, trong cái tương đối, cho nên không thể nào tránh khỏi lỗi lầm. Nếu người hoàn toàn không có lỗi chắc là hiền thánh rồi. Còn là phàm nhân thì ai cũng có lỗi, có sai sót, đâu thể tự hào là mình không có lỗi, chính cái tâm tự hào là lỗi rồi.
Có ông Cừ Bá Ngọc năm 20 tuổi ông đã biết kiểm lại mình và biết lỗi để tận sửa sai sót. Khi qua tới năm 21 tuổi, kiểm lại thì ông thấy lỗi cũng chưa hết. Rồi qua năm 22 tuổi nhìn lại năm 21 tuổi thấy cũng vẫn còn có sai sót. Như vậy, cứ mỗi năm ông tự kiểm lại, tự sửa đổi. Đến năm 50 tuổi vẫn còn nhận ra lỗi lầm của năm 49 tuổi. Thế là phải sửa suốt đời chứ không phải sửa một năm hay hai năm là đủ.
Câu chuyện trên là bài học kinh nghiệm giúp chúng ta bắt chước tập nhìn kiểm lại một năm qua để sửa lỗi và chuẩn bị cho năm tới không còn sai sót. Nhờ vậy, chúng ta dẹp bớt tâm tự hào và thường tự kiểm tra lại mình. 
II/ KHÔNG CỐ CHẤP TỰ MÃN, TỰ CAO TỰ ĐẠI.
Nếu không biết tự kiểm tra lại mình thì đó là một thiếu sót lớn, là thiếu tu. Bởi vì phàm nhân thì phải còn có sai sót, mà có sai có lỗi thì phải sửa. Phải thường tự kiểm tra lại mình để thấy được lỗi, để có tâm khiêm tốn vừa là tự sửa, vừa loại bỏ được tâm tự phụ. Tự phụ là luôn cho mình không có lỗi, luôn luôn đúng, lúc nào cũng hay nên không chịu nghe lời khuyên của ai hết. Từ tự phụ dần đưa đến tự cao tự đại, mà khi đã thành tự cao tự đại thì sao? Hòa thượng Tuyên Hóa giải thích theo kiểu chiết tự chữ Hán: Chữ tự “自” đi với chữ đại “大” thành chữ xú “臭 ” nghĩa là hôi thối. Vậy tự đại là hôi thối.
Khi biết được những ý nghĩa này rồi thì mỗi người phải khéo tự kiểm tra lại mình để khiêm tốn trở lại. Một khi đãø quen tự cao tự đại thì cho là mình hay, là cao nên không chịu nhận lỗi, có khi thà chết cũng không nhận lỗi. Đó là nguy hiểm, là lỗi lầm rất lớn.
Thời Xuân Thu Chiến Quốc, có câu chuyện về một chàng trai tính tình cố chấp (cũng là tự phụ). Hôm đó, anh ta ngồi xe ngựa để đi phương Bắc, giữa đường gặp người bạn già lớn tuổi, mới hỏi: “Anh đi đâu vậy?” Anh đáp: “Tôi muốn đi đến nước Sở”. Ông bạn mới hỏi: “Anh đến nước Sở à! Nghe nói nước Sở ở phương Nam sao anh lại đi phương Bắc, chắc là anh đi ngược đường rồi”. Lúc ấy, nếu anh ta là người khéo biết lắng nghe thì kiểm lại, thấy đi sai đường liền chuyển hướng. Đằng này, anh ta không chịu nhận sai mà còn biện bác trở lại. Nói: “Không sao, ngựa của tôi rất giỏi, anh không phải lo”. Ông bạn nghe vậy, nói: “Ngựa dù giỏi mà đi lầm thì càng đi càng xa”. Nhưng anh vẫn khăng khăng không chịu nghe. Anh nói: “Bác chẳng cần phí tâm như vậy, tôi có đủ lộ phí để đi đường”. Ông bạn già mới nói: “Tiền đi đường của anh dù có nhiều, nhưng phương hướng đã không đúng rồi thì anh làm sao đến được nước Sở dù có tiền đầy túi”. Đến như vậy mà anh ta vẫn cố chấp không nghe. Lại nói: “ Cũng không hề gì, tôi có một người xa phu rất giỏi đánh ngựa”. Anh ta cứ cố chấp bảo vệ cái lý của mình, mặc cho ông bạn lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm giải thích tận tình. Đó gọi là chết cũng không nhận lỗi.
Vậy, cuối cùng anh ta sẽ đi đến đâu? Dù cho có nhiều lộ phí, có ngựa giỏi, có xa phu giỏi nhưng mà lạc đường thì làm sao đi tới đích? Cho nên, nếu biết quay lại từ đầu thì đã nhẹ nhàng, còn khi lạc rồi mà quay trở lại thì càng xa nữa, bởi vì ngựa giỏi chạy càng nhanh thì lạc càng xa. Đó gọi là thiếu tinh thần biết lắng nghe, biết nhận lỗi, khiến người nhìn thấy chỉ biết lắc đầu thương xót.
Đó là một bài học kinh nghiệm cho chúng ta, không nên học theo kiểu đó, không tự phụ, phải biết lắng nghe, tự sửa đổi, biết tự kiểm tra lại mình.
Nhà thiền cũng có câu chuyện, một vị tăng đến bạch với Thiền sư Vô Đức: “Bạch thầy, thời gian con tham học dưới tòa của thầy đã đủ, nay xin từ giã thầy đi du phương hành khước”. Thiền sư Vô Đức bảo: “Làm sao biết đã đủ ?”. Vị thiền tăng thưa: “Dạ, bạch thầy, đủ tức là đầy rồi, cho vào không được nữa”. Thiền sư mới bảo: “Trước khi đi ông hãy đem đến đây một cái chậu đựng đầy đá, ta có chuyện nói với ông”. Ông tăng vâng lời làm theo. Thiền sư Vô Đức nhìn chậu đá nói: “Chậu đá này đầy chưa? ”. Vị tăng trả lời là đã đầy. Thiền sư Vô Đức lắc đầu, thuận tay bốc một nắm cát bỏ vào chậu, không có hạt cát nào tràn ra ngoài, vậy là chưa đầy. Ngài mới hỏi lại: “Vậy đã đầy rồi ư ?” Vị học tăng thấy Thiền sư bỏ nắm cát vào chậu đã phả mặt bằng rồi nên trả lời : “Dạ đầy rồi”. Thiền sư Vô Đức mới lấy một nắm vôi bỏ thêm vào, không thấy chút bột vôi nào tràn ra ngoài, cũng chưa đầy. Ngài hỏi lại: “Vậy đã đầy rồi ư?”. Vị học tăng thưa: “Dạ, đầy rồi”. Thiền sư lại đổ vào chậu một chén nước, cũng không có giọt nào tràn ra ngoài. Thiền sư Vô Đức lại hỏi: “Đã đầy rồi ư?”. Lúc này vị học tăng há hốc miệng không thể trả lời, không còn tự hào cho là sự học đã đủ.
Câu chuyện trên đủ cảnh tỉnh người nào còn mang tâm tự hào, tự mãn, cho cái hiểu, cái thấy, cái biết của mình đúng. Sự kiện này khiến thầy tăng phải luôn cảnh giác tâm tự mãn, biết khiêm tốn học tập.
Chúng ta cũng vậy, nhiều khi chỉ thấy biết theo chủ quan của mình, đâu biết bên trong ngầm vẫn còn có những kẻ hở, những sơ sót chưa thấy hết được. Giống như chậu đầy đá tưởng rằng đã đầy rồi, nhưng nếu tìm sâu hơn nữa thì chậu vẫn chưa đầy. Cho nên, khi bỏ cát vào thì vẫn còn có thể chứa được; rồi cát cũng còn có khoảng hở, nên khi bỏ vôi vào thì cũng chưa thấm gì, đổ nước vào cũng vậy.
Để thấy rằng cái nhìn chủ quan tự cho mình là đầy, là đủ rồi thì đó là sai lầm. Phải biết tự tập đức tính khiêm tốn, thường biết kiểm tra lại mình để tránh bớt lỗi lầm, đó là điều quý nhất. Nếu ai tự cho mình là đủ, là đúng là hay thì nên kiểm lại, đó là kinh nghiệm tự cảnh tỉnh bản thân.
Một câu chuyện khác, có vị thiền tăng tên là Tenno, đến tu học với Thiền sư Nan-in 10 năm. Một hôm, thiền tăng Tenno tự cho mình đã đầy đủ công phu tu tập rồi nên đến từ giã thầy để xuống núi. Thiền sư nói: “ Được, thời gian cũng đủ rồi. Nhưng ta muốn hỏi con: Trước khi vào thất, con để cây dù ở bên phải hay bên trái đôi dép của con vậy?”. Bị Thầy hỏi bất ngờ nên vị tăng bối rối suy nghĩ trả lời. Thiền sư bắt vị tăng ở lại thêm một thời gian nữa. Sau đó, lần thứ hai, vị tăng đến từ giã xin đi. Thiền sư cũng hỏi bất ngờ: “Lúc vào đây, con bỏ dép ở chân nào trước?”. Vì không chú ý, nên vị tăng phải suy nghĩ để trả lời. Vừa suy nghĩ thì Thiền sư nói như vậy không được, hỏi thì phải trả lời ngay, nên bắt vị tăng phải ở lại mấy năm nữa. Qua mấy năm, vị tăng thấy mình đã thành tựu thiền đến mức khả quan, nên lại đến từ giã thầy với một niềm tự tin vững chãi. Thiền sư nhìn vị tăng cười bảo: “Thôi được, con đi cũng tốt. Trời đang gió lạnh, con hãy giúp thầy đóng cửa sổ”. Vị tăng mừng quá, nhanh tay đóng cửa phát ra tiếng động lớn. Thiền sư bắt vị tăng ở lại thêm mấy năm nữa. Nhờ vậy, sau này vị tăng đó trở thành một Thiền sư nổi tiếng ở nước Nhật. Đây cũng là bài học để mỗi người chúng ta tập tính khiêm tốn, bớt lòng tự hào cũng vừa tự kiểm tra lại mình.
Vì chủ quan, chúng ta hay cho là mình tốt hoặc được rồi, nhưng người ngoài nhìn vào thấy vẫn còn chưa được. Cho nên phải giảm bớt tính chủ quan, vì chủ quan dễ đưa đến tự phụ, rồi tự cao, tự đại. Đây là những bài học hiện thực trong cuộc sống tu hành của chúng ta, phải luôn luôn tự kiểm tra bản thân để tu tiến. Có tự kiểm tra lại mình mới thấy được những sai sót; có thấy sai sót bản thân và thấy cả sai sót của người, nhờ vậy khởi lòng cảm thông và bớt tâm tự phụ.
III/ THƯỜNG TỰ KIỂM TRA MÌNH.
Có câu chuyện về hai nhà họ Trương họ Lý. Một hôm, người bên nhà họ Lý qua nhà họ Trương hỏi : “Sao mọi người nhà anh sống với nhau vui vẻ, hài hòa rất là hay; còn nhà tôi năm ba bữa là cãi nhau, nhà anh có thuật sống gì hay vậy?”. Anh họ Trương nói: “Đâu có gì lạ! Mọi người trong nhà tôi luôn thấy mình là người xấu, còn nhà anh ai cũng thấy mình tốt nên mới như vậy”. Anh họ Lý ngạc nhiên:“Là người tốt tại sao lại cãi vã”. Họ Trương mới nói: “Ví như có một chén trà để trên bàn, một người đi qua vô ý đụng cái bàn, bàn chao làm rơi vỡ chén trà. Người nhà của anh không nhận lỗi, mà còn lớn tiếng trách: “ Ai để chén trà không ý tứ, phải để vào trong thì đâu có bể ?”. Người để chén trà cũng không chịu thua, cãi lại: “ Tôi để đó đâu có sao, tại anh vô ý làm bể, còn trách”.
Vì ai cũng thấy mình tốt, mình phải nên mới xảy ra cãi nhau. Còn nếu là người nhà của tôi khi gặp sự việc như vậy sẽ nhỏ nhẹ xin lỗi: “Tôi lỡ vụng làm đổ chén trà, thành thật xin lỗi”. Người để chén trà nghe vậy, cũng sẽ nói: “Cũng không thể trách anh, do tôi sơ ý để chén trà ở gần mép bàn nên mới bị đụng đổ. Đây là lỗi của tôi”. Hai người cùng nhận lỗi hết nên không cãi vã, trong nhà luôn an vui và tốt đẹp. Còn nhà anh ai cũng tốt thì lỗi về phần ai ?
Đây cũng là một kinh nghiệm sống, lỡ gặp chuyện như vậy thì chúng ta cứ nhận lỗi không trách ai. Phật tử hiểu và sống được thì sẽ thấy an vui. Nếu khi có lỗi mà không nhận lỗi thì đó là nguy hiểm, khiến người kia tức giận thành ra cãi vã, tranh chấp nhau cũng từ chỗ đó.
Nếu hai người đều đúng mà hai cái đúng chạm nhau thì tóe lửa, rõ ràng là như vậy. Nên phải nhận lỗi, tập nói lời xin lỗi, đó là yếu chỉ để sống hòa hợp, vui vẻ. Đây là những bài học thực tế, chúng ta phải hiểu được ý nghĩa đó để tập sống hòa hợp. Muốn được vậy thì phải thường tự kiểm tra mình đừng lo kiểm tra người.
Nhờ thường tự kiểm tra mình mới thấy được chỗ yếu, chỗ sai để mà tự sửa. Có ông bác sĩ Triệu là Phật tử, thường lên tòa diễn giảng. Hôm đó, giảng xong ông lái xe về nhà, vừa lái ra cổng thì bị chiếc xe taxi xông tới đụng vào xe ông. Rõ ràng anh tài xế taxi có lỗi, nhưng mà anh này còn mắng to: “Bộ ông muốn chết sao mà chạy như vậy?”. Bác sĩ Triệu tức vì theo luật đi đường thì anh taxi lỗi, đã vậy lại còn lớn tiếng chửi, bác sĩ đáp trả: “Chính anh mới muốn chết”. Tài xế taxi thách thức: “Ông ra đây!”. Bác sĩ nói: “Ra thì ra chứ sợ gì”. Ngay lúc ông sắp mở cửa bước ra khỏi xe, liền thấy nhóm học viên trong hội trường mà ông vừa diễn giảng ra tới, thấy thầy vừa giảng rất hay mà sao mới đây lại sừng sộ như vậy. Bác sĩ Triệu ngay đó tự kiểm lại mình, thấy hổ thẹn, liền đổi thái độ. Hướng về anh tài xế kia: “Thôi tôi xin lỗi anh, đúng là tôi sai rồi”. Anh tài xế ngạc nhiên, nhưng cũng trở lại khiêm tốn, nắm chặt tay bác sĩ: “Đây đúng là lỗi của tôi, chứ không phải ông”. Hai người vui vẻ bắt tay nhau rồi đi.
Các Phật tử thấy chiến trường sắp nổ nhưng mỗi người sớm biết xoay lại, biết nhận lỗi, chỉ cần chịu hạ mình thấp một chút là có thể xong việc. Còn ai cũng tự cho mình là trên, không chịu nhận lỗi nên mới sinh ra chuyện không vui, không tốt.
Chúng ta khéo tập nói được lời xin lỗi là đã giải quyết được bao nhiêu chuyện rắc rối. Chỉ cần một câu nói thôi. Quý Phật tử nào kinh nghiệm sẽ rõ. Nếu đã lỡ làm chuyện có lỗi mà thực tâm xin lỗi thì người kia họ cũng sẽ bớt giận; cũng như ai lỡ làm mình buồn giận mà họ xin lỗi thì mình cũng sẽ bớt buồn.
Như vậy, chỉ một lời xin lỗi thôi mà có thể chuyển họa thành phúc, chuyển rắc rối thành êm đẹp, vậy tại sao chúng ta không dám nói lời xin lỗi, trong khi không tốn công, tốn tiền tốn bạc gì hết? Xét lại thì chỉ vì lòng tự ái mà ra, do tự ái là hàng rào cản nên mới không dám nói. Người học đạo cần phải vượt qua, đó cũng chính là một cách để tự thắng mình.
Kinh Pháp Cú nói:
                    Dù tại bãi chiến trường,
                    Thắng ngàn ngàn quân địch,
                    Tự thắng mình tốt hơn,
                    Thật chiến thắng tối thượng.
                    Dù thiên thần, thát bà,
                    Dù ma vương, Phạm thiên,
                    Không ai chiến thắng nổi,
                    Người tự thắng như vậy.
Nghĩa là dù cho thiên thần ở cõi trời, dù ma vương hay Phạm thiên cũng không ai có thể bằng người tự chiến thắng mình, đó là một sức mạnh lớn, khó làm mà làm được.
Người biết nhận lỗi là người có sức mạnh lớn, vì người yếu đuối chưa chắc làm được. Nhưng người ta ít dám nhận lỗi mà thường thấy lỗi của người khác. Đó là thói quen ít tự kiểm tra mình mà lại thường kiểm tra người, nên kinh Pháp Cú nói:
                    Dễ thay thấy lỗi người,
                    Lỗi mình thấy mới khó.
                    Lỗi người ta phanh tìm,
                    Như lựa thóc trong gạo.
                    Còn lỗi mình che giấu,
                    Như kẻ gian giấu bài.
Tức là thấy lỗi người ta thì dễ, thấy lỗi mình mới khó. Lỗi người khác thì cố moi tìm như lựa thóc trong gạo; còn lỗi mình thì che giấu cho qua như kẻ gian giấu bài. Đó là thói quen.
Vì thường thấy lỗi người mà không thấy lỗi mình nên thành ra tự cao tự đại, rồi dễ bực mình, thấy anh đó cứ lầm lỗi hoài, cứ dở hoài mà không biết bản thân mình cũng có cái dở. Cho nên, nếu là người thường soi lại mình, lỡ thấy huynh đệ có sai sót thì cũng thông cảm, vì lâu lâu mình cũng có những cái dở, nhờ vậy ít bực bội. Nếu người mà lúc nào cũng tự cho là mình đúng, là tốt khi thấy người ta sai chút là dễ bực bội, rồi cứ lo trách người mà ít chịu trách mình.
Đó là những kinh nghiệm, là lẽ thật để chúng ta thường tự soi, tự kiểm lại mình, thấy được những cái sai sót của mình, dám nhận lỗi, dám nói lời xin lỗi, tạo không khí vui hòa, cũng là cách tiến tu. Có thấy được sai sót của mình, chúng ta mới sửa để tiến bộ, còn tưởng mình tốt thì không còn muốn nghe ai khuyên dạy nữa, cố chấp như vậy thì lỗi càng nhiều.
IV/ TỰ TRÁCH MÌNH TRƯỚC KHI TRÁCH NGƯỜI.
Một yếu chỉ để sống tốt nữa là phải thường tự trách mình trước khi trách người. Nghĩa là phải khéo tự trách mình trước rồi mới trách người sau, chứ đừng có trách người trước khi trách mình. Thường thì người ta hay trách người khác trước khi trách mình, chúng ta tu Phật phải ngược lại, tự trách mình trước. Đó cũng là cách giải tỏa nhiều phiền não cho mình. Bởi vì cứ lo trách người mà không dám trách mình, cứ đổ lỗi cho người còn mình lúc nào cũng tốt nên dễ sinh phiền não, bực bội bất mãn.
Cuối cùng, thấy ai cũng đáng trách hết, còn mình thì sao? Đây là một kinh nghiệm mỗi khi bị huynh đệ làm điều gì bất như ý cho mình thì phải tự xét tìm xem bản thân đã có khuyết điểm gì, nên người mới đối xử như vậy. Thí dụ họ cư xử tệ, có vẻ khinh thường mình, thì trước khi trách họ chúng ta phải trách mình trước, nghĩ lại chắc mình tu cũng có chỗ khiếm khuyết gì đó, hay đức hạnh của mình còn kém nên mới như vậy. Nếu như đức của mình cao thì họ đâu đối xử xấu. Quán xét kỹ thì sẽ thấy nhẹ nhàng, bớt phiền trách người khác. Tự kiểm mình để tu thêm chút nữa, vun bồi đức hạnh mình thêm chút nữa, được vậy thì tâm nhẹ nhàng và tu tiến thêm. Ngược lại, chưa gì đã trách người khác, thì càng sanh bực bội, càng thêm phiền não, không khí càng nặng nề hơn nữa.
Quý phật tử đã đọc câu chuyện ngài Milarepa, Ngài bị ông thầy ngược đãi một cách vô lý, nhưng Ngài cũng vẫn nhẫn nại, tự trách mình mà không oán giận thầy. Ngài tự trách nghiệp ác mình tạo nên mới gặp hoàn cảnh không hay. Đúng là trước kia Ngài cũng tạo nhiều nghiệp ác nên hiện tại thường tự trách lại mình, và Ngài càng tăng thêm sức nhẫn nhục. Nhờ vậy những quả báo ác của Ngài giảm bớt, và được giác ngộ trong hiện đời, nếu Ngài oán trách thì nghiệp ác không cởi bỏ được. Nếu người biết sống, sẽ có tiến bộ khéo vươn lên. Điều quan trọng là phải thường tự kiểm lại mình, tự trách mình, trách mình trước chứ đừng theo thói quen là trách người ta trước.
Việt Nam có kể câu chuyện về Thiền sư Hiện Quang là vị sư đầu tiên của sơn môn Yên Tử. Có lần, Ngài thấy vị thị giả dâng cơm, bất cẩn xẩy tay rơi mâm cơm xuống đất. Thầy thị giả sợ quá, vội lấy tay hốt cơm vô. Vì hốt vội nên cơm lẫn với đất đem dâng cho Ngài. Ngài thấy vậy tự trách mình: “Ta sống không làm lợi ích cho ai nhiều, nhọc công người cung cấp đến phải như thế.”
Ý của Ngài là thấy mình sống không làm được lợi ích cho ai nhiều mà còn phải làm phiền người. Từ đó, Ngài mặc áo bằng lá cây, ăn các thứ trái lượm được trong núi rừng chứ không dùng cơm để khỏi cần người cung cấp. Trải qua mười năm như vậy.
Đó là tinh thần tự trách mình, người tu được như vậy thì nhẹ nhàng không phiền não. Đây là những phương cách và là kinh nghiệm để chúng ta học hỏi. Người học đạo phải khéo biết soi lại như vậy.
Nhà thiền kể câu chuyện về Thiền sư Lâm Tế - Nghĩa Huyền khi còn đang tham học. Mỗi lần, đến thưa học pháp với ngài Hoàng Bá đều bị ăn một gậy và không trả lời gì hết. Nếu chúng ta đi cầu pháp mà gặp trường hợp như thế thì chắc là oán trách rồi bỏ đi vì ông thầy thô lỗ quá. Nhưng Ngài không trách gì hết, chỉ tự trách mình vô minh, nhiều chướng duyên nên không sáng tỏ được ý chỉ thầy dạy. Chính cái tâm như vậy nên mới tiến bộ, mới thành bậc Tông sư sau này.
Ở Việt Nam cũng có câu chuyện rất hay là “bến đò sáu mươi” nói về Sơ tổ Trúc Lâm.
Bấy giờ, vua Trần Nhân Tông lên núi tu nhưng cũng thường đi giáo hóa, thăm dạy các nơi. Ngài tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) nên mọi người xưng gọi là Trúc Lâm Đầu Đà. Vì Ngài mặc áo tu tầm thường, đi chân trần, nhìn không giống ông vua, nên có một lần đi từ nơi Thiên Trường qua bến đò ở xã Nghi Dương, nay là xã Ngũ Phúc thuộc huyện Kiến Thụy - Hải Phòng để thăm chị gái, tức là công chúa Thiên Thụy, tu ở chùa Nghi Dương.
Lúc ấy, trời sẩm tối có viên xã quan đi kiểm tra chuyển canh. Nhìn thấy vị sư khoác túi vải gầy gò, chống gậy dò đường đi ra bến đò. Vị xã quan đã ngà ngà say, hách dịch hỏi giấy tờ tùy thân của Đại sĩ. Đại sĩ từ tốn nói: “Tôi ở trên núi, lỡ đi có việc gấp nên quên mang theo giấy tờ”. Xã quan liền túm lấy Đại sĩ đấm cho sáu mươi đấm. Vừa lúc đó, gia nhân của công chúa Thiên Thụy tới đón Đại sĩ, thấy vậy mới hoảng hốt quát to: “Đó là Thượng hoàng, sao dám hỗn vậy?”. Xã quan nghe rồi hết hồn, run sợ quỳ rạp xuống lạy xin tội. Đại sĩ ôn tồn bảo tên xã quan phải khéo, từ đây trở đi phải chừa tật rượu chè, hống hách; rồi Ngài quay lại nói với gia nhân công chúa: “Đây cũng do nghiệp chướng của ta, không nên làm khó xã quan”. Vì vậy, từ đó bến đò này mới có tên là bến đò sáu mươi.
Như vậy, Ngài cũng tự trách nghiệp chướng của mình, trước do không khéo tạo nên nay mới gặp chuyện không hay, Ngài không trách người. Một vị vua danh tiếng, một vị Thượng hoàng đầy uy quyền khi bị người sĩ nhục vẫn không oán trách mà chỉ tự trách lại mình. Đối với chúng ta thì việc này có dễ làm không? Đó là những bài học sống, là tinh thần học đạo của người xưa.
V/ TÓM KẾT
Chúng ta học nhiều kinh luận, nhưng chỉ biết nhớ chữ nghĩa mà không ứng dụng ý kinh rồi chuyển thành bài học thực tế trong cuộc sống, thực là thiếu sót. Quý vị nghe giảng chỉ 1 tiếng đồng hồ là xong nhưng thực hành thì làm cả đời cũng không xong. Chỉ cần hai tiếng “xin lỗi” quý vị học cả đời học cũng chưa hết. Không phải đơn giản. Đừng tự hào nói tôi học thuộc hết bộ kinh này, bộ kinh kia…
Muốn học lẽ thực, trước hết chúng ta phải tập để quen “nói lời xin lỗi”. Tại sao phải thực tập? Bởi vì khi nghe thấy dễ nhưng làm thì khó, nên phải tập. Nếu như ai đã làm được rồi thì thôi, nhưng hầu hết chúng ta đều chưa được nên phải thực tập để cho quen, để sống được như vậy. Phải tập “nói lời xin lỗi” để có sự thông cảm với nhau, để dễ dàng dẹp bớt lòng tự phụ. Khi lỡ làm buồn phiền huynh đệ thì chúng ta phải tập can đảm lên, phải mạnh dạn nói lời “xin lỗi huynh, tôi đã làm huynh buồn”. Như vậy, liền có sự chuyển đổi, không khí sẽ nhẹ nhàng, bớt nặng nề. Còn nếu cứ mặt nặng với nhau ngày này qua ngày khác thì buồn phiền càng kết sâu. Sống như vậy có vui gì? Cũng như, nếu lỡ làm người trên buồn lòng thì trước mạnh dạn nói: “Con xin lỗi thầy” hoặc “Con xin lỗi ba mẹ”. Nói được bằng tâm chân thành thì sẽ không ai phiền trách nữa, không khí sẽ nhẹ nhàng an vui, hòa hợp. Phải tập giống như gia đình họ Trương, cả nhà ai cũng là người xấu hết thì không khí an vui, còn ai cũng tốt hết thì cãi vã nhau hoài.
Nếu có ai lỡ làm phiền huynh đệ, phiền người chung quanh mà còn tự ái cố chấp, làm mặt lạnh thì cuộc sống làm sao có sự thông cảm? Có nhiều trường hợp, hai xe đụng nhau, không ai chịu nhận lỗi, người này đổ qua người kia, người kia đổ qua người nọ thành ra cãi nhau; nếu lỡ chạm nhau chỉ cần bước xuống xe nói lời: “Xin lỗi tôi lỡ chạm anh” thì chắc là sự việc nhẹ nhàng. Cũng vậy, trong cuộc sống nếu cứ lo đổ lỗi cho nhau, trở thành bất mãn với nhau, rồi tự sanh phiền não, cuộc sống càng đưa đến tình trạng đen tối hơn, nguyên do cũng chỉ vì cố chấp mà ra.
Cho nên, người học đạo phải khéo tự kiểm tra và phải biết nói được lời “xin lỗi”. Có miệng là nói được. Chỉ cần khéo buông bớt cái “tôi” này một chút thôi thì sống gần với nhau, thương nhau hơn. Sẵn sàng xin lỗi tất cả. Đó là bài học mà tất cả người tu chúng ta cần phải thực tập.
Bây giờ, tôi xin làm gương trước: “Tôi xin lỗi tất cả. Bởi vì lâu nay mỗi lần giảng dạy Phật pháp, phải nói thẳng nói thật, nên nhiều khi cũng đụng chạm, ít nhiều cũng làm mất lòng mọi người nên tôi xin lỗi tất cả”. Khi nói thật thì có khi cũng đụng chạm cái tôi của mọi người. Nhưng học Phật là học sự thật, thì phải nói lời thật để khéo sống chân thật cùng tiến lên. Nay xin được nói lời xin lỗi, vì đây là việc làm rất là bổ ích trong cuộc sống của bản thân mỗi người.