HẠNH PHÚC THỨ NHẤT
Asevanā ca bālānaṃKhông thân cận với kẻ ác
Trên thế gian này có nhiều giống người, chỉ khác nhau ở màu da, phong tục, tiếng nói, nhưng chung qui có thể chia hai hạng người là:
- Balā: người ác.
- Pandita: người thiện tri thức.
Phật dạy chúng sanh cần phải học để biết người ác đặng lánh xa, vì khi ta thân cận với người ác rồi, thì không thể nào chạy khỏi đều khổ sở trong ác đạo.
Vì vậy, ta nên học để hiểu rõ thái độ và cách cư xử của người ác cho rõ ràng để tránh xa. Trước hết, ta phải học cho biết rõ thái độ người ác cũng như chúng ta, nghĩa là không có gì khác chúng ta về thể chất. Người ác không phải chỉ là hạng người côn đồ, cướp bóc, hay nghèo khó, thất học hoặc bệnh tật, mà có khi họ lại là người cao sang, quyền quí, học thức, thượng lưu trong các giai cấp xã hội đều có người ác. Tìm biết một người ác là một chuyện không phải dễ vậy.
Trong kinh Phật có dạy hai cách thức để nhận ra người ác là:
1. Cách thức của các bậc trí thức giàu kinh nghiệm đời hiểu rõ tâm lý của người ác.
2. Cách thức của đấng Giác ngộ, ngài hiểu rõ tâm địa của kẻ ác bằng trí tuệ.
Mặc dù là của đấng Giác ngộ hay của các bậc trí thức, hai cách thức ấy chung qui đều dạy tâm lý của người ác để chúng ta biết mà lánh xa, ví như khoa học dạy chúng ta biết chứng bệnh của người bệnh và cách tránh xa của bệnh ấy. Vậy theo thiết tưởng chúng ta cũng nên học cho biết rõ hai cách thức để lánh xa người ấy.
Trước hết xin giải về cách nhận thức kẻ ác theo lời giảng giải của các bậc trí thức. Ở đây, tôi xin nhắc lại tích xưa về tiền thân của Đức Phật Thích Ca trong bộ Túc sanh truyện để quí vị dễ nhận thức.
Lúc quá khứ có một vị trưởng giả ở thành Ba La Nại tên là Akitta. Sau khi cha mẹ quá vãng. Ông nhận thấy đời là vô thường, khổ não, vô ngã; và quan tâm được rằng sau khi dứt ba tấc hơi thì mọi vật ở đời mình đã có đều không đem theo một vật nào, mà chính thân hình mình cũng không đem theo được. Vì vậy nên ngài mới bố thí hết của cải của ngài, không biết số lượng bao nhiêu mà kể. Rồi ngài xuất gia làm đạo sĩ ở trong rừng tuyết lạnh.
Ngài hành theo hạnh tri túc. Ngài chỉ ăn lá cây và trái cây rụng ở gần bên ngài thôi. Pháp hành cao thượng của ngài như thế đã đến tai Đức Đế Thích. Thiên vương Đế Thích mới hiện xuống và nói với ngài: "Bạch Đại đức, tôi rất hoan hỷ với hạnh tri túc của ngài. Vì vậy tôi đến đây và xin hứa với ngài rằng ngài mong ước điều gì, tôi cũng xin vui lòng giúp ngài đoạt thành như ý".
Vị đạo sĩ ấy đáp rằng: "Tâu Đại vương, lời hứa của ngài thật là quí giá, nhưng sự mong ước của bần đạo không có gì khó".
Thiên vương nói: "Trẫm biết rồi, chính Đại đức thọ thực lá và trái cây rụng gần bên ngài thôi".
Đạo sĩ nói: "Tâu Đại vương, hiện giờ lá và trái cây vẫn còn. Nếu Đại vương có lòng từ bi ban bố hạnh phúc cho bần đạo, thì bần đạo có một điều rất mong muốn là..."
Đức Đế Thích nói: "Đại đức cứ thật tình báo cho tôi biết, tôi hết lòng giúp đỡ ngài, thuốc men hay là y phục chi chi, xin ngài cứ bảo"
Đạo sĩ nói: "Tâu Đại vương, bần đạo không cần những thứ ấy". Đức Đế Thích nóng lòng hỏi: "Vậy vật chi, bạch Đại đức?"
Vị đạo sĩ nói: "Điều cần thiết nhất là xin cho tôi đừng gặp kẻ ác, không bao giờ làm công chuyện gì có kẻ ác nhúng tay vào".
Đức Đế Thích hỏi: "Đại đức ghét kẻ ác đến thế à?"
Vị đạo sĩ nói: "Chẳng những thế, xin cho tâm của bần đạo không ưa thích và xu hướng theo những kẻ ác".
Đức Đế Thích nói: "Vậy là lời thỉnh cầu của ngài là không bao giờ muốn gặp, mặc dù là tin tức của kẻ ác và cũng xin đừng nghe đến".
Vị đạo sĩ đó: "Phải đúng như vậy".
Đức Đế Thích hỏi: "Bạch ngài, ngài có thể cho tôi biết người ác đã từng làm gì đối với ngài?"
Đạo sĩ nói: "Tâu Đại vương, xin Đại vương đừng bắt tôi nói chuyện đã qua của kẻ ác đã làm. Nhưng bần đạo xin nói sơ lược hành động của người ác là:
1. Kẻ ác hằng rủ người làm điều sai lầm.
2. Kẻ ác làm những chuyện không phải phận sự của chúng.
3. Kẻ ác thường nhận thức sai lầm, cho quấy là phải.
4. Kẻ ác, mặc dù chúng ta nói sự chân thật, lời hay lẽ phải, họ cũng không nhận thức, mà còn hờn giận, chuốc oán, gây thù.
5. Kẻ ác không chịu hành theo lẽ phải, nghĩa là không theo luật lệ của chính phủ.
Người ác thường hay có những điều xấu xa như thế nên bần đạo nguyện lánh xa."
Dưới đây tôi trình bày 5 loại hành động của người ác theo quan niệm của vị đạo sĩ ấy.
1. Anayam nayati dummedho: Kẻ ác thích rủ rê xúi giục kẻ khác làm điều ác, tức là kẻ ác hằng rủ người làm điều sai lầm.
Khi muốn biết người thiện hay ác chúng ta nên quan tâm xem người ấy rủ rê xúi giục ta làm những gì, thiện hay ác.
Ta chớ nên quên rằng người ác bao giờ cũng có ý định rất khác thường, là làm cho người khác đau khổ. Như ta đã biết, không phải người ác toàn là những hạng mà ta gọi là côn đồ du đãng, trái lại, lắm khi người ác lại là người mà ta tưởng là hạng trí thức, giàu sang vinh dự, và cũng có khi chúng ta tin tưởng sùng kính như bậc tu hành, bên ngoài ta xem như vậy, như là một vị đại đức xứng đáng với sự lễ bái cúng dường của chúng ta, hay là người nối chí từ bi của Đức Từ Phụ để tế độ chúng sanh. Vì vậy, chúng ta không nên tin càn mà không suy xét, phân biệt cho kỹ, mà chúng ta phải dùng trí tuệ mà nhận định, kẻo sai lầm như tích vua A Xà Thế: ông Đề Bà Đạt Đa là một vị đệ tử của Phật, người bấy giờ lầm tưởng là đấng có giới đức trang nghiêm, nhưng thật sự ông là người rất là ác, ông xúi giục vua A Xà Thế giết cha để đoạt ngôi và xúi vua hại Phật, để tranh dành lãnh đạo Tăng đoàn. Sở dĩ đức vua A Xà Thế tin tưởng nơi ông, vì ông là một nhà sư mang lá cờ của Phật. Hơn nữa nhà vua vì nhiều đức tin, nhưng thiếu trí tuệ, nên dễ bị rủ rê xúi giục, mới phạm tội trọng như thế.
2. Adhurāyam nyunjati: Kẻ ác thường làm chuyện không phải phận sự của chúng.
Kẻ ác thường can thiệp vào việc làm của người gần bên mình hay là của tất cả mọi người, để làm cho người ta bực mình hay đau khổ. Để tránh nạn can thiệp nguy hại ấy, khi chúng ta làm việc gì đang trôi chảy, hoặc có kẻ khác chen vào, xúi điều này, giục mưu nọ, chúng ta nên quan tâm suy nghĩ cho kỹ, không nên vội tin cho rằng kẻ ấy có thiện chí đối với ta, giúp ta, nên suy nghĩ cho kỹ rồi mới tin theo, nên nhận định rằng kẻ ấy thành tâm thiện chí giúp ta hay không.
Tiện đây tôi xin nhắc lại một chuyện ngụ ngôn để quí vị thấy và làm, và cho quí vị dễ nhớ.
Có một vị trưởng giả, ruộng đất cò bay thẳng cánh mà bề làm ăn rất phát đạt dễ dàng, nhờ tá điền và người làm công đối với ông hết lòng thành thật. Ông trưởng giả ấy có nuôi một bầy chó thật dữ để giữ nhà.
Nhưng về sau lợi tức của ông càng ngày càng kém đi. Ông ta lấy làm lạ vì số ruộng và người làm công đều như cũ mà cũng không ai thiếu lúa ruộng của ông. Ông hỏi lại người quản gia thì đâu đâu cũng không có gì sai sót. Ông điều tra mãi không ra duyên cớ. Ông mới hỏi người chăn bầy trâu của ông, chừng ấy ông mới vỡ lẽ rằng: Bầy chó dữ của ông không giữ nhà mà hằng ngày chúng đi ví cắn trâu bò, làm cho đàn trâu bò không ăn uống gì được. Vì vậy, đàn trâu bò đau yếu, công việc cày ruộng và kéo xe của chúng sút kém, khiến lợi tức của ông bị kém đi. Ông trưởng giả nghe vậy mới dạy đem bầy chó đi bỏ hết. Từ ấy, câu chuyện đồng áng của ông mới trở lại mức bình thường.
Trong câu chuyện ngụ ngôn này, bầy chó đã không làm phận sự giữ nhà mà đi làm chuyện ngoài phận sự của mình, nên đem tai hại cho người chủ như thế.
Xin nhắc thêm một tích nữa để quí vị dễ nhớ hơn.
Có một người làm vườn của Vua Bārānasī, hắn định đi xem lễ, bèn gọi người phụ tá lại bảo rằng: "Ta định đi xem lễ trong vài ngày, vậy các người ở nhà lo chăm sóc vườn, lo tưới cây, đừng bỏ bê nhé."
Khi người làm vườn đi xong, người cầm đầu nhóm phụ tá ấy mới gọi những người phụ tá và bảo rằng: "Người làm vườn đối với ta thật là tốt, vậy chúng ta thay anh ấy tưới cây, nhưng trước khi tưới, chúng ta hãy nhổ hết cây ấy lên xem rễ nó ăn xuống bao sâu, đặng tưới cho vừa sức nó". Tất cả những người kia vâng lời người cầm đầu, làm y như lời dạy bảo. Những cây bị nhổ lên, đều héo và chết hết.
Đức Bồ tát, tiền thân của Đức Thích Ca, nghe thấy chuyện này, mới nói rằng: "Những kẻ ngu muội không hiểu việc làm của mình, mà thày lay làm ngoài phận sự, nên đem tai hại đến cho mình và người khác."
Khi ấy ngài mới ngâm câu kệ rằng:
Nave anatihaklisalena
Attha carita sukhāvaha
Hapeti arāmiko dummedho
Kapiarāmiko tathā
Nghĩa là người ngu muội dù cố làm điều lợi ích để tìm sự an vui cũng không kết quả được, trái lại, bị hư hại cũng như những người làm vườn kia.
3. Dunnado seyyaso hoti: Kẻ ác thường nhận thức sai lầm, cho quấy là phải.
Theo câu Pāli này, ta nhận thấy sự nhận thức này có hai điều tương quan là nhận thức sai lầm và hành động sai lầm, bắt nguồn ở nơi tâm là thích điều quấy.
Nguyên người ác thường thích đều hung ác, xấu xa, như hiếp đáp kẻ khác, cướp giựt, hành hung. Ai ai cũng thấy các điều đó thật là đáng ghê, đáng ghét. Nhưng trái lại, những kẻ ác lại cho các điều đó là cử chỉ anh hùng, là hay, là giỏi, nên có khi đem những hành vi quá ác ấy khoe khoang và lấy làm tự đắc.
Người ác thường có ba tư cách để nhận thức được dễ dàng.
- Người ác thích điều quấy.
- Tự mình làm điều ác, mà không biết ăn năn, trái lại thỏa thích và đem khoe với người khác.
- Thấy kẻ khác làm ác như mình, thì rất thích và khi nghe người khác làm ác như mình, lại càng thích.
Những người ác ấy thường thù ghét người lương thiện, xem người lương thiện là đối thủ của họ, mặc dù người lương thiện vẫn sợ họ và nhường nhịn họ trong mọi việc.
4. Sammāvuttapikuppati: Kẻ ác mặc dù chúng ta nói chơn chất hay nói sự thật, chúng cũng oán giận ta.
Tâm lý của người ác, theo câu này, khỏi phải giảng giải nhiều cũng dễ hiểu. Đã là người ác thì họ không bao giờ chịu nhận lẽ phải, hay là sự chân thành của người khác đối với họ, mặc dù người nói lời chân thật ấy với tấm lòng từ bi, hay người nói là thầy tổ, cha, mẹ, hoặc là quyến thuộc, hoặc vợ chồng, họ cũng đều không bao giờ nghe theo. Họ không chịu nhận sự thật, không chịu phục thiện.
5. Vinayam so na janati: Kẻ ác không chịu hành động theo luật lệ.
Kẻ ác không bao giờ chịu hành động theo luật lệ của chính phủ hay của tôn giáo nào, mà chỉ biết làm theo bản tánh ác của họ thôi.
Sự thật, luật lệ của một quốc gia là để bảo đảm phần nào hạnh phúc cho con người. Kẻ ác thì không chịu câu thúc trong luật lệ ấy, lại cứ thích vượt khỏi vòng luật lệ để thỏa mãn ác tâm của mình và gây tổn hại cho người khác.
Trên kia, kẻ ác được mô tả theo nhận định của bậc trí thức, còn dưới đây thì Đức Phật phân tích kẻ ác theo trí thức của Ngài.
Trong Tam Tạng Kinh, Đức Thế Tôn có dạy trong đoạn kinh Uparipaññāsaka, bài kinh Bāla-panditasutta rằng:Tini bhikkhave bālassa bāla-lakkhanāni bālaninittāni - Này các thầy Tỳ khưu người ác có ba thái độ thấy rõ là:
- Duccintacinti: Suy nghĩ ác.
- Dubhāsitabhasī: Nói lời ác.
- Dukkhatamnakarī: Làm điều ác.
Nói một cách khác thì, theo lời Phật dạy, thái độ của người ác là nghĩ cũng ác, nói cũng ác, mà làm cũng ác, nghĩa là thân, khẩu, ý đều ác.
Thế nào gọi là suy nghĩ ác, nói ác, làm ác? Lời chú giải trong kinh có dạy rằng suy nghĩ ác có ba điều là tham lam thái quá, mưu hại kẻ khác và oán thù, và tà kiến, là không tin nghiệp nhân quả và luân hồi. Nói ác là nói dối, nói đâm thọc, chửi rủa, mắng nhiếc, nói biếm, nói lời vô ích. Làm ác là sát sanh, trộm cắp, tà dâm.
Ba thái độ ấy có khi tác động ở trong tâm chúng sanh, có khi phát hiện ra ngoài mặt, nên trong bộ chú giải 38 Pháp Hạnh phúc, ba thái độ ấy chia ra làm hai hạng là:
1. Ác bên ngoài: người ác trong thế gian này chia ra làm hai loại là:
- Andhabala: ác ôn, nghĩa là hạng người này hung dữ, khiến người ta kinh sợ như là bệnh ôn dịch, họ có thể giết người bằng mọi cách, hoặc bằng vũ lực, hoặc bằng mưu kế, miễn là hại được người mới vừa lòng. Hạng người này phạm đủ thập ác, không thể tránh một điều nào.
- Kalianabala: kẻ ác, nhưng vẫn còn điểm thiện tâm, nghĩa là đôi khi cũng làm lành, hoặc giúp đở người nghèo khó, bệnh tật v.v... Vì lòng nông nổi mà họ làm ác, nhưng lúc nào đó, họ lại ăn năn, mặc dù không ai dạy bảo. Như vậy là hạng người này có ngày tu hành, không hoàn toàn theo thập ác.
2. Ác bên trong: ác tính trong lòng của ta. Cũng ngụ ý nói ác tính trong lòng của chúng sanh chưa dứt trừ hẳn phiền não. Ác tính ấy là 27 điều ác của tâm, mà Phạn ngữ gọi 14 điều là: Akusala cetasika (ý ác), và 13 điều là Annasa mana cetasika (tác ý có hành động khác nhau).
Những ác tính kể trên có tính cách xấu xa khác nhau, làm cho thiện tâm lu mờ và yếu hẳn đi, không đủ khả năng nhận định được lẽ phải quấy, nên tâm, hằng phóng túng và dã dượi buồn ngủ. Mặc dù tâm ấy không thật là ác nhưng không thiện, không tham thiền, bố thí được.
Ba thái độ ác trên đây sẽ đem lại cho chúng sanh tám điều tai hại trong kiếp này và vị lai:
1. Làm mất lợi ích kiếp này và vị lai của mình và người thân của mình.
2. Thân, khẩu, ý của mình bị nhơ đục.
3. Làm cho tên tuổi xấu xa, hay càng ngày càng lu mờ đi, trong xã hội không ai nhắc tới.
4. Bậc trí và tất cả ai cũng ghê tởm như một món đồ bẩn thiểu.
5. Ai ai cũng cố xa lánh không dám gần và kinh sợ, như sợ một tai họa, nói theo ngôn ngữ chiến tranh bây giờ, thì sợ một quả bom nổ chậm.
6. Kẻ ác tâm không được sáng suốt để phán đoán điều phải lẽ quấy, tâm không có an lạc.
7. Kẻ ác làm cho danh tiếng trong họ hàng bị lu mờ, hay bị người đời xóa bỏ đi.
8. Kẻ ác sau khi chết, sanh vào bốn đường ác đạo.
Vì vậy chúng ta không đến gần kẻ ác, mà phải hành theo những điều sau đây:
- Không đến gần kẻ ác.
- Không ngồi gần kẻ ác.
- Không nghe kẻ ác.
- Không chơi với kẻ ác.
- Cố gắng xa lánh kẻ ác.
- Cố tâm trì giới, bố thí, tham thiền.
Người không thân cận với kẻ ác sẽ được 12 quả báo lành là:
1. Người không thân cận với kẻ ác là người được hạnh phúc tuyệt đối.
2. Người không chơi với kẻ ác là người đi trên chánh đạo.
3. Người không chơi với kẻ ác người gieo trồng Giới-Định-Tuệ.
4. Người không chơi với kẻ ác là người đi theo pháp học, pháp hành và pháp thành.
5. Người không chơi với kẻ ác là người không cắt đứt điều lợi ích quá khứ, hiện tại và vị lai, nghĩa là khi thân thiện với người ác, thì tự mình làm tội lỗi, không làm lành, thì quả lành của mình làm trong kiếp trước không thể trổ quả được, như vua A Xà Thế vì thân cận với Đề Bà Đạt Đa để cho Đề Bà Đạt Đa xúi giết cha, hại Phật, nên phạm ngũ nghịch đại tội, không thể đắc đạo quả được, mặc dù ngài có duyên lành để dành từ kiếp trước.
6. Người không chơi với kẻ ác là người ở trong thiện pháp.
7. Người không chơi với kẻ ác là người hằng được các bậc trí thức ngợi khen.
8. Người không chơi với kẻ ác hằng được thạnh lợi.
9. Người không chơi với kẻ ác được bậc trí thức yêu mến.
10. Người không chơi với kẻ ác thì không đi vào đường tội lỗi.
11. Người không chơi với kẻ ác sẽ được sanh về cõi trời.
12. Người không chơi với kẻ ác thì hạnh phúc đến với họ hằng ngày, không lo sợ tai họa gì do người ác gây nên.
Theo đây tôi xin nhắc lại một vài tích xưa trong Túc sanh truyện, để mình học lời dạy của Đức Phật về sự thân cận với kẻ ác và người thiện.
*
Chuyện KétKhi xưa trên một ngọn đồi gần rừng Tuyết Lãnh, trong một ổ két có hai con két con. Ngày nọ có bão tố, két bị lạc mỗi con một nơi. Một con rơi vào nơi cư ngụ của các đạo sĩ, một con lại rơi vào làng của kẻ cướp. Hai con chim đều được hai nơi nuôi dạy tử tế.
Ngày nọ đức vua xứ Pañcala đi săn, vì bị lạc đường nên ngài mới nằm nghỉ trưa dưới một cội cây bên bờ suối gần làng bọn cướp. Két của bọn cướp trông thấy đức vua trang sức vàng ngọc, mới gọi bọn cướp và bảo rằng: "Chúng ta hãy đến giết người kia để cướp của". Nhà vua nghe được kinh sợ, lật đật chạy trốn. Ngài lại đi lạc vào nơi cư ngụ của chư vị đạo sĩ. Két của đạo sĩ trông thấy đức vua mới nói: "Người ơi, từ xa người đến đây chắc là mệt nhọc lắm, xin mời người vào ngồi nghỉ, nơi đây là đất lành, không có gì kinh khủng đâu".
Đức vua lấy làm trong sạch với két và nghĩ thầm rằng: "Cùng một loài két với nhau, một con ở với bọn cướp thì hung ác, còn con ở với bậc chơn tu thì thiện lương".
Tích này cho chúng ta thấy rằng, mặc dù là loài diều thú nhưng chúng bị ảnh hưởng cái ác và thiện của người nuôi. Thế thì con người làm sao chạy khỏi ảnh hưởng của ác và thiện?
*
Chuyện Cây XoàiNgày xưa đức vua Dadhavāhana ngự đi tắm dưới sông, trước khi ngài tắm, các quân lính phải giăng lưới quanh nơi ấy để phòng ngừa tai nạn. Trong khi ấy có một trái chín trôi từ rừng Tuyết Lãnh mắc vào lưới, quân hầu vớt được đem dâng cho Vua. Ngài thấy trái lạ mới cho gọi tất cả thợ rừng để hỏi là trái chi. Những người ấy bảo rằng đó là trái xoài, một thứ trái có vị ngọt và mùi thơm. Nhà vua bèn thọ thực, nhìn nhận trái xoài ấy có mùi vị ngọt ngon. Ngài mới truyền lấy hột đem về trồng nơi thượng uyển và dạy phải chăm nom kỹ lưỡng và đặc biệt tưới bằng sữa tươi. Ba năm sau, cây xoài sanh được trái, mùi vị ngon thơm tho. Đức vua muốn khoe trái quí của xứ mình với lân bang trồng được giống quí ấy, nên trước khi đem biếu, ngài dạy phải lấy dùi nhọn đâm thủng mầm non của trái xoài. Vì vậy các nhà vua lân quốc lấy hột đem trồng nhưng không mọc được.
Một vị vua liền cho lấy hột xoài lên để tìm xem duyên cớ, thì mới thấy cái mầm trong hột đã bị đâm hư rồi. Vị vua ấy hiểu được ác ý của vua Dadhavāhana, liền nghĩ ra kế độc, bèn sai một người làm vườn tin cậy đến xin vào làm vườn của vua Dadhavāhana để tìm phương hủy diệt cây xoài ấy. Người làm vườn đến tâu cùng vua Dadha-vāhana rằng: "Tâu Hoàng thượng, hạ thần là người chuyên môn về nghề trồng cây và hoa, đã từng làm nhiều nơi và phục dịch cho nhiều nhà vua rồi, các ngài hài lòng với hạ thần, nay hạ thần muốn đến hầu Hoàng thượng". Đức vua lấy làm hài lòng thâu nhận người ấy vào làm.
Khi được vào làm, người ấy mới đem dây thần thông trồng ở nơi gốc xoài và trồng cây sầu đâu gần đó. Dây thần thông bò trên thân cây xoài, còn cây sầu đâu lớn lên giao nhành với cây xoài trở nên đắng. Thi hành xong phận sự phá hoại, người làm vườn trốn đi.
Ngày nọ vua Dadhavāhana ngự vào vườn thượng uyển, truyền quan hầu bẻ xoài cho ngài dùng. Xoài ấy trở nên đắng và không còn thơm như trước. Đức vua mới phán hỏi vị quốc sư ở gần bên rằng: "Này hiền khanh, tại sao mùa này xoài trở nên đắng, hôi, màu không đẹp như trước?".
Vị quốc sư quan sát kỹ chung quanh thấy một sự việc mới tâu rằng: "Tâu Đại vương, cây xoài này trước kia được vun trồng chu đáo, tưới sữa tươi, hiện giờ bị dây thần thông và cây sầu đâu là loại đắng quấn nhau và giao nhành, nên làm mất mùi vị của xoài". Vị quốc sư mới ngâm câu kệ rằng:
Vannagandhrasupeto
Amdayam ahuva puri
Tameve pujam labhamāno
Kehamb kutukapphalo
Pucinanda parivāro
Ambote dadhvāhanam
Mulam mulenasanlattham
Sākhāsākham nisevare
Asatasan nivāsene
Tenambo katukap phalo
Nghĩa là: "Cây xoài này trước có màu, mùi vị tốt ngon, trong khi được cúng dường (nhờ được săn sóc chu đáo), nhưng hiện giờ bị đắng bởi tại sao? Tâu Hoàng thượng, cây xoài của ngài bị cây sầu đâu và dây thần thông ở chung, rễ và rễ xen lẫn nhau, nhành với nhành giao nhau. Vì mọc chung chạ với dây thần thông và cây sầu đâu nên xoài của ngài không còn vị ngon ngọt, mà trở nên đắng như thế".
Tích này chỉ cho ta thấy rằng sự thân cận chung lộn có ảnh hưởng như thế. Nếu ở với người lành thì được an vui, ở với kẻ ác thì phải đau khổ, như câu tục ngữ Việt Nam ta dạy: "Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng", và "Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài".
Cây xoài là vật vô tri vô giác mà còn bị ảnh hưởng như thế. Vậy, chúng ta nên lấy đó làm gương, và chúng ta biết thương mình thì nên xa lánh kẻ ác, dù người ấy là quyến thuộc của mình. Chúng ta thường sợ kẻ ác hơn thương mình, vì vậy thường hay xu hướng theo kẻ ác làm tội như rượu trà, cờ bạc, đàng điếm, vì là kẻ khác xúi giục, nếu không theo họ thì sợ họ buồn, hoặc sợ người ta cười là không biết xã giao v.v...
*