Wednesday, May 2, 2012

Tiền Giang: Khởi công xây dựng Thiền viện Trúc Lâm Chánh Giác lớn nhất nước (update )




Sau đây là  địa chỉ và phone của Thiền Viện ,có ai muốn cúng dường thì liên lạc thẳng với Thiền Viện nhé ......


Thiền Viện Trúc Lâm Chánh Giác :

Xã Thạnh Tân,huyện Tân Phước ,tỉnh Tiền Giang .

Phone : 07-33-643-266
hinh00Sáng ngày mùng 8 tháng 4 Nhâm Thìn (28/04/2012),  hòa trong không khí tháng 4 đầy ý nghĩa của người con Phật đang nô nức chào mừng Đại Lễ Phật đản sanh PL 2556 , một buổi sáng đẹp trời với vầng hào quang xuất hiện trên bầu trời, duyên lành hội đủ, được sự đồng thuận của HĐTS TƯGHPGVN, BTS tỉnh hội PG tỉnh Tiền Giang và chánh quyền các cấp,  Ban Quản trị Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã tổ chức Lễ đặt đá chính thức xây dựng Thiền viện Trúc Lâm Chánh Giác tại huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang, ngôi thiền viện đầu tiên của hệ phái Trúc Lâm yên Tử được xây dựng mới tại miền Tây.
Buổi lễ diễn ra trong không khí trang nghiêm, hòa hợp và thanh tịnh dưới sự quang lâm chứng minh của Chư Tôn Đức Tăng Ni, cùng  lãnh đạo chánh quyền các cấp và hơn 8 ngàn Phật tử gần xa không quản ngại đường xá xa xuôi đã hoan hỷ cùng nhau huân tập về TVTL Chánh Giác tham dự Lễ đặt viên đá đầu tiên công trình xây dựng TVTL Chánh Giác, cùng nhau cầu nguyện để công trình xây dựng được thành tựu viên mãn.

Thiền viện Trúc Lâm Chánh Giác có tổng diện tích là 30ha, được xây dựng theo mô hình truyền thống của các thiền viện thuộc hệ phái Trúc Lâm Yên Tử, với 2 khu vực biệt lập là nội viện và ngoại viện. Theo quy hoạch tổng mặt bằng, thiền viện có 26 hạng mục, bao gồm các hạng mục thuộc ngoại viện như Chánh Điện, Tổ Đường, Giảng Đường, Nhà Tăng ngoại viện, Trai đường, Thư viện, Nhà Trưng bày, Lầu chuông, Lầu trống, Nhà Khách cư sĩ Nam, Nhà khách cư sĩ Nữ v.v.., với tổng diện tích hơn 47 ngàn m2. Khu vực nội viện được quy hoạch với diện tích gần 16 ngàn m2, bao gồm 4 tăng đường, 1 thiền đường và 10 thất chuyên tu. Khu vực nhà khách nữ được bố trí trên một diện tích gần 19 ngàn m2 với Thiền đường, Trai đường riêng và 10 thất chuyên tu. Tổng diện tích xây dựng của 2 khu vực hơn 8000m2.  Trong định hướng xây dựng được thể hiện trên bản vẽ quy hoạch, một khu vực rộng lớn được bố trí để xây dựng Tứ Động Tâm (Lâm Tì Ni – nơi Phật Thích Ca đản sinh; Bồ Đề Đạo Tràng – nơi Phật thành đạo; Lộc Uyển – nơi Phật chuyển pháp luân và Câu Thi Na – nơi Phật nhập diệt) theo đúng nguyên mẫu với tỉ lệ 6-10. Theo tỉ lệ này thì tháp Đại Giác sẽ có chiều cao khoảng hơn 31m. Đây sẽ là điểm rất riêng của Thiền viện Trúc Lâm Chánh Giác nhằm tạo duyên lành cho những Phật tử gần xa không có đủ duyên đến Ấn Độ để chiêm bái, thì có thể đến Thiền viện Trúc Lâm Chánh Giác chiêm bái.

Công trình xây dựng TV Trúc Lâm Chánh Giác đáp ứng tâm nguyện của Hòa Thượng Tôn Sư thượng Thanh hạ Từ Tông chủ của Thiền phái Trúc Lâm thế kỷ 20 và mong mỏi của Phật tử gần xa, xây dựng một Thiền viện thuộc hệ phái Trúc Lâm Yên Tử trên mãnh đất miền tây vốn thấm nhuần tinh thần Phật giáo, miền đất tiêu biểu cho truyền thống gắn bó giữa đạo pháp và dân tộc, đó cũng chính là nét đặc trưng của phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử.

Theo thời gian dòng thời gian Thiền Trúc Lâm Yên Tử âm thâm suôi dòng chảy về miền tây, như dòng sông Mekong chỡ nặng phù sa bồi đắp cho đồng bằng nam bộ, ngôi thiền viện mới ra đời sẽ là trung tâm tu học theo tin thần thiền tông đời Trần là "Phản quan tự kỷ" sẽ làm phong phú thêm đời sống tâm linh của người dân tỉnh Tiền Giang và các  tỉnh miền tây nam bộ giàu tình người.

Một số hình ảnh Lễ Đặt Đá Xây Dựng TVTL Chánh Giác

Chư tôn Hòa thượng chứng minh

Niệm Phật cầu gia bị

Chư tôn đức Tăng về tham dự lễ đặt đá

Chư tôn đức Ni về tham dự lễ đặt đá

Đại diện chánh quyền các cấp tham dự lễ đặt đá

Thượng tọa Trụ trì TVTL Dalat đọc diễn văn khai mạc

Hòa thượng chứng minh ban đạo từ

Hòa thượng trưởng ban quản trị Thiền Phái Trúc Lâm ban đạo từ

Đại diện chánh quyền phát biểu

Viên đá đầu tiên xây dựng TVTL Chánh Giác

Nghi thức lễ đặt đá

Cùng nhau đặt viên gạch đầu tiên cho công trình xây dựng TVTL Chánh Giác

Quí Phật tử khắp nơi về tham dự
- Hình ảnh do PT Minh Triết - Đănng Chân cung cấp

Hạnh phúc


Pubbe ca katapuññatāTánh cách người có việc lành để dành trong kiếp trước
Câu này dạy rằng người đã làm phước trong kiếp trước, ngày hôm nay được thọ hưởng phước ấy.
Khi được lợi lộc hay thoát khỏi một tai nạn, người ta cho rằng đó là sự tình cờ, hay là sự may mắn. Thật ra, đó là quả báo của việc lành mà người ấy đã làm trong nhiều kiếp trước. Người có ít nhiều tâm đạo cho rằng đó là phước.
Phước là gì? Phước là những lạc thú ở đời, như giàu sang quyền tước, danh vọng v.v... Theo quan niệm thông thường, nếu đem phước ra phân tách thì thấy có ba nhân tố:
1. Nhân của phước: là điều mà mình đã làm với tâm trong sạch, mà sau khi làm xong, không hề ăn năn hối tiếc, trái lại thấy trong lòng hân hoan, vui vẻ, thỏa thích.
2. Quả của phước: là sự an vui mà mình đang hưởng như giàu sang, quyền chức v.v...
3. Lý của phước: là sự may mắn đến cho ta, và khiến ta tránh khỏi được sự tai nạn. Cái lý ấy người không tu Phật gọi là tình cờ, thí dụ như mình muốn đi chuyến xe sáng, nhưng khi ra xe thì xe đã chạy, mình phải chờ đến chuyến xe sau. Chuyến xe sáng ấy lại bị tai nạn giữa đường. Đó là tình cờ mà mình tránh được tai nạn mà đó cũng là phước báu của mình để dành từ khi trước. Đây là lý của phước.
Có ba nguyên nhân sanh phước:
- Tâm trong sạch.
- Ba cửa (thân, khẩu, ý) thanh tịnh.
- Tâm không rung động, nghĩa là kinh sợ tội lỗi.
1. Tâm trong sạch: là tâm không lẫn lộn với tội ác như tham lam, sân hận, si mê, và tâm bằng nhớ đến ân đức Tam Bảo.
Trong kinh Pháp Cú có chuyện ông Mattha-kundali là con của một ông trưởng giả có tiếng là keo kiệt nhất trong xứ. Khi ông Matthakundali bệnh, ông trưởng giả không rước thầy xem bệnh cho thuốc, mà ông đi hỏi bệnh thế này uống thuốc gì? Các thầy biết ông ta bỏn xẻn, keo kiệt nên ghét, chỉ thuốc căn không đúng căn bệnh, làm cho con ông càng ngày càng đau nặng. Ông trưởng giả thấy con bệnh nặng, sợ để trong nhà quyến thuộc đến thăm tốn kém này nọ, nên ông đem con ông nằm ngoài hiên.
Vì ông Matthakundali là người tạo nhiều duyên lành để dành từ kiếp trước, nên đêm ấy Đức Thế Tôn dùng tuệ xem ai có duyên để Ngài độ. Đức Thế Tôn thấy ông Matthakundali có duyên, nên sáng ngày, Đức Phật ngự đến ngay trước nhà của ông trưởng giả để độ con ông. Nhưng ông Mattha-kundali lại nằm quay mặt vào vách nên không thể thấy Phật được. Đức Phật lại hiện hình trên vách, ông Matthakundali trông thấy Đức Thế Tôn tướng hào quang minh, ông lấy làm trong sạch và nghĩ rằng: "Ta vô phước sanh làm con của người keo kiệt không được làm việc lành. Hôm nay không thể đưa tay lên được làm sao làm lễ Phật. Thôi chỉ có lấy lòng kính Phật, xin làm lễ Đức Chí Tôn".
Khi ông nghĩ xong thì tắt hơi, được sanh về cõi trời nhờ tâm ông trong sạch.
2. Ba cửa thanh tịnh: là thân, khẩu, ý thanh tịnh. Thân thanh tịnh là không sát sanh, không trộm cướp, và không tà dâm. Khẩu thanh tịnh là không nói dối, không nói đâm thọc, không chửi rủa mắng nhiếc và không nói lời vô ích. Ý thanh tịnh là không oán thù, không tham lam, không tà kiến.
3. Tâm rung động: là tâm kinh sợ tội lỗi. Vì chúng sanh còn say mê theo tài sắc, lợi danh, tâm ác của họ không bao giờ biết rung động (sợ) trước tội lỗi mà chính mình đã làm, trong lúc họ say mê theo sắc, lợi, danh; thậm chí cha, mẹ, anh em thân bằng quyến thuộc bỏ họ ra đi về cảnh giới khác họ chẳng hề nao núng và chẳng thể nghĩ rằng: ngày nào đây họ cũng sẽ bỏ những gì mà họ đã có ra đi với hai tay không, cùng một khối tội lỗi nặng nề đè trên tâm hồn họ. Người không biết kinh sợ thì không hề biết lo tu hành, vì vậy, nên không bao giờ được một phút thoải mái, một phút an lành. Vậy, ta nên để tâm rung động ghê sợ trước những biến cố đau khổ để gắng lo tu hành, để được hạnh phúc trong kiếp này và giải thoát trong ngày vị lai.
Theo đây tôi xin nhắc tích của Đại đức Yassa, người đã biết ghê sợ trước những xác thân mỹ miều.
Sau khi chuyển Pháp Luân tại vườn Lộc Giả Bārānasī, Đức Thế Tôn tạm ở với năm anh em Kiều Trần Như. Lúc ấy tại thành Bārānasī có người tên Yassa, con của một vị trưởng giả cưng như viên ngọc quý, cất trong ba tòa lầu để trong ba mùa, ngày đêm yến tiệc linh đình, tiếng ca hát không bao giờ dứt. Đêm nọ, Yassa đang xem mỹ nhân múa hát, ông phát chán rồi bỏ đi ngủ. Khuya lại ông tỉnh giấc, thấy những mỹ nhân đang ngủ, mồ hôi xông ra mùi khó thở, có cô nước miếng chảy ra, có cô ngáy om sòm, ông cảm thấy đó là những tử thi và ông tưởng đang đứng giữa bãi tha ma. Ông lấy làm kinh sợ và thốt rằng: "Thế gian này bẩn thỉu quá!", ý ông muốn nói thế gian này toàn là những vật nhơ nhớp, người bị nhốt trong vòng tỏa của sự đau khổ, không biết nương tựa vào đâu được.
Rồi ông bỏ lầu ra đi về hướng vườn Lộc Giả. Đức Thế Tôn biết duyên lành của ông đã đến, nên ngồi chờ ông tại một nơi. Nơi đó ông vừa đi vừa lập lại câu: "Thế gian này bẩn thỉu quá!" Đức Thế Tôn gọi Yassa và nói rằng: "Đây không bẩn thỉu, không bực bội, ngươi hãy đến đây." Ông Yassa mới đến gần và đảnh lễ Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn mới thuyết về Anpubbikathā cho ông nghe. Sau khi nghe xong thời pháp, ông đắc quả Tu Đà Hườn, đến sáng ngày ông đắc quả A La Hán. Sau 5 thầy Kiều Trần Như, ông là vị A La Hán thứ sáu trong Phật Giáo.
Nhân đó, Đức Phật dạy cho đệ tử nghe rằng: Kiếp trước, ông Yassa là người làm nghề thiêu tử thi. Có ngày nọ ông thiêu tử thi của một người đàn bà có thai. Khi đốt tử thi cháy, ông thấy đứa trẻ lòi ra trông rất ghê tởm. Ông phát tâm chán sợ ve sự nhơ nhớp của xác thân. Đó là cái nhân, đến kiếp này ông thấy mỹ nữ là những tử thi.
Đây tôi xin nói tóm về pháp Anpubbikathā của Đức Phật đã thuyết cho Đại đức Yassa là pháp hành theo tuần tự 5 điều:
- Dāna: Dạy về bố thí.
- Sīla: Dạy về trì giới.
- Sagga: Dạy về an vui trong cõi trời.
- Kāmādinava: Dạy về tội của ngũ trần.
- Nekkhammanisansa: Dạy về cái quả của sự xuất gia.
Sỡ dĩ pháp đó gọi là pháp đi theo tuần tự là vì trước hết Đức Phật dạy về bố thí, rồi bậc thứ nhì là trì giới, sau Ngài mới theo về sự an lạc cõi trời, tiếp theo là nói đến cái hại của sự ngũ trần là nhân làm cho người đi theo từng bậc thấp đến cao mà không hay.
Nếu ta hành được pháp tuần tự đó thì tạo được nhân sanh phước và ta tạo được phước lành để dành trong kiếp trước, thì chắc chắn chúng ta sẽ được hưởng phước trong ngày vị lai.
Có người hỏi: Có ai cướp được hạnh phước báu của ta chăng?
Đức Thế Tôn dạy: Phước ấy theo ta như bóng với hình, không ai có thể trộm cướp hay cưỡng bách hoặc làm mưu kế gì để giựt phước ấy được, chẳng khác gì hạt ngọc Siri trong sự tích sau đây:
Khi Đức Thế Tôn còn tại thế, ông trưởng giả Cấp Cô Độc làm phước bố thí cho đến khi nghèo. Ông làm chùa Kỳ Viên, mua vườn xoài nhà vua bằng cách trải vàng đầy mặt đất. Vì vậy chùa Kỳ Viên cũng có tên là Bố Kim Tự. Ngoài ra ngài còn làm phước bố thí nhiều không kể hết. Ông làm phước đến đói nghèo. Nhưng về sau ông giàu trở lại.
Có thầy Bà la môn tìm hiểu xem tại sao ông giàu, rồi làm nghèo, trở lại giàu, thầy Bà la môn thấy trên đầu một con gà trống ở nhà ông trưởng giả có viên ngọc Siri. Thầy liền đến xin con gà ấy và thầy tin chắc rằng ông trưởng giả ấy sẽ cho vì thầy viện lẽ rằng, nhà thầy có gà, nhưng toàn là gà gáy sai canh, cần một con gà gáy đúng canh để học trò dậy học bài. Ông trưởng giả vốn là người giàu lòng bố thí thì con gà đối với ông không có nghĩa lý gì, nên ông cho liền. Khi ông trưởng giả bằng lòng cho con gà thì ngọc Siri lại bay qua đậu trên cây gậy của ông trưởng giả: thầy Bà la môn xin luôn cây gậy, ông cũng cho, thì Siri bay lên đậu trên đầu của bà trưởng giả.
Chừng ấy thầy Bà la môn mới thú nhận: "Tôi xin trả lại con gà trống trắng và cây gậy lại cho ông. Thật ra tôi thấy ngọc Siri của gia đình ông ở trên đầu con gà, nên tôi mới xin nó, không dè ngọc Siri lại bay đậu trên cây gậy của ông, rồi tôi xin cây gậy thì ngọc Siri ấy lại bay đậu trên đầu bà. Ngọc Siri thật là quí mà không ai lấy được".
Vậy khi có phước thì không ai làm thế nào cướp lấy được phước của ta. Muốn ta tạo ra phước có ba cách phải hành:
- Bố thí để trừ tham lam.
- Từ bi để diệt lòng sân hận.
- Tham thiền theo hai pháp: Chỉ quán và Minh sát, để trừ si mê và tà kiến.
Nhưng phải hành ba pháp đó bằng tâm trong sạch, sốt sắng, quyết định, thì quả phước đó đến cho ta mau lẹ. Trái lại, nếu ta làm chần chừ dãi đãi, dụ dự thì quả lành cũng đến chậm chạp. Lẽ cố nhiên, mỗi khi ta muốn làm một việc gì quấy, thì cả trăm tâm ác xô đẩy xúi giục ta mau mau thi hành việc quấy ấy, có khi ta muốn làm lành như bố thí, thì hằng ngày cái tâm ác kéo lại không cho ta thực hành.
Phước đem lại cho ta rất nhiều lợi ích và an lành cho ta như là:
1. Ajeyya: không ai dành lấy được.
2. Anugaminī: theo dính bên mình ta.
3. Etam adaya gacchati: khi người bỏ xác thân này không đem theo gì được, chỉ có đem được phước theo mà thôi.
4. Asadharana: phước không phải là của chung, nghĩa là của ai tạo thì nấy hưởng, chớ không phải của người này tạo mà người kia hưởng được, mặc dù là quyến thuộc.
5. Acoro: kẻ trộm không thể lấy được.
6. Sabbakamadda: phước ấy trả quả cho người tạo được an vui và đắc kỳ sở nguyện.
7. Yam yam devabhipatthanti: nguyện vọng gì đều được kết quả như ý.
8. Suvannata: có làn da đẹp.
9. Susara: có tiếng hay (trông nghe rất hay).
10. Susanthana: có tướng tốt.
11. Surupata: có thân hình đẹp.
12. Adhipaccam: được chức phận lớn.
13. Parivaro: có được nhiều người tâm phúc.
14. Padesarajjam: được làm vua trong một xứ
15. Issariyam: được độc lập, nghĩa là không dưới quyền ai.
16. Cakkavatti: được làm vua Chuyển luân vương.
17. Devarajjampi: được làm thiên vương.
18. Manussika: được sanh làm người giàu sang.
19. Devaloka: được sanh vào cõi trời.
20. Nibbanasampati: đắc được quả vô thượng là Niết Bàn.
21. Mittasampadamagamma: được có nhiều bạn lành.
22. Vijjavimutti: đắc được ba minh.
23. Patisambhida: đắc được ngũ thông.
24. Vimokkha: được giải thoát.
25. Savakaparamī: đắc được Ba la mật của bậc đệ tử Phật.
26. Pacekabodhi: đắc được quả Độc Giác Phật.
27. Buddhabhūmī: đắc quả Chánh đẳng Chánh giác.
28. Sukkhanam nidanam: phước là nhân của tất cả các sự hạnh phúc.
29. Sampattīnam mūlam: phước là nguồn gốc đưa lại của cải.
30. Bhoganam patothita: phước là nguồn gốc sanh ra tài sản.
31. Visamagatassatnam: phước là vật vô giá cho người còn đang luân hồi.
32. Dānasadiso avassayo: không có gì nương nhờ chắc chắn bằng phước.
33. Sihanadisam: phước ví như hang sư tử, nghĩa là nơi mà các con thú khác không dám léo đến, người có phước không bao giờ gặp tai nạn của kẻ ác gây nên.
34. Papahapathavi sadisam: phước ví như quả địa cầu chở người có phước.
35. Rajjudisam: phước ví như sợi dây cột tâm lại, không cho đi lầm đường.
36. Navasadisam: phước ví như thuyền chở người qua bể khổ.
37. Sagamasuro: phước ví như vị tướng tài can đảm đánh tan quân thù nơi trận địa.
38. Susankhatanagaram: phước ví như kinh thánh mà người ta trang điểm huy hoàng.
39. Padumasadisam: phước ví như hoa sen không hôi tanh mùi bùn, nghĩa là không hề đưa người đi vào đường tội lỗi.
40. Aggisadisam: phước ví như lửa đốt cháy phiền não trong tâm.
41. Asīvissadisam: phước ví như rắn độc vì nó cắn chết tội.
42. Sihasadisam: phước ví như sư tử, vì sư tử rất can đảm khi đứng trước kẻ thù là tội lỗi.
43. Setavabhasadisam: phước ví như bò Usabha, vì bò này quý nhất thế gian.
44. Hatthisadisam: phước ví như bạch tượng, là thú quý nhất.
45. Vahassaraja Sadisam: phước ví như thiên lý mã chở người bay qua bể khổ luân hồi.
46. Gatamaggam: phước là con đường đi của các bậc thánh nhân.
47. Buddhavansam: phước là dòng của Phật, nghĩa là muốn đắc quả Phật thì phải tạo nhiều phước.
Phước còn đem lại cho ta nhiều hạnh phúc như là vật thực trong đời vị lai của người chưa đi đến Niết Bàn.
Phước là nguyên nhân cho người được ba điều an lạc là Nhân, Thiên, và Niết Bàn.
*

38 pháp hạnh phúc


HẠNH PHÚC THỨ NHẤT

Asevanā ca bālānaṃKhông thân cận với kẻ ác

Trên thế gian này có nhiều giống người, chỉ khác nhau ở màu da, phong tục, tiếng nói, nhưng chung qui có thể chia hai hạng người là:

- Balā: người ác.

- Pandita: người thiện tri thức.

Phật dạy chúng sanh cần phải học để biết người ác đặng lánh xa, vì khi ta thân cận với người ác rồi, thì không thể nào chạy khỏi đều khổ sở trong ác đạo.
Vì vậy, ta nên học để hiểu rõ thái độ và cách cư xử của người ác cho rõ ràng để tránh xa. Trước hết, ta phải học cho biết rõ thái độ người ác cũng như chúng ta, nghĩa là không có gì khác chúng ta về thể chất. Người ác không phải chỉ là hạng người côn đồ, cướp bóc, hay nghèo khó, thất học hoặc bệnh tật, mà có khi họ lại là người cao sang, quyền quí, học thức, thượng lưu trong các giai cấp xã hội đều có người ác. Tìm biết một người ác là một chuyện không phải dễ vậy.
Trong kinh Phật có dạy hai cách thức để nhận ra người ác là:
1. Cách thức của các bậc trí thức giàu kinh nghiệm đời hiểu rõ tâm lý của người ác.
2. Cách thức của đấng Giác ngộ, ngài hiểu rõ tâm địa của kẻ ác bằng trí tuệ.
Mặc dù là của đấng Giác ngộ hay của các bậc trí thức, hai cách thức ấy chung qui đều dạy tâm lý của người ác để chúng ta biết mà lánh xa, ví như khoa học dạy chúng ta biết chứng bệnh của người bệnh và cách tránh xa của bệnh ấy. Vậy theo thiết tưởng chúng ta cũng nên học cho biết rõ hai cách thức để lánh xa người ấy.
Trước hết xin giải về cách nhận thức kẻ ác theo lời giảng giải của các bậc trí thức. Ở đây, tôi xin nhắc lại tích xưa về tiền thân của Đức Phật Thích Ca trong bộ Túc sanh truyện để quí vị dễ nhận thức.
Lúc quá khứ có một vị trưởng giả ở thành Ba La Nại tên là Akitta. Sau khi cha mẹ quá vãng. Ông nhận thấy đời là vô thường, khổ não, vô ngã; và quan tâm được rằng sau khi dứt ba tấc hơi thì mọi vật ở đời mình đã có đều không đem theo một vật nào, mà chính thân hình mình cũng không đem theo được. Vì vậy nên ngài mới bố thí hết của cải của ngài, không biết số lượng bao nhiêu mà kể. Rồi ngài xuất gia làm đạo sĩ ở trong rừng tuyết lạnh.
Ngài hành theo hạnh tri túc. Ngài chỉ ăn lá cây và trái cây rụng ở gần bên ngài thôi. Pháp hành cao thượng của ngài như thế đã đến tai Đức Đế Thích. Thiên vương Đế Thích mới hiện xuống và nói với ngài: "Bạch Đại đức, tôi rất hoan hỷ với hạnh tri túc của ngài. Vì vậy tôi đến đây và xin hứa với ngài rằng ngài mong ước điều gì, tôi cũng xin vui lòng giúp ngài đoạt thành như ý".
Vị đạo sĩ ấy đáp rằng: "Tâu Đại vương, lời hứa của ngài thật là quí giá, nhưng sự mong ước của bần đạo không có gì khó".
Thiên vương nói: "Trẫm biết rồi, chính Đại đức thọ thực lá và trái cây rụng gần bên ngài thôi".
Đạo sĩ nói: "Tâu Đại vương, hiện giờ lá và trái cây vẫn còn. Nếu Đại vương có lòng từ bi ban bố hạnh phúc cho bần đạo, thì bần đạo có một điều rất mong muốn là..."
Đức Đế Thích nói: "Đại đức cứ thật tình báo cho tôi biết, tôi hết lòng giúp đỡ ngài, thuốc men hay là y phục chi chi, xin ngài cứ bảo"
Đạo sĩ nói: "Tâu Đại vương, bần đạo không cần những thứ ấy". Đức Đế Thích nóng lòng hỏi: "Vậy vật chi, bạch Đại đức?"
Vị đạo sĩ nói: "Điều cần thiết nhất là xin cho tôi đừng gặp kẻ ác, không bao giờ làm công chuyện gì có kẻ ác nhúng tay vào".
Đức Đế Thích hỏi: "Đại đức ghét kẻ ác đến thế à?"
Vị đạo sĩ nói: "Chẳng những thế, xin cho tâm của bần đạo không ưa thích và xu hướng theo những kẻ ác".
Đức Đế Thích nói: "Vậy là lời thỉnh cầu của ngài là không bao giờ muốn gặp, mặc dù là tin tức của kẻ ác và cũng xin đừng nghe đến".
Vị đạo sĩ đó: "Phải đúng như vậy".
Đức Đế Thích hỏi: "Bạch ngài, ngài có thể cho tôi biết người ác đã từng làm gì đối với ngài?"
Đạo sĩ nói: "Tâu Đại vương, xin Đại vương đừng bắt tôi nói chuyện đã qua của kẻ ác đã làm. Nhưng bần đạo xin nói sơ lược hành động của người ác là:
1. Kẻ ác hằng rủ người làm điều sai lầm.
2. Kẻ ác làm những chuyện không phải phận sự của chúng.
3. Kẻ ác thường nhận thức sai lầm, cho quấy là phải.
4. Kẻ ác, mặc dù chúng ta nói sự chân thật, lời hay lẽ phải, họ cũng không nhận thức, mà còn hờn giận, chuốc oán, gây thù.
5. Kẻ ác không chịu hành theo lẽ phải, nghĩa là không theo luật lệ của chính phủ.
Người ác thường hay có những điều xấu xa như thế nên bần đạo nguyện lánh xa."

Dưới đây tôi trình bày 5 loại hành động của người ác theo quan niệm của vị đạo sĩ ấy.
1. Anayam nayati dummedho: Kẻ ác thích rủ rê xúi giục kẻ khác làm điều ác, tức là kẻ ác hằng rủ người làm điều sai lầm.
Khi muốn biết người thiện hay ác chúng ta nên quan tâm xem người ấy rủ rê xúi giục ta làm những gì, thiện hay ác.
Ta chớ nên quên rằng người ác bao giờ cũng có ý định rất khác thường, là làm cho người khác đau khổ. Như ta đã biết, không phải người ác toàn là những hạng mà ta gọi là côn đồ du đãng, trái lại, lắm khi người ác lại là người mà ta tưởng là hạng trí thức, giàu sang vinh dự, và cũng có khi chúng ta tin tưởng sùng kính như bậc tu hành, bên ngoài ta xem như vậy, như là một vị đại đức xứng đáng với sự lễ bái cúng dường của chúng ta, hay là người nối chí từ bi của Đức Từ Phụ để tế độ chúng sanh. Vì vậy, chúng ta không nên tin càn mà không suy xét, phân biệt cho kỹ, mà chúng ta phải dùng trí tuệ mà nhận định, kẻo sai lầm như tích vua A Xà Thế: ông Đề Bà Đạt Đa là một vị đệ tử của Phật, người bấy giờ lầm tưởng là đấng có giới đức trang nghiêm, nhưng thật sự ông là người rất là ác, ông xúi giục vua A Xà Thế giết cha để đoạt ngôi và xúi vua hại Phật, để tranh dành lãnh đạo Tăng đoàn. Sở dĩ đức vua A Xà Thế tin tưởng nơi ông, vì ông là một nhà sư mang lá cờ của Phật. Hơn nữa nhà vua vì nhiều đức tin, nhưng thiếu trí tuệ, nên dễ bị rủ rê xúi giục, mới phạm tội trọng như thế.
2. Adhurāyam nyunjati: Kẻ ác thường làm chuyện không phải phận sự của chúng.
Kẻ ác thường can thiệp vào việc làm của người gần bên mình hay là của tất cả mọi người, để làm cho người ta bực mình hay đau khổ. Để tránh nạn can thiệp nguy hại ấy, khi chúng ta làm việc gì đang trôi chảy, hoặc có kẻ khác chen vào, xúi điều này, giục mưu nọ, chúng ta nên quan tâm suy nghĩ cho kỹ, không nên vội tin cho rằng kẻ ấy có thiện chí đối với ta, giúp ta, nên suy nghĩ cho kỹ rồi mới tin theo, nên nhận định rằng kẻ ấy thành tâm thiện chí giúp ta hay không.
Tiện đây tôi xin nhắc lại một chuyện ngụ ngôn để quí vị thấy và làm, và cho quí vị dễ nhớ.
Có một vị trưởng giả, ruộng đất cò bay thẳng cánh mà bề làm ăn rất phát đạt dễ dàng, nhờ tá điền và người làm công đối với ông hết lòng thành thật. Ông trưởng giả ấy có nuôi một bầy chó thật dữ để giữ nhà.
Nhưng về sau lợi tức của ông càng ngày càng kém đi. Ông ta lấy làm lạ vì số ruộng và người làm công đều như cũ mà cũng không ai thiếu lúa ruộng của ông. Ông hỏi lại người quản gia thì đâu đâu cũng không có gì sai sót. Ông điều tra mãi không ra duyên cớ. Ông mới hỏi người chăn bầy trâu của ông, chừng ấy ông mới vỡ lẽ rằng: Bầy chó dữ của ông không giữ nhà mà hằng ngày chúng đi ví cắn trâu bò, làm cho đàn trâu bò không ăn uống gì được. Vì vậy, đàn trâu bò đau yếu, công việc cày ruộng và kéo xe của chúng sút kém, khiến lợi tức của ông bị kém đi. Ông trưởng giả nghe vậy mới dạy đem bầy chó đi bỏ hết. Từ ấy, câu chuyện đồng áng của ông mới trở lại mức bình thường.

Trong câu chuyện ngụ ngôn này, bầy chó đã không làm phận sự giữ nhà mà đi làm chuyện ngoài phận sự của mình, nên đem tai hại cho người chủ như thế.
Xin nhắc thêm một tích nữa để quí vị dễ nhớ hơn.
Có một người làm vườn của Vua Bārānasī, hắn định đi xem lễ, bèn gọi người phụ tá lại bảo rằng: "Ta định đi xem lễ trong vài ngày, vậy các người ở nhà lo chăm sóc vườn, lo tưới cây, đừng bỏ bê nhé."
Khi người làm vườn đi xong, người cầm đầu nhóm phụ tá ấy mới gọi những người phụ tá và bảo rằng: "Người làm vườn đối với ta thật là tốt, vậy chúng ta thay anh ấy tưới cây, nhưng trước khi tưới, chúng ta hãy nhổ hết cây ấy lên xem rễ nó ăn xuống bao sâu, đặng tưới cho vừa sức nó". Tất cả những người kia vâng lời người cầm đầu, làm y như lời dạy bảo. Những cây bị nhổ lên, đều héo và chết hết.
Đức Bồ tát, tiền thân của Đức Thích Ca, nghe thấy chuyện này, mới nói rằng: "Những kẻ ngu muội không hiểu việc làm của mình, mà thày lay làm ngoài phận sự, nên đem tai hại đến cho mình và người khác."
Khi ấy ngài mới ngâm câu kệ rằng:
Nave anatihaklisalena
Attha carita sukhāvaha
Hapeti arāmiko dummedho
Kapiarāmiko tathā
Nghĩa là người ngu muội dù cố làm điều lợi ích để tìm sự an vui cũng không kết quả được, trái lại, bị hư hại cũng như những người làm vườn kia.

3. Dunnado seyyaso hoti: Kẻ ác thường nhận thức sai lầm, cho quấy là phải.
Theo câu Pāli này, ta nhận thấy sự nhận thức này có hai điều tương quan là nhận thức sai lầm và hành động sai lầm, bắt nguồn ở nơi tâm là thích điều quấy.
Nguyên người ác thường thích đều hung ác, xấu xa, như hiếp đáp kẻ khác, cướp giựt, hành hung. Ai ai cũng thấy các điều đó thật là đáng ghê, đáng ghét. Nhưng trái lại, những kẻ ác lại cho các điều đó là cử chỉ anh hùng, là hay, là giỏi, nên có khi đem những hành vi quá ác ấy khoe khoang và lấy làm tự đắc.
Người ác thường có ba tư cách để nhận thức được dễ dàng.
- Người ác thích điều quấy.
- Tự mình làm điều ác, mà không biết ăn năn, trái lại thỏa thích và đem khoe với người khác.
- Thấy kẻ khác làm ác như mình, thì rất thích và khi nghe người khác làm ác như mình, lại càng thích.
Những người ác ấy thường thù ghét người lương thiện, xem người lương thiện là đối thủ của họ, mặc dù người lương thiện vẫn sợ họ và nhường nhịn họ trong mọi việc.
4. Sammāvuttapikuppati: Kẻ ác mặc dù chúng ta nói chơn chất hay nói sự thật, chúng cũng oán giận ta.
Tâm lý của người ác, theo câu này, khỏi phải giảng giải nhiều cũng dễ hiểu. Đã là người ác thì họ không bao giờ chịu nhận lẽ phải, hay là sự chân thành của người khác đối với họ, mặc dù người nói lời chân thật ấy với tấm lòng từ bi, hay người nói là thầy tổ, cha, mẹ, hoặc là quyến thuộc, hoặc vợ chồng, họ cũng đều không bao giờ nghe theo. Họ không chịu nhận sự thật, không chịu phục thiện.
5. Vinayam so na janati: Kẻ ác không chịu hành động theo luật lệ.
Kẻ ác không bao giờ chịu hành động theo luật lệ của chính phủ hay của tôn giáo nào, mà chỉ biết làm theo bản tánh ác của họ thôi.
Sự thật, luật lệ của một quốc gia là để bảo đảm phần nào hạnh phúc cho con người. Kẻ ác thì không chịu câu thúc trong luật lệ ấy, lại cứ thích vượt khỏi vòng luật lệ để thỏa mãn ác tâm của mình và gây tổn hại cho người khác.
Trên kia, kẻ ác được mô tả theo nhận định của bậc trí thức, còn dưới đây thì Đức Phật phân tích kẻ ác theo trí thức của Ngài.
Trong Tam Tạng Kinh, Đức Thế Tôn có dạy trong đoạn kinh Uparipaññāsaka, bài kinh Bāla-panditasutta rằng:Tini bhikkhave bālassa bāla-lakkhanāni bālaninittāni - Này các thầy Tỳ khưu người ác có ba thái độ thấy rõ là:

- Duccintacinti: Suy nghĩ ác.

- Dubhāsitabhasī: Nói lời ác.

- Dukkhatamnakarī: Làm điều ác.

Nói một cách khác thì, theo lời Phật dạy, thái độ của người ác là nghĩ cũng ác, nói cũng ác, mà làm cũng ác, nghĩa là thân, khẩu, ý đều ác.
Thế nào gọi là suy nghĩ ác, nói ác, làm ác? Lời chú giải trong kinh có dạy rằng suy nghĩ ác có ba điều là tham lam thái quá, mưu hại kẻ khác và oán thù, và tà kiến, là không tin nghiệp nhân quả và luân hồi. Nói ác là nói dối, nói đâm thọc, chửi rủa, mắng nhiếc, nói biếm, nói lời vô ích. Làm ác là sát sanh, trộm cắp, tà dâm.
Ba thái độ ấy có khi tác động ở trong tâm chúng sanh, có khi phát hiện ra ngoài mặt, nên trong bộ chú giải 38 Pháp Hạnh phúc, ba thái độ ấy chia ra làm hai hạng là:
1. Ác bên ngoài: người ác trong thế gian này chia ra làm hai loại là:

- Andhabala: ác ôn, nghĩa là hạng người này hung dữ, khiến người ta kinh sợ như là bệnh ôn dịch, họ có thể giết người bằng mọi cách, hoặc bằng vũ lực, hoặc bằng mưu kế, miễn là hại được người mới vừa lòng. Hạng người này phạm đủ thập ác, không thể tránh một điều nào.

- Kalianabala: kẻ ác, nhưng vẫn còn điểm thiện tâm, nghĩa là đôi khi cũng làm lành, hoặc giúp đở người nghèo khó, bệnh tật v.v... Vì lòng nông nổi mà họ làm ác, nhưng lúc nào đó, họ lại ăn năn, mặc dù không ai dạy bảo. Như vậy là hạng người này có ngày tu hành, không hoàn toàn theo thập ác.

2. Ác bên trong: ác tính trong lòng của ta. Cũng ngụ ý nói ác tính trong lòng của chúng sanh chưa dứt trừ hẳn phiền não. Ác tính ấy là 27 điều ác của tâm, mà Phạn ngữ gọi 14 điều là: Akusala cetasika (ý ác), và 13 điều là Annasa mana cetasika (tác ý có hành động khác nhau).
Những ác tính kể trên có tính cách xấu xa khác nhau, làm cho thiện tâm lu mờ và yếu hẳn đi, không đủ khả năng nhận định được lẽ phải quấy, nên tâm, hằng phóng túng và dã dượi buồn ngủ. Mặc dù tâm ấy không thật là ác nhưng không thiện, không tham thiền, bố thí được.
Ba thái độ ác trên đây sẽ đem lại cho chúng sanh tám điều tai hại trong kiếp này và vị lai:
1. Làm mất lợi ích kiếp này và vị lai của mình và người thân của mình.
2. Thân, khẩu, ý của mình bị nhơ đục.
3. Làm cho tên tuổi xấu xa, hay càng ngày càng lu mờ đi, trong xã hội không ai nhắc tới.
4. Bậc trí và tất cả ai cũng ghê tởm như một món đồ bẩn thiểu.
5. Ai ai cũng cố xa lánh không dám gần và kinh sợ, như sợ một tai họa, nói theo ngôn ngữ chiến tranh bây giờ, thì sợ một quả bom nổ chậm.
6. Kẻ ác tâm không được sáng suốt để phán đoán điều phải lẽ quấy, tâm không có an lạc.
7. Kẻ ác làm cho danh tiếng trong họ hàng bị lu mờ, hay bị người đời xóa bỏ đi.
8. Kẻ ác sau khi chết, sanh vào bốn đường ác đạo.
Vì vậy chúng ta không đến gần kẻ ác, mà phải hành theo những điều sau đây:
- Không đến gần kẻ ác.
- Không ngồi gần kẻ ác.
- Không nghe kẻ ác.
- Không chơi với kẻ ác.
- Cố gắng xa lánh kẻ ác.
- Cố tâm trì giới, bố thí, tham thiền.
Người không thân cận với kẻ ác sẽ được 12 quả báo lành là:
1. Người không thân cận với kẻ ác là người được hạnh phúc tuyệt đối.
2. Người không chơi với kẻ ác là người đi trên chánh đạo.
3. Người không chơi với kẻ ác người gieo trồng Giới-Định-Tuệ.
4. Người không chơi với kẻ ác là người đi theo pháp học, pháp hành và pháp thành.
5. Người không chơi với kẻ ác là người không cắt đứt điều lợi ích quá khứ, hiện tại và vị lai, nghĩa là khi thân thiện với người ác, thì tự mình làm tội lỗi, không làm lành, thì quả lành của mình làm trong kiếp trước không thể trổ quả được, như vua A Xà Thế vì thân cận với Đề Bà Đạt Đa để cho Đề Bà Đạt Đa xúi giết cha, hại Phật, nên phạm ngũ nghịch đại tội, không thể đắc đạo quả được, mặc dù ngài có duyên lành để dành từ kiếp trước.
6. Người không chơi với kẻ ác là người ở trong thiện pháp.
7. Người không chơi với kẻ ác là người hằng được các bậc trí thức ngợi khen.
8. Người không chơi với kẻ ác hằng được thạnh lợi.
9. Người không chơi với kẻ ác được bậc trí thức yêu mến.
10. Người không chơi với kẻ ác thì không đi vào đường tội lỗi.
11. Người không chơi với kẻ ác sẽ được sanh về cõi trời.
12. Người không chơi với kẻ ác thì hạnh phúc đến với họ hằng ngày, không lo sợ tai họa gì do người ác gây nên.
Theo đây tôi xin nhắc lại một vài tích xưa trong Túc sanh truyện, để mình học lời dạy của Đức Phật về sự thân cận với kẻ ác và người thiện.

*
Chuyện KétKhi xưa trên một ngọn đồi gần rừng Tuyết Lãnh, trong một ổ két có hai con két con. Ngày nọ có bão tố, két bị lạc mỗi con một nơi. Một con rơi vào nơi cư ngụ của các đạo sĩ, một con lại rơi vào làng của kẻ cướp. Hai con chim đều được hai nơi nuôi dạy tử tế.
Ngày nọ đức vua xứ Pañcala đi săn, vì bị lạc đường nên ngài mới nằm nghỉ trưa dưới một cội cây bên bờ suối gần làng bọn cướp. Két của bọn cướp trông thấy đức vua trang sức vàng ngọc, mới gọi bọn cướp và bảo rằng: "Chúng ta hãy đến giết người kia để cướp của". Nhà vua nghe được kinh sợ, lật đật chạy trốn. Ngài lại đi lạc vào nơi cư ngụ của chư vị đạo sĩ. Két của đạo sĩ trông thấy đức vua mới nói: "Người ơi, từ xa người đến đây chắc là mệt nhọc lắm, xin mời người vào ngồi nghỉ, nơi đây là đất lành, không có gì kinh khủng đâu".
Đức vua lấy làm trong sạch với két và nghĩ thầm rằng: "Cùng một loài két với nhau, một con ở với bọn cướp thì hung ác, còn con ở với bậc chơn tu thì thiện lương".

Tích này cho chúng ta thấy rằng, mặc dù là loài diều thú nhưng chúng bị ảnh hưởng cái ác và thiện của người nuôi. Thế thì con người làm sao chạy khỏi ảnh hưởng của ác và thiện?

*
Chuyện Cây XoàiNgày xưa đức vua Dadhavāhana ngự đi tắm dưới sông, trước khi ngài tắm, các quân lính phải giăng lưới quanh nơi ấy để phòng ngừa tai nạn. Trong khi ấy có một trái chín trôi từ rừng Tuyết Lãnh mắc vào lưới, quân hầu vớt được đem dâng cho Vua. Ngài thấy trái lạ mới cho gọi tất cả thợ rừng để hỏi là trái chi. Những người ấy bảo rằng đó là trái xoài, một thứ trái có vị ngọt và mùi thơm. Nhà vua bèn thọ thực, nhìn nhận trái xoài ấy có mùi vị ngọt ngon. Ngài mới truyền lấy hột đem về trồng nơi thượng uyển và dạy phải chăm nom kỹ lưỡng và đặc biệt tưới bằng sữa tươi. Ba năm sau, cây xoài sanh được trái, mùi vị ngon thơm tho. Đức vua muốn khoe trái quí của xứ mình với lân bang trồng được giống quí ấy, nên trước khi đem biếu, ngài dạy phải lấy dùi nhọn đâm thủng mầm non của trái xoài. Vì vậy các nhà vua lân quốc lấy hột đem trồng nhưng không mọc được.
Một vị vua liền cho lấy hột xoài lên để tìm xem duyên cớ, thì mới thấy cái mầm trong hột đã bị đâm hư rồi. Vị vua ấy hiểu được ác ý của vua Dadhavāhana, liền nghĩ ra kế độc, bèn sai một người làm vườn tin cậy đến xin vào làm vườn của vua Dadhavāhana để tìm phương hủy diệt cây xoài ấy. Người làm vườn đến tâu cùng vua Dadha-vāhana rằng: "Tâu Hoàng thượng, hạ thần là người chuyên môn về nghề trồng cây và hoa, đã từng làm nhiều nơi và phục dịch cho nhiều nhà vua rồi, các ngài hài lòng với hạ thần, nay hạ thần muốn đến hầu Hoàng thượng". Đức vua lấy làm hài lòng thâu nhận người ấy vào làm.
Khi được vào làm, người ấy mới đem dây thần thông trồng ở nơi gốc xoài và trồng cây sầu đâu gần đó. Dây thần thông bò trên thân cây xoài, còn cây sầu đâu lớn lên giao nhành với cây xoài trở nên đắng. Thi hành xong phận sự phá hoại, người làm vườn trốn đi.
Ngày nọ vua Dadhavāhana ngự vào vườn thượng uyển, truyền quan hầu bẻ xoài cho ngài dùng. Xoài ấy trở nên đắng và không còn thơm như trước. Đức vua mới phán hỏi vị quốc sư ở gần bên rằng: "Này hiền khanh, tại sao mùa này xoài trở nên đắng, hôi, màu không đẹp như trước?".
Vị quốc sư quan sát kỹ chung quanh thấy một sự việc mới tâu rằng: "Tâu Đại vương, cây xoài này trước kia được vun trồng chu đáo, tưới sữa tươi, hiện giờ bị dây thần thông và cây sầu đâu là loại đắng quấn nhau và giao nhành, nên làm mất mùi vị của xoài". Vị quốc sư mới ngâm câu kệ rằng:
Vannagandhrasupeto
Amdayam ahuva puri
Tameve pujam labhamāno
Kehamb kutukapphalo
Pucinanda parivāro
Ambote dadhvāhanam
Mulam mulenasanlattham
Sākhāsākham nisevare
Asatasan nivāsene
Tenambo katukap phalo
Nghĩa là: "Cây xoài này trước có màu, mùi vị tốt ngon, trong khi được cúng dường (nhờ được săn sóc chu đáo), nhưng hiện giờ bị đắng bởi tại sao? Tâu Hoàng thượng, cây xoài của ngài bị cây sầu đâu và dây thần thông ở chung, rễ và rễ xen lẫn nhau, nhành với nhành giao nhau. Vì mọc chung chạ với dây thần thông và cây sầu đâu nên xoài của ngài không còn vị ngon ngọt, mà trở nên đắng như thế".

Tích này chỉ cho ta thấy rằng sự thân cận chung lộn có ảnh hưởng như thế. Nếu ở với người lành thì được an vui, ở với kẻ ác thì phải đau khổ, như câu tục ngữ Việt Nam ta dạy: "Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng", và "Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài".
Cây xoài là vật vô tri vô giác mà còn bị ảnh hưởng như thế. Vậy, chúng ta nên lấy đó làm gương, và chúng ta biết thương mình thì nên xa lánh kẻ ác, dù người ấy là quyến thuộc của mình. Chúng ta thường sợ kẻ ác hơn thương mình, vì vậy thường hay xu hướng theo kẻ ác làm tội như rượu trà, cờ bạc, đàng điếm, vì là kẻ khác xúi giục, nếu không theo họ thì sợ họ buồn, hoặc sợ người ta cười là không biết xã giao v.v...

*

Tuesday, May 1, 2012

Phở chay


Những người có thói quen ăn chay thường xuyên chắc hẳn không lạ gì món phở chay, một món ăn đặc sắc của trường phái ẩm thực chay Hà thành.
Phở chayẢnh: dienanh.net
Điểm khác biệt cơ bản nhất của món chay nói chung cũng như phở chay nói riêng là ở nguyên liệu chế biến hoàn toàn bằng thực vật. Chính vì thế mà vị ngọt của nước phở chay rất đặc trưng. Nó là vị ngọt mát tự nhiên của các loại rau củ chứ không phải do xương mang lại. Thế nhưng phở chay vẫn giữ được hương vị thơm ngon của ẩm thực Hà thành, bởi cách chế biến rất cầu kì và lắm công phu.
Yêu cầu đầu tiên để món ăn ngon là thực phẩm phải được lựa chọn kỹ, phải chọn những rau củ còn tươi, vừa độ không quá già mà cũng không quá non, có như vậy thì nước dùng của phở mới có độ ngọt, vừa miệng. Nấu nước dùng của phở chay không mất nhiều thời gian như khi người ta nấu phở mặn. Thời gian ninh, hầm xương rất lâu thì nước mới ngọt. Nhưng rau, củ, quả rất nhanh chín vì vậy khi ninh thời gian cũng nhanh hơn, khi nấu lửa phải để vừa phải. Nếu thiếu lửa sẽ không lấy được hết các chất trong rau củ, ngược lại lửa khêu quá to cũng dẫn đến rau củ bị nát và mất ngon, mất đi tính thẩm mỹ của món ăn.
Phở chay
Ảnh:ddth.com
Bí quyết để có một nồi nước dùng ngon là người ta chọn các loại rau củ như cà rốt, mía cắt khúc,…chứa rất nhiều chất sơ, các nguyên tố vi lượng, nhiều vitamin nhờ đó giúp cho món phở chay không hề có các nguyên liệu từ động vật như thịt, cá,…mà vẫn đảm bảo các chất bổ dưỡng cung cấp cho cơ thể con người. Hơn nữa, các loại rau quả có màu sắc đẹp sẽ góp phần tạo nên một bát phở chay hấp dẫn không kém các bát phở mặn khác.
Vị ngọt ngào của các loại rau củ chính là điều mang lại sự hấp dẫn của món phở chay, vị ngọt không lẫn với bất kỳ loại gia vị khác, mang đến cảm giác thanh tịnh, thư thái trong tâm hồn người thưởng thức. Để bát phở chay vẫn mang đậm hương vị phở của người Hà Nội, người ta sử dụng các loại gia vị từ thiên nhiên như quế, hoa hồi, thảo quả,…
Phở chay
Ảnh: dienanh.net
Mùa Vu Lan báo hiếu đã về giữa tiết trời oi ả của những ngày cuối hạ. Không còn gì thú vị hơn khi chỉ cần một chút thời gian thôi bạn đã có thể bổ sung vào mâm cỗ chay báo hiếu bát phở ngon miệng và độc đáo này.
Nhìn bát nước dùng trong trong, dậy mùi thơm nức. Ngập trong đó là những sợi bánh phở trắng tinh, dẻo thơm. Thêm vài lát thịt gà chay, giò chay, chân nấm, hành lá… Màu xanh tươi của hành, màu đỏ của ớt, màu nâu của nấm, màu trắng của bánh phở… tất cả hòa phối nhịp nhàng để tạo nên một bát phở chay hấp dẫn và rất có ý nghĩa trong mâm cỗ Vu Lan để báo hiếu với tổ tiên, cha mẹ.
Phở chay
Ảnh: aone.vn
Không chỉ ngon do vị giác cảm nhận, phở chay còn đem đến cho người ăn một sự thanh tao, nhẹ nhõm lạ lùng. Ẩn sau món ăn tưởng chừng như bình dị ấy là cả một triết lý nhân sinh đầy ý nghĩa. Người ta bảo ăn chay là tôn trọng sự sống, ăn chay vì một thế giới trong sạch và từ bi hơn, và hướng lòng mình đến sự tịnh tâm, an lạc.
(Nguồn: MonngoHanoi.com)