Bất
cứ môn học nào cũng thế, lý thuyết và thực hành phải đi đôi, cả hai đều
quan trọng ngang nhau. Nói cho đầy đủ, ta phải thi hành cả ba giai đoạn,
Văn (nghe giảng, học hỏi), Tư (suy nghiệm, nghiền ngẫm) và Tu (thực hành,
thực tập). Trên bước đường tu tập ta phải nghe, học để biết những gì cần
làm và những gì cần tránh; rồi nghiền ngẫm để hiểu cho rõ lý lẽ, khỏi bị
nghi hoặc; và bắt tay vào phần thực hành để kiểm chứng. Và cứ thế ta lập
đi lập lại ba giai đoạn này ở các cấp độ cao hơn.
Tất
cả các đề tài đã bàn ở các chương trên được thu gọn vào hai công thức Tứ
Diệu Đế và Bát Chánh Đạo. Hai công thức này giải thích tu là gì,
lý do tại sao phải tu, và ngoài ra Bát Chánh Đạo sẽ trình bày đầy
đủ phương thức tu tập, nó chính là con đường tu tập.
A.
TỨ DIỆU ĐẾ
[Four Noble Truth]
Cách
thức làm việc của một vị y sĩ được tiến hành qua bốn giai đoạn dựa trên
luật nhân-quả:
1.
Xác nhận là bệnh nhân có bệnh
2.
Chấn đoán và xác định nguyên do gây bệnh,
3.
Bệnh tật có thể chấm dứt được bằng cách tận diệt nguyên do
gây bệnh,
4.
Phương cách
chữa trị căn bệnh.
Tương tự như quy tắc chữa bệnh của vị y sĩ, đức Phật đề ra Tứ Diệu Đế
nói lên sự thật là tất cả chúng sinh đều bị cùng một căn bệnh và có
phương thuốc chữa trị.
a)
KHỔ - Có sự khổ đau.
b)
TẬP – Có sự phát sinh của KHỔ - nguyên nhân gây ra Khổ là tham ái
[attachment] (cùng với các nguyên nhân phụ).
c)
DIỆT – Có sự chấm dứt KHỔ - trừ bỏ nguyên nhân là tham ái thì
Khổ chấm dứt.
d)
ĐẠO – Có con đường dẫn đến sự chấm dứt KHỔ - phương pháp tận diệt
tham ái.
Chúng ta lang thang và quanh quẩn trong cõi Ta-bà chỉ vì không thấu hiểu
và trực nghiệm được Tứ Diệu Đế - Bốn Chân Lý Thâm Diệu. Được gọi là chân
lý vì chúng là những sự thực mà có ai khám phá ra hay không và mọi người
có biết hay không biết, chúng vẫn hiện hành và chi phối tất cả chúng
sinh ở tất cả mọi nơi mọi thời. Cũng như định luật ‘trọng lực’ [gravity
– sức hút của quả đất] nếu không có nhà bác học khám phá ra nó, nó vẫn
ảnh hưởng đến tất cả mọi vật và sẽ không bao giờ thay đổi.
1.
KHỔ - nghĩa là sự bất thỏa mãn, bất toại ý vì mọi vật vô-thường,
không có tự tính, và không được toàn hảo [xem chương Hai]. “Có sự khổ
đau” nên hiểu qua hai khía cạnh như sau:
a.
Có sự Khổ đau –
một cách khách quan ta công nhận là có hiện tượng khổ
đau (tánh nó là Không) chứ không nói là tôi hay anh hay ai khổ cả (vô-ngã)
b.
Khổ đau cần được thấu hiểu –
Sự hiện diện của vấn đề khổ đau này cần phải được
nhận biết và thấu hiểu, sự việc xảy ra như vậy đấy. Bình thường ta không
muốn hiểu biết về nó và sự phản ứng của ta là than thở, đổ thừa, lo trốn
tránh hoặc mong diệt trừ nó.
2.
Nguyên Nhân – gây ra Khổ là sự tham ái [attachment], nó là tâm
bám chấp bao gồm Tham-Sân-Si. Ái là nhân duyên thứ tám trong thập nhị
nhân-duyên, ở đây nên hiểu rằng nó là nguyên nhân gần nhất chứ không
phải là nguyên nhân duy nhất hoặc đầu tiên. Ái có tính cách là ‘khát’ và
khát ái sinh khởi do sự bám chấp vào hiện tượng và cái tôi không
thực có, lầm tưởng chúng là thực tại chân thực; sự kiện này cũng là do
cái nhìn sai lạc tức là do vô-minh gây ra. Tâm tham ái vị kỷ bao gồm tất
cả các sự cầu mong bám chấp từ nhục dục (qua các giác quan), tài vật,
quyền thế, danh vọng, đến những ý tưởng, quan điểm, học thuyết, tín
ngưỡng, muốn trở thành thế này thế nọ, muốn sự vật phải như thế này thế
nọ, muốn trừ bỏ cái này cái nọ, v.v…
Ái là nguồn nhiên liệu duy trì sự tái
sinh [xem thập nhị Nhân-Duyên]. Ái dùng thân xác làm phương tiện tìm
kiếm lạc thú để thỏa mãn nhưng đến lúc chết thì thân xác tan rã trong
khi Ái vẫn còn, cho nên nó cần phải có một thân xác khác, mà đã có sinh
thì có tử bởi vậy chúng sinh Khổ đau trôi lăn trong vòng sinh tử chỉ vì
tham ái. Vì Ái là cầu mong, bám chấp nên nó mang cả ba tính chất Tham,
Sân (thí dụ như mong muốn hại ai) và Si (vì có quan hệ với vô-minh). Vậy
Ái không phải chỉ có nghĩa là mà nó có thể hiểu rộng ra là Tham-Sân-Si
[xem chương V].
3.
Muốn chấm dứt Khổ thì đơn giản là phải trừ bỏ nguyên nhân gây ra
Khổ, tức là Ái (Tham-Sân-Si). Và nhìn vào thập nhị Nhân-Duyên để thấy rõ
hơn các nguyên nhân gần và xa của Khổ (mười một Nhân-Duyên trước
nhân-duyên Khổ):
Vô
Minh
Hành
Thức
Danh
Sắc
Lục
Nhập
Xúc
Thọ
Ái
Thủ
Hữu
Sinh
KHỔ:
Lão-Tử, Sầu-Bi-Ưu-Khổ-Não
4.
Giải pháp là con đường dẫn đến sự thoát KHỔ, đó là phương pháp
thanh lọc thân tâm bằng cách phát triển Trí Tuệ và Từ-Bi-Hỷ-Xả, tận diệt
vô-minh và Tham-Sân-Si ở tất cả mức độ thô và tế [gross & subtle]. Con
đường này gọi là Bát Chánh Đạo (con đường gồm có tám yếu tố chân chánh).
B.
BÁT CHÁNH ĐẠO
[Eight-Fold Path]
Khi
bị cảm cúm, ngoài việc uống thuốc ra ta còn phải kiêng cữ ngăn chặn
nguồn tiếp tế không để bệnh trở nặng thêm, nghĩa là phải để ý thêm những
việc chẳng hạn như tránh ra gió máy, cần phải nghỉ ngơi dưỡng sức, bớt
ăn lại và uống nước nhiều hơn, v.v…Trường hợp những người mang bệnh nặng
thường phải áp dụng biện pháp quyết liệt hơn nữa.
// Thí dụ: Có một phụ nữ người Đài Loan là người có
địa vị trong xã hội và thành công trong nghề nghiệp. Nhưng bất chợt bà
ta khám phá là bị bệnh ung thư và bác sĩ phán là bà có ba thán để thu
xếp mọi thứ. Sau khi hiểu rõ căn bệnh, bà dẹp hết công ăn việc làm và
dọn về một làn nhỏ ven biển. Bắt đầu từ đó, đầu óc không còn bị căng
thẳng vì việc làm, bà hoàn toàn thay đổi lề lối sinh hoạt, cách thức ăn
uống. Ngày ngày ba ra biển hóng gió, dành thời giờ để tĩnh tâm và vận
động cơ thể. Vì biết được bà là người trí thức nên dân làng bắt đầu nhờ
bà giảng dạy một số lớp học. Thế là từ một đời sống bon chen, chỉ lo
tích lũy và chỉ biết có riêng mình, bây giờ bà không còn sống cho cá
nhân bà như trước nữa mà sống với mục đích mang lại lợi lạc cho người
xung quanh. Khoảng một năm sau bà về gặp lại bác sĩ thì bệnh ung thư
không còn nữa.//
Phật
Pháp tuy diễn giả vể cái KHỔ, nguyên do là những ràng buộc bởi chính ta
gây tạo, nhưng không dừng ở lại đó mà tích cực chỉ cho chúng ta lối
thoát. Công việc chữa trị bệnh KHỔ cũng không khác việc chữa bệnh, tất
cả các yếu tố sau đây đều góp phần vào việc điều trị: Thiền định cộng
với việc thay đổi tư tưởng, quan niệm, lối sống, thái độ, cách hành xử,…Nói
cách khác, song song với thiền định là thang thuốc, ta phải có sự
hiểu biết và tư duy đúng bằng cách thay đổi lối nhìn qua tư tưởng,
quan niệm, sự hiểu biết và phải kiêng cử không nuôi dưỡng
Tham-Sân-Si và tránh gây thêm nghiệp bằng cách thay đổi lối sống, thái
độ, hành xử. Đấy là phương thuốc chữa bệnh KHỔ, gọi là Bát Chánh Đạo, là
pháp tu sửa toàn bộ cơ cấu của lối sống, cải cách cả thân lẫn tâm qua ba
phương diện:
1.
Lối nhìn, sự hiểu biết – Huệ - phân biệt được Chánh Tà, nhìn thấy
rõ tình huống của mình và biết được cần phải làm gì và giải quyết ra sao;
ở mức độ cao thì Huệ là Trí Huệ giải thoóa:
Chánh Kiến
Chánh Tư Duy
2.
Kiêng cữ - Giới-cũng như kiêng cữ để bệnh đừng nặng thêm, Giới
hạnh ngăn ngừa ta tạo thêm nghiệp qua Thân-Ngữ-Ý, đồng thời không tạo
thêm cơ hội và mô trường để Tham-Sân-Si phát triển:
Chánh Ngữ
Chánh Nghiệp
Chánh Mạng
3.
Thang thuốc – Định – đi thẳng vào việc sửa tâm theo con đường
Chánh, diệt trừ gốc rễ Tham-Sân-Si.
Chánh Tinh Tấn
Chánh Niệm
Chánh Định
Xin
nhắc lại, Chánh nghĩa là những gì phá bỏ được những ràng buộc của Ta-bà
–vô minh, Tham-Sân-Si, tà kiến, …- và hướng đến Trí Tuệ giải thoát. Sau
đây là đại ý của tám yếu tố trong Bát Chánh Đạo.
1)
Chánh Kiến [Right View]: Cái nhìn, sự hiểu biết đúng. Ở cấp sơ
khởi đó là sự hiểu biết về Tứ Diệu Đế (cộng với Bát Chánh Đạo), nếu nói
rộng ra sự hiểu biết đúng bao gồm các đề tài đã bàn trong bài: Khổ,
vô-thường, nhân-quả / Nghiệp, tái-sanh, duyên-khởi, ngủ-uẩn, thập nhị
Nhân-Duyên, vô-ngã, Tham-Sân-Si. Ở trình độ này, chánh-Kiến là bản đồ
vạch rõ vị trí của ta đang ở đâu, tình hình như thế nào, có những vấn đề
gì, giải quyết ra sao, mục tiêu là gì,…nó là mũi tên chỉ ta hướng đi đến
mục tiêu, và điểm quan trọng là trên đường đi trường hợp bị lệch lạc sai
đường thì chánh-Kiến sẽ là mực thước điều chỉnh và giữ ta đi đúng hướng.
Bảy yếu tố còn lại chỉ được gọi là Chánh khi thực hành theo hướng
chánh-Kiến.
Sau khi trải qua phần tu tập thực hành (Bát Chánh Đạo),
ở cấp độ rốt ráo thì chánh-Kiến là sự thấu triệt thực tướng của bản thân
mình, trực nhận được thực tại tuyệt đối của vạn vật như nó là, vạn
vật đều là Không (Không có tự tánh). Lúc bấy giờ chánh-Kiến là Trí
Tuệ phá trừ Vô-minh, chánh-Kiến chính là mục tiêu.
2)
Chánh Tư-Duy [Right Thought / Understanding]: Suy nghĩ đúng, tư
tưởng chân chính – tư tưởng liên hệ đến xuất gia, xã bỏ. Tư Duy còn có
nghĩa là tác ý, động cơ [intention, motivation]. Ở trình độ sơ cơ, để
phát triển chánh-Tư Duy, tư tưởng của hành gia phải luôn luôn xoay quanh
các đề tài trong Chánh-Kiến. Thí dụ, trong mỗi hành động của Thân-Ngữ-Ý
hoặc khi có sự việc gì xảy ra ta đều xét xem Khổ nằm ở đâu, vô-thường ở
đâu, nhân-quả, v.v…Rèn luyện như vậy cho đến khi thấm nhuần thì chánh-Tư
Duy là những tư tưởng không vị kỷ, không dính mắc trong Tham-Sân-Si, và
chúng được lồng trong Từ-Bi-Hỷ-Xả.
3)
Chánh Ngữ [Right Speech]: Tư tưởng chân chính sẽ dẫn đến lời nói
chân chính. Chánh-Ngữ (trái ngược với Vọng Ngữ) là kiêng cữ những lời
nói gian dối, đâm thọc, thô ác và nhảm nhí. Chánh-Ngữ là những lời nói
chân thật, hòa nhã, thanh tao, hữu ích phát sinh từ tâm Từ-Bi thay vì từ
Tham-Sân-Si. Sự thật phải được tôn trọng vì hành giả là người đi về
hướng chân lý để tìm chân lý thì không thể gian dối được.
4)
Chánh Nghiệp [Right Action]: Kiêng cữ ba loại hành động là sát
sinh, trộm cướp, tà dâm. Hoặc nói một cách tổng quát, chánh-Nghiệp là
hành động qua thân không do Tham-Sân-Si thúc đẩy.
5)
Chánh Mạng [Right Livelihood]: Nghề sinh sống chân chính không
mang lại sự thiệt hại cho xã hội, cho chúng sinh. Hành giả không nhúng
tay vào những nghề để nuôi mạng sống như buôn bán võ khí, nô lệ, độc
dược, thú vật (để giết thịt), chất say (ma túy, rượu).
6)
Chánh Tinh Tấn [Right Effort]: Sự nỗ lực;
a.
Ngăn ngừa không để phát sinh những ý tưởng Tà chưa phát sinh,
b.
Diệt trừ những ý tưởng Tà đã phát sinh,
c.
Khai triển những ý tưởng Chánh chưa phát sinh,
d.
Trau dồi và bảo tồn những ý tưởng Chánh đã phát sinh.
Chánh –Tinh Tấn, sự nỗ lực ‘cải Tà quy Chánh’, còn
được gọi là Tứ Chánh Cần. Chánh Tinh Tấn hỗ trợ cho Chánh-Niệm.
7)
Chánh Niệm [Right Mindfulness]: Khi Tứ Niệm Xứ [xem phụ lục; phần
Căn Bản sẽ chỉ bàn đến pháp Thiền Tứ Niệm Xứ - Minh Sát], bốn lãnh vực –
sinh hoạt của thân, cảm giác, các trạng thái tâm, và các đối tượng của
tâm – bao gồm tất cả các hiện tượng thân và tâm cùng các đề tài trong
Chánh-Kiến, được quán chiếu một cách đặc biệt [Minh Sát] trong sự cảnh
giác và chú tâm thì gọi là Chánh-Niệm’Quán chiếu một cách đặc biệt’
nghĩa là xuyên qua các hiện tượng thân-tâm, hành giả trực nhận được ba
Pháp-Ấn: khổ, vô-thường, vô –ngã. Được kiên trì bằng sự nỗ lực của
Chánh-Tinh-Tấn, Chánh-Niệm thanh tịnh hóa thân tâm bằng cách ngăn chặn
và diệt trừ tâm Tà trong khi phát triển và vung bồi tâm-Chánh. Đó cũng
có nghĩa là sửa [reprogram] cái tâm lại chuyển hướng cho nó đi theo con
đường Chánh, hoặc nói cách khác, lấy con đường Chánh làm điều kiện để
tâm theo đó mà vận hành. Chánh Niệm còn được gọi là Thiền Quán.
8)
Chánh định [Right Concentration]: Nếu cái kính hiển vi không đứng
yên một chỗ gom ánh nắng lại một điểm trên tờ giấy thì tờ giấy không bốc
cháy được. Cũng vậy, nếu tâm bị giao động không gom lại được để an trụ
trên đối tượng thì hành giả không thể đào sâu vào các tầng lớp bên trong
và như vậy sẽ không thể thấy rõ được bản chất chân thực của đối tượng.
Định nghĩa là trạng thái tâm tập trung và an trú trên một điểm duy nhất.
Chánh-Định là đạo luyện tâm định để hổ trợ cho chánh niệm chứ không phải
để dùng vào những việc như chữa bệnh, tăng cường sức khỏe, hưởng sự an
lạc trong các tầng định, v.v…Đề mục cho thiền định không hỗn tạp nhiều
thứ vì tâm sẽ dễ bị chi phối nên khó ổn định được; đối tượng thường chỉ
tinh thuần một thứ, chẳng hạn như chỉ theo hơi thở, hoặc chỉ một màu đỏ,
v.v…Có 40 đề mục phổ thông [xem phụ lục] thường được áp dụng để phát
triển định. Tập định sẽ trải qua bốn tầng Thiền và lên trên nữa là bốn
tầng Định. Chánh Định còn được gọi là Thiền Chỉ.
Cả
tám yếu tố đều thiết yếu cho việc tu hành vì chúng tương trợ lẫn nhau
nên không thể bỏ sót một yếu tố nào. Nói tóm lại, Bát Chánh Đạo là con
đường chuyển hóa con người từ Tà sang Chánh, nó là công thức cải cách
toàn diện cả thân lẫn tâm từ thô đến tế. Nó là phương pháp tháo gỡ “cuộn
chỉ rối” mà ta đang vướng kẹt, phương pháp giải tỏa vòng xích
thập-nhị-Nhân-Duyên mà ta đang bị trói buộc. Vậy tu hành không phải là
việc diệt trừ Khổ mà là sự tận diệt nguyên nhân gây ra Khổ - Vô Minh –
và Tham-Sân-Si – bằng cách thực hành Bát Chánh Đạo – con đường dẫn đến
trí huệ giải thoát.
C.
GIỚI – ĐỊNH –
HUỆ
Luật
Pháp xã hội được đặt ra với mục đích phòng ngừa vấn đề phá rối trật tự
ngõ hầu duy trì an ninh trong xã hội. Giới trong Phật Pháp mang ý nghĩa
rộng lớn hơn ở chỗ ngoài việc ngăn chặn ta vi phạm luật pháp trong phạm
vi xã hội, chúng còn là những điều răn cấm cho riêng cá nhân ta cần phải
tuân theo để tránh những hành động của thân-khẩu-ý đi sái với quy luật
Ta-bà. Vậy Giới giữ vai trò là cảnh giác và ngăn ngừa những khuynh hướng
khả dĩ gây tạo nghiệp Thiện hoặc Ác mà sẽ trói buộc ta lẩn quẩn trong
vòng tròn Ta-bà. Chẳng những vậy, khi giữ Giới ta tránh không phương hại
đến người và vật xung quanh tức là ta mang lại sự an ổn cho kẻ khác, và
sự quan tâm đến kẻ khác là hình thức phát triển tâm Từ-Bi của mình. Giới
bao gồm Chánh-Nghiệp và Chánh-Mạng (Thân), Chánh-Ngữ (Ngữ) và chánh-Tư
Duy (Ý).
Nói
chung, “Thiền” [Meditation] là từ ngữ mang ý nghĩa bao quát về pháp hành,
trong khi “Định” [concentration] rất dễ bị lẫn lộn với chánh-Định. Ở đây
nên hiểu Định là một nhóm gòm có cả ba yếu tố - Tinh-Tấn, Chánh-Niệm và
Chánh-Định.
//Trong trường hợp này, nếu lấy chữ “Thiền” thay cho
“Định”, như một số học giả và hành giả ngoại quốc đã dùng, thì sẽ giúp
cho người học đỡ bị bối rối hoặc hiểu biết sai lạc.//
Xin
nói sơ thêm về định theo nghĩa chánh-Định. Tâm định nghĩa là tâm có khả
năng an trú trên một đối tượng mà không lay động bởi ý tưởng hoặc cảnh
vật bên ngoài. Thí dụ như trong một căn phòng trống chỉ có một vật duy
nhất, bởi vậy khi nhìn vào phòng ta không thấy vật gì khác ngoài vật đó,
và vì nó là vật duy nhất nổi bật nên ta không bị phân tâm và cũng vì thế
nên ta dễ thấy rõ được những chi tiết, tính chất của nó.
Kiến
thức thế gian không phải là Trí Huệ theo nghĩa nhà Phật. Các nhà bác sĩ,
bác học, luật sư tuy là những người học rộng biết nhiều, nhưng họ vẫn bị
Tham-Sân-Si sai sử, vẫn bị phiền não quấy nhiễu, và không biết đường nào
giải quyết vấn đề sinh tử. Bởi vậy, họ vẫn thuộc thành phần vô-minh,
không có trí-huệ. Trí-Huệ ở mức độ sơ khởi là sự hiểu biết trên lý trí
về Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo và các định luật Ta-bà. Trí-Huệ rốt ráo là
sự trực nghiệm thế gian là vô-thường, Khổ, và vạn-Pháp, kể cả thân-tâm,
đều vô-ngã. Nói vắn tắt, trí-huệ là sự ‘ trực nhận bản chất của thực tại,
của vạn pháp như nó là’. Người có trí-huệ sống trong thế gian
nhưng không nhiễm mắc thế sự.
Mối
liên hệ giữa Giới, Định, và Huệ rất chặt chẽ, không thể thiếu cái nào
trên con đường tu hành – bộ ba này chính là con đường tu hành – Bát
Chánh Đạo.
Những kẻ từng làm điều phạm pháp thường lo sợ sẽ có ngày bị khám phá và
bị buộc tội, còn không thì cũng chẳng được yên ổn với lương tâm mình.
Tương tự, nếu không nhờ Giới ngăn chặn ta làm điều sai quấy, tạo
tác Tà nghiệp, ta sẽ sống trong tâm trạng bất an, và đến khi trả nghiệp
phải đối đầu với nghịch cảnh cũng sẽ làm tâm bất an, ta sẽ khó lòng
Định. Trong số các đại đệ tử đức Phật có vị đắc quả A-la-hán do pháp
hành chuyên về giữ giới luật. Vậy Giới trợ giúp cho Định và Huệ.
Xin
nhắc lại, Định là sự nỗ lực (chánh-Tinh Tấn) cùng với tâm an định
(chánh-Định) và sự quán xét đúng đắn (chánh-Niệm). Cũng như ngọn nến
không bị gió lay động nên sự sáng tỏ của nó giúp việc quán sát và nhận
biết cảnh vật xung quanh được dễ dàng và không lầm lẫn (Huệ). Khi
Tham-Sân-Si tạm lắng xuống thì trạng thái tâm an định nó sẽ mang lại
phần nào sự an lạc và sáng suốt, đồng thời sự đòi hỏi được xoa dịu, và
như vậy tránh được tình trạng vọng động dẫn đến những hành vi bất Chánh
(Giới). Vậy Định trợ giúp cho Giới và Huệ.
Nhờ
có sự hiểu biết – trí-Huệ - (thí dụ như hiểu luật Nhân-Quả) ta sẽ
dễ giữ Giới vì hiểu rõ lý do; và nhờ hiểu thấu sự vật, không có
sự hoài nghi, không bị hoang mang về chuyện thế gian, về những chuyện
không đáng thắc mắc, tâm sẽ an định và dễ dàng quán sát (Định)
Vậy Huệ trợ giúp cho Giới và Định.
Theo
như ba yếu tố Giới, Định và Huệ được bàn ở trên, một yếu tố sẽ trợ giúp
cho cả hai yếu tố kia, và ngược lại, nếu một yếu tố không được trao giồi,
tôi luyện, nó sẽ gây trở ngại cho hai yếu tố kia. Khởi đầu việc tu hành,
một yếu tố sẽ được chú trọng hơn hai yếu tố kia tùy theo cá tính khác
biệt của từng cá nhân, và sau đó không nhất thiết phải theo một thứ tự
nào mà cả ba – nói rõ hơn là Bát Chánh Đạo – nên đồng song hành với nhau.
Cũng có thể tùy trường hợp, một yếu tố sẽ là yếu tố chủ động trong một
thời điểm nào đó.
D.
THIỀN CHỈ (Chánh
Định) và THIỀN QUÁN (Chánh Niệm)
Thiền nghĩa là Pháp lành, bất luận là phương pháp gì, dùng để thanh lọc
các ô nhiễm (Tham, Sân, Si) trong tâm, chuyển tâm tự trạng thái Tà sang
Chánh, phát triển trí – huệ - trọng yếu là trực nhận được tánh-Không –
dẫn đến giải thoát. Tất cả các pháp thiền đều không nằm ngoài hai loại
là thiền Chỉ và thiền Quán.
Chỉ
nghĩa là dừng, đứng lại một chỗ. Thiền Chỉ là pháp hành gom tâm lại
không cho nó lay động, giữ nó an trú trên đối tượng; do tâm không bị chi
phối bởi cảnh vật bên ngoài cũng như những tư tưởng bên trong nên đạt
đến trạng thái vắng lặng, sự định tâm. Thiền Quán là quán sát tất cả các
hiện tượng tinh thần (Tâm) lẫn vật chất (Thân và cảnh) để có thể phát
triển trí-huệ, trực nhật được thực tại như nó là.
Nói
vắn tắt,
Thiền Chỉ là Chánh Định dẫn đến Định
Thiền Quán là Chánh Niệm dẫn đến Huệ (Trí-Huệ giải
thoát).
Mục
đích tối hậu của việc tu hành là đạt đến trí huệ để phá trừ vô-minh bởi
vậy không thể không hành thiền Quán được. Thế nhưng cả hai thiền Chỉ và
thiền Quán đều quan trọng trong công việc tu tập như chim bay phải có đủ
cả hai cánh. Như đã thí dụ về ngọn nến không bị gió và kính hiển vi
không lay động, Định là dụng cụ trợ giúp cho Thiền Quán vì nếu tâm bị
giao động, không an trú được trên đối tượng thì hành giả khó lòng quán
sát được đối tượng và không thể quán sát ở mức độ sâu xa vi tế.
Chữ
‘Định’ trong câu “Định sinh Huệ” mà ta thường nghe nói phải là cái
‘Định’ bao gồm Chánh Tinh-Tấn, Chánh-Định, và Chánh-Niệm [như đã bàn
trong Bát Chánh Đạo]. Còn nếu đây chỉ là cái ‘Định’ (trạng thái vắng
lặng, không bị giao động) của Thiền Chỉ thì nó sẽ không tự động sinh ra
Huệ.
// Thí dụ ta lấy tảng đá đặt lên bãi cỏ thì cỏ dưới
tảng đá sẽ ngưng mọc và có vẻ như bị chết, thế nhưng khi dời tảng đá đi
thì cỏ lại mọc trở lại vì gốc rễ nó vẫn còn.//
// Thí dụ ta để yên một ly nước thì dât bụi sẽ lắng
xuống, thế nhưng khi động đến thì ly nước lại bị vẫn đục trở lại vì đất
bụi chỉ tạm thời nằm yên dưới đáy.//
Ta
có thể hiểu tảng đá đặt trên cỏ và bụi đất lắng động trong
ly nước là Định, còn cỏ (và gốc rễ) và đất bụi trong ly
nước là phiền não (Tham Sân Si). Ta thấy Định chỉ tạm thời đè nén
Tham-Sân-Si xuống và khi buông Định ra chúng sẽ phát tác trở lại, như
vậy Định không trừ được Tham-Sân-Si, không sinh được Huệ, mà trí-Huệ,
dùng để nhổ cỏ tận gốc rễ, lược sạch đất bụi, hay tận diệt gốc rễ Tham
Sân Si, phải được phát triển qua thiền Quán.
Thêm
thí dụ sau đây làm tỏ rõ vai trò và sự liên hệ giữa Đinh, Thiền Quán, và
Huệ.
Ban
đêm thấy có con rắn đang nằm ngoài sân nên ta đâm sợ hãi, tưởng tượng ra
đủ thứ chuyện về con rắn và không dám đi đâu. Đánh bạo, ta có thể lấy
đèn pin mạo hiểm ra ngoài và rọi vào con rắn xem nó ra làm sao, nhưng vì
ngọn đèn pin không sáng đủ nên ta chỉ thấy mập mờ không biết rõ nó là
loại rắn gì, lớn nhỏ thế nào, hay là nó cũng chẳng phải là con rắn mà là
một con gì khác, vật gì khác. Rốt cuộc ta vẫn mang tâm trạng hoang mang
sợ hãi. Nhưng trường hợp ta có cái đèn pha thì khi sợi dây thừng phơi
bày nguyên hình dưới ánh đèn sáng như ban ngày, ngay lập tức, tất cả
những hoang mang nghi ngờ vụt tan biến và những sợ hãi tưởng tượng được
thay thế bằng sự an lạc tự tại.
Chú
thích: Vì màn đêm (vô minh) che phủ nên sợi dây thừng (thực
tại) bị nhìn lầm thành con rắn (thế gian)gây ra những sợ hãi,
tưởng tượng (Tham, Sân, Si, Vọng Tưởng). Mang đèn pin (định
lực) ra ngoài sân để xem xét (quán), nhưng vẫn không thấy rõ
vì ánh đèn pin không đủ sáng (định yếu) nên vẫn còn hoang mang sở
hãi (Tham Sân Si, Vọng Tưởng). Nhưng khi đén pha (định lực
mạnh) để rọi xét (quán) thì thấy rõ con rắn chỉ là sợi dây
thừng (thấy rõ thực tại như nó là, không còn cái nhìn sai lầm, huệ),
ngay lập tức nạn nhân bừng tỉnh (giác) và những hoang mang sợ hãi
(Tham Sân Si, vọng tưởng) được thay thế bằng an lạc tự tại (Niết
Bàn).
Thí
dụ trên cho thấy những điểm quan trọng sau. Định lực càng mạnh thì việc
quán sát càng dễ dàng và nếu không có định lực thì khó có thể quán sát
sự vật. Nếu có định lực mạnh mà không đem dùng để quán sát thì cái nhìn
sai lầm về thực tại vẫn sẽ còn đó. Nếu có định lực mạnh mà không rọi vào
đúng đối tượng (như đèn pha không rọi đúng vào con rắn) thì cũng sẽ
không thể giải tỏa được cái nhìn sai lầm.
Trí-huệ là ánh sáng phá tan bóng tối vô minh, bởi vậy đối tượng cho
thiền Quán không phái là đề mục nào cũng được, mà phải là những đề mục
có liên hệ đến định luật ta-bà và có thể thanh lọc được thân tâm để hành
giả trực nhận được bản chất của thực tại, của vạn pháp. Các đề mục tổng
quát đã thực tại, của vạn pháp. Các đề mục tổng quát đã được liệt kê ở
phần Chánh Kiến, còn các đề mục trong Chánh Niệm (Tứ Niệm Xứ - xem phụ
lục) sẽ hướng dẫn ta đi sâu hơn vào chi tiết ở trình độ cao hơn.
E.
CUỘN CHỈ RỐI
Xin
nhắc sơ lại sự tương quan và nương tựa lẫn nhau của mọi sự theo luật
duyên-khởi qua một số các đề tài đã bàn: ngũ uẩn, thập nhị nhân-duyên,
bát-chánh-đạo và tứ-diệu-đế.
Về
ngũ uẩn, trong Sắc uẩn, bốn Đại (Đất-nước-lửa-gió) nương vào nhau để
sinh khởi; trong khi căn và trần phải ỷ dựa lẫn nhau để hiện hữu. Bốn
uẩn còn lại (Thọ-Tưởng-Hành-Thức), mỗi một uẩn phải nương vào một hoặc
cả ba uẩn kia để tác hiện. Và cả năm uẩn (thân và tâm) phải nương vào
nhau để sinh hoạt.
Tám
yếu tố trong bát-chánh-đạo hỗ trợ và ỷ dựa lẫn nhau qua sự tương quan về
Giới-Định-Huệ như đã bàn.
Tứ-diệu-đế - Tập là nhân, Khổ là quả, Đạo là nhân, diệt là quả; Khổ-Tập
là nhân, Diệt-Đạo là quả.
Mười
hai nhân-duyên diễn tả tiến trình tương sinh giữa thân và tâm. Chúng
cũng đan kết và nương tựa lẫn nhau, mỗi một nhân-duyên đều có sự liên hệ
với mười một nhân-duyên còn lại. Dựa theo sự tương quan của chúng, ta
liệt kê sự móc nối của một số nhân duyên sau đây:
Vô-Minh
¬
®
Hành
Vô-Minh
¬
®
Ái
Vô-Minh gây ra những loại tâm Tham Sân Si, và những
hành động Tham Sân Si lại bồi dưỡng cho Vô-Minh. Ngược lại, những loại
tâm hiện như tâm Xả, tâm Từ, sẽ làm Vô Minh suy yếu.
Hành
¬
®
Thức
Những hành động qua thân-khẩu-ý sẽ được ghi lại trong
giòng tâm thức và từ trong giòng tâm thức chúng sẽ là điều kiện thúc đẩy
ta hành động.
Thức
¬
®
Danh Sắc
Trong giòng tâm thức chứa đầy đủ điều kiện để tạo nên
Danh Sắc và những sinh hoạt của Danh Sắc sẽ lưu lại dấu vết trong giòng
tâm thức.
Danh Sắc: Danh
¬
®
Sắc
Thân và tâm nương nhau để đồng sinh khởi.
Danh Sắc
¬
®
Sinh
Lục Nhập: Căn
¬
®
Trần
Căn (chủ thể [subject]) và Trần (đối tượng [object])
nương nhau để đồng sinh khởi.
Xúc: Căn
¬
®
Trần ¬
®
Thức ¬
®
Căn
Căn, Trần và Thức (tinh thần và vật chất / chủ thể và
đối tượng) nương nhau để đồng sinh khởi.
Thực
tế ta đang đối diện với khổ đau, ai cũng đều biết và đều tìm cách thoát
khổ. Song thoát khổ lại là vấn đề cực kỳ khó khăn, chính vì luật duyên
khởi chi phối làm ta lâm vào tình trạng rối mù, chẳng biết đầu mối ở đâu
mà tháo gỡ. Định luật duyên khởi vạch rõ sự tương quan giữa tất cả sự
vật và sự nương tựa lẫn nhau của chúng. Nhưng cũng vì vậy mà mọi thứ đều
ở trong tình trạng đầu đuôi lẩn quẩn, chồng chéo và quấn rối vào với
nhau. Ta may mắn gặp được Phật Pháp, con đường giúp ta giải quyết vấn
đề, thế nhưng chính ngõ thoát này cũng không đơn giản và thẳng tắp rõ
ràng vì nó không nằm ngoài luật duyên khởi – nó cũng lại như cuộn chỉ
rối, cái này chỉ vào cái kia, cái kia chỉ vào cái nọ - nên gây hoang
mang không ít cho người tu. Sự kiện phức tạp, đan kết chằng chịt trong
Phật Pháp cần được hiểu rõ, nó sẽ giúp ta có được cái nhìn toàn diện của
vấn đề, và như vậy sẽ đỡ được tâm trạng mơ hồ bối rối.
Biểu
đồ dưới đây cho ta thấy mối tương quan và sự nương tựa lẫn nhau giữa các
thành phần của các nhóm khác nhau. Chẳng hạn như Đạo đế (trong Tứ-Diệu
Đế) chính là Bát Chánh Đạo, nhưng dưới Bát Chánh Đạo, Chánh-Kiến đòi hỏi
phải hiểu biết về Tứ Diệu Đế. Như vậy Tứ Diệu Đế tựa và chỉ vào Bát
Chánh Đạo, và Bát Chánh Đạo tựa và chỉ vào Tứ Diệu Đế.
F.
TU LÀ CHUYỂN
NGHIỆP
Nếu không muốn nhận lãnh hậu quả mà ta đã gieo nhân
thì ta có thể hóa giải nghiệp bằng cách áp dụng luật nhân quả và nguyên
lý Đồng-Thanh Đồng-Khí và Lực & Phản Lực. Thí dụ ta lỡ đánh ai
đó gãy chân thì muốn cái nhân ác này triệt tiêu đi ta phải tạo ra một
nhân thiện, cái nhân cùng loại (cũng về chân cẳng) và đối nghịch (giúp
đỡ thay vì làm hại) với nhân ác, chẳng hạn như đóng góp công sức tiền
của vào những nghiên cứu chế tạo chân giả cho người què hay giúp người
què có được tiện nghi tốt hơn trong đời sống.
Nhưng có một trở ngại lớn là ta không biết được những nhân ta đã từng
gây tạo từ vô lượng kiếp trong quá khứ thì làm sao áp dụng được luật
nhân quả để hóa giải chúng? Một cách là ta cứ làm việc thiện, bất cứ
việc thiện gì, vì theo luật duyên khởi mọi thứ lòng vòng liên quan đến
nhau nên có thể chúng sẽ ảnh hưởng và sẽ làm suy giảm phần nào hậu quả
của các nhân ác. Nhà Phật có giảng là nếu ném nắm muối (nghiệp ác) vào
thau nước (phước ít) thì cả thau sẽ mặn chát; nhưng nắm muối sẽ không ăn
thua gì nếu bỏ vào cái ao (phước nhiều).
Lý
lẽ trên nghe có vẻ đươn giản, nhưng thật ra không dễ dàng vì nhiều khi
hoàn cảnh không cho phép, như trường hợp ta không thể có thì giờ, khả
năng hoặc phương tiện tài chánh để thực hiện. Dĩ nhiên ta sẽ tạo được
một ít phước lành, nhưng vì không tạo đúng các nhân thiện cùng loại và
đối nghịch nên sự suy giảm của các nhân ác có lẽ không đáng kể, trong
khi đó có thể nhân ác vô số đang chờ dịp để trổ quả. Bằng chứng là những
vị thánh và ngay cả đức Phật cũng không thể giải sạch hết nghiệp của
mình được. Như vậy có nghĩa là không có cách nào bảo đảm có thể hóa giải
hết nghiệp xấu.
Nếu
không thể giải hết nghiệp được thì phải có cách chuyển nghiệp.
Chuyển nghiệp ở đây sẽ được hiểu là tuy nghiệp xấu phát tác nhưng nó sẽ
không ảnh hưởng gì đến ta – nói đúng hơn là ta chuyển tâm, tức là
ta sửa đổi lại những giá trị tốt xấu đã được định sẵn trong tâm. Thí dụ
ta làm cho kẻ nào đó phải tán gia bại sản, để hắn lâm vào tình trạng
nghèo khốn cho bõ ghét. Đương nhiên là trường hợp ta bị mất mát tài vật
và ở trong hoàn cảnh nghèo khó, ta sẽ đau khổ vì đối với ta mất mát và
nghèo khó mang tính chất xấu xa, ta tin rằng chúng sẽ mang lại khổ đau
cho ta và cũng như mọi người khác. Tìm cách góp nhặt tài vật và trốn
tránh cái nghèo không phải là giải pháp vững chắc, mà giải pháp bảo đảm
là chuyển tâm, tức là thay đổi lối nhìn, thay đổi giá trị. Nếu
lối nhìn của ta thay đổi, vật chất không phải là nguồn hạnh phúc thật sự,
cái nghèo không phải là điều xấu xa, thì chúng không thể gây khổ đau cho
ta được.
Ta
trân quý viên kim cương, nhưng ngay khi biết được nó là thứ giả, ta liền
liệng bỏ không thương tiếc. Trường hợp được biếu chiếc xe Mercedes, ta
thật yêu quý và chăm sóc nó nhưng khi khám phá ra là bên trong nó trống
rỗng, không máy móc thì sự yếu quý cũng tiêu tan ngay lúc đó. Do đó muốn
chuyển tâm hay sửa đổi giá trị, điều quan trọng là làm sao thấu rõ bản
chất của sự vật là ‘trống rỗng’, không thực chất.
Theo
công ước thế tục thì sự vật có giá trị tương đối của chúng, tuy nhiên ở
khía cạnh tuyệt đối (chân đế) thì chúng không mang giá trị tốt xấu gì
cả, chúng không có thực chất, chúng không thực có. Chỉ vì cái nhìn sai
lạc (vô-minh), không hiểu các định luật ta-bà (vô thường, nhân quả,
tái-Sinh, duyên khởi, vô ngã, tánh-Không) nên ta bám chấp vào những giá
trị đã được quy định mà ta cho là chân thật.
G.
THỰC HÀNH
Như
đã bàn, cách thức chữa trị bệnh Khổ phải hội đủ ba yếu tố:
Giới-Đinh-Huệ; việc chữa trị lại được áp dụng theo công thức văn-tư-tu,
và văn-tư tu sẽ được tiếp tục lập lại ở các cấp độ cao hơn.
Nói
chung, hành giả giữ Giới theo khuôn thước của chánh-Ngữ,
chánh-Nghiệp, và chánh-Mạng (kể cả chánh-Tư Duy). Đi vào chi tiết, đối
với giới tăng lữ, có 250 giới luật cho tăng và 350 giới luật cho ni. Nếu
nói văn tắt thì tất cả những giới luật này là phương tiện giúp kẻ tu
hành ngăn ngừa không để tâm Tham-Sân-Si sinh khởi; chẳng hạn như giới
điều ngăn cấm tăng ni không được phép bước chân vào làng xóm sái giờ
(ngoài giờ khất thực), lý do là vì khi không có việc chính đáng thì sẽ
dễ ngồi lê la tán dóc về các chuyện như chính trị, thời trang, trái gái,
v.v…ngăn ngừa như vậy sẽ không tạo cơ hội để khởi động và làm tăng cường
cho các tâm Tham-Sân-Si.
Theo
lẽ trên, điểm quan trọng của việc giữ giới vẫn chỉ để nhắm vào
Tham-Sân-Si. Khi tăng đoàn được thiết lập, ban đầu, lúc chưa có các loại
tạp nhạp trà trộn vào, đức Phật không ban giới luật gì cả vì tăng sĩ đều
tự giác và ý thức được quy tắc tu hành. Họ luôn luôn canh chừng cẩn mật,
kiểm soát động cơ đằng sau các hành vi thân-khẩu-ý và có do tâm
Tham-Sân-Si sai khiến hay không, và sự đề cao cảnh giác trong mọi lúc
chính là trì giới và nó cũng là thiền-Quán (chánh-Niệm).
Huệ
(chánh-Kiến, chánh-Tư Duy) đạt được trên phương tiện kiến thức do Văn và
Tư (tham vấn, học hỏi và suy nghiệm); đạt được trên phương diện thực
nghiệm do Tu (thực hành chánh-Định và chánh-Niệm [thiền Chỉ và thiền
Quán]).
Ta
đã biết tất cả các pháp Thiền đều thuộc về thiền-Chỉ hoặc thiền-Quán.
Thiền-Chỉ (chánh-Định) tương đối đơn giản, chỉ cần an trú tâm trên một
đối tượng [xem 40 đề mục phổ thông ở phần Phụ Lục], hoặc nói cách khác,
ta gom tâm, tập trung trên đối tượng; tức là gạt hết các tư tưởng khác
ra ngoài và chỉ còn thấy có đối tượng mà thôi. Đối tượng thường là vật
đơn thuần [simple, pure] như nước hoặc lửa, hoặc chỉ một màu nào đó,
xanh hoặc đỏ, v.v…để hành giả không bị phân trí, nhờ vậy tâm không bị
giao động, định lực mới phát triển. Có định lực mạnh ta mới thực hành
thiền Quán sâu xa được.
Ở
đây ta sẽ bàn kỹ hơn về Thiền Quán (chánh-Niệm). Cách thức quán sát các
định luật được lập lại, và một phần pháp thiền Tứ-Niệm-Xứ [xem phụ lục]
được trình bày sơ qua vì mục đích chính của nó cũng là để đi sâu vào các
định luật. Nhiệm vụ quan trọng của thiền Quán là phát triển trí-huệ về
ba Pháp Ấn: thấu suốt cái Khổ, thể nghiệm Vô-thường, và trực nhận
tánh-Không / vô –ngã.
Nói
thì dễ nhưng thực hành không phải là chuyện có thể xong được trong một
sớm một chiều. Ngay từ lúc lọt lòng mẹ, gia đình và sau đó là xã hội đã
‘giáo dục’ cho ta về những gì phải trái, tốt xấu, v.v…Thật sự là ta đã
bị ‘nhồi sọ’ những tư tưởng, lối nhìn cũng như lối sống và ta đánh giá
mọi thứ theo chiều hướng của thế gian. Được huấn luyện như thế trải qua
vô lượng kiếp những tập khí (giá trị trong hồ sơ) này trở nên thật kiên
cố với gốc rễ thật sâu dày. Dù cho sự việc là trắng nhưng quanh ta ai
cũng bảo là đen thì đến một lúc nào đó ta sẽ tin tưởng theo họ và cũng
thấy nó là đen. Như chuyện thân mẫu thày Tăng Tử (Thày là học trò Đức
Khổng Tử, nổi tiếng là người hiền).
// Có kẻ trùng danh với Tăng Sâm (Tăng Tử) giết
người. Một lần có người hớt hải chạy qua báo cho bà thân mẫu của Thày,
lúc đó đang ngồi trong nhà dệt cửi. Tin tưởng rằng con mình không thể đi
làm một việc xấu xa như thế, bà vẫn ngồi điềm nhiên làm việc. Một lát
sau, thêm một người nữa chạy qua kêu là Tăng Sâm giết người, nhưng bà
vẫn chẳng quan tâm đến. Đến khi người thứ ba hô hoán Tăng Sâm giết người
thì bà hoảng hốt quăng thoi bỏ chạy.//
Một
số trở ngại nữa là nếu không có sự hiểu biết toàn diện và không áp dụng
đúng cách thì kết quả gặt hái sợ là sẽ không được viên mãn, và vẫn dễ bị
sa ngã. Thí dụ, một số hành giả áp dụng định luật vô-thường để giảm trừ
tâm ái dục, khi gặp phái nữ thì không nhìn thấy đó là những cô gái đẹp
mà quán trong tâm họ là những bà già xấu xí. Sự việc diễn tiến như thế
cứ tạm coi như là tốt đẹp, tuy nhiên nếu các ‘bà già’ cứ xán lại nói
chuyện vui vẽ thì chẳng mấy chốc hành giả chỉ còn biết đó là những tiên
nữ mỷ miều khả ái. Thí dụ, những hành giả thực hành hạnh nhẫn-nhục nếu
chỉ biết chịu đựng thì đấy chỉ là lối đè nén tâm Sân chứ không phải là
dùng trí-huệ để giải quyết vấn đề.
Bây
giờ muốn đi ngược lại những quan niệm, thói tật thế gian, ta sử dụng
công thức “lấy độc trị độc” - áp dụng cách thức ‘nhồi sọ’. Phải đến kẻ
hàng xóm thứ ba mới lay chuyển được bà thân mẫu Tăng Tử, bởi vậy chỉ nêu
lên một lý do thì rất khó tự thuyết phục được chính mình. Thay vì chỉ
quán về vô-thường khi chạm trán các ‘bà già’, hoặc chỉ cố gắng nhẫn-nhục
khi bị hành hung, ta quán sát tất cả các định luật, và dựa vào đó đưa ra
cả chục lý do để khẳng định sự sai lầm của lối nhìn thế gian. Mỗi khi
gặp thuận cảnh hoặc nghịch cảnh, ta quán sát [thiền quán] tất cả các
định luật ta-bà – Khổ, vô-thường, nhân-quả, tái-Sinh, duyên-khởi,
tánh-Không.
·
Thí dụ khi ta bị hành hung, hoặc thấy,
nghe về những chuyện bất công:
-
Luật nhân-quả đang tái tạo sự
quân bình, ta đang nhận lãnh hậu quả do nhân đã gây ra trong quá khứ.
-
Cái khổ có thật không? ‘Ai’ đang chịu
khổ? [vô-ngã]
-
Thật ra ta mới là kẻ hưởng lợi, vì đây
là dịp để trả nghiệp [nhân quả] và thực hành hạnh nhẫn nhục.
-
Đáng thương cho kẻ hại ta, họ sẽ phải
gặt hái nghiệp ác trong tương lai [nhân quả ]
-
Rồi sự việc cũng sẽ qua đi, nhiều khi
ta với kẻ thù sẽ lại là bạn thân sau này, hoặc đã từng là bà con quyến
thuộc trong những kiếp trước, hoặc sẽ tái sinh làm bà con quyến thuộc
sau này. [vô thường, tái sinh]
-
Nếu không vì Khổ (sân hận / tham
lam) thì họ đã không gây phiền nhiễu cho ta, họ không có sự lựa chọn.
-
Do luật duyên khởi nên phải có
những điều kiện dẫn đến việc ta vị hại và hành động của kẻ làm hại.
-
Xét theo luật duyên khởi và nhân
quả, không phải là có kẻ hận thù ta một cách vô cớ. Có thể ta đã làm
việc gì gây tổn hại đến hắn, người thân của hắn; có thể ta với hắn không
liên can gì đến nhau, nhưng chỉ vì tâm đố kỵ, nên sự giàu sang phú quý
của ta làm hắn bực bội ganh ghét; hoặc chỉ vì ta là người Việt mà hắn
lại không ưa dân Việt, và tâm thù ghét người Việt của hắn phát khởi từ
kinh nghiệm không mấy tốt đẹp với những người Việt hắn va chạm trước đó,
v.v…
-
Chỉ có một chuỗi hiện tượng diễn biến
của thân tâm chứ không thật có kẻ bị hại và kẻ làm hại [vô-ngã]
-
Tâm Từ nhìn theo luật tái
–sinh – kẻ hại ta có thể đã từng là con cái ta trong những kiếp
trước. Mặc dù con cái hư hỏng hỗn hào, gây buồn phiền cho cha mẹ, nhưng
với lòng thương yêu bao la, cha mẹ vẫn cam chịu, vẫn thương yêu và sẵn
sàng hy sinh cho chúng.
-
Hoặc kẻ hại ta có thể đã từng là cha mẹ
ta trong những kiếp trước. Nghĩ đến công ơn sinh thành dưỡng dục, sự hy
sinh và lòng thương yêu vô bờ bến của cha mẹ, và nhiều khi cha mẹ chịu
gây tạo ác nghiệp chỉ vì muốn mang lại sự no ấm hạnh phúc cho con cái,
thì đối với những công ơn to tát như thế, những thiệt thòi kẻ thù gây
tổn hại cho ta thật không thám vào đâu cả [tái-Sinh].
·
Thí dụ khi gặp người khác phái:
-
Đã trải qua vô lượng kiếp sống thì thế
nào người này cũng đã từng là bố, mẹ, hoặc anh, em, bà con với ta rồi [tái
sinh].
-
Có thể bây giờ họ trông đẹp đẽ, nhưng
được bao lâu? Sau này trông sẽ ra sao? [vô-thường].
-
Vẻ xấu / đẹp của người khác phái cũng
chỉ là do ta tin tưởng ở cái giá-trị xã hội đã gán đặt như vậy.
-
Dưới lớp da mịn màng chỉ là máu mủ tanh
hôi [bất tịnh].
-
Có thể bây giờ tính tình họ thùy mị,
quân tử thật dễ thương, nhưng họ còn những tính (xấu) nào nữa và có được
mãi vậy không? [vô thường]
-
Nhiều khi đã từng là kẻ thù với nhau và
bây giờ gặp lại để thanh toán mòn nợ củ [tái sinh và nhân quả]
-
Bây giờ chỉ có một mình nhưng sau này
khi có hai mình và cả đám con cháu, tức là ta tự tạo thêm những vướng
bận [duyên]; chẳng những vậy, vì muốn vợ / chồng con được no đủ,
ta bị ràng buộc vì công ăn việc làm [Khổ], đâm ra hèn hạ và nhiều
khi phải làm những chuyện phi pháp có hại cho kẻ khác [tạo nghiệp]
-
Trường hợp con cháu ta hư hỏng (chẳng
có gì bảo đảm là chúng sẽ ngoan ngoãn, nên người) sẽ mang lại sự phiền
muộn [Khổ]
-
Nói tóm lại, hạnh phúc mà ta cầu mong
và bám chấp qua sự liên hệ với người khác phái sẽ làm cho cái tôi [ngã]
ngày càng lớn mạnh (chồng / vợ tôi, con cái tôi, gia đình tôi, v.v…)Hạnh
phúc có được này phải nương tựa vào những yếu tố khác [duyên-khởi]
nên nó không có thực chất [vô-ngã / tánh-không] và nó nằm ngoài
sự kiểm soát của ta [Khổ].
Sau đây là phần thực hành căn cứ trên sự vận hành của
ngũ uẩn [xem chương ngũ uẩn]:
SẮC-THỨC-TƯỞNG-THỌ-HÀNH
Vì
không hiểu biết về các định luật nên giá trị mà ta thẩm định cho mọi thứ
cũng bị sai lầm. Những giá trị không trung trực này được ghi nhận kèm
theo các sự kiện trong ‘hồ sơ’, và khi được TƯỞNG lôi ra chúng sẽ kích
động những cảm THỌ sướng-khổ, rồi thúc đẩy ta khởi tâm Tham-Sân-Si và
tạo nghiệp ở HÀNH.
Việc
tu tập cũng không khác gì dọn cái nhà kho, ta phải làm việc:
1)
Thải bỏ đồ ra ngoài (sửa đổi, tẩy xóa giá trị trong hồ sơ ở giai
đoạn THỨC và TƯỞNG), đồng thời
2)
Ngăn chặn không mang thêm đồ vào (không để Tham-Sân-Si sinh khởi
ở giai đoạn HÀNH). THỌ đóng vai trọ rất quan trọng (Thọ được nhắc đến
trong ngũ uẩn, thập nhị nhân-duyên, Tứ-Niệm-Xứ), nó là dấu hiệu chỉ cho
ta biết hồ sơ vẫn còn những giá trị gì, và nếu nhận biết nó kịp thời thì
ta có thể tự kiềm chế không để bị đẩy qua giai đoạn HÀNH. Dừng lại trước
giai đoạn HÀNH rất cần thiết, vì như vậy, ngoài việc ngăn chặn không gây
tạo thêm nghiệp, những tâm Tham-Sân-Si cũng sẽ không có cơ hội để tăng
trưởng được; những khuynh hướng như buồn-vui-giận-ghét, v.v…sẽ tăng
trưởng mỗi khi được lập lại, cũng giống như vết hằn của con đường mòn sẽ
càng sâu đậm hơn sau mỗi lần đi qua.
Chuyển tâm cũng là Tu-Tâm – nghĩa là sửa đổi tâm, mà sửa đổi tận gốc rễ
là sửa đổi hoặc xóa tẩy giá trị trong hồ sơ, và như vậy sẽ không có gì
để bám chấp, để phân biệt. Khi Tưởng lôi hồ sơ ra mà không có giá trị
đính kèm- hoặc giá trị được hiểu là mang tánh-Không, đã bị vô hiệu hóa
bởi tánh-Không – thì Thọ không sinh khởi, Thọ không sinh khởi thì Hành
(Tham-Sân-Si) không sinh khởi, Hành không sinh khởi thì không tạo
nghiệp.
1)
Sau đây là giai đoạn Hành, ngăn chặn không mang thêm đồ vào:
SẮC – THỨC – TƯỞNG – THỌ - HÀNH
Sau khi một sự việc gì xảy ra (không nhất thiết là
xảy đến cho cá nhân ta mà có thể là những sự việc và hiện tượng ta chứng
kiến về những người và vật xung quanh, thí dụ như mục kích hai kẻ giận
dữ cãi nhau, hoặc nghe nói chiến tranh bùng nỗ ở xứ nào đó, hoặc có kẻ
vui mừng vì được thăng quan tiến chức, hoạc lụt lội, chết đói, .v.v…),
cảm Thọ sưởng khổ khởi lên cho ta biết hồ sơ vẫn mang giá trị tốt xấu,
nếu có bắt kịp và dừng lại được ở Thọ, hoặc khi đang ở HÀNH, hoặc khi đã
xong giai đoạn HÀNH, ngay lập tức ta đều quán sát sự việc theo các định
luật như trên. Trường hợp không thuận tiện ngay lúc đó, ta quán biến cố
này vào dịp khác, chẳng hạn như vào giờ thiền buổi tối.
2)
Sau đây là giai đoạn Thọ, vừa ngăn chặn vừa sửa đổi:
SẮC – THỨC – TƯỞNG – THỌ - HÀNH
Khi có cảm THỌ [dễ chịu (lạc), khó chịu (khổ) hoặc vô
ký (không sướng không khổ)] sinh khởi – tức là vẫn có giá trị tốt xấu,
hay dở trong hồ sơ (Tưởng) – ta lại nghiệm xét sự vật theo định luật; và
khi đi vào chiều sâu (thường là qua các pháp thiền quán), ta sẽ nhận
thấy chỉ có tinh thuần những cảm giác sướng khổ đến rồi đi do duyên
khởi, chúng chẳng là sở hữu của ai, và chỉ có cái tâm đang ghi nhận
chúng chứ cũng chẳng có ai đang kinh nghiệm chúng cả. Dừng lại được ở
đây ta sẽ không bị đẩy qua Hành.
3)
Sau đây là giai đoạn Tưởng, sửa đổi giá trị, thải bỏ đồ ra:
SẮC – THỨC – TƯỞNG – THỌ - HÀNH
Tùy ở các cấp độ thiền định thô thiển hoặc sâu xa,
cách thức sửa đổi giá trị trong hồ sơ là ta thường xuyên quán sác các
định luật trong mọi sinh hoạt hàng ngày, nhất là mỗi khi có sự việc gì
xảy đến ta hoặc kẻ khác, và trong giờ thiền tọa (ngồi thiền).
Các cách thức sau đây trong pháp thiền Tứ-Niệm-Xứ
cũng giúp ta đánh giá lại mọi thứ:
a)
Quán Thân:
Thấy rõ tất cả hiện tượng vật chất kể cả
thân xác đều do TỨ-ĐẠI [bốn yếu tố căn bản] cấu thành [duyên khởi], bởi
vậy chúng không có gì đáng yêu quý [chỉ có giá trị tương đối] và chẳng
có ai làm chủ chúng cả [tánh-Không].
Chỉ có ý định (tâm) phát khởi rồi theo
sau là những tư thế đi-đứng-nằm-ngồi (thân), tức là chỉ có những hiện
tượng thân-tâm diễn tiến chứ không có ai đang đi-đứng-nằm-ngồi, bởi vậy
không có lý do gì để bám chấp vào thân xác này.
Do 32 thành phần (tóc, thịt, mỡ, xương,
tim, gan, v.v…) dơ bẩn tạo nên cơ thể, bởi vậy cơ thể này và cơ thể khác
đều không có gì đẹp đẽ đáng để bám chấp, yêu quý.
Chín giai đoạn tan rã của tử thi cho thấy
cái thân xác dơ bẩn tạm bợ này rồi sẽ đến lúc hủy hoại, nó chẳng đáng
yêu quý và chẳng có ai là chủ nhân của nó cả.
// Ở trình độ hiện thời ta cần nhìn thân xác là dơ
bẩn (bất tịnh) để đối trị lại với giá trị đẹp đẽ ta gán đặt cho nó. Cách
thức này tạm thời dùng để trị tâm bám chấp, vì chẳng có gì thật sự dơ
sạch – dơ sạch cũng chỉ là tên gọi, tánh của chúng là Không. //
b)
Quán Tâm:
Chỉ có hiện tượng tâm (vui, không vui,
giận, không giận, buồn ngủ, v.v….) sinh rồi diệt [vô-thường] do duyên
khởi [tánh không] chứ chẳng thật có ai chủ động đằng sau.
4)
Sau đây là giai đoạn THỨC, thải bỏ đồ:
SẮC – THỨC – TƯỞNG – THỌ - HÀNH
Ngay khi vừa nhận biết – THỨC- sự vật, chẳng hạn như
thấy vật gì hoặc nghe âm thanh gì, hoặc ngửi, nêm, chạm, ta ghi nhận là
chỉ có sự thấy (“thấy, thấy, thấy, …”) hoặc chỉ có sự nghe (“nghe, nghe,
nghe,…”). Như đức Phật đã từng dạy một vị bà la môn, “Trong cái thấy
chỉ có sự thấy, trong cái nghe chỉ có sự nghe, trong…”. Ngăn chặn
tại THỨC tức là “thu thúc lục căn”, ta không đeo đuổi đối tượng qua
TƯỞNG, THỌ, HÀNH để rồi sinh khởi vọng tưởng. Theo phương pháp này [pháp
Thiền của Tứ-Niệm-Xứ] hành giả dừng lại ở ngay THỨC để nhận biết là
không thật có ai đang nghe, thấy, …mà chỉ có đối tượng – hình tướng, âm
thanh, v.v…hoặc sự thấy, sự nghe, .v.v…và cái tâm đang ghi nhận đối
tượng, với mục đích là thấy rõ cả đối tượng lẫn cái tâm ghi nhận đều là
hiện tượng do duyên khởi, chúng không thật có.
Lưu
ý: Một tên gọi khác thường được dùng thay cho thiền Quán (chánh-Niệm) là
‘tỉnh thức’. Theo nghĩa tỉnh thức, hành giả thường được hướng dẫn là
trong mọi giây phút phải nhận biết những hành vi cử chỉ của mình, thí dụ
như đi thì biết là mình đang đi, rửa bát biết mình đang rửa bát, gánh
nước bổ củi biết mình đang gánh nước bổ củi, v.v… tức là hành giả sống
trong giây phút hiện tại, không tưởng về quá khứ mà cũng không nghĩ đến
tương lai. Như vậy, phiền não không bị quậy khởi và vọng tưởng không bị
phát sinh, do đó hành giả được hưởng giây phút an lạc trong hiện tại,
đồng thời không gây tạo thêm nghiệp dữ. Nhưng nếu pháp tỉnh thức này
dừng lại ở đây và chỉ có vậy thì vẫn chưa đúng nghĩa của pháp
thiền-quán. Tỉnh thức theo lối này chỉ là sự chú ý hoặc chú tâm vào công
việc làm của mình, nó không tận diệt được gốc rễ của Tham-Sân-Si, không
phát triển được Từ-Bi-Hỷ-Xả và không dẫn đến trí-huệ giải thoát. Một kẻ
trộm đang lẻn vào nhà một nạn nhân nào đó thì chắc chắn là hắn dang sống
trong hiện tại, sự tỉnh thức đều hiện diện trong mỗi bước chân của hắn
(sợ rằng sự tỉnh thức của ta trong các buổi thiền tập cũng không tinh
thuần bằng), nhưng dĩ nhiên là hắn sẽ chẳng phát huy được trí huệ gì cả
và sự ‘tỉnh thức’ này sẽ chẳng giúp hắn thánh thiện gì hơn.
[Những pháp thiền Đại Thừa và Kim Cang Thừa sẽ được bàn trong tập hai –
Thảo Luận].
H.
KẾT LUẬN
1)
TU LÀ GÌ?
Tu là sửa. Sửa, hay chuyển hóa, cái tâm
từ nẻo tà qua đường chính. Việc sửa đổi đòi hỏi sự hiểu
biết về định luật Ta-bà, cách thức hoạt động của tâm và phương pháp tu
tập.
2)
TU NHƯ THẾ NÀO? PHƯƠNG PHÁP?
Bát Chánh Đạo (Giới-Định-Huệ).
3)
TẠI SAO TU?
Nếu tu tập đúng theo quy tắc chánh-Niệm
thì nhất cử nhất động, trong tất cả các hành vi thân-khẩu-ý, ta đều phải
để ý xem chú ý ở đằng sau là gì. Nói cách khác, ta phải kiểm soát những
hành động của ta do động cơ nào – thanh tịnh hay không thanh tịnh – thúc
đẩy. Có những kẻ đi học chỉ để có được công ăn việc làm tốt đẹp, đời
sống thoải mái. Cũng có những người khác đi học với mục đích giúp ích
cộng đồng, xã hội sau này. Cùng một việc làm nhưng khác động cơ. Vậy
động cơ [motivation] thúc đẩy ta tu hành là gì? Nếu tu hành chỉ để thoát
thân cho riêng ta thì cũng là điều tốt rồi, tuy nhiên tất cả chúng sinh
đều có sự liên hệ mật thiết với nhau nên động cơ tu hành của ta cần phải
rộng lớn hơn nữa.
Ta tu với mục đích là tự giải thoát và để
hướng dẫn cho người đi sau.
Nói chung, muốn thành công trong công
việc gì ta cần phải có ý định kiên quyết. Và trên đường đi, để tránh
trường hợp bị lung lạc thối thất giữa chừng, nhất là con đường tu hành,
con đường dài gần như vô tận, ta buộc mình vào sự quyết tâm hay nguyện
vọng này bằng cách phát nguyện. Như đứa bé tự bảo là nhất định sẽ trở
thành nhà bác học thì nó không dễ gì bị chuyện khác lôi cuốn, và nhờ chí
nguyện mạnh mẽ đó, sự khó nhọc của việc học đã nhẹ đi được phần nào rồi.
Nói riêng về việc tu hành, ta phát khởi ước nguyện cao thượng nhất là
đạt đến vị Phật để được lợi ích tối đa cho mình và cho chúng sinh.
Phát nguyện tu hành đát đến quả vị Phật
để cứu giúp chúng sinh tức là phát bồ đề tâm, tức là ta đi con đường
bồ-tát-đạo [xem chương Bồ Tát]. Bồ Đề Tâm được đặt trên cơ sở
Từ-Bi-Hỷ-Xả (bốn vô lượng tâm), vì nếu không có hoặc không chịu đạo
luyện bốn loại tâm ‘vô lượng’ này thì việc phát bồ-đề-tâm chỉ có tính
cách trên lời nói chứ không có thực chất. Một cách tổng quát, ta đã biết
cách phát triển Từ-Bi-Hỷ-Xả là quán chiếu Khổ và các định luật Ta-bà
(ngoài ra, cũng có các pháp quán đặc thù của Nguyên Thủy và Mật Tông Tây
Tạng).
Nhìn từ một khía cạnh thì tâm xả lại là
nền tảng cho ba tâm kia, từ-bi-và hỷ. Xả nghĩa là buông bỏ, đối nghịch
với ‘chấp’ – nắm, bám víu. Và tâm xả cũng có nghĩa là tâm bình đẳng, vì
nếu tâm còn phân biệt tốt xấu, thân sơ, v.v…ta sẽ thiên vị và vướng vào
chấp trước. Bởi vậy, nếu không có tâm xả thì khó lòng phát triển được
các tâm từ-bi-và hỷ. Xả lại phải dựa vào trí huệ, loại trí huệ nhìn thấy
điểm tương đồng (‘mẫu số chung’ [common denominator] của chúng sinh –
tất cả đều tìm cầu hạnh phúc và xa lánh khổ đau – và của vạn pháp – tánh
Không. ‘Bình Đẳng’ ở đây là nói theo hai nghĩa này.
4)
LÀM THẾ NÀO để luôn luôn đi đúng đường?
Phải trao dồi Chánh-Kiến.
5)
LÀM THẾ NÀO để tương lai, các kiếp sau này vẫn được tiếp tục con
đường tu hành?
Thực hành Sáu-Ba-La-Mật [xem chương Bồ
Tát] sẽ giúp ta phát triển trí huệ và tạo phước, như vậy sau này ta đỡ
phải bận tâm về phương diện vật chất, đồng thời dễ gặp được hoàn cảnh
thuận lợi, chân sư và các bậc thiện tri thức (những người cũng đi trên
con đường đạo) hướng dẫn. Điều này dễ hiểu, đức Phật có giảng, khi một
cành cây bị cắt xuống, nếu đang chĩa về hướng nào thì nó sẽ rớt về hướng
đó; bởi vậy, trong kiếp này nếu triệt để dồn hết tâm trí hướng về đạo
thì nó sẽ là động lực dẫn dắt ta tiếp tục trên con đường đạo trong những
kiếp sau.
6)
HÃY VẮN TẮT và ĐƠN GIẢN nói lại những điểm chính yếu về THIỀN
TẬP cho người sơ cơ.
Chương Tu Tập ở trên đã đề ra một cách sơ
lược nguyên tắc về cách thức tu tập dựa trên trên những bối cảnh đã được
bàn qua ở các chương trước. Các pháp thiền tập, ngoại trừ một số pháp
đặc biệt, tuy có sai biệt về phần hình thức (vì cá tính khác nhau của
chúng sinh), nhưng nói chung chúng đều phải thực hành theo đúng nguyên
tắc. Tuy nhiên chúng ta gặp phải vấn đề là pháp môn tu tập thì quá
nhiều, trong khi phần đông sơ cơ như chúng ta lại không có Thày hướng
dẫn trực tiếp. Do đó chúng ta rất dễ bị hoang mang bối rối.
Để đơn giản hóa [simplify] vấn đề, bước
đầu tu tập(kể cả về đường dài) chúng ta cần nên tập trung vào ba điểm
sau đây:
a)
Thay đổi quan niệm, lối nhìn (Chánh-Kiến)
b)
Sám hối:
Quay trở lại câu hỏi là làm sao để biết
được những nghiệp xấu ác ta đã từng gây tạo trong những kiếp quá khứ? Và
ta phải hóa giải như thế nào?
Xét theo luật nhân-quả, những tai
họa, rủi ro, hoặc những hoàn cảnh bất hạnh như nghèo hèn, phải sống ở
vùng không an ninh, v.v…mà ta gặp phải chính la những dấu hiệu cho biết
ta đã từng là kẻ keo kiệt, kêu mạn, gây bất an cho kẻ khác, v.v…Biết
vậy, thay vì than thân trách phận, ta sám hối. Và khi bị những kẻ gian
ác hãm hại, ta phải hiểu là họ hại ta như thế nào thì ta đã từng hại kẻ
khác đúng như thế. Nhờ họ mà ta thấy được tội ác ta đã gây tạo trong quá
khứ. Bởi thế, thay vì căm hận và nguyền rủa kẻ ác, hoặc tìm cách báo
thù, ta sám hối.
Nghiệm xét trên phương diện tái-sinh,
với chuỗi sinh tử trải qua vô lượng [innumerable] kiếp, có lẽ ta chưa
từng bỏ qua một hành động sai quấy nào. [Như trường hợp Ngài Mục Kiền
Liên, một bậc A-la-hán, đã từng giết bố mẹ trong một kiếp trước]. Bởi
vậy, những gian trá, đồi bại [corruption], tội ác, v.v…mà ta chứng kiến
hàng ngày không phải là để ta lên án, mà chúng đều là những nhắc nhở để
ta sám hối.
Sám hối nghĩa là:
a) nhìn nhận lỗi lầm mình đã phạm.
b) thật tâm ăn năn hối lỗi.
c) quyết tâm không tái phạm lỗi lầm này
nữa [Kinh Nhật Tụng có chỉ cách thức sám hối].
c)
Đem Đạo vào Đời:
Nghĩa là áp dụng Phật Pháp
vào đời sống. Trong ngày ta cố gắng tỉnh thức [be mindful of] để kiểm
soát các hành động (Thân), lời nói (Ngữ) và tư tưởng (Ý) có phải do động
cơ Tham-Sân-Si thúc đẩy hay không? Đời sống luôn luôn biến động và rất
phức tạp, nên có thể việc nhận bắt được tâm Tham-Sân-Si trong các sinh
hoạt hàng ngày không phải là điều dễ dàng. Tuy nhiên, đến cuối ngày ta
có thể bỏ ra chút ít thời giờ kiểm điểm lại các hành vi thân-ngữ-ý trong
ngày và tìm cho ra động cơ Tham-Sân-Si đằng sau; rồi xét xem tâm
Tham-Sân-Si sinh khởi vì ta đang bám vào những giá trị gì, có những mong
đợi gì ở người khác, v.v… để thấy rõ cái nhìn và những giá trị sai lầm
của ta.
Tham và Sân là hai tâm trạng đối lập nhau
được sinh khởi bởi những giá trị có tính cách đối-đãi như hay / dở, tốt
/ xấu, v.v…do ta định sẵn. Nếu ta kiên trì thực hành theo ba điểm trình
bày ở trên thì tâm Tham-Sân-Si sẽ phải giảm trừ dần và khoảng cách giữa
giá trị tốt và xấu, hay và dở, v.v… sẽ phải thu hẹp lại. Tu tập như thế
tức là Thiền Quán và đấy cũng là bước đầu để ta vượt ra ngoài vòng ảnh
hưởng của đối-đãi.