Thursday, December 17, 2015

Khảo về Duy thức học và tâm lý học hiện đại



Duy thức học này mình đã tìm hiểu rất lâu rồi , khi nghe trên băng giảng khg biết sao mình khg thể nào hiểu nổi ( nghĩa là chỉ hiểu chút chút thôi ) , thật ra nếu nghiên cứu sâu về cái này mình thấy củng rất có lợi trong cuộc  sống đời thường này , cái này là phân tích về tâm thức của mình rất rõ , nhất là cái thức thứ 8 gọi là A Lại Da Thức , thức này như là 1 chổ chứa tất cả những kiếp đi tái sanh luân hồi gặp ai và gặp những cảnh vật nào , khi hiểu cái này xong thì nếu đi ra ngoài đường lỡ có ai tự nhiên chạy lại wính mình phù mỏ thì tự biết là A Lại Da Thức của người đó nhớ lại kiếp trước là mình đã từng wính người ta :) Just why I really like nghiên cứu về môn duy thức học này .
Tổng quan về Tâm lý học
Tâm lý học là khoa học khảo cứu về tâm hồn con người. Tâm hồn, trước hết là những sự kiện tâm lý như đam mê, cảm xúc, ký ức v.v… những sự kiện này không phải là những sự kiện cô lập mà là những sự kiện diễn tiến trong một cơ thể, trong sự tương quan với thân xác của một con người, và con người ấy đang sinh hoạt trong một tập thể, một xã hội.
Do tâm hồn con người vốn phức tạp nên trong quá trình tìm hiểu, Tâm lý học đã để lại nhiều trường phái có những quan điểm khác nhau về đối tượng và về phương pháp tâm lý học.
1/ Tâm lý học cổ điển, còn gọi là Tâm lý học ngôi thứ nhất, quan niệm rằng tâm lý con người chỉ gồm những sự kiện tâm linh ở bên trong. Để tìm hiểu những sự kiện “hoàn toàn ở bên trong”, ngành Tâm lý học này vận dụng phương pháp Tâm lý học ngôi thứ nhất, tức nội quan. Ở đây chủ thể quan sát chính nó, chủ thể quan sát và người được quan sát là một, nên gọi là ngôi thứ nhất.
2/ Tâm lý học ngôi thứ ba, như trường hợp Tâm cử thuyết của Watson, chủ trương rằng bên trong không có gì cả, không có sự kiện tâm lý nào ở bên trong cả. Tất cả tâm lý con người chỉ là những phản ứng, những cử chỉ tức là những yếu tố sinh lý hiện ra bên ngoài. Với quan điểm như thế, ngành Tâm lý học này vận dụng một phương pháp riêng biệt, gọi là phương pháp Tâm lý học ngôi thứ ba. Ở đây đối tượng được quan sát là “nó”, một người nào đó.
3/ Tâm lý học ngôi thứ hai, lại quan tâm đặc biệt đến mối tương quan giữa tâm lý của con người với tha nhân, tương quan giữa tâm lý cá nhân cụ thể trong hiện tại với dĩ vãng và ước vọng tương lai của chính nó. Theo các nhà tâm lý học của phái này, phương pháp tâm lý học phải là phương pháp Tâm lý học ngôi thứ hai. Ở đây, đối tượng được quan sát là “anh”. Tìm hiểu tâm lý của đối tượng bằng sự cảm thông.
Rút tỉa từ ba ngành Tâm lý học nói trên, hiện nay phần lớn các nhà tâm lý học cho rằng đối tượng Tâm lý học không chỉ là những sự kiện tâm lý ở bên trong, cũng không chỉ là những sự kiện tâm lý ở bên ngoài. Nhiệm vụ của Tâm lý học là tìm hiểu những đặc tính của sự kiện tâm lý, mối tương quan giữa tâm lý và sinh lý, mối tương quan giữa tâm lý và xã hội.
Thực trạng Tâm lý học hiện đại
Quá trình phát triển của Tâm lý học đã chỉ ra rằng, mỗi ngành trong ba ngành tâm lý học ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai và ngôi thứ ba đều có những ưu điểm và khuyết điểm riêng. Lạ thay, ưu điểm của ngành này thường là khuyết điểm của ngành kia và ngược lại. Điều này đã dẫn đến nhận định sau: Phải chăng để tìm hiểu một cách đầy đủ tâm hồn con người, như một tinh thần nhập thể và nhập thế, cần thiết phải vận dụng một cách hài hòa cả ba phương pháp nói trên. Phải chăng sự bổ túc lẫn nhau của ba ngành Tâm lý học khác nhau sẽ nói lên sự thống nhất sâu xa của tâm lý học. Trên tinh thần ấy, hiện nay trong Tâm lý học, vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, nhiều lý thuyết có chủ trương khác nhau khi nói về sự tương quan giữa tâm lý và sinh lý, sự tương quan giữa tâm lý và xã hội, cũng như khi nói về các đặc tính của những sự kiện tâm lý. Điều này đã dẫn đến việc có nhiều diễn giải khác nhau về ý nghĩa, bản chất, nguồn gốc, vị trí và vai trò của sự kiện tâm lý.
Sự xuất hiện của Tâm phân học Freud đã làm cho Tâm lý học vốn đã phức tạp càng thêm phức tạp. Trước Freud, các nhà tâm lý học thường đồng hóa đời sống tâm linh với đời sống ý thức. Họ nghĩ rằng các hiện tượng tâm linh đều ý thức. Freud đã chứng minh rằng tâm hồn con người không chỉ có phần ý thức mà còn có phần vô thức. Phần vô thức này chi phối ý thức một cách mạnh mẽ sâu sắc. Tâm lý học sẽ không đầy đủ nếu bỏ qua phần vô thức này. Đến đây chúng ta có thể nói về thực trạng của Tâm lý học như sau: Tâm lý học hiện đại đã có sự hiểu biết rộng về tâm hồn con người, những kiến thức này được vận dụng vào trong nhiều lãnh vực như giáo dục, xã hội, điều trị các tâm bệnh… Mặc dù đã có được thành tựu to lớn ấy, nhưng trên mặt lý thuyết mà nói, Tâm lý học vẫn ở trong tình trạng hỗn mang. Tâm lý học vẫn chưa có được một lý thuyết lý giải một cách nhất quán các hiện tượng tâm lý. Vẫn còn nhiều hiện tượng tâm lý chưa giải thích được như nguồn gốc của bản năng, nguồn gốc của các loại tính tình, v.v...  
Phật giáo với Tâm lý học hiện đại
Đến đây có một câu hỏi cần được nêu ra: Có hay không có một lý thuyết Tâm lý học có thể lý giải tất cả mọi hiện tượng tâm lý một cách nhất quán? Câu trả là có và đã có. Đó chính là môn Duy thức học trong giáo lý nhà Phật.
Duy thức học là môn học rất rộng, không chỉ gói gọn trong phạm vi của Tâm lý học. Ở góc độ của Tâm lý học, Duy thức học có khả năng cung cấp cho chúng ta một cái nhìn nhất quán về mọi hiện tượng tâm lý. Để vấn đề trở nên đơn giản và dễ hiểu, bài viết này chỉ nêu ra một số điểm cơ bản của Duy thức học, lấy đó làm căn cứ để chỉ ra những khiếm khuyết của Tâm lý học hiện đại, giải thích tại sao Tâm lý học vẫn chưa có được một lý thuyết lý giải mọi hiện tượng tâm lý một cách nhất quán. Việc vận dụng Duy thức học để có được một cái nhìn nhất quán về các hiện tượng tâm lý sẽ được trình bày ở các bài viết sau.
Một số điểm cơ bản của Duy thức học
Tám thức: Duy thức học phân tích tâm thức con người nói riêng, tâm thức chúng sinh hữu tình nói chung, thành tám phần, gọi là tám thức. Đó là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, thứ thứ bảy, thức thứ tám. Từ nhãn thức đến ý thức, gọi là sáu thức ngoài, vì chúng ta dễ dàng nhận ra chúng. Thức thứ bảy và thức thứ tám hoạt động âm thầm sâu kín khó nhận ra nên gọi là hai thức trong. Như vậy thức thứ bảy và thức thứ tám tương ứng với phần vô thức của Phân tâm học. Sự vận hành của các thức đã làm nên các sự kiện tâm lý. Như vậy, muốn giải thích được các sự kiện tâm lý, chúng ta phải khảo sát cả tám thức.
Trước đây, do đồng hóa đời sống tâm linh với đời sống ý thức, nên Tâm lý học đồng hóa việc tìm hiểu tâm linh với việc tìm hiểu ý thức. Hiện nay, dù đã quan tâm đến phần vô thức, nhưng do những hiểu biết về vô thức còn quá ít, quá đơn giản, nên các nhà tâm lý học vẫn chưa thấy được một cách đầy đủ vai trò của vô thức trong đời sống tâm linh, dẫn đến việc cho rằng vô thức và ý thức là hai mặt khác nhau của tâm thức. Đây là một trong những nhược điểm của Tâm lý học hiện đại. Nếu thấy được đầy đủ vai trò của vô thức mới có thể thấy được sự hoạt động thống nhất của các thức. Sự hoạt động thống nhất này chỉ được nhận biết một cách đầy đủ khi phân tích tâm thức con người thành tám thức, không phải chỉ có hai thức như quan điểm của Tâm lý học hiện đại.
Lý nhân duyên : Theo Duy thức học, sự vận hành của tám thức chịu sự chi phối của lý Nhân duyên, cụ thể là lý Tứ duyên. Như vậy, các sự kiện tâm lý đều chịu sự chi phối của lý Nhân duyên. Các hiện tượng tâm lý là các hiện tượng nhân duyên.
Nhiều nhà tâm lý học muốn xây dựng Tâm lý học thành một lý thuyết khoa học đúng nghĩa. Đó là một lý thuyết vừa được xây dựng trên lý Nhân quả vừa mang tính nhất quán. Nhưng một lý thuyết như vậy khi vận dụng để lý giải những hiện tượng nhân duyên lại chỉ có một phạm vi tác dụng hạn chế. Điều này giải thích tại sao các lý thuyết Tâm lý học hiện có, mỗi lý thuyết đều có những ưu điểm và khuyết điểm riêng. Ưu điểm là khi được vận dụng trong phạm vi tác dụng của nó, chúng ta có được những lý giải phù hợp với hiện thực. Khuyết điểm là với những hiện tượng nhân duyên nằm ngoài phạm vi tác dụng, lý thuyết ấy không giải thích được. Trên tinh thần của lý Nhân quả, chúng ta chỉ thấy được các lý thuyết tâm lý học sai khác. Với tinh thần của lý Nhân duyên, tất cả các lý thuyết Tâm lý học hiện có sẽ được thu nhiếp trong một cái nhìn nhất quán, phân định được phạm vi tác dụng của từng lý thuyết. Chỉ với lý Nhân duyên, tâm lý học mới có được cái nhìn nhất quán về mọi hiện tượng tâm lý.
Nghiệp : Các hiện tượng tâm lý thì luôn thay đổi, tâm thức của con người cũng luôn chuyển biến, vậy năng lực nào đã làm nên sự vận hành đó của tâm thức? Đối với Duy thức học, năng lực ấy xuất phát từ nghiệp, nên gọi là nghiệp lực. Có nhiều loại nghiệp khác nhau nên cũng có nhiều dạng nghiệp lực. Các nghiệp lực ấy tiềm chứa trong thức thứ tám, chờ khi đủ duyên mới phát động. Việc Freud cho rằng vô thức khi mới sinh chỉ chứa đựng năng lực tính dục (libido) là chưa đủ. Với cái nhìn của Duy thức, trong vô thức, lúc mới sinh còn tiềm chứa nhiều loại năng lực khác nữa. Điều này giải thích tại sao Alfred Adler, Karl Gustav Jung là những học trò xuất sắc của Freud lại không đồng ý với Freud về nguồn gốc của năng lực tinh thần. Từ đó đã mở ra những hướng Tâm lý học khác. Dù vậy cảAdler và Jung đều chưa thấy hết các năng lực tinh thần tiềm ẩn trong vô thức. Chỉ với nghiệp, chúng ta mới thấy được đầy đủ các loại năng lực khác nhau được tiềm chứa trong vô thức. Nghiệp mới thực sự là nguồn gốc của năng lực tinh thần.
Các điều vừa trình bày ở trên lý giải tại sao Tâm lý học hiện đại chưa thể giải thích được mọi hiện tượng tâm lý, chưa thể có được một lý thuyết tâm lý học có tính nhất quán. Về phần bạn đọc, các bạn có thể nêu ra các thắc mắc như tại sao là tám thức mà không chỉ là hai thức? Lý nhân duyên là gì, làm sao có thể kiểm chứng trong thực tế? Nghiệp là gì, do đâu mà có, tại sao nó có năng lực chi phối thân tâm của chúng ta? v.v… Các vấn đề này sẽ được bàn đến trong các bài viết sau.
Chánh Tấn Tuệ 

Khảo về Tám thức và tâm lý học hiện đại - Thức thứ tám


Duy thức học này mình đã tìm hiểu rất lâu rồi , khi nghe trên băng giảng khg biết sao mình khg thể nào hiểu nổi ( nghĩa là chỉ hiểu chút chút thôi ) , thật ra nếu nghiên cứu sâu về cái này mình thấy củng rất có lợi trong cuộc  sống đời thường này , cái này là phân tích về tâm thức của mình rất rõ , nhất là cái thức thứ 8 gọi là A Lại Da Thức , thức này như là 1 chổ chứa tất cả những kiếp đi tái sanh luân hồi gặp ai và gặp những cảnh vật nào , khi hiểu cái này xong thì nếu đi ra ngoài đường lỡ có ai tự nhiên chạy lại wính mình phù mỏ thì tự biết là A Lại Da Thức của người đó nhớ lại kiếp trước là mình đã từng wính người ta :) Just why I really like nghiên cứu về môn duy thức học này .

Trong phần thức thứ bảy ở số báo NSGN 231, đã nói sơ về thức thứ tám. Kỳ này nói chính về thức thứ tám.
Thức thứ tám có nhiều công năng, nhiều nghĩa sai khác, nên Duy thức học gọi nó bằng nhiều tên khác nhau. Có khi gọi làtâm, vì thức này là chỗ chứa nhóm chúng tử do các pháp huân tập vào. Thức này cũng là nơi mà các chủng tử phát khởi hiện hành. Có khi gọi là thức A-lại-da, vì thức này là nơi tập hợp các pháp tạp nhiễm, giữ gìn không để mất đi, vì là chỗ để thức thứ bảy chấp làm nội ngã. Gọi là A-đà-na, vì thức này có công năng giữ gìn chủng tử và thân thể chúng sinh không để tan hoại. Có khi gọi là bản thức, vì bảy thức trước phải y cứ vào đây mà khởi hiện hành. Nó là sở y của bảy thức trước v.v…
Để không làm phức tạp vấn đề, bài viết này chỉ lược nêu vài nghĩa của thức thứ tám.
Thức thứ tám có tên là tâm, vì nó là nơi tập hợp và phát khởi chủng tử của các pháp. Chúng ta sẽ tìm hiểu về ý nghĩa tập hợp và phát khởi chủng tử của các pháp.
Nghĩa tập hợp chủng tử
Trong cuộc sống, mỗi ngày chúng ta tiếp xúc với nhiều người, nhiều sự vật và nhiều sự kiện khác nhau. Nói theo ngôn ngữ Duy thức học, mỗi ngày chúng ta tiếp xúc với nhiều pháp khác nhau. Các pháp này được tiền ngũ thức và ý thức ghi nhận rồi khởi lên các so đo, suy lường, toan tính, quyết định làm việc này hay việc kia, thâu nhận các khổ lạc, phát sinh sự yêu, ghét… Tất cả các việc trên đều được đưa vào thức thứ tám lưu trữ. Mặc dù tất cả đều được lưu trữ, nhưng chỉ những sự kiện nào huân tập thành chủng tử mới được lưu trữ lâu dài. Các sự kiện khác chỉ được lưu trữ trong một thời gian rồi mất đi.
Thí dụ : Có những người không có gì đặc biệt đối với ta. Ta chỉ gặp họ một đôi lần rồi thôi. Sau đó một thời gian, ta sẽ quên họ. Và nếu có gặp lại cũng không nhận ra. Có những người chúng ta thường gặp, có sự quan tâm, trao đổi nhiều vấn đề với nhau. Sau đó dù không còn gặp lại, thỉnh thoảng hình ảnh của họ vẫn xuất hiện trong ý thức của ta. Trải qua thời gian dài, thậm chí đến khi không còn nhớ nghĩ về họ, nhưng nếu gặp lại, chúng ta vẫn có khả năng nhận biết họ. Ở đây, sự gặp gỡ nhiều lần (tập), sự quan tâm tương tác với nhau chính là điều kiện huân tập để hình ảnh người ấy biến thành chủng tử, lưu trữ lâu dài trong thức thứ tám.  
Nói một cách tổng quát, trong cuộc sống, việc tiếp xúc nhiều lần với một pháp nào chính là điều kiện huân tập để pháp ấy và các sự kiện liên quan đến pháp ấy biến thành chủng tử, lưu trữ lâu dài trong tâm. Trên mặt hành tác cũng vậy, công việc nào được chúng ta thực hiện nhiều lần thì hành vi ấy cũng được đưa vào thức thứ tám, lưu trữ dưới hình thức chủng tử. Tóm lại, thức thứ tám là nơi lưu trữ chủng tử của các pháp được huân tập. Đây là nghĩa tập hợp chủng tử các pháp của tâm.
* HỏiÝ thức cũng có khả năng lưu trữ các sự kiện quá khứ, đâu cần viện dẫn một thức thứ tám mơ hồ khó thấy khó hiểu?
- Đáp: Đúng là ý thức cũng có khả năng lưu trữ các sự kiện quá khứ nhưng chỉ trong một thời gian ngắn. Việc để cho pháp huân tập thành chủng tử rồi lưu trữ một cách lâu dài nằm ngoài khả năng của ý thức. Có nhiều lý do để chỉ ra rằng ý thức không có khả năng lưu trữ lâu dài. Ở đây lược nêu ba lý do:
1/ Nếu các sự kiện quá khứ được lưu trữ trong ý thức thì chúng ta phải thường ý thức được chúng. Trong thực tế, có nhiều sự kiện, đã lâu rồi chúng ta không còn nhớ nghĩ về chúng. Hôm nay đột nhiên lại hiện về trong ý thức. Khi không nhớ nghĩ về chúng, chúng ở đâu trongý thức?
2/ Có những sự kiện do có nhu cầu buộc chúng ta phải nhớ lại, dù rất cố gắng vẫn không sao nhớ được. Sau đó một thời gian, thậm chí khi không còn quan tâm, sự kiện ấy lại xuất hiện trong ý thức. Điều trên chỉ có thể lý giải rằng các sự kiện quá khứ phải được lưu trữ ở một thức khác, do thức này có cơ chế vận hành khác với ý thức, nên ý thức không có được sự chủ động trong vấn đề quên nhớ.
3/ Ý thức hoạt động có gián đoạn. Đó là những lúc ta chết giấc hoặc ngủ say. Nếu có sự lưu trữ thì khi ý thức ngừng hoạt động, các sự kiện được lưu trữ phải mất đi. Trên thực tế, chúng ta từng có lần chết giấc hoặc không ít lần ngủ say, những lúc đó ý thức hoàn toàn vắng mặt. Song khi về già, chúng ta vẫn có khả năng nhớ lại nhiều sự kiện thuộc thời niên thiếu. Điều đó chứng tỏ thức có khả năng lưu trữ lâu dài các sự kiện quá khứ phải hoạt động không ngừng nghỉ. Vậy phải là thức thứ tám không thể là ý thức.
Nghĩa phát khởi hiện hành chủng tử
Thông thường, các chủng tử ở trong trạng thái thùy miên, nghĩa là ngủ ngầm trong tâm. Lúc này, các chủng tử đồng như không. Khi đủ duyên, chủng tử mới sinh khởi làm nhân cho pháp xuất hiện trở lại nơi các thức. Đây là nghĩa phát khởi hiện hành chủng tử các pháp của tâm.
Thí dụ: Nhiều người khi về già, nhớ lại các sự kiện đã diễn ra vào lúc còn niên thiếu. Các sự kiện này đã không được nhớ nghĩ đến trong nhiều năm tháng, hôm nay đột nhiên tràn về. Rõ ràng trong bao năm tháng qua, các sự kiện này ngủ ngầm trong tâm, nhưng không mất đi, để nay có thể tái hiện trong ý thức. Hoặc trong cuộc sống, có nhiều sự kiện thuộc quá khứ, đã từ lâu chúng ta không hề nhớ nghĩ về chúng. Đột nhiên một ngày đẹp trời lại xuất hiện trong ý thức. Quá khứ vẫn ngủ yên trong tâm, chờ khi đủ duyên lại hiện hành nơi ý thức.    
Nghĩa huân tập
Như đã nói ở trên, chỉ những pháp nào có sự huân tập mới thành chủng tử. Vậy là huân tập gì? Huân là xông ướp. Như tấm vải sạch vốn không mùi, nếu ướp hương hoa lâu ngày, nó sẽ có mùi hương hoa. Tập là lặp đi lặp lại. Sự lặp đi lặp lại nhiều lần của nhận thức, tư tưởng, tình cảm, hành vi… của một người có tác động huân tập thành chủng tử trong thức thứ támcủa người ấy. Sự lặp đi lặp lại, nếu đi kèm với các trạng thái tâm lý thích hợp như sự ưa thích, sự tập trung v.v… sẽ mau thành chủng tử.
Học bài là một sự huân tập. Khi học bài, chúng ta phải đọc tới đọc lui bài học nhiều lần. Nếu ngồi học với tinh thần tự giác, có sự ham muốn tìm hiểu, có sự tập trung v.v… chúng ta sẽ mau thuộc bài. Nếu ngồi học với tinh thần chán ngán, vì bị ép buộc, học với thái độ lơ đểnh… chúng ta sẽ lâu thuộc bài. Ở trường hợp đầu, sau khi thuộc bài sẽ nhớ lâu và dễ dàng hơn khi cần nhớ lại. Ở trường hợp sau, dù đã thuộc bài nhưng dễ quên, vì trường hợp này chưa có được sự huân tập tốt. Tương tự, nếu chúng ta làm một công việc gì với sự ưa thích, sự tập trung, chúng ta sẽ mau thành thục công việc ấy. Trong trường hợp ngược lại, dù đã làm lâu, cũng khó làm giỏi công việc ấy.
Mối quan hệ giữa pháp được huân tập và pháp hiện hành
Sự huân tập của pháp làm xuất hiện chủng tử trong tâm. Ở đây pháp được huân tập là nhân, chủng tử là quả. Do có sự phát khởi của chủng tử mà pháp hiện hành nơi các thức. Ở đây chủng tử là nhân, pháp hiện hành là quả. Do nhân và quả luôn đồng loại hoặc đồng tính, nên pháp được huân tập và pháp hiện hành luôn đồng loại hoặc đồng tính. Nói một cách dễ hiểu, chúng ta huân vào tâm thứ gì về sau nó sẽ phát ra lại thứ đó.
Thí dụ: Nếu thường học toán, chúng ta sẽ có kiến thức về toán. Hiểu được toán học, giải được các bài toán. Các môn học khác cũng vậy. Nếu ngày nào cũng tập ngồi thiền, về sau ta sẽ thành người giỏi tọa thiền. Nếu hay hút thuốc, sẽ trở thành người ghiền thuốc. Nếu thường xuyên uống rượu sẽ trở thành bợm nhậu.
Nếu hay nhìn về người về vật với tâm vị tha, chúng ta sẽ trở thành người sống vì người khác. Nếu thường nhìn về người về vật với tâm vị kỷ, chúng ta sẽ trở thành người chỉ biết vì mình.
Nếu thường để tâm sân làm chủ, ta sẽ trở thành người hay sân. Nếu thường để tâm kiêu mạn làm chủ, ta trở thành người kiêu mạn.
Nếu hay nói nhiều, ta sẽ trở thành người nhiều chuyện…
Sự huân tập chủ động và huân tập bị động
Sự huân tập do ta quyết định thực hiện để đạt một mục tiêu nào đó, gọi là huân tập chủ động.
Thí dụ: Ta quyết định học đàn để trở thành người đàn giỏi, quyết định học toán để trở thành nhà toán học.
Trong cuộc sống, có nhiều sự kiện thường diễn ra trước mắt chúng ta, dù không có chủ định, tâm chúng ta vẫn chịu sự huân tập của các sự kiện đó. Đây là sự huân tập bị động.
Thí dụ: Bước ra đường là bảng quảng cáo thuốc đau đầu của công ty A đập vào mắt ta. Việc này diễn ra mỗi ngày. Lâu dần huân thành chủng tử. Thông thường chủng tử này ngủ yên trong tâm. Đến khi đủ duyên, như khi đau đầu, nó sẽ sinh khởi khiến chúng ta nhớ lại loại thuốc của công ty A. Kèm với cảm tưởng rằng, sản phẩm ấy là tốt nhất, là phù hợp với ta hơn cả. Điều này đóng vai trò rất lớn trong việc quyết định chọn mua loại thuốc để trị bệnh. Ở đây các nhà quảng cáo đã vận dụng tính dễ bị huân tập của tâm để hướng chúng ta đến với các sản phẩm của họ.
Trên thực tế, có sự huân tập chủ động, có sự huân tập bị động, có sự huân tập vừa chủ động vừa bị động, có sự huân tập tự nguyện hay huân tập do bị ép buộc. Điều đó đóng vai trò rất lớn trong việc hình thành tính cách tâm lý của con người.
Tính cá nhân của sự huân tập
Sự huân tập chỉ có tác dụng đối với chủ thể được huân tập, không có tác dụng với người khác.
Thí dụ : Anh A tập hút thuốc, về sau trở thành người ghiền thuốc. Anh B không tập hút thuốc thì không thành người ghiền thuốc. Cũng là bợm rượu như nhau, nhưng nếu A tập không uống rượu nữa (cai rượu) lâu dần A hết ghiền rượu. Nếu B không tập cai rượu và vẫn có đủ điều kiện để uống tiếp thì B không hết ghiền rượu.
Không chỉ với sự huân tập chủ động, sự huân tập bị động cũng mang tính cá nhân. Vì kết quả của sự huân tập không chỉ phụ thuộc vào số lần lặp đi lặp lại của pháp mà còn phụ thuộc vào trạng thái tâm lý của mỗi cá nhân khi có tập.
Sự huân tập bị động giải thích tại sao ở những vùng miền có những phong tục tập quán đặc thù, tâm lý những người ở đó có những điểm giống nhau (đồng nghiệp). Mặc dù vậy, do tính cá nhân của sự huân tập, nếu nhìn kỹ sẽ thấy tính cách tâm lý của mỗi người vẫn có những điểm riêng khác với người khác (biệt nghiệp). Do số lượng chủng tử trong thức thứ tám của mỗi người là rất lớn, nên trong thực tế, không thể tìm thấy hai người có tính cách tâm lý hoàn toàn giống nhau.
Huân sanh huân trưởng
 Việc huân tập để tạo ra chủng tử mới gọi là huân sanh. Việc huân tập để chủng tử sẵn có phát khởi hiện hành, gọi là huân trưởng. Vì thế, đối với các thiện nghiệp, luôn cần có sự huân tập để làm phát sinh chủng tử mới cũng như để giúp cho chủng tử sẵn có phát triển lớn mạnh.
Thí dụ : Để nhớ lại một điều nào đó, chúng ta cần tập trung nghĩ về điều ấy. Việc nghĩ tới nghĩ lui về điều muốn nhớ là cách để chủng tử thuộc điều ấy phát khởi hiện hành. Với chủng tử đang ở giai đoạn huân sanh sẽ khó phát khởi hiện hành hơn chủng tử sẵn có. Vì chuẩn tử đang ở giai đoạn huân sanh chưa đủ mạnh như chủng tử sẵn có.  
Thí dụ: Trước đây ta đã học anh văn và có một trình độ nhất định. Do không có nhu cầu sử dụng nên không học tiếp. Trải qua thời gian dài, vốn liếng anh văn dường như quên hết. Song do có nhu cầu trong hiện tại, ta học lại anh văn. Việc học bây giờ dễ dàng hơn nhiều so với lần học trước. Vì lúc này chủng tử anh văn đã sẵn có trong tâm. Chỉ cần huân trưởng là nó phát khởi hiện hành cho ta sử dụng.
Chủng tử mạnh, chủng tử yếu
Chủng tử gọi là yếu vì nó khó phát khởi hiện hành. Đây là chủng tử chưa có được sự huân tập đủ và thường xuyên.
Chủng tử gọi là mạnh vì nó dễ phát khởi hiện hành. Đây là chủng tử có sự huân tập thường xuyên trong thời gian dài. Chủng tử mạnh nếu để lâu không có sự huân tập tiếp sẽ trở nên yếu và khó phát khởi hiện hành. Cần có nhiều thời gian huân trưởng để nó phát khởi.
Thí dụ : Trước đây ta đã từng chơi đàn giỏi, do bỏ lâu nên hiện tại việc đánh đàn gặp nhiều khó khăn. Trước đây ta đã vận dụng anh văn một cách thành thạo. Do không sử dụng đã lâu, cũng không huân tập, nên hiện tại ta gặp khó khăn khi sử dụng anh văn trong việc giao tiếp hay dịch thuật.
 Quay trở lại vấn đế quên và nhớ của ý thứcÝ thức chỉ có sự chủ động trong vấn đề huân trưởng, nghĩa là chủ động quyết định nhớ lại một sự kiện nào đó và thực hiện việc nghĩ về sự kiện ấy để tạo ra sự huân trưởng cho chủng tử. Việc có nhớ được hay không, dễ nhớ hay khó nhớ còn phụ thuộc vào tình trạng mạnh yếu của chủng tử. Điều này giải thích tại sao ý thứckhông hoàn toàn có được sự chủ động trong vấn đề quên nhớ.
Chủng tử sẵn có, chủng tử mới sinh
Chủng tử sẵn có là chủng tử có sẵn khi sinh ra.
Chủng tử mới sinh là chủng tử mới được tập thành trong đời này.
Bất kỳ một người nào cũng được sinh ra với thức thứ tám chứa nhiều chủng tử sẵn có, nhờ những chủng tử này mà một đứa bé lúc mới sanh đã biết khóc, biết đói, biết tìm sự che chở ở người mẹ.
Do có sự sai khác về chủng loại của chủng tử, sự sai khác giữa chủng tử mạnh và chủng tử yếu, nên vô thức lúc mới sinh đã mang tính cá nhân cá biệt. Chính điều này đã làm cho những đứa trẻ dù được nuôi dạy trong môi trường giống nhau, chịu sự huân tập như nhau vẫn phát triển thành những tính cách tâm lý khác nhau.
Sự sai khác về chủng tử sẵn có sẽ giải thích tại sao con người lại có nhiều khuynh hướng khác nhau, như người hướng nội, người hướng ngoại, người có năng khiếu về toán, người có năng khiếu về văn, người thích làm giáo viên, người thích buôn bán, người dễ dạy, người khó dạy, người có khuynh hướng chạy theo đời sống dục lạc, người có khuynh hướng tu hành xa lìa các dục... Chủng tử sẵn có cũng giải thích vì sao có các hiện tượng đặc biệt như thần đồng.
Chủng tử sẵn có với Phân tâm học
Ai cũng sinh ra với thức thứ tám chứa nhiều chủng tử sẵn có. Những chủng tử này tiềm chứa nhiều sai biệt giữa người này với người khác. Lúc mới sinh ra, đứa bé chưa chịu nhiều sự huân tập đến từ bên ngoài, nhu cầu còn đơn giản, chỉ là nhu cầu sinh tồn tối thiểu như ăn, ngủ, bài tiết… nên chỉ có một ít chủng tử sẵn có phát khởi hiện hành. Ở giai đoạn này sự sai khác tâm lý của đứa bé này với đưa bé kia chưa nhiều. Càng lớn lên, con người càng chịu nhiều sự huân tập đến từ bên ngoài. Sự phát triển của thân xác và sự phát triển của ý thức phân biệt làm phát sinh nhiều nhu cầu mới như nhu cần thương yêu, che chở, nhu cầu thích ứng với môi trường và những người chung quanh, nhu cầu được hưởng các thú vui vật chất và tinh thần, nhu cầu học hỏi tìm hiểu, nhu cầu phô trương bản ngã v.v... Những điều vừa nói là điều kiện (duyên) để nhiều chủng tử sẵn có phát khởi hiện hành, dẫn đến sự sai khác về mặt tâm lý và hành vi giữa người này và người kia ngày càng nhiều, càng rõ nét. Hiện nay, dù số lượng con người trên thế giới rất lớn, hơn 7 tỷ người, nhưng chúng ta vẫn không thể tìm thấy hai người hoàn toàn giống nhau về mặt tâm lý.  
Nhìn lại Phân tâm học, khi mới xuất hiện ở đầu thế kỷ 20, Phân tâm học Freud đã tạo ra một chấn động lớn. Nhiều người cho rằng đây là một cuộc cách mạng trong Tâm lý học. Tuy vậy, trải qua hơn một thế kỷ phát triển, Phân tâm học vẫn chưa có những khám phá mới đáng kể. Nhược điểm chủ yếu của Phân tâm học là các nhà Phân tâm học chỉ mới thấy được một vô thức lúc mới sinh mang tính đại đồng. Những mô hình vô thức này còn quá đơn giản, nên không thể thích ứng với sự đa dạng, phức tạp, tinh vi của các hiện tượng tâm lý con người. Chính điều này đã làm cho Phân tâm học chưa có được vị trí tương xứng trong Tâm lý học hiện đại.      
 Chánh Tấn Tuệ 

Wednesday, December 16, 2015

Lý nhân duyên


  Lý nhân duyên giải thích cho chúng ta biết vì sao người làm việc nầy thành tựu nhanh, ta cũng làm việc ấy mà thành tựu chậm, chẳng hạn như hai người cùng tu pháp môn như nhau mà người thành tựu kẻ lại chưa kết quả ! Có người tu sao suôn sẻ, mình tu lại có lắm trở duyên ! Tất cả do nhân duyên, đầy đủ thì thành mà chưa đủ nên còn chậm đó thôi. Tại sao anh B thích tu với Thiền sư Nhất Hạnh, chị B thích tu với Thiền sư Thanh Từ, cô A thích tu với Ni sư Huệ Giác theo pháp môn Niệm Phật, đó cũng do nhân duyên thầy trò. Xưa Tế Công Hòa Thượng muốn cứu độ cho một người mà không thể độ được, vì người đó không chịu làm theo, ngài buộc miệng than : ” Vô duyên bất năng độ ”  

Kết Luận: Lý nhân duyên cho chúng ta thấy mọi sự vật hòa hợp với nhau mà thành, khi nhân duyên không còn đủ chúng tự nhiên thay đổi hay tan rã, sự vật đều không tự nhiên có nên không có thật, hiểu được như thế chúng ta sẽ dễ dàng tu học, dễ dàng thực hành hạnh bố thí, nhìn đời là một tuồng huyễn hóa, tan hợp đều do nhân duyên. Nhờ đó tích cực tạo cho mình một đời sống an lạc, tự tại và giải thoát.