Friday, November 5, 2010

NIỆM VỀ CÁI CHẾT

I/ CHẾT LÀ ĐỊNH LUẬT CHUNG CHO TẤT CẢ THẾ GIAN.
Lâu nay, chúng ta nghe nói nhiều về vấn đề sự sống, đề tài nói chuyện hôm nay là “Niệm Về Cái Chết”.
Thường người ta hay sợ chết, không dám nghĩ hay nói đến cái chết, cho dù gần chết cũng vậy, khi cái chết đến thì hoảng hốt. Còn chúng ta là người học đạo, phải luôn nghĩ về cái chết để khi đến giây phút đó không lấy làm lạ. Bởi vì ai cũng phải chết, có sanh thì có tử là lẽ thường nhiên, không ai tránh khỏi được.
Hòa Thượng Ân sư có bài pháp “Con Tàu Kỳ Lạ”, nói về chiếc xe lửa đặc biệt có nhiều toa mà không người lái. Toa trên tàu có nhiều hạng: từ hạng nhất, hạng nhì….cho đến các hạng thấp xấu. Mỗi hành khách có hành lý riêng, cùng đi chung một con tàu. Trên tàu có vô số người lính, áp tải hành khách lên các toa khác nhau. Tàu tự động chạy từ thành phố ra biển. Vì con tàu chạy đường dài, nên có người mệt thì ngủ vùi, có người lo ăn uống hay vui chơi suốt đêm, có người khi say sưa thì cãi nhau rồi đánh nhau……. Bao nhiêu cảnh chen lấn, giành giựt, ồn ào đều xảy ra trên tàu, nhưng con tàu vẫn cứ tiến ra biển. Tàu chạy qua nhiều phong cảnh, cảnh vật bên ngoài thay đổi liên tục. Cảnh đẹp thì thích ý, có người muốn tàu chạy chậm để ngắm xem cho kỹ. Còn cảnh không thích ý, thì muốn tàu chạy nhanh. Nhưng con tàu vẫn chạy đều đều không theo ý ai hết. Hành khách trên tàu bị các cảnh vật trước mắt và những lo nghĩ, quên mất điểm đến cuối cùng của tàu là gì?
Những hành khách đi trên tàu không phải ai cũng đến được bến đổ. Có những trường hợp gặp nhiều chuyện buồn bả, bất như ý, phiền muộn, đau khổ…., nhiều hành khách đã nhảy ra cửa tàu tìm cái chết trước khi tàu đến bến. Hoặc có những sự tranh giành, cãi nhau về chỗ ngồi, về tiện nghi, họ quăng ném nhau ra khỏi toa tàu…, tất cả tạo nên những sự náo động nguy hiểm, bất an cho hành khách và con tàu.
Tuy vậy trong số những hành khách trên tàu, có vài người biết rõ số phận của mình là tàu sẽ đi thẳng xuống biển, nên âm thầm lặng lẽ ngồi tìm những miếng cao su vụn, kết lại thành những chiếc phao để dành sẵn. Khi họ làm công việc này, lại bị những người xung quanh nhìn bằng con mắt khinh khi, chê cười cho là những người khùng điên, làm việc không đáng. Mặc ai nói cười gì thì nói, họ vẫn tiếp tục làm việc của mình.
Thế rồi, con tàu cũng đến bến đổ cuối cùng, trước mắt là biển cả bao la, con tàu vẫn tiến tới. Những hành khách trên tàu bây giờ mới hoảng hốt, lo sợ la lối yêu cầu con tàu ngừng lại. Nhưng con tàu không ngừng. Tại sao? Vì đây là con tàu không người lái. Và cuối cùng tàu đâm xuống biển. Tất cả hành khách theo con tàu đều chìm xuống biển, riêng chỉ có những người bị gọi là điên khùng lại có phao, họ ôm phao bình tỉnh bơi vào bờ.
Hợp pháp câu chuyện: Những người lính áp tải trên tàu là nghiệp lực, đưa đẩy dẫn con người đi vào chiếc tàu. Còn các toa tàu hạng nhất, nhì, tốt, xấu……, tùy theo nghiệp báo tốt, xấu của mỗi người mà ngồi vào toa của mình. Như hiện tại, người tạo nghiệp tốt thì sanh ra trong hoàn cảnh tốt, còn nghiệp xấu thì sanh vào hoàn cảnh xấu. Phong cảnh, cảnh vật bên ngoài là năm trần. Các trần cảnh bên ngoài luôn thu hút lôi kéo con người khiến quên mất, không nhớ được điểm cuối cùng kia. Còn những hiện tượng tâm lý vui buồn, thương ghét bên trong là tam độc, bát phong luôn thường thổi đến.
Sự vận chuyển liên tục của con tàu là thời gian. Thời gian cứ trôi đều, và điểm khởi đầu cùng điểm cuối của con tàu là con đường sanh và tử.
Bắt đầu đi là sanh ra, chạy tới chỗ cuối là tử, ai sanh ra rồi cũng đến điểm cuối cùng là cái chết, đó là điều chắc chắn không tránh khỏi. Nhưng vì vô minh nên ta say đắm những dục trần trước mắt, tạo nghiệp chịu khổ, không nhớ được điểm cuối là cái chết.
Người tỉnh giác biết phải lo tu tập đạo nghiệp, kết những cái phao, dù khi ngồi kết bị chê cười là ngu, là điên, nhưng vì đã có hướng đi, thấy được cái gì phải tới trước mắt, nên ai nói gì thì nói, họ cứ làm công việc của mình. Đó là cái khéo của người biết tu, nhẫn chịu sự nhạo báng chê cười của mọi người, chỉ lo kết phao chuẩn bị cho điểm đến cuối cùng của đời mình.
Có người lý luận tu cũng chết, không tu cũng chết, vậy tu làm chi? Do đó họ mặc tình hưởng thụ. Quả thật, trong thế gian này, từ vua chúa giàu sang đến kẻ cùng cực nghèo hèn, cuối cùng rồi ai cũng chết, đó là chuyện thường tình. Nhưng trong cái chết của mỗi người lại có điểm khác nhau.
Người không biết tu, chết trong mê lầm tối tăm, hoảng sợ đau khổ, chới với không có điểm tựa. Còn người biết tu khi chết được bình tỉnh, an ổn vào bờ, vì đã lo chuẩn bị phao sẵn từ trước. Điểm khác nhau là như thế! Người biết rõ lẽ vô thường, khi cái chết đến không bị bở ngỡ.
Trong kinh Pháp Cú kể câu chuyện: Có bốn vị Phạm Chí tu đắc được ngũ thông, nên biết trước là bảy ngày nữa mình sẽ chết. Họ nghĩ đã có ngũ thông vì sao lại đành chịu chết? Nên cùng nhau bàn tìm lối thoát. Vị thứ nhất nói: “Tôi dùng thần thông lặn xuống lưng chừng biển sâu, trên thì không nổi lên, ở dưới không chạm đáy, quỷ vô thường không biết rõ chỗ nào để đến bắt”. Vị thứ hai nói: “Tôi dùng thần thông vạch núi Tu-di vào trong giữa núi rồi khép lại. Quỷ vô thường có đến cũng không thể bắt được”. Vị thứ ba nói: “Còn tôi dùng thần thông biến mất, ẩn trong hư không, đâu có thể tìm ra được”. Vị thứ tư nói: “Tôi vào giữa chợ đông người lộn xộn, khi quỷ tới không biết ai, gặp người nào bắt người đó”. Bốn người đều làm theo như vậy. Nhưng đúng vào thời gian đó các vị đều chết hết. Người ở biển thì nổi lên; người trên hư không thì rớt xuống; người trong núi thì trồi ra, và người trốn trong đám đông thì nằm chết giữa chợ.
Đức Phật nghe được chuyện liền nói bài kệ:
                    Dù trốn giữa hư không, 
                    Hay biển khơi, núi rộng, 
                    Không một nơi nào cả, 
                    Tránh khỏi được tử vong.
Vậy, chúng ta sợ chết có khỏi không? Sợ cũng không khỏi vậy sợ làm gì? Quan trọng là không mê lầm, sáng suốt biết rõ từng sự việc là tốt rồi.
Vua Trần Thái Tông (Việt Nam) là một ông vua thiền sư ngộ đạo, có sức sống thật sự. Tuy làm vua, sống cuộc đời cao sang vương giả mà lúc nào Ngài cũng lo kết phao. Nên trong bài “Nói rộng về sắc thân” nhà vua cảnh tỉnh cho nhau: “Chẳng luận giàu nghèo đồng vào cõi chết, hoặc để trong nhà thì vòi đục tửa sinh, hoặc ném ra đường thì quạ ăn chó xé. Người đời bịt mũi đi qua, con hiếu thì lấy mền quấn giấu; nhặt thu hài cốt, chôn cất thịt xương, quan quách phó cho đóm lửa ma trơi nơi hoang dã, mả mồ giao cho muôn dặm núi sông. Khi xưa tóc đen má ửng, ngày nay xương trắng tro đen.”. Khi chết rồi con cháu thương thì lấy mền quấn, bỏ vô hòm mà chôn. Đem quan quách phó mặc cho đóm lửa ma trơi nơi đồng hoang, đâu có ai ở đó mà giữ. Mồ mả giao cho muôn dặm núi sông ngoài hoang dã, mục đích cuối cùng cuộc đời, là hiện tượng như vậy.
Đó là điều chúng ta phải luôn quán niệm kỹ về cái chết, để không bị mê lầm và cũng là chuẩn bị cho tự thân của mỗi người, biết trước lẽ thật chắc chắn là như vậy, khi việc đến sẽ không bị bở ngỡ. Người Tây Tạng có câu: “Ngày mai hay đời sau điều gì tới trước, ta không thể biết được!”. Tức là hôm nay sống, nhưng ngày mai chưa biết còn sống hay không, ngừng thở là chết qua đời sau rồi. Lẽ thật của sự vô thường là như vậy, phải quán kỹ để chuẩn bị cho chính mình.
II/ CÁI CHẾT CÓ TRONG CÁI SỐNG.
Thấy rõ cái chết trong cái sống, nên chúng ta cần phải quán kỹ cái chết ngay trong cái sống, chớ không phải ở nơi nào xa xôi. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật hỏi vua Ba Tư Nặc: “Đại vương! Ngay nơi thân đang tồn tại của Đại vương, nay Như Lai muốn hỏi: Thân thịt này của Đại vương là thân kim cương bất hoại hay sẽ biến hoại?”. Đáp: “Bạch Thế Tôn! Thân con hiện nay rốt cuộc rồi sẽ bị biến hoại”. Đức Phật bảo: “Đại vương! Ông chưa từng diệt, làm sao biết mình sẽ biến diệt?”. Đáp: “Bạch Thế Tôn! Cái thân biến hoại vô thường của con hiện nay tuy chưa từng diệt, nhưng con thấy trước mắt, từng niệm dời đổi mãi không dừng, như lửa tàn thành tro, dần dần tiêu tan. Vì tàn hoại không dừng, nên con biết chắc thân này sẽ diệt mất”. Vua Ba Tư Nặc quán thấy từng niệm thay đổi không dừng, biết rõ thân là vô thường, thay đổi sẽ bị hoại diệt.
Đoạn sau Phật hỏi kỹ hơn: “Đại vương! Thân thể của ông đâu phải già liền?”. Vua Ba Tư Nặc thưa: “Bạch Thế Tôn! Nó âm thầm dời đổi. Cái thân già nua này thay đổi trong vòng 10 năm. Nếu con suy nghĩ kỹ hơn, chẳng những nó thay đổi trong khoảng 10 năm, 20 năm mà thực thay đổi trong từng năm. Chẳng những thay đổi trong từng năm, mà thực thay đổi trong từng tháng. Chẳng những thay đổi trong từng tháng, mà thực nó thay đổi trong từng ngày. Chiêm nghiệm thật sâu, quán sát thật kỹ thấy nó thay đổi trong từng sát na, trong từng mỗi niệm không hề dừng nghỉ. Thế nên con biết thân này cuối cùng phải chịu sự biến đổi, và hoại diệt”.
Chúng ta muốn thấy sự thay đổi của thân này cũng phải trải qua thời gian 10 năm. Mười năm nhìn lại mới thấy già, chớ còn một hai năm thì chưa thấy đổi thay. Có người nói còn trẻ đi tu uổng! Đó là thấy theo kiểu mê muội. Sự thật cái thân chúng ta nó chết từ từ, nó luôn luôn thay đổi. Như từ đây đi Đà Lạt phải qua đoạn đường dài 7 cây số, nhưng muốn qua 7 cây số thì phải đi qua từng bước, từng đoạn rồi từng cây số mới hết 7 cây số đến nơi. Thân này cũng vậy, nó thay đổi trên từng niệm sanh rồi diệt, mới qua 20, 30, 60, 70 năm. Như vậy, nhà vua đã quán kỹ thấy rõ sanh diệt trong từng niệm, nên biết chắc thân này rồi sẽ hoại diệt. Tức là thân này luôn chết trong từng sát na, không phải đợi đến 70 tuổi mới chết. Ngay khi sống đã có chết rồi. Vậy chúng ta đang ngồi đây là đang ngồi trong cái chết, chết trong từng sát na. Xét cho cùng về bản chất của thân là như thế. Luôn luôn nhớ như vậy chúng ta sẽ cởi mở được rất nhiều điều, mỗi khi lỡ có buồn giận ai mà nhớ nó đang ngồi trong cái chết, thì còn có ai buồn ai giận, đó là lẽ thật.
Trong kinh A Hàm có kể: Khi tuổi đức Phật đã lớn, một hôm Ngài đi khất thực trong thành Xá Vệ trở về thọ trai xong, sau đó cảm thấy trong người hơi lạnh, nên ra ngoài hương thất ngồi phơi nắng. Ngài vén y để lộ làn da lưng nhăn nheo ra nắng. Tôn giả A Nan từ xa thấy vậy, mới đến xoa lưng cho đức Phật, than: “Ôi! Da dẻ của Thế Tôn không còn láng mịn như thuở xưa nữa, lưng đã hơi khòm tới trước rồi. Ôi! Còn đâu những gì của thời trai tráng”. Phật bảo: “Đúng vậy A Nan! Cái già có sẵn trong cái trẻ, cái chết nằm trong cái sống, thân của Ta rồi đây sẽ hoại diệt, một lúc nào đó không tránh khỏi”. Nhân đó, đức Phật cũng nhắc nhở cảnh tỉnh chúng ta, Ngài bảo cái già nằm sẵn trong cái trẻ, cái chết nằm sẵn trong cái sống, đừng nghĩ là 70 tuổi mới già. Phải thường quán kỹ như vậy, để thấy lẽ thật của thân này, chuẩn bị cho giờ phút cuối của mình, để đến lúc đó không chới với hoảng hốt, không bất ngờ mà lại rất bình tỉnh, vì đã có kết phao rồi.
Sau khi đức Phật Niết Bàn, chư vị Tỳ kheo dùng kệ tán:
                        Thân này như bèo bọt 
                        Mỏng manh có gì vui 
                        Phật được thân kim cang 
                        Còn bị vô thường phá 
                        Thân kim cang chư Phật 
                        Đều về với vô thường 
                        Tan mau như tuyết non 
                        Huống những chúng sanh khác.
Phật được thân kim cang, 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp rồi cũng bị vô thường đến tám mươi tuổi nhập Niết Bàn, huống là thân chúng ta. Quán kỹ thân Phật, rồi quán lại thân chúng ta có được bao nhiêu tướng tốt, đâu có gì là quý. Quán như vậy khi cái chết đến chúng ta không luyến tiếc, dính mắc vào thân này, lúc ra đi sẽ nhẹ nhàng an lạc. Còn dính mắc đi không nỡ, ở không được thì khó chết, vì bị giằn co vậy. Cho nên học hiểu, quán kỹ để sống đúng lẽ thật, đó là tạo những chiếc phao cho mình trước khi vô thường đến là đã biết tu rồi.
III/ THẤY NGƯỜI KHÁC CHẾT NHỚ ĐẾN MÌNH.
Chúng ta cần luôn quán chiếu mọi sự việc, khi thấy người khác chết, phải nhớ tới mình cũng sẽ chết. Đừng nên nghĩ việc đó là của người ta, không dính tới mình, người ta chết chớ mình không có chết, đó là một sai lầm lớn. Trong kinh A Hàm ghi khi Phật ở tại tinh xá Kỳ Hoàn dạy các vị Tỳ kheo quán về cái chết như sau:
Ở thế gian có 4 hạng ngựa:
1- Loại ngựa vừa thấy bóng roi của chủ liền sợ, đi theo ý chủ.
2- Hạng ngựa này phải đợi cây roi chạm vào lông mới sợ.
3- Hạng ngựa thứ ba, đợi roi đánh đụng da bị đau mới chạy.
4- Hạng thứ tư, đợi roi đánh mạnh đau thấu xương mới chạy.
Và Phật hợp pháp, để độ bậc trượng phu qua bờ giải thoát, cũng có 4 pháp:
1- Có những người chỉ nghe ở trong thôn xóm, có kẻ nam người nữ bị bệnh, khổ đau bức ngặt sắp chết. Nghĩ mình rồi cũng vậy, nên liền sanh nhàm chán đối với pháp thế tục, để hết lòng tu thiện. Đó là bậc trượng phu điều thuận, như ngựa thấy bóng roi liền chạy.
2- Có người nghe chưa đủ, phải chính mắt mình thấy kẻ nam người nữ trong xóm bệnh, bị khổ ngặt nghèo sắp chết. Cảnh này khổ quá, rồi mình cũng sẽ đi tới chỗ đó, nên thức tỉnh lo tu. Đó giống như loại ngựa thứ hai.
3- Chỉ cho người chính mắt thấy cảnh khổ của người cũng chưa chịu tỉnh. Phải chính mắt mình thấy, bà con thân quyến của mình bị bệnh, khổ ngặt nghèo mới chịu tỉnh, còn người kia là người dưng không dính dáng đến mình. Đó là giống hạng ngựa thứ ba ở đây.
4- Hạng người này phải đợi chính thân mình bệnh khổ mới tỉnh.
Phật dạy 4 hạng người giống như 4 loại ngựa của bậc hiền nhân cỡi. Hạng người thứ tư còn dở nhưng cũng có tỉnh, chớ còn nhiều người không chịu tỉnh, thấy người ta chết là chuyện người ta. Tới khi chính mình khổ cũng chưa tỉnh, còn lo sự nghiệp trăm năm, lo xây mồ mả kiên cố nguy nga, mua cái hòm chắc đến trăm năm mới mục, vẫn không chịu tỉnh. Cổ đức có bài kệ nhắc nhở mọi người thức tỉnh tu hành:
                            Ngã kiến tha nhân tử 
                            Ngã tâm nhiệt như hỏa 
                            Bất thị nhiệt tha nhân 
                            Khán khán lâm đáo ngã.
                            ***
                            Ta thấy người khác chết 
                            Lòng ta nóng như lửa 
                            Không phải nóng đốt người 
                            Thấy sẽ đến phiên ta.
Thấy người khác chết lòng mình như lửa đốt. Cái nóng đây là thấy người ta chết, biết mình cũng sẽ đến cái chết. Người lanh lợi nhạy bén là như vậy, thức tỉnh nhanh chớ không phải nghĩ đó là việc riêng của người khác. Đây là pháp cảnh tỉnh chúng ta sống bớt buông lung, và có liên hệ tốt với nhau. Như vậy, thấy rằng thân này không bền chắc, không nên quá mê đắm vào nó để bớt tạo nghiệp, đó là con đường tu. Nếu không hiểu được như vậy, mê đắm vào thân này chấp nó là mình, rồi theo đó tạo đủ muôn ngàn thứ nghiệp, Phật gọi đó là vô minh, là điên đảo. Từ “điên đảo” rất hay. Điên là điên khùng. Đảo là đảo ngược, lộn ngược. Cũng vậy, cái không phải mình mà nhận là mình, không phải thật nhận là thật, đúng là điên đảo. Nhờ Phật pháp chỉ dạy, chúng ta luôn luôn quán chiếu, mở sáng trí tuệ để thấy đúng lẽ thật, đó là chỗ Phật thương xót, đánh thức cho chúng ta tiến tu, chớ không phải cứ mê lầm lo tạo nghiệp.
Trong kinh Tọa Thiền Tam Muội có bài kệ:
                            Ngày nay làm việc này 
                            Ngày mai làm việc kia 
                            Tham đắm không thấy khổ 
                            Bất giác giặc chết đến.
Ngày nay làm việc này, ngày mai làm việc khác, cứ lo tham đắm liên tục, bất chợt cái chết đến, không có phao, không có gì hết…….
                            Lăng xăng lo việc mình 
                            Việc người cũng chẳng yên 
                            Giặc đến không hẹn trước 
                            Lúc đến không trốn thoát.
Việc mình lăng xăng, việc người cũng vậy, cái chết đến lúc nào không hay, không hẹn trước, không trốn thoát gì được.
                            Như con nai khát nước 
                            Cắm đầu bên suối uống 
                            Thợ săn chẳng thương xót 
                            Chẳng để uống rồi giết.
Con nai khát nước đến bờ suối uống, thợ săn rình sẵn là giết ngay, không để cho nó uống nước xong mới giết. Cũng vậy khi cái chết đến, nó không nói đợi người đó làm xong việc đó rồi hãy chết, nó không hẹn và không chừa ai cả.
                            Người ngu cũng như vậy 
                            Siêng năng lo sự nghiệp 
                            Chết đến chẳng hẹn lúc 
                            Ai sẽ bảo hộ ông?
Người mê cứ lo tạo nghiệp này, nghiệp nọ, không lo kết phao, khi chết đến lấy gì bảo hộ. Lúc đó thì đâu có hẹn lại được, là việc này tôi chưa làm xong hãy đợi cho tôi làm xong. Như ngoài đời có nhiều người nói bận nhiều việc, hoặc là còn lo cho mấy đứa cháu còn nhỏ, nên không có thời gian tu. Khi tuổi thọ hết, vô thường đến không hẹn đợi chờ ai cả, phải theo nó ra đi thôi.
                             Lòng người mong giàu sang 
                            Hưởng ngũ dục chưa thỏa 
                            Như các hàng vua chúa 
                            Không ai mà khỏi chết.
Tham cầu giàu sang, sống một đời đầy đủ vật chất như vua chúa cũng phải chết.
                            Bậc tiên trì chú tiễn
                            Cũng không khỏi chết sống 
                            Voi dữ vô thường đến 
                            Trùng kiến cũng thành đất.
Những vị tiên trì chú trường thọ, hoặc uống thuốc trường sanh bất tử mong không chết, song cuối cùng rồi cũng chết, cho nên hiện tại chúng ta không gặp ông tiên nào hết. Cho đến những vị trời sống ở cõi trời Phạm Thiên, hoặc cõi trường thọ hưởng hết phước rồi cũng chết, không ai thoát khỏi; từ loài lớn đến loài nhỏ như trùng, kiến cũng thành đất. Phật dạy chúng ta quán kỹ, thấy rõ được lẽ thật cái chết đến là như vậy, để chuẩn bị tinh thần không nên nghĩ chúng ta còn sống lâu chưa đến nổi, không phải vậy. Phải lo chuẩn bị khi cái chết đến không chới với, hoảng sợ mà phải rõ sanh tử là lẽ thường nhiên, sợ cũng không khỏi được. Có chuẩn bị trước thì hay hơn, bình tỉnh ra đi an bình hơn.
Một bậc thầy Tây Tạng có dạy: “Một trong những lý do chính, khiến ta lấy làm khó khăn lo sợ khi đối mặt với cái chết, là vì ta tảng lờ sự thật về vô thường. Chúng ta cứ khăng khăng, muốn mọi sự đều tiếp tục như cũ, đến nổi ta tưởng rằng chúng vẫn như vậy, nhưng đó chỉ là ảo tưởng”.
Ngài dạy, do chúng ta tảng lờ, lờ qua cái chuyện vô thường, không dám nghĩ đến, khiến ta lấy làm khó khăn lo sợ khi đối mặt với cái chết. Thí dụ ở đời già sắp chết phải sắm cái hòm, không dám gọi là cái hòm mà gọi là cái thọ, rõ ràng như vậy. Tức là né tránh sự thật về vô thường, nên khi nó đến thì sợ hãi chới với. Vì thế, chúng ta phải luôn luôn quán chiếu, phải nhớ mỗi khi mình đang đi, đang bước là đang đi trong cái chết, khi cười cũng đang cười trong cái chết, luôn nhớ như thế thì lúc nào cũng tỉnh.
IV/ MỞ MẮT TUỆ THẤY ĐÚNG LẼ THẬT.
Chúng ta học đạo thấy rõ như vậy rồi, phải mở mắt trí tuệ thấy đúng lẽ thật, không đi theo những sự mê lầm nữa. Học Phật phải thực hành đúng theo Phật pháp, là trừ bỏ lo buồn khổ não, thân này là vô thường nhất định phải chết, phải thấy đúng vậy không bỏ lờ qua.
Không lầm chấp thân này là mình, mình không phải cái chết đó, bản chất thân này là hoại diệt, phải thấy đúng lẽ thật như vậy là mở mắt trí tuệ của chính mình nhìn thấy, chớ không phải để hiểu.
Học Phật là học lời dạy của Phật, như nói thân này là vô thường thì chúng ta cũng hiểu được, nhưng đó là của Phật chưa phải của chúng ta. Chúng ta phải luôn luôn quán chiếu chính mình, tự thấy như vậy mới chính là của mình, đó mới là quan trọng. Nhưng thường đa số người học Phật, chỉ học cái của Phật mà thôi. Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ nhất, có bài kệ nói về cái chết như sau:
                        Thân thể nằm dài trên giường lần cuối 
                        Miệng thì thào những lời trăn trối 
                        Tâm ngắm nhìn ký ức lần cuối diễn ra 
                        Bi kịch ấy khi nào sẽ đến với ngươi ?
Cái thân khi nằm trên giường lần cuối, thì lúc đó miệng thì thào những lời trối trăn, dặn dò con cháu. Khi ấy, tâm ngắm nhìn ký ức lần cuối, diễn ra những cuộn phim của cả cuộc đời quay lại. Mỗi người hãy tự hỏi xem, cảnh ấy khi nào sẽ đến với mình đây? Phải thấy bằng chính con mắt trí tuệ của mình và tiến thêm một bước cảm nhận trong cái thân vô thường có cái không vô thường, trong cái sanh tử có cái vô sanh. Người mở được mắt tuệ rồi là tiến lên, chớ không chịu theo sự vô thường đó, mà phải vươn lên một cách tự tại bình thản, học Phật là phải như vậy. Nhưng đa số người thế gian đành chịu vậy, bởi vì nghĩ ông bà, tổ tiên, cha mẹ mình cũng chết, thì mình cũng chết, thôi đành chịu không làm gì khác được.
Do đó chúng ta phải noi theo sự tu hành của Phật, chính Phật là gương nhắc nhở cho chúng ta. Khi Phật dạo 4 cửa thành thấy cảnh người già, bệnh, chết thì Ngài liền tỉnh, hỏi Xa Nặc có ai khỏi chết không? Xa Nặc trả lời ai rồi cũng phải chết, Thái tử cũng chết luôn. Ngài băn khoăn hỏi ai sanh ra cũng chết, không cách nào vượt ra khỏi cái chết hay sao? Cho nên chính điều này thúc đẩy Ngài bỏ hoàng cung đi tìm giải thoát, quyết chí tìm cho ra cách giải quyết, tức là có sanh có tử phải có nguyên nhân của nó, chớ không phải ngẫu nhiên. Khi tìm ra nguyên nhân đó, chấm dứt được nguyên nhân đó, là giải quyết được vấn đề. Đức Phật làm được chuyện đó, tức là Ngài không chịu cúi đầu theo nó. Chúng ta học Phật cũng vậy, cũng không chịu như vậy, phải ở trong đó vươn lên, nhận rõ trong sanh tử có cái vô sanh, để sống trở về với cái vô sanh đó, vươn lên khỏi sanh tử, chớ không chịu cúi đầu theo sanh tử.
Trong quyển “Con người siêu việt” Ngài Milarepa có nói: “Vì sợ chết tôi đi vào trong núi, liên tục trầm tư về tính chất bất định của giờ chết. Bỗng bắt gặp thành trì bất tử vô tận của tâm bản nhiên. Bây giờ tất cả nỗi sợ hãi đều tan biến, và trong sanh tử mở cái thấy trí tuệ vô sanh”. Ngài sợ chết nên tìm cách giải quyết cái chết, bằng việcï đi vào núi tu hành, trầm tư liên tục về giờ chết bất định. Ngẫm xét về cái chết khi nó đến với bản thân. Cuối cùng, Ngài giác ngộ, bắt gặp thành trì bất tử vô tận là tâm bản nhiên, chân tâm sẵn có của chúng ta, nhận được cái tâm bản nhiên, cái này không chết, tất cả nỗi sợ chết đều tan biến.
Ngay trong sanh tử mở được trí tuệ vô sanh, thấy rõ mình không phải là cái chết này. Khi sống được với tâm bản nhiên rồi, cái chết đến thì chúng ta an ổn, vì đã có phao. Đó là kinh nghiệm. Ngài nhắc nhở chúng ta niệm về cái chết để vượt lên cái chết, mở sáng trí tuệ, không phải niệm về cái chết để mà chán đời.
Nhiều người ở thế gian, nghe học Phật nói gì cũng sanh tử vô thường, làm con người ta chán đời, không còn muốn làm gì cả. Cho nên, nhiều người phê bình đạo Phật là đạo bi quan, yếm thế, đó là chưa hiểu đúng về đạo Phật. Còn ở đây, đức Phật dạy rất rõ, Ngài chỉ cho chúng ta nhận định cái nào thật, cái nào giả để không lầm cái giả, trở về sống với cái thật. Niệm về cái chết, là để vượt lên cái chết, đó là con đường mỗi người con Phật phải đi. Muốn vậy, mỗi người phải có kinh nghiệm tu hành, nghĩa là phải quán chiếu trong từng tâm niệm của mình, giải quyết ngay trong từng tâm niệm để sáng tỏ được tâm bản nhiên. Nhận được tâm bản nhiên, là hết còn lo sợ chết, giúp tăng thêm kinh nghiệm hành thiền.
Đây là một trong những kinh nghiệm tinh yếu hành thiền của Phật giáo Tây Tạng.
Có bốn điểm chúng ta phải luôn quán chiếu, nhớ kỹ để rút thêm kinh nghiệm tu hành:
1- “Khi một niệm quá khứ đã chấm dứt, mà niệm vị lai chưa sanh, trong khoảng hở giữa hai niệm, có phải là có một ý thức về thực tại, mới mẻ nguyên sơ, không bị thay đổi bởi một mảy may khái niệm nào, thuần là một sự tỉnh giác nguyên vẹn hay không? Đấy! Tâm bản nhiên là thế đấy”. Nghĩa là khi niệm trước diệt, niệm sau chưa sanh, liền có khoảng hở. Bây giờ chúng ta phải khéo thấy, làm sao nhảy vào khoảng hở đó, là chúng ta làm chủ được niệm, thì tâm bản nhiên ngay chỗ đó, chơn tâm nằm ngay chỗ đó.
2- “Tuy nhiên, nó không ở mãi trong trạng thái như vậy, bởi vì một niệm khác lại khởi lên. Đấy chính là ánh sáng chiếu ra của tâm bản nhiên”. Chúng ta tu chưa được miên mật liên tục, nên một niệm khác khởi lên, phải khéo soi trở lại đừng theo nó.
3- “Nhưng nếu bạn không nhận ra niệm ấy, đúng như bản chất của nó ngay khi nó khởi, thì nó sẽ trở thành một ý tưởng khác như trước, đây gọi là “dây chuyền vọng tưởng” và là nguồn gốc của sanh tử”. Nghĩa là ngay niệm sau khởi lên, không nhận rõ đúng ngay bản chất của nó, thì thành ra ý tưởng khác. Có niệm tưởng mới xen vào là thành ý tưởng khác dẫn đi trong sanh diệt nên gọi là “dây chuyền vọng tưởng” là niệm này tiếp nối niệm kia. Niệm trước diệt niệm sau chưa sanh thì có khoảng hở, phải nhảy vào khoảng hở đó. Nếu nhảy chưa được, chưa kéo dài được thì niệm sau sẽ sanh khởi nữa. Khi niệm sau sanh khởi, nhận rõ bản chất của nó, nếu không nó thành ra ý tưởng mới và lại tiếp tục sanh khởi mãi. Như vậy là niệm niệm tiếp tục sanh diệt không gì khác, con đường đó gọi là nguồn gốc sanh tử.
4- “Nếu bạn có thể nhận chân được bản chất thật sự của ý tưởng (vọng tưởng), ngay khi nó khởi lên, thì cứ để yên đừng theo đuổi thêm. Bất cứ ý tưởng nào khởi lên, đều tự động tan vào khoảng bao la của tâm bản nhiên, và bạn được giải thoát”. Tức là ý tưởng khởi lên, chúng ta không theo nó thì nó sẽ tan, lỗi là tại chúng ta theo nó, nên bị nó dẫn. Do đó, chúng ta cần phải khéo tỉnh giác, thấy sâu vào lẽ thật ngay thân tâm của mình, đó là mở mắt trí tuệ, vượt lên sanh tử, chính ngay trong sanh tử là vô sanh. Vậy thân này chết nhưng ánh sáng đó không chết, tâm bản nhiên không chết, đó là con đường vượt qua sanh tử. Vì vậy, khi chúng ta niệm về cái chết là để vượt qua cái chết, cần phải nhớ như vậy.

V/ TÓM KẾT.
Tóm lại, cái gì có sanh thì có tử, từ thân chúng ta cho đến cảnh vật bên ngoài, phải nhớ chắc chắn như sau:
1- Thân chúng ta có sanh thì có tử, tâm có sanh thì có diệt, còn tâm không sanh thì không diệt. Đó là hai lẽ thật rõ ràng, nhận rõ để không lầm, cần phải nhận ra cái tâm không sanh không diệt đó để vươn lên.
2- Có sanh thì có tử là lẽ thường nhiên, không ai tránh khỏi, không phải của riêng ai. Vậy thì cái chết đến với chúng ta cũng không lấy làm lạ, vì đây là cái chết của tất cả, đừng nhớ cái này là của riêng mình để bớt sợ.
3- Thân này có sanh thì có tử, tức là không phải là ta, không phải của ta. Nhớ như vậy khi mất nó thì kệ nó, không dính dáng gì tới cái bản lai diện mục của chính mình. Thiền sư Pháp Loa khi sắp tịch nói bài kệ: 
                        Muôn duyên cắt đứt một thân nhàn, 
                        Hơn bốn mươi năm giấc mộng tràng, 
                        Nhắn bảo mọi người thôi chớ hỏi, 
                        Bên kia trăng gió rộng thênh thang.
Tuy bỏ cái này nhưng bên kia trăng gió rộng thênh thang, có gì phải lo sợ! Vua Trần Thái Tông trong những ngày cuối cuộc đời, vua có bệnh quốc sư Đại Đăng vào thăm hỏi: “Bệ hạ bệnh chăng?”. Vua đáp: “Tứ đại là bệnh, cái này xưa nay sanh tử không can hệ, mà dính kẹt trong bệnh hoạn sao?”. Rồi mấy hôm sau, khi sắp mất, vua Thánh Tông muốn nhờ hai vị quốc sư Phù Vân và Đại Đăng đến nói pháp xuất thế cho Ngài nghe. Thái Tông gằn giọng bảo: “Đến trong đây bớt một mảy tơ dường trên thịt khoét thương tích, thêm một mảy tơ như trong mắt để bụi. Ba đời chư Phật bốn mắt nhìn nhau, sáu đời Tổ sư thoái thân có phần. Dù Phù Vân nói huyền, Đại Đăng thuyết diệu đều là lời thừa, có ích gì đối với cái này”. Nói xong Ngài lặng lẽ ra đi, thọ 60 tuổi.
Chúng ta thấy khi nhà vua bệnh được quốc sư Đại Đăng đến thăm bệnh, mà Ngài vẫn xác định “Tứ đại bệnh còn cái ấy đâu có bệnh, cái ấy đâu có dính dáng gì trong bệnh hoạn”. Để thấy là nhà vua hằng sống được trong đó, nên mới an nhiên trả lời như vậy. Rồi khi vua cha sắp mất, Thánh Tông nhờ hai vị quốc sư đến trợ niệm giúp vua cha, nhưng vua cha không cần vì Ngài đủ sức làm chủ lấy bản thân, nên nói: “Đến trong đây bớt một mảy tơ thì dường như trên thịt khoét thành thương tích, thêm một mảy tơ như trong mắt có bụi”. Nghĩa là trong đó không cần thêm bớt gì nữa, như vậy là như vậy, thêm hay bớt chỉ là tạo thêm thương tích mà thôi. “Ba đời chư Phật bốn mắt nhìn nhau, sáu đời Tổ sư thoái thân có phần”, tức là chỗ ba đời chư Phật nhìn nhau không có kẻ hở cho ông dòm vào, cũng là chỗ chư Tổ phải lùi lại, ông làm sao bám. Vì thế hai vị quốc sư có bàn huyền nói diệu gì, thì cũng không dính dáng, chỉ như lời nói bên ngoài, lời dư thừa thôi. Nói xong rồi thì vua lặng lẽ ra đi.
Đúng là làm chủ trong sanh tử. Làm vua bao nhiêu việc mà Ngài còn rảnh rang tu được, có sức tự chủ trong sanh tử, còn chúng ta thì sao? Việc chúng ta đâu có nhiều hơn ông vua! Chúng ta còn nhiều thời gian lắm, lại đổ thừa công việc bề bộn tu không được, vậy là sao?
Qua tấm gương của vua Trần Thái Tông, chúng ta phải hổ thẹn cho mình. Nhà vua có chỗ sống chân thật nên khi bỏ thân này không có lo sợ, còn chúng ta khi phải bỏ thân này thì sao? Đó là chỗ chúng ta phải luôn học, luôn nhớ để quán chiếu. Trong kinh Di Giáo, lời dạy sau cùng trước khi Phật nhập Niết Bàn là: “Đây là vật tội ác và đáng bỏ, giả gọi là thân, nó chìm đắm trong biển sanh già bệnh chết. Như thế có người trí nào trừ diệt được thân này, như giết bọn giặc cướp mà chẳng vui mừng”. Lời đức Phật dạy nhắc nhở chúng ta bỏ thân là trừ được giặc, là vui chớ không phải buồn. Đó là chỗ chúng ta học suốt đời đến khi nhắm mắt chưa chắc đã xong, nào phải chỉ học vài ba hôm rồi thôi. Phải luôn ghi nhớ để trừ tham luyến về tấm thân này, để ngày ra đi chúng ta được nhẹ nhàng tự tại.
Đây không phải là chuyện trên chữ nghĩa, mà là chỗ cần phải sống. Một bậc thầy của Tây Tạng đánh thức mọi người: “Bạn có bao giờ hiểu, thân chứng về sự vô thường hay chưa? Bạn đã thâm nhập nó trong từng ý tưởng, động tác, hơi thở, đến nổi cuộc đời bạn nhờ vậy đổi mới hay chưa?”. Nhắc mọi người chúng ta luôn luôn tự kiểm lại mình có thật sự hiểu, thân chứng về sự vô thường chưa? Phải thâm nhập trong từng ý tưởng, động tác, hơi thở, phải đi đứng, nằm ngồi, nói cười luôn nhớ về cái chết, thì cuộc đời chúng ta mới đổi mới được. Mỗi người phải tự hỏi mình hai câu sau:
1- Tôi có nhớ hay không rằng tôi cùng mọi người, mọi vật đang tiến dần đến cái chết, và vì thế phải đối xử với mọi chúng sanh bằng lòng bi mẫn?
2- Sự hiểu biết về chết và vô thường nơi tôi, có thực đã trở nên bén nhạy, cấp thiết đến độ tôi đang dành mọi giây phút còn lại của đời tôi để theo đuổi sự nghiệp giác ngộ hay không? Nếu bạn có thể trả lời: “có” ù cho cả hai câu hỏi ấy, thì bạn mới thật sự đã thâm nhập lý vô thường.
Qua hai câu hỏi này có nghĩa là chúng ta phải luôn luôn hỏi mình, có nhớ là chúng ta đang chết hay không? Mình và mọi người ai cũng đang chết, thông cảm cùng hoàn cảnh thì phải đối xử với nhau cho tốt đẹp. Và sự hiểu biết về chết và vô thường, có thật sự cấp thiết đến độ chúng ta dùng tất cả thời gian còn lại của đời mình, để dành cho sự nghiệp giác ngộ hay không? Nếu có thể trả lời: “có”ù cho cả hai câu hỏi, thì chúng ta mới thực thâm nhập lý vô thường, còn chưa là vẫn chưa thật hiểu vô thường.
Hiện nay, có người học Phật thường nói: “Tôi học “minh tâm kiến tánh”, còn nói “vô thường” là chuyện quá xưa, là chuyện của mấy người sơ cơ mới học”. Sự thật, ở đây người nào trả lời “có” trong hai câu hỏi này, mới thật sự hiểu lý vô thường. Chúng ta phải luôn nhớ như vậy, bài học này chúng ta phải học suốt đời, thì việc tu hành sẽ tăng tiến, mới đúng là thấy biết sáng suốt.

TẬP NÓI LỜI XIN LỖI


I/ AI CŨNG CÓ LỖI
Sống trên đời này không ai là không có lỗi. Khắp thế gian này không người nào dám tự hào là mình không có lỗi, nên phải biết nói lời xin lỗi.
Người xưa nói “Nhân vô thập toàn”. Nghĩa là làm người không ai hoàn toàn, mà không hoàn toàn tức là còn có lỗi, có sai sót. Hầu hết mọi người còn sống trong mê, trong cái tương đối, cho nên không thể nào tránh khỏi lỗi lầm. Nếu người hoàn toàn không có lỗi chắc là hiền thánh rồi. Còn là phàm nhân thì ai cũng có lỗi, có sai sót, đâu thể tự hào là mình không có lỗi, chính cái tâm tự hào là lỗi rồi.
Có ông Cừ Bá Ngọc năm 20 tuổi ông đã biết kiểm lại mình và biết lỗi để tận sửa sai sót. Khi qua tới năm 21 tuổi, kiểm lại thì ông thấy lỗi cũng chưa hết. Rồi qua năm 22 tuổi nhìn lại năm 21 tuổi thấy cũng vẫn còn có sai sót. Như vậy, cứ mỗi năm ông tự kiểm lại, tự sửa đổi. Đến năm 50 tuổi vẫn còn nhận ra lỗi lầm của năm 49 tuổi. Thế là phải sửa suốt đời chứ không phải sửa một năm hay hai năm là đủ.
Câu chuyện trên là bài học kinh nghiệm giúp chúng ta bắt chước tập nhìn kiểm lại một năm qua để sửa lỗi và chuẩn bị cho năm tới không còn sai sót. Nhờ vậy, chúng ta dẹp bớt tâm tự hào và thường tự kiểm tra lại mình. 
II/ KHÔNG CỐ CHẤP TỰ MÃN, TỰ CAO TỰ ĐẠI.
Nếu không biết tự kiểm tra lại mình thì đó là một thiếu sót lớn, là thiếu tu. Bởi vì phàm nhân thì phải còn có sai sót, mà có sai có lỗi thì phải sửa. Phải thường tự kiểm tra lại mình để thấy được lỗi, để có tâm khiêm tốn vừa là tự sửa, vừa loại bỏ được tâm tự phụ. Tự phụ là luôn cho mình không có lỗi, luôn luôn đúng, lúc nào cũng hay nên không chịu nghe lời khuyên của ai hết. Từ tự phụ dần đưa đến tự cao tự đại, mà khi đã thành tự cao tự đại thì sao? Hòa thượng Tuyên Hóa giải thích theo kiểu chiết tự chữ Hán: Chữ tự “自” đi với chữ đại “大” thành chữ xú “臭 ” nghĩa là hôi thối. Vậy tự đại là hôi thối.
Khi biết được những ý nghĩa này rồi thì mỗi người phải khéo tự kiểm tra lại mình để khiêm tốn trở lại. Một khi đãø quen tự cao tự đại thì cho là mình hay, là cao nên không chịu nhận lỗi, có khi thà chết cũng không nhận lỗi. Đó là nguy hiểm, là lỗi lầm rất lớn.
Thời Xuân Thu Chiến Quốc, có câu chuyện về một chàng trai tính tình cố chấp (cũng là tự phụ). Hôm đó, anh ta ngồi xe ngựa để đi phương Bắc, giữa đường gặp người bạn già lớn tuổi, mới hỏi: “Anh đi đâu vậy?” Anh đáp: “Tôi muốn đi đến nước Sở”. Ông bạn mới hỏi: “Anh đến nước Sở à! Nghe nói nước Sở ở phương Nam sao anh lại đi phương Bắc, chắc là anh đi ngược đường rồi”. Lúc ấy, nếu anh ta là người khéo biết lắng nghe thì kiểm lại, thấy đi sai đường liền chuyển hướng. Đằng này, anh ta không chịu nhận sai mà còn biện bác trở lại. Nói: “Không sao, ngựa của tôi rất giỏi, anh không phải lo”. Ông bạn nghe vậy, nói: “Ngựa dù giỏi mà đi lầm thì càng đi càng xa”. Nhưng anh vẫn khăng khăng không chịu nghe. Anh nói: “Bác chẳng cần phí tâm như vậy, tôi có đủ lộ phí để đi đường”. Ông bạn già mới nói: “Tiền đi đường của anh dù có nhiều, nhưng phương hướng đã không đúng rồi thì anh làm sao đến được nước Sở dù có tiền đầy túi”. Đến như vậy mà anh ta vẫn cố chấp không nghe. Lại nói: “ Cũng không hề gì, tôi có một người xa phu rất giỏi đánh ngựa”. Anh ta cứ cố chấp bảo vệ cái lý của mình, mặc cho ông bạn lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm giải thích tận tình. Đó gọi là chết cũng không nhận lỗi.
Vậy, cuối cùng anh ta sẽ đi đến đâu? Dù cho có nhiều lộ phí, có ngựa giỏi, có xa phu giỏi nhưng mà lạc đường thì làm sao đi tới đích? Cho nên, nếu biết quay lại từ đầu thì đã nhẹ nhàng, còn khi lạc rồi mà quay trở lại thì càng xa nữa, bởi vì ngựa giỏi chạy càng nhanh thì lạc càng xa. Đó gọi là thiếu tinh thần biết lắng nghe, biết nhận lỗi, khiến người nhìn thấy chỉ biết lắc đầu thương xót.
Đó là một bài học kinh nghiệm cho chúng ta, không nên học theo kiểu đó, không tự phụ, phải biết lắng nghe, tự sửa đổi, biết tự kiểm tra lại mình.
Nhà thiền cũng có câu chuyện, một vị tăng đến bạch với Thiền sư Vô Đức: “Bạch thầy, thời gian con tham học dưới tòa của thầy đã đủ, nay xin từ giã thầy đi du phương hành khước”. Thiền sư Vô Đức bảo: “Làm sao biết đã đủ ?”. Vị thiền tăng thưa: “Dạ, bạch thầy, đủ tức là đầy rồi, cho vào không được nữa”. Thiền sư mới bảo: “Trước khi đi ông hãy đem đến đây một cái chậu đựng đầy đá, ta có chuyện nói với ông”. Ông tăng vâng lời làm theo. Thiền sư Vô Đức nhìn chậu đá nói: “Chậu đá này đầy chưa? ”. Vị tăng trả lời là đã đầy. Thiền sư Vô Đức lắc đầu, thuận tay bốc một nắm cát bỏ vào chậu, không có hạt cát nào tràn ra ngoài, vậy là chưa đầy. Ngài mới hỏi lại: “Vậy đã đầy rồi ư ?” Vị học tăng thấy Thiền sư bỏ nắm cát vào chậu đã phả mặt bằng rồi nên trả lời : “Dạ đầy rồi”. Thiền sư Vô Đức mới lấy một nắm vôi bỏ thêm vào, không thấy chút bột vôi nào tràn ra ngoài, cũng chưa đầy. Ngài hỏi lại: “Vậy đã đầy rồi ư?”. Vị học tăng thưa: “Dạ, đầy rồi”. Thiền sư lại đổ vào chậu một chén nước, cũng không có giọt nào tràn ra ngoài. Thiền sư Vô Đức lại hỏi: “Đã đầy rồi ư?”. Lúc này vị học tăng há hốc miệng không thể trả lời, không còn tự hào cho là sự học đã đủ.
Câu chuyện trên đủ cảnh tỉnh người nào còn mang tâm tự hào, tự mãn, cho cái hiểu, cái thấy, cái biết của mình đúng. Sự kiện này khiến thầy tăng phải luôn cảnh giác tâm tự mãn, biết khiêm tốn học tập.
Chúng ta cũng vậy, nhiều khi chỉ thấy biết theo chủ quan của mình, đâu biết bên trong ngầm vẫn còn có những kẻ hở, những sơ sót chưa thấy hết được. Giống như chậu đầy đá tưởng rằng đã đầy rồi, nhưng nếu tìm sâu hơn nữa thì chậu vẫn chưa đầy. Cho nên, khi bỏ cát vào thì vẫn còn có thể chứa được; rồi cát cũng còn có khoảng hở, nên khi bỏ vôi vào thì cũng chưa thấm gì, đổ nước vào cũng vậy.
Để thấy rằng cái nhìn chủ quan tự cho mình là đầy, là đủ rồi thì đó là sai lầm. Phải biết tự tập đức tính khiêm tốn, thường biết kiểm tra lại mình để tránh bớt lỗi lầm, đó là điều quý nhất. Nếu ai tự cho mình là đủ, là đúng là hay thì nên kiểm lại, đó là kinh nghiệm tự cảnh tỉnh bản thân.
Một câu chuyện khác, có vị thiền tăng tên là Tenno, đến tu học với Thiền sư Nan-in 10 năm. Một hôm, thiền tăng Tenno tự cho mình đã đầy đủ công phu tu tập rồi nên đến từ giã thầy để xuống núi. Thiền sư nói: “ Được, thời gian cũng đủ rồi. Nhưng ta muốn hỏi con: Trước khi vào thất, con để cây dù ở bên phải hay bên trái đôi dép của con vậy?”. Bị Thầy hỏi bất ngờ nên vị tăng bối rối suy nghĩ trả lời. Thiền sư bắt vị tăng ở lại thêm một thời gian nữa. Sau đó, lần thứ hai, vị tăng đến từ giã xin đi. Thiền sư cũng hỏi bất ngờ: “Lúc vào đây, con bỏ dép ở chân nào trước?”. Vì không chú ý, nên vị tăng phải suy nghĩ để trả lời. Vừa suy nghĩ thì Thiền sư nói như vậy không được, hỏi thì phải trả lời ngay, nên bắt vị tăng phải ở lại mấy năm nữa. Qua mấy năm, vị tăng thấy mình đã thành tựu thiền đến mức khả quan, nên lại đến từ giã thầy với một niềm tự tin vững chãi. Thiền sư nhìn vị tăng cười bảo: “Thôi được, con đi cũng tốt. Trời đang gió lạnh, con hãy giúp thầy đóng cửa sổ”. Vị tăng mừng quá, nhanh tay đóng cửa phát ra tiếng động lớn. Thiền sư bắt vị tăng ở lại thêm mấy năm nữa. Nhờ vậy, sau này vị tăng đó trở thành một Thiền sư nổi tiếng ở nước Nhật. Đây cũng là bài học để mỗi người chúng ta tập tính khiêm tốn, bớt lòng tự hào cũng vừa tự kiểm tra lại mình.
Vì chủ quan, chúng ta hay cho là mình tốt hoặc được rồi, nhưng người ngoài nhìn vào thấy vẫn còn chưa được. Cho nên phải giảm bớt tính chủ quan, vì chủ quan dễ đưa đến tự phụ, rồi tự cao, tự đại. Đây là những bài học hiện thực trong cuộc sống tu hành của chúng ta, phải luôn luôn tự kiểm tra bản thân để tu tiến. Có tự kiểm tra lại mình mới thấy được những sai sót; có thấy sai sót bản thân và thấy cả sai sót của người, nhờ vậy khởi lòng cảm thông và bớt tâm tự phụ.
III/ THƯỜNG TỰ KIỂM TRA MÌNH.
Có câu chuyện về hai nhà họ Trương họ Lý. Một hôm, người bên nhà họ Lý qua nhà họ Trương hỏi : “Sao mọi người nhà anh sống với nhau vui vẻ, hài hòa rất là hay; còn nhà tôi năm ba bữa là cãi nhau, nhà anh có thuật sống gì hay vậy?”. Anh họ Trương nói: “Đâu có gì lạ! Mọi người trong nhà tôi luôn thấy mình là người xấu, còn nhà anh ai cũng thấy mình tốt nên mới như vậy”. Anh họ Lý ngạc nhiên:“Là người tốt tại sao lại cãi vã”. Họ Trương mới nói: “Ví như có một chén trà để trên bàn, một người đi qua vô ý đụng cái bàn, bàn chao làm rơi vỡ chén trà. Người nhà của anh không nhận lỗi, mà còn lớn tiếng trách: “ Ai để chén trà không ý tứ, phải để vào trong thì đâu có bể ?”. Người để chén trà cũng không chịu thua, cãi lại: “ Tôi để đó đâu có sao, tại anh vô ý làm bể, còn trách”.
Vì ai cũng thấy mình tốt, mình phải nên mới xảy ra cãi nhau. Còn nếu là người nhà của tôi khi gặp sự việc như vậy sẽ nhỏ nhẹ xin lỗi: “Tôi lỡ vụng làm đổ chén trà, thành thật xin lỗi”. Người để chén trà nghe vậy, cũng sẽ nói: “Cũng không thể trách anh, do tôi sơ ý để chén trà ở gần mép bàn nên mới bị đụng đổ. Đây là lỗi của tôi”. Hai người cùng nhận lỗi hết nên không cãi vã, trong nhà luôn an vui và tốt đẹp. Còn nhà anh ai cũng tốt thì lỗi về phần ai ?
Đây cũng là một kinh nghiệm sống, lỡ gặp chuyện như vậy thì chúng ta cứ nhận lỗi không trách ai. Phật tử hiểu và sống được thì sẽ thấy an vui. Nếu khi có lỗi mà không nhận lỗi thì đó là nguy hiểm, khiến người kia tức giận thành ra cãi vã, tranh chấp nhau cũng từ chỗ đó.
Nếu hai người đều đúng mà hai cái đúng chạm nhau thì tóe lửa, rõ ràng là như vậy. Nên phải nhận lỗi, tập nói lời xin lỗi, đó là yếu chỉ để sống hòa hợp, vui vẻ. Đây là những bài học thực tế, chúng ta phải hiểu được ý nghĩa đó để tập sống hòa hợp. Muốn được vậy thì phải thường tự kiểm tra mình đừng lo kiểm tra người.
Nhờ thường tự kiểm tra mình mới thấy được chỗ yếu, chỗ sai để mà tự sửa. Có ông bác sĩ Triệu là Phật tử, thường lên tòa diễn giảng. Hôm đó, giảng xong ông lái xe về nhà, vừa lái ra cổng thì bị chiếc xe taxi xông tới đụng vào xe ông. Rõ ràng anh tài xế taxi có lỗi, nhưng mà anh này còn mắng to: “Bộ ông muốn chết sao mà chạy như vậy?”. Bác sĩ Triệu tức vì theo luật đi đường thì anh taxi lỗi, đã vậy lại còn lớn tiếng chửi, bác sĩ đáp trả: “Chính anh mới muốn chết”. Tài xế taxi thách thức: “Ông ra đây!”. Bác sĩ nói: “Ra thì ra chứ sợ gì”. Ngay lúc ông sắp mở cửa bước ra khỏi xe, liền thấy nhóm học viên trong hội trường mà ông vừa diễn giảng ra tới, thấy thầy vừa giảng rất hay mà sao mới đây lại sừng sộ như vậy. Bác sĩ Triệu ngay đó tự kiểm lại mình, thấy hổ thẹn, liền đổi thái độ. Hướng về anh tài xế kia: “Thôi tôi xin lỗi anh, đúng là tôi sai rồi”. Anh tài xế ngạc nhiên, nhưng cũng trở lại khiêm tốn, nắm chặt tay bác sĩ: “Đây đúng là lỗi của tôi, chứ không phải ông”. Hai người vui vẻ bắt tay nhau rồi đi.
Các Phật tử thấy chiến trường sắp nổ nhưng mỗi người sớm biết xoay lại, biết nhận lỗi, chỉ cần chịu hạ mình thấp một chút là có thể xong việc. Còn ai cũng tự cho mình là trên, không chịu nhận lỗi nên mới sinh ra chuyện không vui, không tốt.
Chúng ta khéo tập nói được lời xin lỗi là đã giải quyết được bao nhiêu chuyện rắc rối. Chỉ cần một câu nói thôi. Quý Phật tử nào kinh nghiệm sẽ rõ. Nếu đã lỡ làm chuyện có lỗi mà thực tâm xin lỗi thì người kia họ cũng sẽ bớt giận; cũng như ai lỡ làm mình buồn giận mà họ xin lỗi thì mình cũng sẽ bớt buồn.
Như vậy, chỉ một lời xin lỗi thôi mà có thể chuyển họa thành phúc, chuyển rắc rối thành êm đẹp, vậy tại sao chúng ta không dám nói lời xin lỗi, trong khi không tốn công, tốn tiền tốn bạc gì hết? Xét lại thì chỉ vì lòng tự ái mà ra, do tự ái là hàng rào cản nên mới không dám nói. Người học đạo cần phải vượt qua, đó cũng chính là một cách để tự thắng mình.
Kinh Pháp Cú nói:                     Dù tại bãi chiến trường,
                    Thắng ngàn ngàn quân địch, 
                    Tự thắng mình tốt hơn, 
                    Thật chiến thắng tối thượng.
                    Dù thiên thần, thát bà, 
                    Dù ma vương, Phạm thiên, 
                    Không ai chiến thắng nổi, 
                    Người tự thắng như vậy.
Nghĩa là dù cho thiên thần ở cõi trời, dù ma vương hay Phạm thiên cũng không ai có thể bằng người tự chiến thắng mình, đó là một sức mạnh lớn, khó làm mà làm được.
Người biết nhận lỗi là người có sức mạnh lớn, vì người yếu đuối chưa chắc làm được. Nhưng người ta ít dám nhận lỗi mà thường thấy lỗi của người khác. Đó là thói quen ít tự kiểm tra mình mà lại thường kiểm tra người, nên kinh Pháp Cú nói:
                    Dễ thay thấy lỗi người, 
                    Lỗi mình thấy mới khó.
                    Lỗi người ta phanh tìm,
                    Như lựa thóc trong gạo.
                    Còn lỗi mình che giấu,
                    Như kẻ gian giấu bài.
Tức là thấy lỗi người ta thì dễ, thấy lỗi mình mới khó. Lỗi người khác thì cố moi tìm như lựa thóc trong gạo; còn lỗi mình thì che giấu cho qua như kẻ gian giấu bài. Đó là thói quen.
Vì thường thấy lỗi người mà không thấy lỗi mình nên thành ra tự cao tự đại, rồi dễ bực mình, thấy anh đó cứ lầm lỗi hoài, cứ dở hoài mà không biết bản thân mình cũng có cái dở. Cho nên, nếu là người thường soi lại mình, lỡ thấy huynh đệ có sai sót thì cũng thông cảm, vì lâu lâu mình cũng có những cái dở, nhờ vậy ít bực bội. Nếu người mà lúc nào cũng tự cho là mình đúng, là tốt khi thấy người ta sai chút là dễ bực bội, rồi cứ lo trách người mà ít chịu trách mình.
Đó là những kinh nghiệm, là lẽ thật để chúng ta thường tự soi, tự kiểm lại mình, thấy được những cái sai sót của mình, dám nhận lỗi, dám nói lời xin lỗi, tạo không khí vui hòa, cũng là cách tiến tu. Có thấy được sai sót của mình, chúng ta mới sửa để tiến bộ, còn tưởng mình tốt thì không còn muốn nghe ai khuyên dạy nữa, cố chấp như vậy thì lỗi càng nhiều.
IV/ TỰ TRÁCH MÌNH TRƯỚC KHI TRÁCH NGƯỜI.
Một yếu chỉ để sống tốt nữa là phải thường tự trách mình trước khi trách người. Nghĩa là phải khéo tự trách mình trước rồi mới trách người sau, chứ đừng có trách người trước khi trách mình. Thường thì người ta hay trách người khác trước khi trách mình, chúng ta tu Phật phải ngược lại, tự trách mình trước. Đó cũng là cách giải tỏa nhiều phiền não cho mình. Bởi vì cứ lo trách người mà không dám trách mình, cứ đổ lỗi cho người còn mình lúc nào cũng tốt nên dễ sinh phiền não, bực bội bất mãn.
Cuối cùng, thấy ai cũng đáng trách hết, còn mình thì sao? Đây là một kinh nghiệm mỗi khi bị huynh đệ làm điều gì bất như ý cho mình thì phải tự xét tìm xem bản thân đã có khuyết điểm gì, nên người mới đối xử như vậy. Thí dụ họ cư xử tệ, có vẻ khinh thường mình, thì trước khi trách họ chúng ta phải trách mình trước, nghĩ lại chắc mình tu cũng có chỗ khiếm khuyết gì đó, hay đức hạnh của mình còn kém nên mới như vậy. Nếu như đức của mình cao thì họ đâu đối xử xấu. Quán xét kỹ thì sẽ thấy nhẹ nhàng, bớt phiền trách người khác. Tự kiểm mình để tu thêm chút nữa, vun bồi đức hạnh mình thêm chút nữa, được vậy thì tâm nhẹ nhàng và tu tiến thêm. Ngược lại, chưa gì đã trách người khác, thì càng sanh bực bội, càng thêm phiền não, không khí càng nặng nề hơn nữa.
Quý phật tử đã đọc câu chuyện ngài Milarepa, Ngài bị ông thầy ngược đãi một cách vô lý, nhưng Ngài cũng vẫn nhẫn nại, tự trách mình mà không oán giận thầy. Ngài tự trách nghiệp ác mình tạo nên mới gặp hoàn cảnh không hay. Đúng là trước kia Ngài cũng tạo nhiều nghiệp ác nên hiện tại thường tự trách lại mình, và Ngài càng tăng thêm sức nhẫn nhục. Nhờ vậy những quả báo ác của Ngài giảm bớt, và được giác ngộ trong hiện đời, nếu Ngài oán trách thì nghiệp ác không cởi bỏ được. Nếu người biết sống, sẽ có tiến bộ khéo vươn lên. Điều quan trọng là phải thường tự kiểm lại mình, tự trách mình, trách mình trước chứ đừng theo thói quen là trách người ta trước.
Việt Nam có kể câu chuyện về Thiền sư Hiện Quang là vị sư đầu tiên của sơn môn Yên Tử. Có lần, Ngài thấy vị thị giả dâng cơm, bất cẩn xẩy tay rơi mâm cơm xuống đất. Thầy thị giả sợ quá, vội lấy tay hốt cơm vô. Vì hốt vội nên cơm lẫn với đất đem dâng cho Ngài. Ngài thấy vậy tự trách mình: “Ta sống không làm lợi ích cho ai nhiều, nhọc công người cung cấp đến phải như thế.”
Ý của Ngài là thấy mình sống không làm được lợi ích cho ai nhiều mà còn phải làm phiền người. Từ đó, Ngài mặc áo bằng lá cây, ăn các thứ trái lượm được trong núi rừng chứ không dùng cơm để khỏi cần người cung cấp. Trải qua mười năm như vậy.
Đó là tinh thần tự trách mình, người tu được như vậy thì nhẹ nhàng không phiền não. Đây là những phương cách và là kinh nghiệm để chúng ta học hỏi. Người học đạo phải khéo biết soi lại như vậy.
Nhà thiền kể câu chuyện về Thiền sư Lâm Tế - Nghĩa Huyền khi còn đang tham học. Mỗi lần, đến thưa học pháp với ngài Hoàng Bá đều bị ăn một gậy và không trả lời gì hết. Nếu chúng ta đi cầu pháp mà gặp trường hợp như thế thì chắc là oán trách rồi bỏ đi vì ông thầy thô lỗ quá. Nhưng Ngài không trách gì hết, chỉ tự trách mình vô minh, nhiều chướng duyên nên không sáng tỏ được ý chỉ thầy dạy. Chính cái tâm như vậy nên mới tiến bộ, mới thành bậc Tông sư sau này.
Ở Việt Nam cũng có câu chuyện rất hay là “bến đò sáu mươi” nói về Sơ tổ Trúc Lâm.
Bấy giờ, vua Trần Nhân Tông lên núi tu nhưng cũng thường đi giáo hóa, thăm dạy các nơi. Ngài tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) nên mọi người xưng gọi là Trúc Lâm Đầu Đà. Vì Ngài mặc áo tu tầm thường, đi chân trần, nhìn không giống ông vua, nên có một lần đi từ nơi Thiên Trường qua bến đò ở xã Nghi Dương, nay là xã Ngũ Phúc thuộc huyện Kiến Thụy - Hải Phòng để thăm chị gái, tức là công chúa Thiên Thụy, tu ở chùa Nghi Dương.
Lúc ấy, trời sẩm tối có viên xã quan đi kiểm tra chuyển canh. Nhìn thấy vị sư khoác túi vải gầy gò, chống gậy dò đường đi ra bến đò. Vị xã quan đã ngà ngà say, hách dịch hỏi giấy tờ tùy thân của Đại sĩ. Đại sĩ từ tốn nói: “Tôi ở trên núi, lỡ đi có việc gấp nên quên mang theo giấy tờ”. Xã quan liền túm lấy Đại sĩ đấm cho sáu mươi đấm. Vừa lúc đó, gia nhân của công chúa Thiên Thụy tới đón Đại sĩ, thấy vậy mới hoảng hốt quát to: “Đó là Thượng hoàng, sao dám hỗn vậy?”. Xã quan nghe rồi hết hồn, run sợ quỳ rạp xuống lạy xin tội. Đại sĩ ôn tồn bảo tên xã quan phải khéo, từ đây trở đi phải chừa tật rượu chè, hống hách; rồi Ngài quay lại nói với gia nhân công chúa: “Đây cũng do nghiệp chướng của ta, không nên làm khó xã quan”. Vì vậy, từ đó bến đò này mới có tên là bến đò sáu mươi.
Như vậy, Ngài cũng tự trách nghiệp chướng của mình, trước do không khéo tạo nên nay mới gặp chuyện không hay, Ngài không trách người. Một vị vua danh tiếng, một vị Thượng hoàng đầy uy quyền khi bị người sĩ nhục vẫn không oán trách mà chỉ tự trách lại mình. Đối với chúng ta thì việc này có dễ làm không? Đó là những bài học sống, là tinh thần học đạo của người xưa.
V/ TÓM KẾT
Chúng ta học nhiều kinh luận, nhưng chỉ biết nhớ chữ nghĩa mà không ứng dụng ý kinh rồi chuyển thành bài học thực tế trong cuộc sống, thực là thiếu sót. Quý vị nghe giảng chỉ 1 tiếng đồng hồ là xong nhưng thực hành thì làm cả đời cũng không xong. Chỉ cần hai tiếng “xin lỗi” quý vị học cả đời học cũng chưa hết. Không phải đơn giản. Đừng tự hào nói tôi học thuộc hết bộ kinh này, bộ kinh kia…
Muốn học lẽ thực, trước hết chúng ta phải tập để quen “nói lời xin lỗi”. Tại sao phải thực tập? Bởi vì khi nghe thấy dễ nhưng làm thì khó, nên phải tập. Nếu như ai đã làm được rồi thì thôi, nhưng hầu hết chúng ta đều chưa được nên phải thực tập để cho quen, để sống được như vậy. Phải tập “nói lời xin lỗi” để có sự thông cảm với nhau, để dễ dàng dẹp bớt lòng tự phụ. Khi lỡ làm buồn phiền huynh đệ thì chúng ta phải tập can đảm lên, phải mạnh dạn nói lời “xin lỗi huynh, tôi đã làm huynh buồn”. Như vậy, liền có sự chuyển đổi, không khí sẽ nhẹ nhàng, bớt nặng nề. Còn nếu cứ mặt nặng với nhau ngày này qua ngày khác thì buồn phiền càng kết sâu. Sống như vậy có vui gì? Cũng như, nếu lỡ làm người trên buồn lòng thì trước mạnh dạn nói: “Con xin lỗi thầy” hoặc “Con xin lỗi ba mẹ”. Nói được bằng tâm chân thành thì sẽ không ai phiền trách nữa, không khí sẽ nhẹ nhàng an vui, hòa hợp. Phải tập giống như gia đình họ Trương, cả nhà ai cũng là người xấu hết thì không khí an vui, còn ai cũng tốt hết thì cãi vã nhau hoài.
Nếu có ai lỡ làm phiền huynh đệ, phiền người chung quanh mà còn tự ái cố chấp, làm mặt lạnh thì cuộc sống làm sao có sự thông cảm? Có nhiều trường hợp, hai xe đụng nhau, không ai chịu nhận lỗi, người này đổ qua người kia, người kia đổ qua người nọ thành ra cãi nhau; nếu lỡ chạm nhau chỉ cần bước xuống xe nói lời: “Xin lỗi tôi lỡ chạm anh” thì chắc là sự việc nhẹ nhàng. Cũng vậy, trong cuộc sống nếu cứ lo đổ lỗi cho nhau, trở thành bất mãn với nhau, rồi tự sanh phiền não, cuộc sống càng đưa đến tình trạng đen tối hơn, nguyên do cũng chỉ vì cố chấp mà ra.
Cho nên, người học đạo phải khéo tự kiểm tra và phải biết nói được lời “xin lỗi”. Có miệng là nói được. Chỉ cần khéo buông bớt cái “tôi” này một chút thôi thì sống gần với nhau, thương nhau hơn. Sẵn sàng xin lỗi tất cả. Đó là bài học mà tất cả người tu chúng ta cần phải thực tập.
Bây giờ, tôi xin làm gương trước: “Tôi xin lỗi tất cả. Bởi vì lâu nay mỗi lần giảng dạy Phật pháp, phải nói thẳng nói thật, nên nhiều khi cũng đụng chạm, ít nhiều cũng làm mất lòng mọi người nên tôi xin lỗi tất cả”. Khi nói thật thì có khi cũng đụng chạm cái tôi của mọi người. Nhưng học Phật là học sự thật, thì phải nói lời thật để khéo sống chân thật cùng tiến lên. Nay xin được nói lời xin lỗi, vì đây là việc làm rất là bổ ích trong cuộc sống của bản thân mỗi người. 

Thursday, November 4, 2010

Oan gia - MP3 Thầy Thích Trí Siêu giảng tại Chùa Linh Quang.

Tuesday, November 2, 2010

Chè khoai lang tím


Món chè này rất hấp dẫn bởi màu sắc, hương vị. Màu tím đặc sắc của khoai lang, mùi khoai thơm trộn với mùi vani và nước cốt dừa rất là quyến rũ. Vị ngọt vừa phải, bùi của khoai, béo của nước cốt dừa. Túm lại món này được cả chồng và con mình thích.
Nguyên liệụ (cho khoảng 6 bát chè)
- Khoai lang tím: 600g(nguyên củ)
- Đường: 100g
- Vani: một chút
- Nước cốt dừa(tự làm ngon hơn nước cốt dừa đóng hộp)
- Nước: khoảng 400ml.
Cách làm:
- Khoai lang rửa sạch, luộc hoặc hấp chín.
- Để khoai nguội, bóc vỏ, xắt lát mỏng.
- Cho khoai , đường, nước vào máy xay sinh tố, xay nhuyễn. (Lưu ý chi cho nước, lượng nước vừa dủ ngập khoai thôi.)
- Cho hỗn hộp đã xay nhuyễn vào xoong, đặt lên bếp đun nhỏ lửa, vừa đun vừa quấy cho đến khi sôi.
- Cho vani, múc chè ra bát. Khi ăn đổ nước cốt dừa lên mặt bát.
- Có thể ăn nóng hoặc lạnh đều rất ngon.
http://my.opera.com/haidieugiandi/blog/?startidx=90