Friday, December 3, 2010

Chúng ta vì sao chưa thành Phật? Bởi vì chúng ta vẫn còn "lậu hoặc"!

HT Tuyên Hóa

(Trích Kinh Địa Tạng Lược Giảng - Phẩm thứ nhất)

 

 

"Thần Thông". Thế nào gọi là "thần"? Thế nào gọi là "thông"? "Thần" là "thiên tâm", là tâm của trời; "thông" là "huệ tánh", tức là có trí huệ. "Thông" còn là "thông đạt vô ngại" - chẳng có gì không thông suốt; và "thần" cũng hàm ý thần kỳ bí ẩn.

Thần thông có sáu loại - sáu loại cũng là một loại, một loại mà phân làm sáu loại. Cho nên, tách riêng ra thì có tới sáu loại, song hợp lại thì chỉ là một. Thật ra, một loại cũng chẳng có nữa, bởi xưa nay vốn không có thần thông mà vốn cũng có thần thông!

Vì sao nói "vốn không có thần thông"? Vì sao lại nói "vốn cũng có thần thông"? Ðiều này rất kỳ diệu, lý thú. Bây giờ, chúng ta hãy nói về sáu loại thần thông trước, rồi sau đó sẽ bàn đến "vốn là thần thông, vốn không phải là thần thông; vốn là một loại thần thông, vốn là một loại thần thông cũng chẳng có."

Sáu loại thần thông chính là Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông, Lậu Tận Thông, và Thần Túc Thông.

1) Thiên Nhãn Thông. Người chứng được Thiên Nhãn Thông có thể nhìn thấy khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới rõ ràng như nhìn quả am-ma-la trong lòng bàn tay vậy. Trong hàng đệ tử của Phật, Tôn Giả A Na Luật là bậc đứng đầu về Thiên Nhãn Thông.

2) Thiên Nhĩ Thông. Chứng được Thiên Nhĩ Thông thì có thể nghe được mọi âm thanh từ cõi nhân gian cho đến tận ba ngàn đại thiên thế giới, luôn cả các âm thanh của cõi trời.

3) Tha Tâm Thông. Ðây là khả năng đọc được ý nghĩ của người khác. Tất cả những việc mà quý vị dự tính trong đầu, định sẽ thực hiện, thì cho dù quý vị chưa hề thổ lộ với ai cả, nhưng người đã chứng đắc Tha Tâm Thông vẫn có thể biết rõ.

4) Túc Mạng Thông. Người chứng đắc Túc Mạng Thông có khả năng biết được tất cả những việc - thiện cũng như ác - mà quý vị đã tạo tác trong các đời trước.

5) Thần Cảnh Thông (cũng gọi là Thần Túc Thông hoặc Như Ý Thông). Chữ "thần" này đồng nghĩa với chữ "thần" vừa giảng ở trên, và cũng chỉ cho một cảnh giới kỳ diệu, không thể nghĩ bàn. Ý nghĩa của chữ "thần" và chữ "diệu" có đôi chút tương đồng; cho nên có lúc nói "thần diệu khôn lường", chính là ám chỉ một thứ cảnh giới không thể nghĩ bàn.

"Cảnh" là cảnh giới; còn "thông" là thông đạt vô ngại, vốn không thông mà lại thông. Thí dụ, bức tường chắn ngang tuy có gây trở ngại, nhưng nếu quý vị khoét một lỗ hổng thì sẽ được thông lưu. Tương tự như thế, "bức tường" vô minh gây chướng ngại, ngăn che ánh sáng quang minh của tự tánh trong chúng ta; song, nếu quý vị có thể dùng "gươm" trí huệ của mình để phá vỡ bức tường đó, thì sẽ được thông suốt ngay.

6) Lậu Tận Thông. Chúng ta vì sao chưa thành Phật? Bởi vì chúng ta vẫn còn "lậu hoặc"! Chúng ta vì sao chưa thể làm Bồ Tát? Bởi vì "lậu hoặc" vẫn tồn tại trong chúng ta! Chính vì lậu hoặc mà chúng ta phải trầm luân trong Tam Giới - Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Chẳng những thế, các lậu hoặc này còn khiến cho chúng ta bị lưu lạc, nổi trôi trong chín Pháp Giới. Chín Pháp Giới là gì? Ðó là chín cõi giới của Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, Thiên (Trời), Nhân (Người), A Tu La, Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ và Súc Sanh. Chúng sanh trong chín Pháp Giới này chưa thể thành Phật được là vì họ còn có lậu hoặc; nếu không còn lậu hoặc nữa thì nhất định sẽ thành Phật.

Lậu hoặc này do đâu mà có? Chính là do vô minh! Cho nên, hễ diệt trừ được vô minh thì lậu hoặc sẽ không còn nữa; nếu vô minh chưa bị phá hủy thì lậu hoặc vẫn còn tồn tại. Do vậy, người chứng được Lậu Tận Thông chẳng có bao nhiêu. Một khi không còn lậu hoặc thì quý vị sẽ không còn phải trôi lăn trong vòng sanh tử nữa. Tại sao chúng ta vẫn còn luẩn quẩn trong vòng sanh tử? Ðó là vì chúng ta có lậu hoặc! Người có lậu hoặc ví như cái bình bị lủng vậy - quý vị muốn đổ nước cho đầy bình, nhưng nước cứ rỉ ra ngoài theo chỗ lủng, bình không thể giữ được nước. Cho nên, dứt sạch mọi mối lậu tức là được "lậu tận thông" vậy.

Nói rằng con người "vốn không có thần thông", là ám chỉ lúc chúng ta còn là phàm phu, chưa hiện thần thông. Lại nói rằng con người "xưa nay vốn có thần thông", bởi y cứ vào quả vị của bậc Thánh nhân mà nói thì thần thông vốn đã có sẵn. Hạng phàm phu thì không có thần thông, bậc Thánh nhân mới có thần thông. Thần thông của Thánh nhân phải chăng là đến từ bên ngoài? Không, đó là có sẵn! Thế thì phàm phu không có thần thông, phải chăng là vì họ đã đánh mất? Cũng không phải, bởi thần thông ấy vẫn tiềm tàng trong tự tánh của phàm phu; chẳng qua là họ chưa phát hiện ra, chưa nhận thức được, nên tưởng rằng mình không có mà thôi! Cho nên, tôi nói "vốn không có thần thông" là vì lẽ ấy.

Có thần thông hay không có thần thông đều chẳng quan trọng. Quý vị chớ lầm tưởng rằng có thần thông tức là đắc Ðạo hoặc chứng được quả vị. Phải biết rằng có được thần thông rồi vẫn còn ở cách sự chứng quả và đắc Ðạo rất xa! Chúng ta không nên mới đạt được đôi chút thành tựu liền tự mãn: " - , phen này tôi phát tài rồi!" Mới có được một lượng vàng mà đã reo mừng rối rít, cho là mình phát tài; trong khi người ta có tới hàng ngàn hàng vạn lượng vàng thì lại không hề khoe khoang, vẫn bình thản như không có gì cả vậy! So với người ta thì việc mình có được một lượng vàng có gì là to tát đâu? Có câu:

Được ít cho là đủ, nửa đường tự ngừng

(Đắc thiểu vi túc, trung đạo tự hoạch)

Những kẻ chỉ mới gặt hái được một vài thành quả nhỏ nhoi mà ngỡ là nhiều lắm, thì chẳng khác nào tự vẽ sẵn mức đường giới hạn cho mình ở nửa đường, đến mức đó thì ngừng lại, không lướt tới nữa. Ðó là cảnh giới của hàng Nhị Thừa, chứ không phải là căn tánh Bồ Tát của Ðại Thừa. Cho nên, đừng nghĩ rằng có thần thông là tài giỏi. Nếu quý vị có thần thông rồi tự phụ, cho rằng mình tài giỏi hơn người, thì quý vị còn quá nông nỗi - bởi như thế là quý vị vẫn còn tâm chấp trước, còn lòng tự mãn.


Chữ Ký__________________________________________
Con xin cung kính đảnh lễ tất cả chúng sanh trong Pháp Giới cũng như các Chư Phật Vị Lai .
http://chuavanphat.org

Thursday, December 2, 2010

HÃY BUÔNG RA

Tôi nghe buổi Thuyết Pháp tại chùa Thiên Môn.  Xin thuật lại để quý vị cùng nghe.  Sau phần thuyết giảng, đến phần Pháp đàm.  Thầy mời quý Phật tử đặt câu hỏi để cùng thảo luận.  
Tận cuối hội trường, có một ông già, đứng dậy chắp tay cung kính xin hỏi:
-  Kính bạch thầy.  Con hiện đang bị bệnh.  Hết đau đầu đến đau khớp, đau thận, tiểu đường, cao huyết áp.  Bây giờ lại bị bại một chân nữa ạ! 
Suốt đêm qua con trằn trọc mãi không sao ngủ được do bệnh nó hành hạ xác thân…  Cúi xin thầy từ bi thương xót chỉ bảo cho con làm sao cho hết đau bệnh?  Xin thầy cầu nguyện Đức Phật gia hộ cho con được hết bệnh, khỏe mạnh như xưa …
Thầy lên tiếng nhỏ nhẹ, thong thả nói:
-  Thưa bác, thưa đạo hữu.  Đức Phật đã dạy:  Cõi thế gian tràn đầy đau khổ!  Trong đó có định luật:  SINH, LÃO, BỆNH, TỬ thì đau khổ vô cùng mà bác thì đang đi vào giai đoạn “Bệnh tật”, tức giai đoạn “Hư hoại”
Vạn vật là thế; tất cả đều bị luật “Vô Thường” chi phối.  Chẳng hạn như cái áo bác đang mặc, khi mới mua về, trông thật đẹp đẽ, mềm mại, óng mướt, tươi thắm… Nhưng nay bác mặc đã lâu rồi; màu đã bạc, gấu đã sờn, vai đã rách và vải đã mục. 
Nó đang ở tiến trình “Hư Hoại”
Không có gì có thể còn mãi được, vì bản chất tự nhiên là như vậy, mà thân xác bác cũng đang như vậy.  Ngay khi bác mới sanh ra thì bác trẻ trung, khỏe mạnh, xinh đẹp, rồi bác lớn lên trông rất đẹp trai, kháng kiện. 
Giờ đây bác đang già yếu và đang ở thời kỳ bệnh hoạn (Sanh, Trụ, Hoại, Diệt).  Vậy bác phải chấp nhận điều đó, bác hãy thấu hiểu bản chất của nó, để bác phải chấp nhận nó mà sống An-Lạc với nó, dù nó ở bất cứ giai đoạn nào.
Bây giờ thân thể của bác đang bắt đầu suy yếu, hư hoại theo tuổi đời chồng chất.  Thì bác đừng cưỡng lại điều đó, vì đó là quy luật tự nhiên của thân xác.  Chân lý không bao giờ thay đổi đó là: 
Sinh ra > Già cỗi > Bệnh hoạn > Rồi chết đi!  
Không cách chi làm khác đi được.  Thời gian vận hành của định luật đã chín mùi rồi đấy bác ạ!
Ông già đó nói tiếp:
-  Bẩm thầy, nhưng con chưa muốn chết vội, vì con và cháu của con chưa khôn lớn.  Nhất là còn nhiều công việc con đang làm dở dang chưa hoàn tất, con cần giải quyết cho xong trước đã.
-  Ồ!  Tất cả chỉ là vậy, bác chẳng làm gì khác hơn khiến bác phải lo lắng.  Công việc của thế gian, bác hãy để mặc thế gian cho họ tự giải quyết lấy. 
Bác nên hiểu rằng:  Giầu hay nghèo, già hay trẻ, đẹp hay xấu, người hay vật.  Bất cứ ai, bất cứ vật gì, bất cứ ở đâu cũng không thể giữ mãi tình trạng nguyên thủy như lúc ban đầu được. 
Mọi người, mọi vật đều phải thay đổi khác đi theo một định luật:  Sinh, Trụ, Hoại, Diệt mà không cách chi sửa đổi được.  
Điều mà bác có thể làm được là bác tự quán chiếu, soi rọi về thân xác và tâm thức của bác, để bác thấy tính:  “Vô ngã” của vạn vật.  Để không thấy có cái gì là “Tôi” hoặc là “Của tôi”, mà tất cả chỉ là Giả có, Tạm có mà thôi.
(Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng = Cái gì có hình có tướng, đều là giả có, chứ không thật có).
Ngay như nhà cửa, sự nghiệp, danh vọng, vợ, chồng, con cái của bác cũng chỉ là:  “Của bác trên danh nghĩa, chúng không thực sự thuộc về bác. Chúng thuộc về tự nhiên !!!  Như lời bác vừa cầu mong, chẳng những không đạt được.  Thân bác vẫn đau đớn như thường và cách suy nghĩ sai lầm của bác còn đau khổ hơn nhiều nữa.  
Vì cầu mong mà không được như ý là khổ
(Cầu bất đắc khổ).  
Bởi vậy, bác phải nhìn mọi thứ đúng theo bản chất của nó và đừng níu kéo nó, đừng tiếc thương nó:  “HÃY BUÔNG NÓ RA”.  Bác hãy rũ sạch mọi thứ bên ngoài.  “Bác hãy “Buông ra !”.  Bác đừng bám víu cha, mẹ, vợ, chồng, con cái, quyến thuộc, tài sản, công danh, sự nghiệp v…v… 
Vì những thứ đó bác không thể mang theo được, hoặc bác không “buông”, thì nó cũng phải “buông” bác mà thôi.  Cho nên bác “Hãy Buông Ra!”, bởi vì mọi thứ đều là “Không” là “Huyễn” là “Vô Ngã”:  “Không tôi và Không của tôi”.  
Tất cả rồi sẽ biến mất; chẳng còn gì.  Bác phải nhận biết cho bằng được điều này, và sau khi biết rồi thì bác hãy “Buông tất cả”
Đừng bận tâm về con cái, bây giờ chúng còn trẻ.  Rồi mai này chúng cũng sẽ già y như bác ngày hôm nay.  Không một ai trên thế gian này có thể trốn thoát được định luật:  “Sinh, Trụ, Hoại, Diệt”.  
Nếu bác “Buông ra” được mọi thứ thì bác mới thấy được “Chân Lý”.  Vậy bác đừng buồn phiền, lo lắng và đừng ôm giữ bất cứ điều gì thì bác sẽ thấy tinh thần thanh thản trong mọi tình huống bác ạ!
Ông già hỏi nữa:
-  Bạch thầy, nghe thầy dạy dễ quá, nhưng làm sao con “Buông ra” cho được?
-  Nếu bác “Buông ra” không được thì bác sẽ vô cùng đau khổ.  Và không chịu “Buông ra” cũng chẳng được.  Bởi vì mọi thứ nó không thuộc về của bác, kể cả chính xác thân của bác nữa. 
Lúc này bác hãy tập trung tâm tưởng, để cho nó được an nhiên tự tại, còn mọi việc đã có người khác lo.
Bác hãy tự nhủ lòng rằng:  “Chung sự” (Tôi hết việc rồi )
Tư tưởng ham sống lâu sẽ làm bác đau khổ.  Cho dù bác mong muốn thiết tha tới đâu cũng chẳng được.
Muôn sự đều vô thường và luôn luôn không cố định…  “Sau khi sanh ra > Nó biến hoại > Sau khi sanh ra > Nó diệt đi !”  Đức Phật cũng thế, bác và cả bàn dân thiên hạ cũng đều như thế.  Vậy mà bác muốn xác thân bác còn tồn tại mãi sao được?
Bác hãy nhìn vào hơi thở thì biết.  Nó đi vô rồi lại đi ra, bản chất của nó là vậy.  Bác chẳng thể ngăn cản sự đi ra và đi vô của nó được.  
Bác thử nghĩ coi:  “Có thể nào bác thở ra mà không thở vào được chăng?”  Tức là hơi thở nó đi vào, rồi nó lại đi ra.  Khi nó ra rồi thì nó lại phải đi vào.  Tự nhiên là như vậy, không cách chi làm khác được. 
Y chang sự quá trình bác Sanh Ra > Rồi Già Nua > Rồi Bệnh Tật > Rồi Chết Đi!
Đó là điều hoàn toàn tự nhiên và bình thường … Nếu bác không sanh ra, thì bây giờ bác đâu có bị đau vì bệnh!  Và lấy gì để mai mốt bác chết!   Bác có hiểu điều đó không ???
-  Bạch thầy, con ngộ được những gì thầy vừa dạy, nhưng con vẫn lo sợ quá chừng!
    Thầy cầm ly nước uống nhấp giọng, đoạn thày nói thêm:
-  Bác nên hiểu rằng:  Vạn sự ở đời đều là như vậy, khi bác nhận thức được đúng đắn thì bác đừng do dự: 
“Hãy Buông Ra Tất Cả, Hãy Dẹp Bỏ Tất Cả”.  Dù bác không buông nó ra thì mọi thứ nó cũng bắt đầu buông bác ra đó.
Này nhé!  Như những bộ phận trong cơ thể của bác nó cũng đang muốn rời xa bác đấy.  Vì những bộ phận ấy nó đã sống đủ thời hạn với bác rồi, nên nó sắp ra đi đó.
Bản chất của nó là: “Đã đến, thì phải ra đi”.  Bởi thế gian là không có sự bình thường hay mãi mãi, dù bất cứ ở đâu, bất cứ thời nào, bất cứ thành phần giai cấp nào; người giầu có, kẻ nghèo khó, người lớn cũng như trẻ nhỏ, người có học cũng như người thất học v...v... 
Cũng không thể có sự bình thường được.  Ai ai cũng phải xoay vần theo luật “Vô Thường” chi phối.  Quán triệt được điều đó, bác sẽ chả còn quyến luyến bất cứ sự gì.  
Bác hãy "Buông ra" chứ không còn nắm giữ được nữa, vì có giữ cũng chẳng đặng.  Bác buông ra, thì tâm bác sẽ thảnh thơi, An-Lạc; không buồn mà cũng chẳng vui, không khiếp sợ và cũng chẳng lo lắng.  Lúc bấy giờ lòng bác sẽ an ổn với trí tuệ hiểu biết:  
“Vạn vật không bao giờ có thể thường còn mãi mãi được”.

“ĐẶC TÍNH PHẢI ĐỔI THAY CỦA VẠN VẬT, KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI”.

Nếu bác có nhiều thứ, bác sẽ phải bỏ lại nhiều thứ.  Nếu bác có ít thứ, bác sẽ bỏ lại ít thứ; giầu có là giầu có, nổi danh là nổi danh, sống lâu là sống lâu… chẳng có gì khác biệt, mọi sự cũng thế thôi!  
Vậy bác hãy Buông nó ra, Buông cho đến khi nào tâm trí bác hoàn toàn An-Lạc!  Mọi sự bác không còn cảm thấy khổ đau hay sung sướng.  Mọi thứ bác không còn thấy là của bác nữa.  
Sung sướng và khổ đau cũng đều Hoại, Diệt và Mất tiêu như nhau…  Duy chỉ có một thứ là còn và còn vĩnh viễn là của bác.  Đó là “Phật tánh” là vĩnh cửu của bác mà thôi.
-  Bạch thầy, con đã ngộ !!!
-  Vậy sao!  Bác giải thích xem nào?
-  Thưa thầy, chỉ có định luật:  “Vô Thường” là bất biến, là vĩnh cửu, là thường còn.  Ngoài ra, tất cả các Pháp; muôn vàn vạn sự ở đời này đều luôn luôn biến đổi không bao giờ ngừng. Chẳng hạn như:
*  THÂN VÔ THƯỜNG:  Nay khỏe mạnh, mai ốm đau.  Nay đang sống, mai đã chết…
*  TÂM VÔ THƯỜNG:  Nay đang mến thương nhau, mai chuyển sang hận thù, ân oán nhau…
*  TÀI SẢN VÔ THƯỜNG:  Của cải nay còn, mai hết.  Tức là tiện nghi vật chất không thể tồn tại mãi được… Vật thể này biến đổi chất liệu thành ra vật thể khác.  Sự vật không bao giờ cố định cả.
Thầy cười hoan hỷ, đoạn thầy hỏi:
-  Đúng, bác hiểu khá đấy, như vậy bác sẽ làm gì khi bác hiểu như vậy?
-  Bạch thầy, con sẽ buông ra tất cả mà không bám víu vào bất cứ điều gì trên thế gian này.  Để mọi sự chảy xuôi như dòng nước.  Tính của nước luôn chảy xuống chỗ trũng (Thủy lưu tại hạ), dù chỗ đó là đất hay cát, hoặc ruộng vườn. 
Bản chất của nước là như vậy, con cũng phải giữ tâm như vậy.  Tại sao?  Bạch thầy, bởi vì nước luôn chảy một cách tự nhiên xuống chỗ thấp mà không có cách nào cho nó chảy ngược một cách tự nhiên lên trên cao được.  Đó là định luật của càn khôn vũ trụ mà thầy vừa chỉ dậy cho con.
-  Vâng!  Bác hiểu được như thế, tức là bác đã thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ của bác rồi đấy.  Bây giờ chỉ còn một điều là bác đưa vào thực hành những gì bác vừa chứng ngộ là đạt được “quả Phật” rồi đó.
Ông già ngạc nhiên thưa:
-  Bạch thầy, con ngỡ là thành Phật khó lắm chứ!  Đâu đơn giản như thầy vừa nói? 
-  Phật đã có sẵn ngay trong bác rồi.  Nguời đời thường mang ông Phật thật, đi tìm kiếm ông Phật ở ngoài, ở chốn xa xôi không sao thấy được, để cầu xin van vái …
Trong lúc ông Phật ở ngay trong mình thì lại bỏ quên.
-  Bạch thầy, con vốn ngu tối xin thầy khai thị cho con được rõ ràng hơn, chứ thầy nói như thế làm sao con hiểu được.
-  Có khó gì đâu:  “Phật Tức Tâm”.  Mọi người trong chúng ta đã có sẵn một ông Phật ở trong ta rồi.
 Nhưng vì u mê tăm tối, nên tham lam:  Sắc, Tài, Danh một cách vô độ mà không hiểu rằng những thứ đó do nhân duyên giả hợp mà tạm có.  
Hợp rồi tan, sanh rồi diệt!  Ngay như xác thân bác cũng tạm có đó.  Rồi trở thành không đó có bao lâu!  Tựa hồ như bóng phù du, như ào ảnh, như khói sương … Nhưng vì si mê chạy theo níu kéo nó.  Nên thành chúng sanh mà thôi. 
Bây giờ bác đã giác ngộ và bác buông ra những thứ mà trước đây bác bám víu vì ngỡ là thật…  Vậy là bác đã thành Phật rồi.  Bởi Phật và Chúng sanh vốn chỉ khác nhau có một bước:

MÊ LÀ CHÚNG SANH, GIÁC NGỘ LÀ PHẬT

Phật và chúng sanh, chỉ khác nhau có vậy.  Thí dụ:  Ông Bà thân sinh ra bác, cho bác ăn học tới nơi tới chốn; là con người trí thức đàng hoàng...  Nhưng vì u mê!  Bác ham chơi, đàn đúm với chúng bạn, sa đà say sưa trác táng, hưởng thụ thú vui vật chất, dẫn đến sa đọa hư hỏng.  Khi ấy, bác là kẻ tồi tệ xấu xa…  Nay gặp duyên may bác giác ngộ.  Thấy được lẽ thật.  Bác bỏ con đường hư thân mất nết, trở lại con người thật của mình…  Với bằng cấp và kiến thức có sẵn của mình.  
Bác tận tụy làm ăn, liêm chánh, giữ uy tín đạo đức… Là bác trở thành người cao sang, quý phái… Như vậy, một con người của bác có hai giai đọan:
(a)  Giai đoạn 1:  Bác là kẻ xấu xa, cho dù bác có bằng cấp là người học thức.
(b)  Giai đoạn 2:  Bác là người cao quý.  Do bác “Giác Ngộ” được chân lý đạo Pháp…
Tức là trước thì bác là kẻ xấu xa do vì u mê!  Sau bác thành người cao quý do bác giác ngộ.  Nghĩa là xấu xa hay cao quý cũng chỉ khác nhau có u mê hay giác ngộ mà thôi.  Và Phật hay chúng sanh cũng chỉ khác nhau có thế …
Đoạn thầy đọc bài kệ:

Chiều nay lộng gió thu về
Lá vàng tơi tả tràn trề khắp nơi.
Đời người như hạt sương rơi
Lung linh một thoáng mặt trời chiếu tan.
Thân em như đóa hoa Lan
Người đời yêu thích muôn vàn đắm say
Nhưng rồi chẳng được bao ngày
Cánh hoa tàn úa đổi thay hoàn toàn ...
Bài này CN  cũng nhận được từ người bạn...

ÔNG LÃO TRONG AN DƯỠNG ĐỊA

Thích Tịnh Từ 

An Dưỡng Địa là một khu nhà mồ ở Phú Lâm, gần bến xe đi về lục tỉnh. Trong khu An Dưỡng Địa có chùa Huệ Nghiêm, có tháp Phổ Đồng. Tiền thân cuả chùa Huệ Nghiêm là Viện Phật Học Phổ Thông được thành lập đầu năm 1964, rồi chuyển qua Viện Phật Học Chuyên Khoa đầu năm 1971. Tôi và ba thầy Liêm Chính, Toàn Châu, Thiện Tường được Viện Trung Đẳng Chuyên Khoa Phật Học Liễu Quán ở Huế gửi vào đây học thêm bốn năm. Sau ba năm tu học theo chương trình cuả Viện, tôi đi thêm đoạn đường dài là đến tu học, hoằng hoá tại Hoa Kỳ.

Ở An Dưỡng Địa nổi tiếng có nhiều ma. Đêm đêm ra các nhà mồ ngồi ngắm trăng hay tham thiền một mình thì có thể gặp các cô gái tóc dài, đội nón lá xuất hiện ngồi khóc nỉ non trên các nấm mộ. Vì sự đồn đại có vẻ "dễ sợ" này mà trên 40 thầy giảng sư của Viện Cao Đẳng thường "cấm túc" khi bóng đêm buông xuống. Riêng tôi thì rất lỳ, không hề sợ chuyện ma quái. Chuyện các cô gái bận áo trắng, xoã tóc dài, đội nón lá khóc nỉ non trên các nấm mộ là chuyện rất lôi cuốn cái tâm hiếu kỳ cuả tôi.

Để coi việc ma là có thật hay hoang đường, một hôm vào mùa Đông tối trời vào khoảng 11 giờ đêm, tôi bận áo ấm, đầu trùm mũ len, mình khoác áo mưa, trong từng bước một chậm rãi và thầm niệm bài chú Đại Bi, đi đến các nấm mồ ở An Dưỡng Điạ để quan sát hư thật. Khi đến nhà mồ thì tinh thần tôi bị rối loạn, răng đánh bò cạp, đôi chân bị cứng lại và không di chuyển được. Tôi có ý nghĩ là mình nên ngồi xuống với tư thế "kiết già phu tọa, bắt ấn hàng ma". Nhưng không thể nào làm được, con người tôi lúc bấy giờ như một cây khô trồng giữa các nhà mồ sang trọng và giữa các nấm mộ nghèo, phủ đầy cỏ dại. Chuyện gì xảy ra?

Trước mắt tôi, không phải là các thiếu nữ bận áo trắng phủ tóc dài và ngồi khóc nỉ non, mà trước mắt tôi là một đám trẻ tàn tật, trần mình, đang bò lết chung quanh các nấm mộ, các nhà mồ sang trọng để tìm kiếm thức ăn: nào là trái cây, bánh chuối, xôi chè và đôi khi có cả đầu heo quay, gà quay, vịt quay nữa. "Các trẻ con ấy là những người chết không siêu hoá, nên làm thân cô hồn, là các vong linh không nơi nương tựa, đói khổ. Và chúng cứ đợi khi mặt trời lặn, bóng đêm xuống thì kéo nhau đi kiếm ăn từ nhà mồ, cho tới nhà cầu, bếp núc, thùng rác, máng heo...có nhiều thức ăn dơ bẩn, sót lại". Tôi nghĩ như vậy khi chứng kiến đám trẻ con mò mẫm tìm kiếm, tranh giành miếng ăn trên các nấm mộ. Vì vậy mà tâm tôi bị xúc động và thân tôi hoá thành gỗ đá, đứng trơ trơ như trời trồng. Ngay lúc đó, dưới ánh trăng non vằng vặc, tôi thấy một ông lão đầu trắng xoá, râu dài, tay chống gậy xăm xăm đi tới nơi các trẻ con ra hiệu cho chúng ngồi xuống. Có khoảng mười mấy đứa con nít tàn tật đều răm rắp tuân theo "lệnh" cuả ông lão, ngồi xuống chung quanh các nấm mộ. Bây giờ ông lão lên tiếng dạy bảo chúng những lời rành mạch đầy trìu mến: "Này các cháu! Trước khi ăn thức ăn nầy các cháu phải biết đọc lời cầu nguyện để bày tỏ lòng hiếu kính và biết ơn. Các cháu nên cùng nhau chắp tay đọc lời cầu nguyện với ta. Dạy xong, ông lão cất tiếng đọc và lũ con nít đọc theo:


"Kẻ chết oan không nơi nương tựa
Quanh quẩn chung quanh các nấm mồ
Lắng nghe câu niệm Phật siêu độ:
Nam Mô Cứu Khổ Quán Thế Âm
Nam Mô A Di Đà Kim Sắc
Nam Mô Cứu Khổ Quán Thế Âm
Nam Mô A Di Đà Kim Sắc..."


Tiếng niệm đều đặn, liên tục, trầm hùng danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm, danh hiệu Đức Phật A Di Đà đầy màu nhiệm dưới ánh trăng. Nghe tiếng cầu nguyện cuả ông lão và các em bé, khiến tôi ấm lòng, trầm tỉnh và buột miệng tôi cũng niệm theo câu niệm Phật rất chí thành. Bỗng một cơn gió mạnh thổi ngang qua, với từng tiếng rít dài, toàn thân tôi nghe lành lạnh, rồi phút chốc các hình ảnh trước mắt tôi tan biến. Tôi bàng hoàng và cảm được sự có mặt cuả sự sống trong cõi vô hình. Cũng từ đó, hằng đêm tôi thường đến các nấm mồ để nói pháp cho các vong thức, âm linh, cô hồn nghe. Có khi kiếm được tiền, tôi đã mua rất nhiều thức ăn, trái cây, bắp nổ, bông hoa và các loại kẹo bánh đem ban phát cho các cháu qua đời chưa siêu, còn vãng lai đêm đêm trên các nhà mồ nơi khu An Dưỡng Địa.

Trước khi đi Mỹ, tôi có ra nhà mồ An Dưỡng Địa để nói pháp và bố thí thức ăn cho các âm linh cô hồn lần cuối. Trong mắt tôi, chẳng thấy bóng dáng ông lão và các cháu nhỏ tàn tật nào cả. Nghĩa là tôi chỉ thấy một lần đêm đó mà thôi. Tôi ước ao được gặp họ lần nầy để từ giã, vì ngày mai khoảng 25 tiếng đồng hồ máy bay cất cánh là tôi có mặt tại Hoa Kỳ, không còn trên quê hương và không còn có cơ hội sinh hoạt đời sống tâm linh với những người quá cố tại An Dưỡng Địa nữa. Tôi ước ao và ngồi niệm Phật chờ đợi; chờ đến 1 giờ khuya mà chẳng thấy em thơ nào cả. Tôi nghĩ là tất cả các cháu đã được đi đầu thai và siêu hoá? Trên đường từ khu nhà mồ trở về phòng, tôi gặp ông lão. Ông bảo là ông gặp tôi lần này là để chúc tôi lên đường đi Mỹ. Ông xác chứng là các cháu nhỏ và nhiều âm linh, cô hồn, đã nhờ nghe giáo pháp của tôi vài lần mà tỉnh ngộ và được vãng sanh về cõi Tây Phương. Trước khi ẩn hình, ông lão có dặn dò tôi mấy điều:

"Ngày mai đi xa là tốt
Quyết đi ngay chớ chờ đợi
Năm 42 tuổi lên núi
Ngược bến thuyền qua đến bờ"

Tôi vừa nhẩm đọc lại bốn câu trên hai lần để nhớ, ông lão trầm ngâm một hồi rồi nói tiếp:

Nhớ mang diệu ngữ trao truyền
Nhớ nuôi nhân sự nối liền tông môn
Nhớ thắp đèn buổi hoàng hôn
Nhớ xây tu viện bảo tồn chánh nhân".


Tôi định hỏi vài điều về tương lai, nhưng ông lão biến mất. Cho đến bây giờ tôi vẫn hình dung một cách rõ ràng hình ảnh và lời dặn dò tâm huyết, dẫn đạo cho công phu tu tập, hoằng hoá cuả tôi trên xứ người. Với tôi, ông lão chắc chắn là hoá thân cuả Đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Đúng như lời ông lão nói, năm 42 tuổi là năm 1983, tôi có cơ duyên lên núi Madona khẩn đất lập Tu Viện Kim Sơn.

THÍCH TỊNH TỪ

Ông Phật mũi đen


Có một Ni cô trên đường tìm chân lý đã chắt chiu nhờ thợ tạc riêng cho mình một tượng Phật nhỏ cỡ chừng gang tay bằng gỗ ngoài thếp vàng. Tượng Phật đó rất đẹp và Ni cô rất trân quí; đi đâu cũng mang theo, và thường đốt hương cúng dường cho Phật nữa. 
Năm tháng trôi qua, Ni cô vẫn luôn mang vác tượng Phật trên vai đi khắp nơi. Một ngày kia, nghĩ mình cũng lớn tuổi rồi, Ni cô dừng chân lại một ngôi chùa nhỏ miền quê; nhưng chùa này lại có rất nhiều tượng Phật lớn nhỏ. Mỗi vị Phật đều có bàn thờ riêng cả. Nhìn lại pho tượng Phật nhỏ xíu của mình, Ni cô thấy trong lòng ái ngại qúa. Ở nhờ chùa người ta nên khó lập bàn thờ riêng cho Phật mình, Ni cô đành phải thờ ké bàn thờ vậy.

Từ hồi nào đến giờ, Ni cô thường đốt hương trầm cúng dường "Phật của mình", nay trong cảnh thờ chung như vậy, Ni cô thấy trong lòng bất ổn; mấy ông Phật trụ xứ nhiều quá, ông nào ông nấy to lớn, lỗ mũi to như qủa quít thế kia thì hít hết khói hương trầm, còn gì cho ông Phật của mình nữa. Thiệt thòi cho Phật mình quá!

Ngày đêm suy nghĩ, Ni cô tìm được một kế thượng sách. Ni cô lấy giấy và ống nhựa nhỏ quấn lại với nhau thành hình một cái phễu (ống quặn) vừa đủ khói xông lên hun thẳng vào mũi ông Phật mình. Hay qúa, thế là mấy ông Phật trụ xứ kia đừng hòng ngửi ké nhá. Ni cô rất hoan hỷ, trong lòng vui sướng, ăn ngủ ngon lành.

Trải qua mấy tuần lễ đốt hương xông thẳng vào mũi Phật, cái lỗ mũi tượng Phật của Ni cô đen thui đầy muội hương trong khi mấy pho tượng Phật trụ xứ chẳng có sao hết. Cái lỗ mũi đen trên pho tương Phật bằng vàng làm cho pho tượng trông xấu xí, kỳ cục hơn các tượng Phật khác.

Ối chao, làm Phật rồi mà còn khổ thế.
Khổ thay, khổ thay!

Vấn đề then chốt nhất của người đi tìm chân lý giải thoát là phải phân biệt rõ ràng ranh giới giữa Yêu, Ghét, Tham Đắm và Ràng Buộc. Cái ranh giới đó hay bị lẫn lộn nhập nhằng với nhau, nhưng thực ra, chúng khác nhau đấy.
Sự ràng buộc đắm trước là một tai họa, một nguy hiểm giết chết Tình Yêu. Không có một vật gì nguy hiểm hơn, độc hại hơn lòng chiếm hữu dính mắc.
Bạn phải cố gắng hiểu cho kỹ điểm này, rồi chúng ta đi vào cốt truyện.
Rất nhiều người đã lầm lẫn Tình Yêu và sự Chiếm Hữu. Chiếm Hữu không phải là mặt trái, không phải là một phần của Tình Yêu gì cả. Nó là sự đối nghịch hoàn toàn.

Tình Yêu (viết hoa) không đơn thuần có ý nghĩa là tình yêu nam nữ, mà còn là tình yêu quê hương, tình yêu cha mẹ, tình yêu chúng sanh, v.v... Một thứ tình yêu bao la không biên giới, không phân biệt màu da, chủng tộc, quốc gia gì cả. Sức mạnh Tình Yêu Đại Đồng này có công năng tiêu hủy cái tự ngã vị kỷ hẹp hòi của bạn để bạn hòa hợp mình vào với mọi người, với chúng sanh, với vũ trụ và sẽ giúp bạn thăng hoa nhân cách tới mức tối thượng. Hơn thế nữa, Tình Yêu Đại Đồng đó sẽ giúp bạn đối diện dễ dàng với cái chết, và từ đó, bạn cũng sẽ dễ dàng thực tập thiền định.

Tình Yêu sâu thẳm hơn cái Chết, Thiền Định sâu thẳm hơn Tình Yêu. Trong thiền định, tự ngã của bạn phải vắng bóng; cái tự ngã của bạn phải chết đi. Khi bạn không dính mắc bám víu một cái gì, khi bạn hòan tòan thoát ly ra được cái ngục tù "Tự Ngã" thì bạn mới thể nhập được vào Đại Định.
Danh từ tiếng Anh "Ecstasy" rất dẹp và có ý nghĩa. "Ecstasy" có nghĩa là đứng bên ngoài, đứng ngoài lề. Nhưng trong đạo Phật, "Đại Định" mang ý nghĩa sâu xa hơn, hàm xúc hơn, triệt để hơn ý nghĩa xuất thần, nhập định rất nhiều.

Thiền Phật giáo không đơn thuần là trạng thái xuất thần, đi vào những cảnh giới lạc thú như các cõi trời mà là nghệ thuật kiến chiếu vào thể tánh của chúng ta; nó chỉ con đường từ triền phược đến giải thoát, nó đưa chúng ta đến uyên nguyên của cuộc sống, uống ngụm nước đầu nguồn, cởi bỏ tất cả những sự ràng buộc chấp mắc. Khi nhập vào đại định, ta có thể khai phóng tất cả năng lực nội tại và tự nhiên tích tập trong mỗi người chúng ta ( Thiền Luận của Dr. Suzuki). Nghệ thuật trong thiền chính là nghệ thuật học cách Chết. Chết con người khốn nạn tầm thường này để trở thành một con người mới toàn thiện hơn. Do đó, Tình Yêu có nghiã là chết đi cái tự ngã nhỏ hẹp ích kỷ để sống an lạc và chia xẻ hạnh phúc với mọi người, mọi loài... Nó khác xa tính chất độc hại của sự chiếm hữu ràng buộc.

" Có một Ni cô trên đường đi tìm chân lý đã dành dụm tiền nhờ tạc một tượng Phật bằng gỗ thếp vàng. Tượng Phật đó rất đẹp và Ni cô đi đâu cũng mang theo kè kè... "
Từng chữ một trong câu truyện này cần phải giải thích trọn vẹn. "Một Ni cô" Tại sao lại là một ni cô mà không phải là một ông thầy tăng? Có phải vì đầu óc và trái tim phụ nữ rất chật hẹp và thích chiếm hữu cho nên nhân vật cốt truyện là một ni cô?

Chúng ta khoan phê bình đánh giá vội. Không phải chỉ riêng có phụ nữ mới có tánh ích kỷ, hẹp hòi, tham lam, đố kỵ, nhiều tật xấu đâu, mà những ngừơi đàn ông cũng có những tật xấu đó. Nhưng trước hết, chúng ta thử phân tích "Tại sao người đàn bà ích kỷ, sở hữu nhiều hơn đàn ông?" — Bởi vì tánh ích kỷ sở hữu thoát thai từ sợ hãi.

Phụ nữ là một linh vật yếu đuối về thể chất. Vì sự yếu đuối thể chất đó, họ cần nương dựa; họ cần được bảo vệ. Từ những ngày đầu của thời kỳ khai thiên lập địa, phụ nữ đã phải nương dựa vào cánh đàn ông để được che chở và bảo vệ khỏi thú dữ để sinh tồn. Lâu dần, họ trở nên phụ thuộc và tự biến mình thành cái bóng sau lưng người đàn ông. Và càng yếu đuối chừng nào, họ càng sợ thêm chừng đó, càng sợ lại càng chiếm giữ ràng buộc, sợ mất đi sự che chở, sợ mất đi sự bảo vệ, sợ mất đi sự nương dựa. Ngay cả khi họ đang đựơc bảo vệ, họ cũng vẫn cảm thấy không hài lòng thỏa mãn. Họ vẫn cảm thấy bất an, lo sợ sẽ mất đi cái an toàn, cái phao che chở đó, và từ đó, tánh chiếm hữu ràng buộc tự lợi nẩy sanh, không muốn chia xẻ với ai cái họ đang nắm giữ. Vì thế, trong câu truyện, hình ảnh ni cô, người phụ nữ, đã được lựa chọn. Song, bạn cần phải nhớ kỹ rằng không có sự khác biệt gì nếu bạn mang thân tướng đàn ông mà ích kỷ, hẹp hòi, không rộng lượng thì thể chất đàn ông nhưng tánh khí đàn bà đó. Điều đó còn tệ hơn nữa, phải không? Còn phụ nữ nào xả bỏ được tánh vị kỷ sở hữu thì hơn hẳn đàn ông rồi còn gì. Như vậy, sự khác biệt không phải đặt trên vấn đề nam giới hay nữ giới mà đặt trên cơ bản phong cách hành xử.

Nghe rằng Mahavira đã nói "Phụ nữ không thể nào giác ngộ được trừ phi người ấy trở thành đàn ông." Và mọi người tin theo nghĩ rằng phụ nữ phải cố gắng làm tất cả những việc phước đức để kiếp sau tái sanh lại làm phái nam. Thực ra, ý nghĩ đó quả là buồn cười và ngờ nghệch. Mahavira muốn nói là còn tư tưởng ích kỷ chiếm hữu đó thì không thể nào giác ngộ được chứ không phải nói còn cái thân tướng đàn bà là không gíac ngộ — vì còn sợ, còn chiếm hữu thì không Tình Yêu, không Thiền Định được.

"Ni cô đó tạc một pho tượng Phật bằng gỗ thếp vàng và đi đâu, Ni cô cũng mang theo."
Từ lúc tạc tượng Phật thếp vàng, Ni cô ngủ không an giấc vì lo sợ kẻ nào đó sẽ đột nhập vào rinh mất pho tượng quí này đi. Đang đi trên đường, nếu có ai chợt nhìn vào tay nãi trong có tượng Phật, Ni cô cũng giật thót người, cảm thấy bất an nghĩ rằng biết đâu họ biết trong túi có tượng Phật thếp vàng và sẽ cướp đi mất. Pho tượng trở thành gánh nặng, trở thành hàng rào cản bước tiến giải thoát của Ni cộ Tâm trí Ni cô xoay vần với lo sợ, bất an, và dính mắc. Còn chỗ trống nào đâu để an lạc giải thoát lọt vào! Pho tượng đã trở thành tâm điểm chiếm hữu, lo sợ và thờ phụng.
" Năm tháng trôi qua. Ni cô vẫn luôn mang tượng Phật đi khắp đó đây. Và một ngày kia, Ni cô dừng chân lại một ngôi chùa làng có rất nhiều tượng Phật..."
Thời gian trôi qua, không có dấu hiệu giác ngộ gì. Mang kè kè một tượng Phật như thế mà không thấy gì à? không giác ngộ gì sao? Lạ thật.
Phật là Giác ngộ, là Giải thoát, là Đại Ngã, là Chân Tâm, là Bản Thể; nhưng bạn không thể giác ngộ chân lý giải thoát đó nếu bạn vẫn vác nặng hành trang ràng buộc, chấp trước và vị kỷ. Dù bạn có mang vác trên vai bao nhiêu pho tượng Phật đi chăng nữa thì cũng dã tràng xe cát biển đông mà thôi.

Bên Trung Hoa, Nhật Bản, người ta đã xây dựng rất nhiều đại tự, đại tháp để thờ Phật. Ở Trung Hoa, có một ngôi cổ tự thờ 10,000 tượng Phật. Tuy nhiên, dù có hàng 10,000 tượng đi chăng nữa cũng chẳng giúp ích được gì cho ta cả nếu ta không chịu tu tập đọan trừ Tham Sân Si, Ngã Mạn, Tà Kiến, v.v...

Tượng Phật chỉ là một biểu trưng cho sự giác ngộ giải thoát; chiêm ngưỡng lễ lạy tượng Phật để tự nhắc nhở vốn sẵn có Phật tánh. Phật tánh có ở trong anh, có ở trong tôi, có ở trong em, có ở trong người giàu sang quyền quí cũng như ở trong kẻ ăn mày khốn khổ kia.

Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh!
Tất cả chúng sanh đều thành Phật!
Tất cả chúng sanh đều bình đẳng!

Hãy tìm một vị Phật sống. Hãy tìm vị Phật sống trong ta. Đừng rong ruỗi tìm cầu bên ngoài. Đừng trông chờ mong đợi sự cứu độ. Đừng dập đầu van lạy các ngẫu tượng cầu xin giải thoát. Vì thế, Ni cô này đã vác tượng Phật gỗ suốt nhiều năm mà chẳng thấu hiểu được gì. Cái tâm đắm chấp đã che mờ giác tánh trong Ni cô. Quả vậy, có cái gì khổ theo cái nấy. Người đời có gia đình, có cái nhà cái xe là lo lắng ôm giữ bảo vệ những thứ đó cả đời, sợ mai một mất đi và lo nối dòng nối dõi để giao phó của cải. Tu sĩ thì trụ trì một ngôi chùa nào hay thánh đường nào thì cũng dính mắc vào tự viện đó không thoát ra nổi, cũng lo kiếm đệ tử truyền trao lại. Cha truyền con nối; không muốn giao cho ai khác ngoài con ruột mình, đệ tử ruột mình. Cái chế độ phong kiến tự ngàn xưa đã bị chúng ta hủy bỏ đi để xây dựng chế độ tự do dân chủ; nhưng đó chỉ là hình thức thay đổi còn nội dung vẫn như cũ. Tự Ngã vẫn hoàn lại Tự Ngã đầy tham vọng ích kỷ, tư lợi và ràng buộc. Cái hay nhất của người tu sĩ là rày đây mai đó, đem chánh pháp giáo hóa chúng sanh. Chùa chiền, tự viện chỉ là trạm dừng chân qua đêm, đến sáng lại quảy gánh ra đi. Nếu phải trụ trì một ngôi chùa hay tự viện nào thì tu sĩ đó phải hằng tự giác tỉnh là Vạn Pháp vốn Vô Thường Vô Ngã. Không có cái gì trường tồn bất biến cũng không có cái gì là của ta cả. Sự vật đến đến đi đi, có có không không. Người tu sĩ phải luôn luôn có tâm niệm Xả Phá Ngã đó thì mới ứng phó đạo tràng, tùy duyên bất biến. Nếu không, họ sẽ sanh tâm đắm nhiễm, mắc kẹt vào chùa chiền, thánh đường, tự viện, tín đồ, danh lợi thế gian.

"Ni cô đó thường đốt hương trầm cúng dường tượng Phật của mình . Vì không muốn khói xông lên bay vào các tượng Phật khác, Ni cô đã chế ra một cái phễu nhỏ để khói chỉ bay thẳng vào mũi tượng Phật của mình."
Thấy chưa? Nội chỉ có khói hương thôi mà người ta đã phân biệt ích kỷ rồi huống chi là những thứ quí giá hơn, to lớn hơn gấp bội. Thế cho nên, chúng ta đã chứng kiến quá nhiều cảnh tranh giành tương tàn lẫn nhau để chiếm đoạt hay ôm giữ. Ông tu sĩ này nói xấu ông sư kia, bà ni cô kia bêu riếu bà vãi nọ. Đền thờ, chùa chiền, tự viện, v.v... đua nhau mọc lên như nấm, và cũng đua nhau khuếch trương, mưu cầu đóng góp, dụ dẫn tín đồ... Tất cả chẳng qua phản ảnh tâm Tham Đắm, Chấp Ngã, Mê Danh của những con người chưa liễu đạo. Ni cô trong truyện có phải chăng chính là hình ảnh của chúng ta? Chúng ta dã từng ra rả tụng kinh, sám hối, tọa thiền... nhưng chúng ta nào có thấu được chút hương thơm giáo lý của Phật, của Chúa, của Mahavira. Chúng ta xây bao tượng Phật, tượng Chúa, đền thờ, tháp tự, v.v. nhưng nào chúng ta thực hành được chút xíu nào lời các Thánh nhân dạy về giải thoát giác ngộ? Cũng như Ni cô mang vác tượng Phật suốt nhiều năm mà vô minh vẫn hòan vô minh, trói buộc vẫn hòan trói buộc.

Và chuyện gì đã xảy ra?
"Trải qua mấy tuần lễ bị hun khói như vậy, lỗ mũi ông tượng Phật vàng bị đen thui đầy muội hương. Cái lỗ mũi đen trên pho tượng vàng càng làm cho pho tượng Phật xấu xí, kỳ cục hơn..."
Điều đó đương nhiên phải xẩy ra cho tất cả những người còn tâm đắm nhiễm vị kỷ. Hương thơm không còn là hương thơm, chân lý không còn là chân lý nữa.

Hãy trở về nhìn lại các pho tượng Phật, tượng Chúa, tượng Krishna. Ở tất cả lỗ mũi của các pho tượng đó đều bị đen thui vì ám khói ích kỷ tư lợi, chấp trước vô minh của chúng ta. Lời cầu nguyện của chúng ta chỉ là lời cầu xin đưọc ban thêm ân huệ vật chất. Ngay khi chúng ta mở miệng ra nói: "Nhà thờ của tôi, chùa của tôi, thầy của tôi, đệ tử của tôi... Có danh từ "của tôi" thêm vào là đền đài, chùa chiền, tự viện... đều bị phá sập hoàn toàn.

Trước đây, chính tôi (tác giả) đã bị dẫn độ ra tòa vì tôi dám xâm phạm một nhà thờ. Ngôi nhà thờ đó đã đóng cửa, không hoạt động ít nhất là 20 năm rồi. Những tín đồ đã dọn đi nơi khác, không còn ở Ấn nữa. Nhà thờ này thuộc về giáo hội Thiên Chúa Giáo Anh và cũng không còn người Anh nào ở phố thị này, không ai chăm sóc trông nom nhà thờ cả. Nhà thờ ấy rất đẹp nhưng bị hoang phế.

Ngày kia, có vài tín đồ đến gặp tôi và nói:
"Chúng tôi không thuộc giáo phái Anh, nhưng chúng tôi không có nhà thờ riêng. Vậy ông có thể giúp chúng tôi mở khóa vào lễ Chúa không?"

Tôi đáp ngay:
"Được thôi, có gì đâu."
Và những tín đồ đó vào nhà thờ, quét dọn, lau chùi bụi bặm bám đen lỗ mũi của Chúa.
Tôi nói với họ:
"Không cần hỏi ai là chủ nhà thờ này cả. Người nào thờ phụng Chúa với tất cả lòng thành không riêng tư thì nhà thờ đó là của họ."

Nhưng hai, ba tháng sau thì tin tức bay tới tai những người trước kia bỏ tiền ra mua nhà thờ. Họ tìm luật sư và kiện tôi ra toà vì dám xâm phạm nhà thờ.
Công tố viên buộc tội:
— Tại sao ông dám mở khóa nhà thờ? Nhà thờ này thuộc về những nguyên cáo là những người bỏ tiền ra mua. Nó là tài sản của họ.
— Nhà thờ không phải là tài sản của bất cứ riêng ai. Nhà thờ chỉ là một phương tiện để mọi người có thể đến lễ lạy Chúa. Nhà thờ không phải là tài sản của riêng ai cả.
— Đó là luật pháp. Khi ông xâm phạm vào tài sản người khác, ông đã phạm tội.
— Được thôi, các ông có thể đóng cửa nhà thờ lại. Các ông có thể buộc tội tôi; nhưng hãy nhớ kỹ một điều là chính các ông, những con người ích kỷ tham đắm kia, đã giết chết Tôn Giáo! Chính các ông mới là kẻ có tội!"

Hãy nhớ kỹ lời Đức Đạt Lai Lạt Ma nói:
"Ngôi chùa của tôi chính tại Tâm tôi!"
Chùa tại Tâm. Phật tại Tâm!
Đủ rồi! 

Bài này CN nhận được từ 1 người bạn đạo.