Friday, November 30, 2012

Mục ghẻ miệng người qúa khủng khiếp




Bởi vậy cha , mẹ làm ác thì con mình gánh chịu hậu qủa rất nặng , xem băng này mới thấy qủa báo thật là khủng khiếp . Cho nên theo kinh nghiệm của CN , phóng sanh là được phước báo nhiều lắm . Mấy năm trước mấy đứa con của CN vào mùa Đông hay bị cảm cúm nóng sốt liên tục , nhưng sau khi CN phóng sanh liên tục thì giờ mấy đứa con rất là khỏe , mùa Đông năm rồi mấy đứa nhỏ rất khoẻ , chỉ bị bệnh 1 lần à , mới thấy việc phóng sanh rất là nhiệm mầu .....

Bởi vậy mới thấy thân này là do những vi trùng tụ hợp làm thành , như HT Huyền Vi có giảng thân mình có nhiều vi trùng lắm , mình phải mang nó đi khắp nơi ,mình phải ở chung với nó hoài , có gì là qúy giá đâu mà ai đụng đến mình là khg được à nghen . Như mấy chư thiên mà thấy loài người mình là họ sợ lắm , thấy con người mình đầy vi trùng hết , họ thấy loài người mình như mình mà thấy những con thú vật vậy .


Sau 1 ngày mà tay chân chú ấy vẫn mềm dẻo ,thật là rất mầu nhiệm , chứ như hồi xưa Ông Ngoại của CN mất khoảng 1,2 tiếng sau là miệng hả ra cứng ngắt à , khg khép lại được , nên mấy người làm ở nhà hoàng họ phải làm gì đó để khép lại được , cái này thì CN khg rành lắm , vì lúc đó chỉ lo khóc khg à , vả lại có nhiều người trong gia đình lo hết nên CN khg rành lắm .....

Bánh pía Sóc Trăng

Từ thế kỉ XVII, bánh pía đã xuất hiện ở Sóc Trăng khi theo chân những người Hán di cư đến phương Nam. Theo thời gian, bánh pía được chế biến dần phù hợp với khẩu vị của người Việt bởi tận dụng nguồn nguyên liệu dồi dào, thơm thảo trên vùng đất Nam Bộ và trở thành một đặc sản của tỉnh Sóc Trăng như hiện nay.

Trước đây, bánh pía được làm hoàn toàn thủ công và chỉ phục vụ cho nhu cầu của từng gia đình. Đến đầu thế kỉ XIX, người đầu tiên kinh doanh bánh pía và truyền nghề cho con cháu sau này là ông Đặng Thuận, sinh sống ở làng Vũng Thơm (nay là xã Phú Tâm, huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng).
 

Tân Huê Viên là một trong những cơ sở sản xuất bánh pía nổi tiếng của tỉnh Sóc Trăng.

Sản phẩm bánh pía nổi tiếng mang nhãn hiệu Tân Huê Viên.

Bánh pía Sóc Trăng có hương vị rất đặc trưng, đó là mùi thơm của sầu riêng, vị béo ngậy của hột vịt muối (trứng vịt muối), vị bùi của đậu xanh, khoai môn, và thơm mùi bột mì của vỏ bánh nướng vàng.

Muốn có được mùi vị, màu sắc hấp dẫn, bánh pía Sóc Trăng phải qua rất nhiều công đoạn. Riêng phần nhân được làm từ khoai môn, đậu xanh, hột vịt muối xào với đường và cho thêm sầu riêng theo tỉ lệ vừa phải. Hỗn hợp trên để nguội đem bọc với lòng đỏ hột vịt muối. Nếu muốn tăng vị béo có thể thêm thịt heo (lợn). Riêng vỏ bánh được làm bằng bột mì bằng cách cán, cuộn bột mì, gấp lại nhiều lần để tạo nên vỏ bọc với những lớp “bột nước” và “bột dầu” chồng lên nhau. Cuối cùng, bánh được đưa vào lò nướng ở nhiệt độ trung bình khoảng 2700C. Sau 5-7 phút, thợ đứng lò sẽ lấy bánh ra, lật ngược mặt bánh rồi thoa lên một lớp lòng đỏ trứng và đưa vào lò trở lại. 15 phút sau, khi chiếc bánh chuyển sang màu vàng ươm chính là lúc chiếc bánh đã thành phẩm và dùng được ngay.

Những chiếc bánh có hình dáng nhỏ, tròn, không quá bở, mềm và có một độ dẻo vừa phải để có thể ngậm vào miệng mà không tan ngay. Nhưng điều đặc biệt là vị ngọt thơm nguyên chất hương sầu riêng mà bất cứ một loại hương liệu nhân tạo nào cũng không thể thay thế được. Đó cũng là nét thuần Việt mà chiếc bánh pía có được như một hương vị gắn liền với cuộc sống người Nam Bộ hàng trăm năm qua.
 

Bột đậu xanh tán nhuyễn để làm nhân bánh pía.

Máy trộn bột.

Làm vỏ bánh là một trong những công đoạn phức tạp nhất.

Công đoạn nhồi trứng và làm nhân bánh.

Bánh pía làm xong được đưa vào nướng ở nhiệt độ trung bình khoảng 270oC

Bánh pía nướng chín có màu vàng ươm sẽ được đóng gói và in hạn sử dụng (khoảng 1 tháng).

Kiểm tra chất lượng bánh thành phẩm trước khi đưa ra thị trường.

Sóc Trăng hiện có gần 50 lò chuyên sản xuất bánh pía. Bánh pía Sóc Trăng hầu như được sản xuất quanh năm với giá cả hợp lí khoảng từ 30.000 đến 60.000đ cho một hộp 4 cái.

Hiện nay, không ít công ty đã đầu tư dây chuyền công nghệ ngoại nhập làm bánh pía khép kín, trị giá hàng chục tỉ đồng. Do vậy, các công đoạn chế biến, bảo quản cũng chuyên nghiệp hơn, và thời gian bảo quản bánh cũng có thể giữ được lâu hơn (khoảng một tháng). Kiểu dáng bao bì cũng được thiết kế đẹp hơn, sang trọng hơn. Bánh pía được đặt trong từng ngăn của vỉ nhựa, có túi chống ẩm, mốc; bên ngoài là hộp giấy carton cứng trang trí khá đẹp, có quai xách và ghi rõ thời hạn sử dụng.

Hiện nay, nhờ biết cách quảng bá, nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng thị trường, nhiều doanh nghiệp sản xuất bánh pía ở Sóc Trăng không chỉ mở rộng thị trường ra phạm vi cả nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài. Điển hình như trường hợp Công ty chế biến thực phẩm bánh pía - lạp xưởng Tân Huê Viên, doanh nghiệp đã được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn quản lí chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm từ năm 2009, đã mở đại lí tại Phnom Penh (Campuchia) và đang xúc tiến mở thêm một đại lí ở CHLB Đức. Mới đây, Tân Huê Viên xuất khẩu sang Mỹ 40 tấn bánh pía và dự kiến sẽ tiếp tục mở rộng thị trường sang châu Âu, sau khi đầu tư trên 20 tỉ đồng nâng cấp hệ thống nhà xưởng và công nghệ sản xuất.
 

Bánh pía là đặc sản được bày bán nhiều ở các điểm du lịch của Sóc Trăng.

Du khách chọn lựa đặc sản bánh pía nổi tiếng của tỉnh Sóc Trăng.

Người Sóc Trăng lâu nay có thói quen biếu tặng bánh pía cho nhau trong mỗi dịp Cúng Trăng (rằm tháng 10 âm lịch) hoặc lễ tết như một cách để bày tỏ tình thân ái. Tất cả đều thấm đẫm trong hương vị ngọt ngào đậm đà, chân chất của một vùng quê Nam Bộ, nơi giao thoa bản sắc văn hoá của 3 dân tộc Kinh, Hoa, Kh’mer. Không chỉ vậy, giờ đây, bánh pía Sóc Trăng còn là một sản phẩm đặc trưng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, quảng bá văn hóa và du lịch của địa phương./.
Bài: Nguyễn Vũ Thành Đạt - Ảnh: Nguyễn Luân
 
http://vietnam.vnanet.vn/vnp/vi-vn/13/117/117/35293/default.aspx

Kiểu tóc đẹp

Kiểu tóc hoàn hảo nhất cho những bộ váy áo khoét lưng tất nhiên phải là tóc túi bao hoặc đuôi ngựa, có như thế thì bạn mới có thể khoe được tấm lưng của mình chứ. Tùy thuộc vào từng sự kiện, bạn có thể chọn tóc tết thanh lịch hay đánh rối bới cao thật gợi cảm. Dưới đây là một số gợi ý dành cho bạn:
Nghệ thuật khoe lưng trần - 15


How To Make A Perfect Ballet Bun



Cinderella Hairstyle



Messy Bun :



Updo Hairstyle Inspired by Taylor Swift "Love Story" Hair :




Taylor Swift - Love Story, Updo

Mứt gừng dẻo

Image Hosted by ImageShack.us
Đây là một món mứt dễ làm. Trong những ngày Tết, hầu như ai cũng ngán các thứ mứt bánh ngọt. Riêng mứt gừng vẫn là một trong những món được chiếu cố nhất. Sau Tết, mẹ tôi hay vứt bỏ các thứ mứt nhưng luôn giữ lại mứt gừng mứt sen và mứt chanh/tắc. Trong món bánh trung thu thập cẩm, mứt gừng là một vật liệu không thể thiếu.
I. Vật Liệu:
- 1lb gừng. Lựa gừng non.
- Đường
- 3 trái chanh vỏ mỏng nhiều nước
- Muối
- Vanilla
II. Cách Làm:
- Cạo gọt vỏ gừng, rửa sạch.
- Ngâm gừng vô nước muối pha mặn mặn. Nếu muốn bớt cay thì dùng kim xâm đều trên củ gừng cho ra bớt chất cay. Ngâm chừng 2hrs.
- Vớt gừng ra khỏi nước muối, xả lại nước lạnh. Cắt thành từng lát mỏng rồi xắt sợi. Trong hình, tôi chỉ cắt lát vì lúc đầu định làm mứt gừng khô nhưng sau cùng lại đổi ý.
- Ngâm gừng trong nước chanh chừng 4hrs
- Nấu nước sôi, thả gừng vô trụng sơ. Vớt ra cho vô thau nước lạnh. Đổ ra rổ cho ráo.
- Đong cứ 10 phần gừng thì trộn chung với 8 phần đường. Để chừng 1/2 ngày cho đường tan hết. Xem hình.
Image Hosted by ImageShack.us
- Sên gừng trên bếp thật nhỏ lửa. Tôi thường đặt nó lên bếp điện ngoài garage, vặn lửa thật nhỏ rồi cứ để mặc nó. Chừng nửa tiếng đồng hồ mới ra coi nó 1 lần. Sên tới khi đường kẹo lại như trong hình. Cho vanilla vô cho thơm, nhắc ra khỏi bếp.
Image Hosted by ImageShack.us
- Để nguội cho vô keo.

 http://chomchomslittleworld.wordpress.com/page/70/

Wednesday, November 28, 2012

10 lời khuyên cho những người "muốn ốm"

Cơ thể bạn ngày càng trở nên phì nhiêu và bạn chưa có cách nào để kìm hãm sự phát tướng đáng sợ đó. Đừng quá lo lắng, 10 nguyên tắc dưới đây dành cho những người "muốn ốm" như bạn đấy!
1. Xác định xem có thật sự dư cân không: bằng 2 động tác
a) Tính chỉ số thân khối BMI = cân nặng (kg)/ 2 x chiều cao(m) (nếu > 25 thì mới là dư cân.)
b) Xác định số cân nên có phù hợp với chiều cao và vóc (xương) người: Lấy chỉ số R = chiều cao (cm)/ vòng cổ tay (cm).
Đối với nam: Vóc vừa phải khi R = 9,6 - 10,4,
Vóc nhỏ khi R = 10,5 trở lên
Vóc lớn khi R = 9,5 trở xuống.
Do đó số cân nên có cho vóc nhỏ = 20 - 21,9 lần bình phương chiều cao
vóc vừa phải = 22 - 23,9 lần bình phương chiều cao
vóc lớn 24 - 25,9 bình phương chiều cao.
Đối với nữ: Vóc vừa phải khi R = 10,1 - 11
Vóc nhỏ khi R = 11,1 trở lên
Vóc lớn khi R = 10 trở xuống

S số cân nên có cho vóc nhỏ = 19- 20 lần bình phương chiều cao
vóc vừa phải = 21 - 22,9 lần bình phương chiều cao
vóc lớn = 23 - 24,9 bình phương chiều cao.
2. Tăng số bữa ăn từ 3 bữa lên 4 - 5 bữa nhỏ: Không nên nhịn bất cứ bữa nào, vì bữa sau sẽ cảm thấy đói và ăn bù lại có khi còn quá bữa ăn đã nhịn! Đừng bao giờ để bụng rỗng, nhưng cũng đừng bao giờ ăn quá no.
3. Áp dụng hai nguyên tắc của "đồng hồ sinh học": Thứ nhất là: muốn ăn nhiều thì nên tập trung vào bữa điểm tâm - vì sẽ có dịp tiêu hao - trưa ăn vừa phải, cuối ngày thì ăn ít đi. Thứ hai là: Về chiều, cũng không nên ăn nhiều chất béo, vì không được tiêu hao, ắt sẽ được tích lũy!
4. Cần tăng mức hoạt động chân tay: Như đi bách bộ, đạp xe đạp, tập thể dục nhịp điệu, bơi lội... chừng nửa giờ đến 1 giờ mỗi ngày. Cần sắp xếp sao cho những sinh hoạt này trở nên đương nhiên trong nếp sống hàng ngày như rửa mặt, đánh răng, rửa tay... thì sẽ không ngại.
5. Ăn thoải mái những loại thức ăn có nhiều chất xơ: Như gạo lứt (thay vì gạo trắng), ăn mỗi ngày chừng 1/2 kg rau các loại, trong đó một nửa là rau lá xanh (càng xanh đậm chừng nào càng tốt chừng nấy), nửa còn lại là các loại củ, quả, hoa, giá. nhiều màu sắc đỏ vàng càng tốt. Ăn thạch, xu xoa, uống nước giải khát có hạt é, đười ươi, mủ trôm v.v.
6. Hết sức tránh uống: nước ngọt, ăn sôcôla, bánh, kẹo ngọt làm bằng đường cát và bột mì trắng tinh luyện. Có thèm ngọt thì hãy kiếm "đường" Aspartame dùng thay thế đường cát: chất này ngọt như đường nhưng không phải là đường và không đem lại Calo nào cả.
7. Tách biệt những dưỡng chất "bài trùng" tích năng lượng dễ tăng cân: Không ăn cùng trong một bữa, một thức ăn giàu đạm (như thịt bò bít tết chẳng hạn), đi kèm với một thức ăn giàu chất bột và nhiều chất béo (như khoai tây chiên chẳng hạn). Có muốn ăn bít tết thì cứ ăn, nhưng với rau xà lách và cà chua thôi. Bữa khác, có thèm khoai tây thì ăn riêng một món này thôi.
8. Không muốn mập mỡ thì: Giới hạn mức chất béo ăn vào đừng quá hai muỗng xúp/ ngày; dùng dầu ăn (thay vì mỡ hay bơ), giảm mức tiêu thụ chất béo bằng cách: dùng sữa bột gầy (thay vì sữa còn nguyên kem), chọn mọi thứ thịt nạc (tránh thịt mỡ), ăn gà, vịt bỏ da (vì da rất béo), ăn phở nước trong (tránh nước béo).
9. Dành đủ thì giờ cho mỗi bữa ăn, khoảng nửa giờ: Tránh ăn vội vã, mỗi miếng ăn, nhai chậm rãi - trên 10 lần mỗi miếng ăn vào - để thưởng thức đến tận cùng mùi vị các món ăn.
10. Phân biệt "bạn" và "thù" trong nếp sốngBạn: Nếp sống hài hòa, ăn có rau, trái cây tươi nhiều nước, ít ngọt, cá, thịt nạc, tàu hũ, sữa gầy, nước tinh khiết thì tha hồ uống cho thỏa mãn bao tử, chống lại cảm giác đói. Ăn sạch, uống chính (uống trà xanh, trà atiso, nhân trần v.v.). Thể dục, thể thao, dưỡng sinh.
Thù: Ăn nhanh, uống vội, hạn chế tối đa rượu, nước ngọt, thuốc lá, đường, kẹo, bánh ngọt, kem, thịt mỡ, sôcôla.
Theo Sức Khỏe & Đời Sống
Việt Báo (Theo_Tien_Phong)

Tuesday, November 27, 2012

Đời Là Một Giấc Mộng - ĐĐ.Thích Phước Tiến

Bí Mật Tiềm Thức - ĐĐ Thích Phước Tiến

Nghiệp Và Định Mệnh - ĐĐ. Thích Phước Tiến

Philly cheesesteak chay :):)


  Hôm nay cả nhà ăn cheesesteak mặn thì CN  cũng có 1 món chay ngon lành  . CN dùng loại thịt chay loại  Boca meatless  burger , bóp nát nát chút . Bắt chảo nóng , cho chút dầu ăn vào , củ hành cắt mỏng nhỏ nhỏ ( có thể thay thế leak ) , xào cho thơm rồi bỏ thịt chay vào , đảo cho đều khoảng  7 phút  rồi cho cheese miếng màu trắng hay cheese màu vàng vào , 2 miếng thịt chay thì khoảng 4 miếng cheese  màu trắng . Món ăn Mỹ làm rất nhanh ,  bỏ vô bánh mì và cho chút ketchup vào , thấy con trai của CN bỏ chút mustard màu vàng vào mình cũng bắt chước ăn giống vậy , lâu lâu lạ miệng ăn cũng ngon lắm , cho chút ớt Mễ đã muối chua trong keo mua sẵn ở chợ Mỹ vào nữa , ngon lắm !  Các bạn có thể cho thêm nấm tròn màu trắng tươi bán ở chợ Mỹ vào xào chung thì càng ngon tuyệt .  Chúc các bạn ăn chay ngon miệng .

Monday, November 26, 2012

Ép - Thích Thiện Xuân



Thầy hát giống Minh Cảnh chưa ?...)))

Chè nha đam

Chè bánh lọt đậu xanh

Chè đậu xanh viên nước dừa

Sức sống mới - Chè trôi nước từ khoai tím

Bánh khoai lang tím

Bánh trung thu nhân thập cẩm

Phần 1 :



Phần 2 :




Phần 3 :



Phần 4 :

Bánh trung thu nhân thập cẩm

Bánh Tét Trà Cuôn (Trà Vinh)

Nhiều món chay ngon trong ngày lễ

 Hôm Thanksgiving đi ăn tiệc , Dì của CN  trộn gỏi sen rất là ngon , CN mới hỏi công thức thì Dì cho công thức sau đây :

 -  1 cup dấm
 -  1 cup đường vun
 -  3 cups nước ấm
 - Lấy 2 ngón tay nhúm 1 chút xíu muối  thêm vào .

  Gỏi sen có thể trộn thêm củ cải trắng cắt cọng  mỏng , cà rốt , nấm trắng , rau răm , đậu phộng , ăn với  nước mắm chay thật ngon , yummy .......

 Hình này CN post từ blog khác và copy về đây , hope it's work .....))) , CN post hình qúa nhiều cho nên hết chổ  chứa hình cho blog rùi .....


Mắm chay ( Dì CN cho , Dì làm khg có chao cho nên khô ráo hơn là mình để chao vào ... )

           
Có bánh khoai mì cọng , ăn cho đã mới nhớ chụp hình ...hihi...

                      
Mì Đại Hàn chay ( Mợ của CN làm rất là ngon , thơm dầu mè lắm , rất là vừa ăn ....)

                                                
                                                        
                       Sâm bổ lượng

  Hôm bửa  CN đi ăn tiệc  Thanksgiving  được vài người cho đem về ăn tiếp tục , những món chay này rất ngon , có món sâm bổ lượng cũng đặc biệt lắm do em dâu của CN cho , CN thấy có cam thảo trong sâm bổ lượng nữa  , rồi có hạt bạch qủa nữa cho nên sâm bổ lượng này rất là đặc biệt ngon .

Bonus thêm vài nhánh hoa  trổ trong mùa Christmas :
Cây này CN xin 1 nhánh nhỏ từ Chùa về , ghim trong chậu sau đó nó mọc thêm nhánh ra nhiều ghê , nó trổ bông vào tháng 11 và 12  


Sunday, November 25, 2012

Đi Phật Thất Để Làm Gì? - TT Thích Giác Khang.wmv

Phần 1 :



Phần 2 :



Xả bỏ - TT. Thích Giác Đăng

Tâm ở đâu ? Thầy Thích Thiện Xuân giảng

T.T. Thích Trí Siêu: Đại Thừa Khởi Tín Luận

Phần 1 :



Phần 2 :



Phần 3 :



Phần 4 :



Phần 5 :

Pháp Môn Niệm Phật- 27/052011- TT Thích Giác Khang giảng bài này rất hay




 HT Giác Khang giảng sau đây :

  Người khg chí như thuyền khg lái như ngựa khg cương , trôi dạt long bong khg ra thể nào cả .....chế tâm nhất xứ vô sự bất thành , tập trung mạnh ,kỹ ,lâu ,sâu cái gì cũng làm được hết .....

Thú kia nó cũng là thân ,
Cũng xương cũng thịt có phần như ta .
Đánh đau chúng nó kêu la ,
Tiếng kêu đứt ruột tiếng la xé lòng . 

 Tại sao trên mặt mình cái gì cũng 2 , nhưng chỉ có 1 cái miệng .....Cái miệng này mệt lắm , nó cũng ác và xí xọn lắm ....hihi.... cho nên tu thập thiện cái miệng này nó chiếm tới 4 , cái miệng này thật là ghê gớm , tội nhất là cái miệng này ......

 Cái nhịn  là cái hay nhất để thắng người  theo Thánh MAHATMA GANDHI  ......

  Mình còn thương còn ghét là còn đầu thai ....



15 hạng chúng sanh - TT Thích Giác Khang

Phần 1 :



Phần 2 :

Tín Hạnh Nguyện - TT. Thích Giác Khang

Vạn Phật Thánh Thành - HT. Tuyên Hóa

Ba Lần Nhìn Thấy Phật Trước Lúc Vãng Sanh




Anh Thạch Sơn Vương pháp danh Phước Minh 29 tuổi mang bệnh ung thư, các bác sĩ đã không còn làm được gì nhiều hơn nên gia đình mang anh về nhà chờ ngày ra đi. Nhân duyên trong nhiều đời quá khứ nên anh đã được ban hộ niệm Trường An đến tận nhà khai thị. Với sự thông minh bẩm sinh, anh đã hiểu được đời là vô thường nên đã chịu buông xả thân tâm để niệm Phật và nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Sau 7 ngày niệm Phật tha thiết & phát tâm cầu vãng sanh mãnh liệt, anh đã tận mắt nhìn thấy Phật A Di Đà 3 lần phóng hào quang và mỉm cười gật đầu chào anh. Qua lời kể của anh, anh cho biết chưa bao giờ có cảm giác vui sướng khi thấy Phật như vậy. Mọi cơn đau nhức do căn bệnh ung thư giai đoạn cuối hoàn toàn biết mất nhờ Phật lực gia trì cho đến khi anh thật sự vãng sanh.

Wednesday, November 21, 2012

How to make Homemade Pasta

Tuesday, November 20, 2012

Making pasta , ravioli on the KitchenAid






** 4 eggs

** 21/4 cups bột mì




_ 2 cups bột mì

_ 3 trứng gà

How to make Mochi

Monday, November 19, 2012

2 in 1 Valentine's Day Vase Arrangements

Holiday Floral Trends

How to make a gorgeous table arrangement.

Cách cắm hoa






Nghệ thuật cắm hoa _ Khéo tay hay làm

Dạy cắm hoa kiểu Nhật rất đẹp

Hướng dẫn cắm hoa hồng

Nghệ thuật xào mì và phở :) :)

Đổ bánh xèo kiểu Beijing jianbing

Cách gọt khóm nhanh

Cách trồng dưa hấu hình vuông

Truffles: The Most Expensive Food in the World

Cách làm xì dầu

Sunday, November 18, 2012

Saturday, November 17, 2012

Cách làm đường từ cây Stevia , ăn loại đường này rất tốt






Đường này có bán ở Walmart .









PORK meet + COCA COLA = WORM



Cách làm nước cam

Still drinking coca cola? Watch this!

Cách làm đường cát

Cách làm cà phê

Cách làm dầu olive

Cách làm bột mì

Cách làm đường syrup

















Thursday, November 15, 2012

Methods can cure cancer 1 ( many people follow and cure many disease )

Wednesday, November 14, 2012

Nhĩ căn viên thông. Giảng sư: Thích Tuệ Hải .

Tu là được hay mất - ĐĐ. Thích Tuệ Hải


Phan 1 :



Phan 2 :

Tứ nhiếp pháp : Ái ngữ - ĐĐ. Thích Tuệ Hải


Phan 1 :



Phan 2 :

Khắc Phục Bệnh Tật - Thích Tuệ Hải

Phan 1 :



Phan 2 :

Dưỡng sinh phòng bệnh - ĐĐ. Thích Tuệ Hải

Cân Bằng Thân Tâm - Thầy Thích Tuệ Hải giảng bài này rất hay




CN đã thử ăn qua gạo lức + muối mè trong 1 tháng liên tục thì giờ nghe lại những băng giảng của Thầy CN thấy Thầy giảng và phân tích thực phẩm âm ,dương rất là đúng . CN nghĩ rằng chắc là Thầy đã nghiên cứu rất là kỹ về phương pháp dưỡng sinh cho nên những gì Thầy nói phải nói là đúng 100% luôn .....))) . Theo kinh nghiệm bản thân của CN nếu mình áp dụng only ăn gạo lức + muối mè liên tục trong vài tháng và nhất quyết niệm Phật khg gián đoạn thì mình sẽ được 1 kết qủa rất là nhanh đó , vì CN đã niệm Phật rất là lâu trong nhiều năm ròng nhưng khg thấy kết qủa gì cả , ngay cả những người quen mà tu lâu năm CN hỏi họ cũng chẳng đạt gì cả , nhưng có 1 lần vì CN lâm bệnh qúa nặng cho nên (vì sợ chết qúa , chứ cũng chẳng tốt lành gì ...hìhì....) CN đã nhất tâm niệm Phật liên tục và ăn gạo lức + muối mè 1 tháng thì CN đã đạt được pháp hỷ ( các bạn thông cảm , phải khoe hoài vậy mới có người tin ...))) ......mà Thầy Tuệ Hải đã nói rất đúng , khi con người mình ăn thức ăn " âm " nhiều qúa thì mình sẽ bị bệnh nhiều lắm , rồi ngồi chút xíu là bị tê chân liền , lại thêm buồn ngủ , mệt mỏi trong người hoài , khi CN ăn gạo lức với muối mè thì khg thấy buồn ngủ đâu , nhiều lúc 1 đêm ngủ có 2 tiếng đồng hồ mà ban ngày cả ngày vậy CN thấy đầu óc rất là sáng suốt và sảng khoái , và khi khg bị buồn ngủ thì có thể ngồi lâu niệm Phật được và rất dễ dàng đạt được pháp hỷ , vì Thầy nói khi âm , dương trong người mình nó cân bằng nhau thì khi mình kết hợp tu tập rất dễ dàng đạt tới cảnh giới rất cao .

Thầy nói sáng sớm mình mới thức dậy mà làm 1 lý càfê sữa đá rồi nạp thức ăn âm vào cơ thể thì thôi cả ngày nó mệt và buồn ngủ lắm , CN đã bị nè , cho nên khi nghe Thầy nói vậy thì CN ăn thử gạo lức + muối mè buổi sáng thử thì thấy cả ngày đó khg bị mệt và buồn ngủ , mà khi mình nạp thức ăn dương vào người mình thì khg bị mệt nha các bạn , cả ngày thấy rất là khỏe , khg buồn ngủ , ngay cả ban đêm ngủ rất là ít , mà CN thì thích nhất là khg buồn ngủ thì mình có nhiều thời gian để tu và làm nhiều việc , tối ngày cứ bị mệt và buồn ngủ hoài thì bực bội vô cùng , mà lạ lắm , khi thân mình bất an thì kéo theo tâm của mình cũng bị hoạ lây .......Thầy nói canh chua bạc hà rất là âm nha các bạn , Thầy nói ai mà trồng bạc hà thì nhổ giục bỏ đi đừng ăn bạc hà , vì bạc hà rất là độc , nó làm cho mình bị đau khớp xương , bị nổi gai cột sống và làm loãng xương .

Ăn gạo lức muối mè có thể làm cho mình ốm , mình bị mập là do ăn nhiều đường và uống nước nhiều làm cho những tế bào trong cơ thể nở ra vì vậy mà mình bị mập , còn ăn gạo lức muối mè thì làm cho mình uống nước ít lại , và trong gạo lức cho mình chất glucose( đường tự nhiên ) cho nên mình ít bị đói và thịt săn chắc lại , cho nên khg bị mập .

Thầy nói mình ăn uống phải có đẳng cấp , nghĩa là phải biết cách tuyển lựa thức ăn cho vào người thì mới thông minh , những chất như lúa mì , lúa mạch , gạo lức , hạt kê ......còn như mình ăn tạp thì làm cho con người mình càng nặng nề , trì trệ , đầu óc sẽ càng ngày càng tăm tối , cơ thể sanh nhiều bệnh tật ......nhất là ăn thịt động vật rất là dơ và bị bệnh , mình thích ăn thịt con nào nhiều thì lâu ngày tánh tình mình sẽ giống con đó ....( cái này là CN tự nói , bởi vậy khg dám cho OX ăn thịt dê ....híhi....)

Nói chung là mình phải biết lựa chọn thức ăn tốt mà ăn , tránh nhất là đồ " âm " như là đường , cà chua , bạc hà , rau cải nhiều qúa cũng âm lắm nha các bạn ..... nhất là vào mùa lạnh , khí trời đã âm qúa chừng , mà mình nạp "thức ăn âm " vào nữa thì có nước mà nằm ngủ tối ngày ....hihi....Oh mà ngộ cái là Thầy nói mình ngâm gạo lức đúng 22 tiếng đồng hồ và đem nấu thì bao nhiêu chất bổ gì mình sẽ nhận được hết , vì đúng 22 tiếng đồng hồ là hạt lúa nẩy mầm gì đó ......cái này CN sẽ nghiên cứu kỹ hơn nữa .....

                      
           Dưỡng sinh và giải thoát - ĐĐ. Thích Tuệ Hải

           CN đã nghe qua bài này từ lâu và thực tập theo thì thấy những gì Thầy nói rất là đúng về âm , dương trong cơ thể , các bạn nên nghe bài này rất có ích cho việc tu tập . CN thấy thân của mình ảnh hưởng rất là lớn tới tâm của mình , mình ăn đường ( đồ ngọt ) nhiều qúa sẽ bị vọng tưởng rất là nhiều và nằm mộng cũng rất nhiều , nói chung bài này rất là hay .

Bốn chất liệu tạo nên đời sống thành công của chúng ta - HT Thích Thái Hòa

Phan 1 :



Phan 2 :

Tuesday, November 13, 2012

Liên quan giữa bệnh và nghiệp - ĐĐ. Thích Tuệ Hải

Phan 1 :



Phan 2 :

Gia Tri Am Duong va Doi Song

Phan 1 :



Phan 2 :

Dưỡng sinh và giải thoát - ĐĐ. Thích Tuệ Hải

Phan 1 :



Phan 2 :

Monday, November 12, 2012

Phương pháp trị bệnh bằng gạo lức

Phần 1 :  mấy năm về trước CN vừa ăn gạo lức và vừa niệm Phật nhiều thì đạt được pháp hỷ trong 2 ngày , như Thầy Tuệ Hải đã giảng trong mấy băng khác , khi mình ăn gạo lức muối mè thì âm dương trong người được quân bình lại cho nên khi mình tu tập thêm thì có kết qủa rất là nhanh , các bạn làm thử xem phương pháp này rất hay , Thầy  nói  rất là đúng vì CN đã có thực hành qua  .



Phần 2 :



Phần 3 :



Phần 4 : Ca sĩ Thanh Ngân cũng ăn gạo lức để trị bệnh



Phần 5 :



Phần 6 :



Phần 7 :



Phần 8 :



Phần 9 :



Phần 10 :



Phần 11 :



Phần 12 :



Phần 13 :



Phần 14 :




Phần 15 :



Phần 16  END :




Veggie Cooking Club: Rau Câu Đậu Hũ

Rau câu trái dừa

Cô Đơn Từ Đâu Có? - Thầy Thích Thiện Thuận giảng

Tận Thế Do Đâu? - Thích Phước Tiến (07-2012)

Phần 1 :




Phần 2 :

Giác Ngộ Vô Thường - Thích Phước Tiến

Phương Pháp An Tâm (Rất Hay) - Thích Phước Tiến

KHI BỊ TỔN THƯƠNG. GS Thích Thiện Thuận

Bài Học Cuộc Đời

Sunday, November 11, 2012

Cách dạy con rất hay theo suppernany trong ti vi

 Hôm nay CN  ngồi xem show Supernanny chỉ cách dạy con rất là hay , nhiều gia đình có 3 hoặc 4 đứa con quậy qúa chừng , khi bị cha , mẹ  la và bắt phạt vô góc tối ngồi  thì mấy ảnh và chỉ đạp đánh lại ba, má rất là nhiều lần  làm ba , má  mấy ẻm ngồi  khóc qúa chừng . Hay có nhiều bà má chịu khg nổi con qúa quậy nên đánh con và nhét xà bông vào miệng mấy trẻ   thì mấy ẻm càng quậy lại qúa trời qúa đất luôn , cuối cùng chịu thua  phải ngồi khóc ròng luôn và cầu cứu supernanny lại giúp  . Sau đây là vài cách dạy con rất là hay theo supernanny :

    Đa số mấy đứa trẻ quậy này là mấy bé khg hiểu được cái nào đúng và  cái nào sai , nhiều lúc mấy cháu khg nghe lời cha , mẹ là khi làm cái gì sai thì cha , mẹ cho qua ( ignore ) hay là đánh đập chúng qúa chừng mà khg giải thích cho trẻ nghe là việc làm đó rất là sai lầm , nhiều khi chúng khg hiểu và nghĩ rằng việc làm đó là OK , khg có gì nghiêm trọng , nhiều lúc chúng nghĩ  quậy  như vậy còn thấy vui nữa chứ , như là chúng đang giỡn với cha , mẹ vậy  .  Nhiều gia đình những đứa bé  trai đánh lộn với nhau dã man luôn , chúng đạp đánh nhau bụp bụp khg thương tiếc , và khi cha , mẹ nhúng tay vào can thì chúng khg nghe lời cha , mẹ và đánh luôn cha mẹ  , mấy ông Mỹ con này quậy thấy mà khiếp  , làm cha  mẹ muốn điên với chúng luôn .

  Cho nên bà Nanny này lại chỉ cách dạy con như thế nào :

* Trước tiên là Nanny lại xem trẻ này quậy như thế nào , rồi nhìn cách cha mẹ trẻ  dạy như thế nào , sau đó thì cô Nanny này chỉnh sửa những điểm yếu của họ .  Như là  Nanny viết ra bảng trắng bự để ở phòng khách những cái gì mà trẻ khg được làm trong nhà chúng , như chúng thường hay đánh lộn với nhau  hay cắn lộn nhau thì Nanny  nói là khg được đánh lộn và cắn nhau   .....hay trẻ khg kính trọng cha mẹ thì ghi trên bảng trắng là phải biết kính trọng cha, mẹ chúng , phải biết nghe lời ......nghĩa là bước đầu tiên là phải cảnh cáo cho trẻ biết cái luật lệ trong nhà như thế nào ?
 * Bước thứ hai là bắt tay vào " trừng trị " trẻ .....)))))  Khi trẻ khg nghe lời   hay anh em chúng đánh lộn với nhau , thì  cha , mẹ phải step up liền  nghĩa là phải làm trẻ  thẳng tay liền cho chúng biết rằng việc chúng đang làm rất là sai , nhưng cách nào để cho trẻ sợ mình ?  Người Việt mình thì đánh bụp bụp liền , nhưng bà Nanny này thì làm 1 cái ghế là chổ cho trẻ  ngồi bị phạt , cái ghế đó là " punishment chair ",  hể   làm gì sai là bắt mấy ổng  lại ghế đó ngồi phạt bao nhiêu phút đó  , nhiều trẻ rất ghét cái ghế đó , nhằm đứa quậy qúa 1 giờ khg biết phải lại cái ghế đó ngồi bao nhiêu lần nữa , nhưng phải làm chúng hoài vậy đó , khi trẻ làm sai gì là mình phải làm liền , khg được bỏ qua 1 lần nào hết , cho trẻ biết là việc đó sai và phải chứng tỏ cho chúng biết quyền lực của mình , phải cho chúng sợ mình , nhưng phải nhớ là sau khi trừng trị  trẻ thì phải ôm chúng lại và nói rằng mình rất là thương yêu trẻ , mình làm vậy chẳng qua là trẻ làm gì gì đó ( kể tội chúng ) rất là sai  nên  mới  bị phạt như thế , và nói với chúng rằng hy vọng chúng khg làm như thế nữa trong tương lai ......cái chiêu này là cho ăn muối trước rồi mới cho ăn đường sau .....)))) ....mình chỉ phạt trẻ thôi nhé các bạn , khg cần đánh 1 roi nào hết mà vẫn có hiệu qủa .  Nhiều đứa lỳ qúa , phạt chúng mà chúng cứ chạy lung tung hoài , mình phải rất là  cứng rắn , đừng bao giờ lùi 1 bước , khi chúng thấy mình lui là mình thua chúng đó .  Mà cô Nanny này cũng mánh lắm , khi phạt trẻ  ngồi ở đó , Nanny kêu  người nhà tập hợp lại chơi game rất là vui , làm ẻm ngồi ở trong kia bị fạt  mà ngóng ra rất là tiếc và hối hận ......))) cái này là chiêu chơi thẳng cẳng với ẻm đấy , cho ẻm hối tiếc và hối hận  tới tận cùng lun ....hihi.....

  * Bước thứ 3  là cha mẹ phải tổ chức những trò chơi chung với  con mình , ra backyard chơi banh hay chơi những gì mà trẻ thích , phải giành nhiều thời gian gần gũi trẻ , nói chuyện với trẻ nhiều hơn , chơi đùa chung với chúng nhiều hơn , nhất là teenager , mình phải giành nhiều thời gian  chơi chung với chúng và gần gũi chúng , và gia đình nên tổ chức trò chơi gì vui vui để dụ chúng ở gần mình , quanh quẩn chung quanh mình hoài , chứ nếu nhà vắng vẻ buồn , ở nhà  khg có gì vui là chúng ra ngoài chơi với bạn bè riêng là mình sẽ mệt lắm đó , cho nên có con rất là tốn tiền và tốn rất nhiều thời gian và công sức , lạng quạng là chúng hư như chơi . Điều quan trọng là mình phải biết hòa đồng với con , đừng chê bai nó nhiều qúa , khi mình thấy con sai lầm gì đó , mình phải hết sức lựa chọn lời nói và nói chuyện với con , như CN xem trong show Nanny , nhỏ con gái tuổi teenager  gây lộn với ông già hoài , 2 cha con có khoảng cách rất là xa , vì người cha khi gặp đứa con gái thì hay la , vì  chỉ nhuộm tóc hay mặc quần áo gì cũng hơi quái đản lắm , ông già chịu khg nổi la hoài , vì vậy chỉ nghĩ rằng ông già khg thương cho nên 2 cha con khg get along với nhau  được , nhưng cô Nanny hỏi thì chỉ tâm sự là khi gặp chỉ là ông già cứ chê bai miết , hết chê cái này tới la cái kia làm chỉ rất là tức giận ông già . Cô Nanny  mới bảo ông già phải lại nói với con gái là cha rất thương yêu con , từ đây cha sẽ thay đổi khg nói chuyện với con kiểu đó nữa , rồi Nanny  chỉ cách khi sửa sai cô con gái thì phải nói đàng hoàng , lựa  lời rất là nhẹ nhàng mà nói , và thường xuyên phải giành thời gian đi chơi chung với con , phải spend time nhiều với con gái hơn để 2 cha con hiểu nhau hơn . Communication ( sự truyền đạt ) , communication là key quan trọng nhất trong tất cả relationship , có hiểu nhau mới thông cảm cho nhau được,  nếu  khg hiểu nhau  là sẽ có nhiều hố sâu ngăn cách lắm ......ai có con tuổi teenager  thì phải để tâm tới nhiều chút nhé , tuổi này mấy ảnh chỉ nổi loạn khoảng  4 ,5 năm  đó ......)))

 Nói chung là phải cho trẻ biết làm cái này là đúng hay làm cái kia là sai , và khi bị phạt  thì phải cho  biết là tại sao mình lại làm vậy , và sau đó thì phải ôm trẻ và nói mình rất là thương trẻ , quan trọng nhất là mình phải tỏ ra cho  chúng biết là mình thương yêu chúng thật là nhiều , ai cũng vậy , ngoài thức ăn nuôi dưỡng thân thể này , ai cũng cần thức ăn tinh thần là tình thương , khg có tình thương  trong gia đình đứa trẻ dễ  trở thành violent  và nổi loạn khi lớn lên . Cho nên chúng ta phải ôm và nói lời yêu thương với trẻ thật nhiều , chỉ có tình thương yêu mới làm cho trẻ ngoan và hiền lành hơn , dễ dạy và nghe lời mình hơn . Và nhất là phải chơi chung với chúng mỗi ngày , chỉ có chơi chung vui vẻ thì  đứa bé mới nghe lời mình hơn và yêu thương mình hơn , chứ khg thì chúng sẽ quậy lắm đó .

Saturday, November 10, 2012

Cách làm màn cửa sổ

How-To Make a Basic Roman Shade

8 việc đáng chú ý mà những nhà kinh doanh thành công thường hay làm

Tôi may mắn được biết một số người thành công đáng kể. Tôi đã mô tả làm thế nào những người này chia sẻ một tập hợp các quan điểm và niềm tin cụ thể.

Họ cũng chia sẻ một số thói quen:

1. Họ không tạo ra back-up kế hoạch.

Back-up kế hoạch có thể giúp bạn ngủ dễ dàng hơn vào ban đêm. Back-up kế hoạch cũng có thể tạo ra dễ dàng khi giai đoạn khó khăn.

Bạn sẽ làm việc khó khăn hơn rất nhiều lâu hơn rất nhiều nếu kế hoạch chính của bạn chỉ đơn giản phải làm việc vì không có lựa chọn nào khác. Tổng số cam kết - không một mạng lưới an toàn - sẽ thúc đẩy bạn làm việc chăm chỉ hơn bao giờ bạn tưởng tượng có thể.


 Nếu bằng cách nào đó điều tồi tệ nhất không xảy ra (và "tồi tệ nhất" là không bao giờ là xấu như bạn nghĩ) tin tưởng rằng bạn sẽ tìm thấy một cách để phục hồi. Miễn là bạn tiếp tục làm việc chăm chỉ và tiếp tục học hỏi từ những sai lầm của bạn, bạn sẽ luôn luôn.
2. Họ làm công việc ...
Bạn có thể là tốt với một chút nỗ lực. Bạn có thể được thực sự tốt với nỗ lực nhiều hơn một chút.
Nhưng bạn không thể là tuyệt vời - bất cứ điều gì - trừ khi bạn đặt trong một số lượng đáng kinh ngạc của nỗ lực tập trung.
Vạch xuất phát bề ngoài  của bất kỳ người có kỹ năng hiếm có và bạn sẽ tìm thấy một người đã đưa hàng ngàn giờ nỗ lực vào việc phát triển những kỹ năng.
Không có đường  tắt. Không có thành công trong 1 đêm. Mọi người đều đã nghe nói về các nguyên tắc 10.000 giờ nhưng không có ai sau nó ... trừ những người thành công đáng kể.
Vì vậy, bắt đầu làm công việc ngay bây giờ. Thời gian là lãng phí.
3. ... Và họ làm việc nhiều hơn nữa.
Hãy quên đi Sheryl Sandberg "Tôi rời khỏi mỗi ngày lúc 5:30" những câu chuyện. Tôi chắc chắn cô ấy. Nhưng cô không.
Mỗi doanh nhân cực kỳ thành công tôi biết (cá nhân) làm việc nhiều giờ hơn người bình thường - nhiều hơn nữa. Họ có một danh sách dài những thứ mà họ muốn để thực hiện. Vì vậy, họ cần phải đặt trong rất nhiều thời gian.
Tốt hơn, họ muốn đặt trong rất nhiều thời gian.
Nếu bạn không nắm chặt lấy một  đống  công việc người khác sẽ nghĩ là điên sau mà làm do đó mục tiêu của bạn không có nghĩa là nhiều cho bạn - nó không phải là đặc biệt khó khăn để đạt được. Dù bằng cách nào, bạn sẽ không có thành công đáng kể.
4. Họ tránh các đám đông.
Sự khôn ngoan thông thường mang lại kết quả thông thường. Tham gia đám đông - không có vấn đề làm thế nào hợp thời trang đám đông hoặc  cơ hội  rất nóng - là một công thức cho sự tầm thường.
Thành công đáng kể người dân có thói quen làm những gì người khác sẽ không làm. Họ đi nơi những người khác sẽ không đi bởi vì có một sự cạnh tranh ít hơn rất nhiều và một cơ hội lớn hơn nhiều cho sự thành công.
5. Họ bắt đầu kết thúc ...
Thành công trung bình thường dựa trên thiết lập mục tiêu trung bình.
Quyết định những gì bạn thực sự muốn là tốt nhất, nhanh nhất, rẻ nhất, lớn nhất, bất cứ điều gì. Nhằm mục đích cho các cuối cùng. Quyết định nơi bạn muốn kết thúc. Đó là mục tiêu của bạn.
Sau đó, bạn có thể làm việc ngược trở lại và đặt ra tất cả các bước trên đường đi.
Không bao giờ bắt đầu nhỏ nơi quan tâm đến mục tiêu. Bạn sẽ đưa ra quyết định tốt hơn và tìm thấy nó dễ dàng hơn nhiều để làm việc khó khăn hơn rất nhiều khi mục tiêu cuối cùng của bạn là thành công cuối cùng.
6. ... và họ không dừng lại ở đó.
Đạt được một mục tiêu - không có vấn đề lớn như thế nào - khg phải là  dòng kết thúc cho những người rất thành công. Để đạt được một mục tiêu rất lớn chỉ cần tạo ra một bệ phóng để đạt được một mục tiêu rất lớn.
Có lẽ bạn muốn để tạo ra một công ty có giá 100 triệu USD, một khi bạn làm, bạn có thể tận dụng danh sách liên hệ và ảnh hưởng của bạn để tạo ra một quỹ từ thiện cho một nguyên nhân mà bạn tin tưởng. Sau đó, doanh nghiệp của bạn và thành công nhân đạo có thể tạo ra một nền tảng để nói, viết, và nghĩ rằng lãnh đạo . Sau đó ...
Quá trình trở thành thành công xuất sắc trong một lĩnh vực sẽ cung cấp cho bạn những kỹ năng và mạng lưới để thành công xuất sắc trong nhiều lĩnh vực khác.
Những người thành công xuất sắc không cố gắng để giành chiến thắng một cuộc đua. Họ mong chờ và có kế hoạch để giành chiến thắng một số cuộc đua tiếp theo.
7. Họ bán.
Một lần tôi hỏi một số chủ doanh nghiệp và giám đốc điều hành để đặt tên cho các kỹ năng họ cảm thấy đóng góp nhiều nhất cho sự thành công của họ. Mỗi khả năng để bán.
Hãy giữ trong đầu  bán hàng không phải là kích thích , gây sức ép, hoặc phỉnh phờ. Bán hàng được giải thích theo lý luận học (logic)   và lợi ích của một quyết định hoặc vị trí. Bán hàng được thuyết phục người khác làm việc với bạn. Bán haàg được vượt qua sự phản đối và các rào cản.
Bán hàng là nền tảng của kinh doanh và thành công cá nhân: biết cách thương lượng, đối phó với "không", để duy trì sự tự tin và lòng tự trọng khi đối mặt với bị từ chối, giao tiếp hiệu quả với một loạt các người, để xây dựng lâu dài các mối quan hệ ...
Khi bạn thực sự tin vào ý tưởng của bạn, hoặc công ty của bạn hoặc chính bạn sau đó bạn không cần phải có một cái tôi rất lớn hoặc một cá tính rất lớn. Bạn không cần phải "bán".
Bạn chỉ cần để giao tiếp.
8. Họ không bao giờ quá tự hào.
Phải thừa nhận họ đã làm sai. Để nói rằng họ rất xin lỗi vì đã có những giấc mơ lớn. Để thừa nhận họ nợ thành công của họ với những người khác. Tự chọc vui  chính họ để yêu cầu giúp đỡ.
Thất bại.
Và để thử lại.


Bài này từ yahoo news  và CN tự dịch lại .

Friday, November 9, 2012

TU LÀ CHUYỂN NGHIỆP

Nếu không muốn nhận lãnh hậu quả mà ta đã gieo nhân thì ta có thể hóa giải nghiệp bằng cách áp dụng luật nhân quả và nguyên lý Đồng-Thanh Đồng-Khí và Lực & Phản Lực.  Thí dụ ta lỡ đánh ai đó gãy chân thì muốn cái nhân ác này triệt tiêu đi ta phải tạo ra một nhân thiện, cái nhân cùng loại (cũng về chân cẳng) và đối nghịch (giúp đỡ thay vì làm hại) với nhân ác, chẳng hạn như đóng góp công sức tiền của vào những nghiên cứu chế tạo chân giả cho người què hay giúp người què có được tiện nghi tốt hơn trong đời sống.
            Nhưng có một trở ngại lớn là ta không biết được những nhân ta đã từng gây tạo từ vô lượng kiếp trong quá khứ thì làm sao áp dụng được luật nhân quả để hóa giải chúng? Một cách là ta cứ làm việc thiện, bất cứ việc thiện gì, vì theo luật duyên khởi mọi thứ lòng vòng liên quan đến nhau nên có thể chúng sẽ ảnh hưởng và sẽ làm suy giảm phần nào hậu quả của các nhân ác. Nhà Phật có giảng là nếu ném nắm muối (nghiệp ác) vào thau nước (phước ít) thì cả thau sẽ mặn chát; nhưng nắm muối sẽ không ăn thua gì nếu bỏ vào cái ao (phước nhiều).
            Lý lẽ trên nghe có vẻ đươn giản, nhưng thật ra không dễ dàng vì nhiều khi hoàn cảnh không cho phép, như trường hợp ta không thể có thì giờ, khả năng hoặc phương tiện tài chánh để thực hiện. Dĩ nhiên ta sẽ tạo được một ít phước lành, nhưng vì không tạo đúng các nhân thiện cùng loại và đối nghịch nên sự suy giảm của các nhân ác có lẽ không đáng kể, trong khi đó có thể nhân ác vô số đang chờ dịp để trổ quả. Bằng chứng là những vị thánh và ngay cả đức Phật cũng không thể giải sạch hết nghiệp của mình được. Như vậy có nghĩa là không có cách nào bảo đảm có thể hóa giải hết nghiệp xấu.
            Nếu không thể giải hết nghiệp được thì phải có cách chuyển nghiệp. Chuyển nghiệp ở đây sẽ được hiểu là tuy nghiệp xấu phát tác nhưng nó sẽ không ảnh hưởng gì đến ta – nói đúng hơn là ta chuyển tâm, tức là ta sửa đổi lại những giá trị tốt xấu đã được định sẵn trong tâm. Thí dụ ta làm cho kẻ nào đó phải tán gia bại sản, để hắn lâm vào tình trạng nghèo khốn cho bõ ghét. Đương nhiên là trường hợp ta bị mất mát tài vật và ở trong hoàn cảnh nghèo khó, ta sẽ đau khổ vì đối với ta mất mát và nghèo khó mang tính chất xấu xa, ta tin rằng chúng sẽ mang lại khổ đau cho ta và cũng như mọi người khác. Tìm cách góp nhặt tài vật và trốn tránh cái nghèo không phải là giải pháp vững chắc, mà giải pháp bảo đảm là chuyển tâm, tức là thay đổi lối nhìn, thay đổi giá trị. Nếu lối nhìn của ta thay đổi, vật chất không phải là nguồn hạnh phúc thật sự, cái nghèo không phải là điều xấu xa, thì chúng không thể gây khổ đau cho ta được.
            Ta trân quý viên kim cương, nhưng ngay khi biết được nó là thứ giả, ta liền liệng bỏ không thương tiếc. Trường hợp được biếu chiếc xe Mercedes, ta thật yêu quý và chăm sóc nó nhưng khi khám phá  ra là bên trong nó trống rỗng, không máy móc thì sự yếu quý cũng tiêu tan ngay lúc đó. Do đó muốn chuyển tâm hay sửa đổi giá trị, điều quan trọng là làm sao thấu rõ bản chất của sự vật là ‘trống rỗng’, không thực chất.
            Theo công ước thế tục thì sự vật có giá trị tương đối của chúng, tuy nhiên ở khía cạnh tuyệt đối (chân đế) thì chúng không mang giá trị tốt xấu gì cả, chúng không có thực chất, chúng không thực có. Chỉ vì cái nhìn sai lạc (vô-minh), không hiểu các định luật ta-bà (vô thường, nhân quả, tái-Sinh, duyên khởi, vô ngã, tánh-Không) nên ta bám chấp vào những giá trị đã được quy định mà ta cho là chân thật.

TU TẬP

Bất cứ môn học nào cũng thế, lý thuyết và thực hành phải đi đôi, cả hai đều quan trọng ngang nhau. Nói cho đầy đủ, ta phải thi hành cả ba giai đoạn, Văn (nghe giảng, học hỏi), Tư (suy nghiệm, nghiền ngẫm) và Tu (thực hành, thực tập). Trên bước đường tu tập ta phải nghe, học để biết những gì cần làm và những gì cần tránh; rồi nghiền ngẫm để hiểu cho rõ lý lẽ, khỏi bị nghi hoặc; và bắt tay vào phần thực hành để kiểm chứng. Và cứ thế ta lập đi lập lại ba giai đoạn này ở các cấp độ cao hơn.
            Tất cả các đề tài đã bàn ở các chương trên được thu gọn vào hai công thức Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo. Hai công thức này giải thích tu là gì, lý do tại sao phải tu, và ngoài ra Bát Chánh Đạo sẽ trình bày đầy đủ phương thức tu tập, nó chính là con đường tu tập.

A.   TỨ DIỆU ĐẾ [Four Noble Truth]
            Cách thức làm việc của một vị y sĩ được tiến hành qua bốn giai đoạn dựa trên luật nhân-quả:
1.     Xác nhận là bệnh nhân có bệnh
2.     Chấn đoán và xác định nguyên do gây bệnh,
3.     Bệnh tật có thể chấm dứt được bằng cách tận diệt nguyên do gây bệnh,
4.     Phương cách chữa trị căn bệnh.
            Tương tự như quy tắc chữa bệnh của vị y sĩ, đức Phật đề ra Tứ Diệu Đế nói lên sự thật là tất cả chúng sinh đều bị cùng một căn bệnh và có phương thuốc chữa trị.
a)     KHỔ  - Có sự khổ đau.
b)    TẬP – Có sự phát sinh của KHỔ - nguyên nhân gây ra Khổ là tham ái [attachment] (cùng với các nguyên nhân phụ).
c)      DIỆT – Có sự chấm dứt KHỔ - trừ bỏ nguyên nhân là tham ái thì Khổ chấm dứt.
d)    ĐẠO – Có con đường dẫn đến sự chấm dứt KHỔ - phương pháp tận diệt tham ái.
            Chúng ta lang thang và quanh quẩn trong cõi Ta-bà chỉ vì không thấu hiểu và trực nghiệm được Tứ Diệu Đế - Bốn Chân Lý Thâm Diệu. Được gọi là chân lý vì chúng là những sự thực mà có ai khám phá ra hay không và mọi người có biết hay không biết, chúng vẫn hiện hành và chi phối tất cả chúng sinh ở tất cả mọi nơi mọi thời. Cũng như định luật ‘trọng lực’ [gravity – sức hút của quả đất] nếu không có nhà bác học khám phá ra nó, nó vẫn ảnh hưởng đến tất cả mọi vật và sẽ không bao giờ thay đổi.
1.     KHỔ - nghĩa là sự bất thỏa mãn, bất toại ý vì mọi vật  vô-thường, không có tự tính, và không được toàn hảo [xem chương Hai]. “Có sự khổ đau” nên hiểu qua hai khía cạnh như sau:
a.      Có sự Khổ đau – một cách khách quan ta công nhận là có hiện tượng khổ đau (tánh nó là Không) chứ không nói là tôi hay anh hay ai khổ cả (vô-ngã)
b.     Khổ đau cần được thấu hiểu – Sự hiện diện của vấn đề khổ đau này cần phải được nhận biết và thấu hiểu, sự việc xảy ra như vậy đấy. Bình thường ta không muốn hiểu biết về nó và sự phản ứng của ta là than thở, đổ thừa, lo trốn tránh hoặc mong diệt trừ nó.
2.     Nguyên Nhân – gây ra Khổ là sự tham ái [attachment], nó là tâm bám chấp bao gồm Tham-Sân-Si. Ái là nhân duyên thứ tám trong thập nhị nhân-duyên, ở đây nên hiểu rằng nó là nguyên nhân gần nhất chứ không phải là nguyên nhân duy nhất hoặc đầu tiên. Ái có tính cách là ‘khát’ và khát ái sinh khởi do sự bám chấp vào hiện tượng và cái tôi không thực có, lầm tưởng chúng là thực tại chân thực; sự kiện này cũng là do cái nhìn sai lạc tức là do vô-minh gây ra. Tâm tham ái vị kỷ bao gồm tất cả các sự cầu mong bám chấp từ nhục dục (qua các giác quan), tài vật, quyền thế, danh vọng, đến những ý tưởng, quan điểm, học thuyết, tín ngưỡng, muốn trở thành thế này thế nọ, muốn sự vật phải như thế này thế nọ, muốn trừ bỏ cái này cái nọ, v.v…
            Ái là nguồn nhiên liệu duy trì sự tái sinh [xem thập nhị Nhân-Duyên]. Ái dùng thân xác làm phương tiện tìm kiếm lạc thú để thỏa mãn nhưng đến lúc chết thì thân xác tan rã trong khi Ái vẫn còn, cho nên nó cần phải có một thân xác khác, mà đã có sinh thì có tử bởi vậy chúng sinh Khổ đau trôi lăn trong vòng sinh tử chỉ vì tham ái. Vì Ái là cầu mong, bám chấp nên nó mang cả ba tính chất Tham, Sân (thí dụ như mong muốn hại ai) và Si (vì có quan hệ với vô-minh). Vậy Ái không phải chỉ có nghĩa là  mà nó có thể hiểu rộng ra là Tham-Sân-Si [xem chương V].
3.     Muốn chấm dứt Khổ thì đơn giản là phải trừ bỏ nguyên nhân gây ra Khổ, tức là Ái (Tham-Sân-Si). Và nhìn vào thập nhị Nhân-Duyên để thấy rõ hơn các nguyên nhân gần và xa của Khổ (mười một Nhân-Duyên trước nhân-duyên Khổ):
Vô Minh
Hành
Thức
Danh Sắc
Lục Nhập
Xúc
Thọ
Ái
Thủ
Hữu
Sinh
KHỔ: Lão-Tử, Sầu-Bi-Ưu-Khổ-Não
4.     Giải pháp là con đường dẫn đến sự thoát KHỔ, đó là phương pháp thanh lọc thân tâm bằng cách phát triển Trí Tuệ và Từ-Bi-Hỷ-Xả, tận diệt vô-minh và Tham-Sân-Si ở tất cả mức độ thô và tế [gross & subtle]. Con đường này gọi là Bát Chánh Đạo (con đường gồm có tám yếu tố chân chánh).
 
B.   BÁT CHÁNH ĐẠO [Eight-Fold Path]
            Khi bị cảm cúm, ngoài việc uống thuốc ra ta còn phải kiêng cữ ngăn chặn nguồn tiếp tế không để bệnh trở nặng thêm, nghĩa là phải để ý thêm những việc chẳng hạn như tránh ra gió máy, cần phải nghỉ ngơi dưỡng sức, bớt ăn lại và uống nước nhiều hơn, v.v…Trường hợp những người mang bệnh nặng thường phải áp dụng biện pháp quyết liệt hơn nữa.
// Thí dụ: Có một phụ nữ người Đài Loan là người có địa vị trong xã hội và thành công trong nghề nghiệp. Nhưng bất chợt bà ta khám phá là bị bệnh ung thư và bác sĩ phán là bà có ba thán để thu xếp mọi thứ. Sau khi hiểu rõ căn bệnh, bà dẹp hết công ăn việc làm và dọn về một làn nhỏ ven biển. Bắt đầu từ đó, đầu óc không còn bị căng thẳng vì việc làm, bà hoàn toàn thay đổi lề lối sinh hoạt, cách thức ăn uống. Ngày ngày ba ra biển hóng gió, dành thời giờ để tĩnh tâm và vận động cơ thể. Vì biết được bà là người trí thức nên dân làng bắt đầu nhờ bà giảng dạy một số lớp học. Thế là từ một đời sống bon chen, chỉ lo tích lũy và chỉ biết có riêng mình, bây giờ bà không còn sống cho cá nhân bà như trước nữa mà sống với mục đích mang lại lợi lạc cho người xung quanh. Khoảng một năm sau bà về gặp lại bác sĩ thì bệnh ung thư không còn nữa.//
            Phật Pháp tuy diễn giả vể cái KHỔ, nguyên do là những ràng buộc bởi chính ta gây tạo, nhưng không dừng ở lại đó mà tích cực chỉ cho chúng ta lối thoát. Công việc chữa trị bệnh KHỔ cũng không khác việc chữa bệnh, tất cả các yếu tố sau đây đều góp phần vào việc điều trị: Thiền định cộng với việc thay đổi tư tưởng, quan niệm, lối sống, thái độ, cách hành xử,…Nói cách khác, song song với thiền định là thang thuốc, ta phải có sự hiểu biết và tư duy đúng bằng cách thay đổi lối nhìn qua tư tưởng, quan niệm, sự hiểu biết và phải kiêng cử không nuôi dưỡng Tham-Sân-Si và tránh gây thêm nghiệp bằng cách thay đổi lối sống,  thái độ, hành xử. Đấy là phương thuốc chữa bệnh KHỔ, gọi là Bát Chánh Đạo, là pháp tu sửa toàn bộ cơ cấu của lối sống, cải cách cả thân lẫn tâm qua ba phương diện:
1.     Lối nhìn, sự hiểu biết – Huệ - phân biệt được Chánh Tà, nhìn thấy rõ tình huống của mình và biết được cần phải làm gì và giải quyết ra sao; ở mức độ cao thì Huệ là Trí Huệ giải thoóa:
Chánh Kiến
Chánh Tư Duy
2.     Kiêng cữ - Giới-cũng như kiêng cữ để bệnh đừng nặng thêm, Giới hạnh ngăn ngừa ta tạo thêm nghiệp qua Thân-Ngữ-Ý, đồng thời không tạo thêm cơ hội và mô trường để Tham-Sân-Si phát triển:
Chánh Ngữ
Chánh Nghiệp
Chánh Mạng
3.     Thang thuốc – Định – đi thẳng vào việc sửa  tâm theo con đường Chánh, diệt trừ gốc rễ Tham-Sân-Si.
Chánh Tinh Tấn
Chánh Niệm
Chánh Định
            Xin nhắc lại, Chánh nghĩa là những gì phá bỏ được những ràng buộc của Ta-bà –vô minh, Tham-Sân-Si, tà kiến, …- và hướng đến Trí Tuệ giải thoát. Sau đây là đại ý của tám yếu tố trong Bát Chánh Đạo.
1)     Chánh Kiến [Right View]: Cái nhìn, sự hiểu biết đúng. Ở cấp sơ khởi đó là sự hiểu biết về Tứ Diệu Đế (cộng với Bát Chánh Đạo), nếu nói rộng ra sự hiểu biết đúng bao gồm các đề tài đã bàn trong bài: Khổ, vô-thường, nhân-quả / Nghiệp, tái-sanh, duyên-khởi, ngủ-uẩn, thập nhị Nhân-Duyên, vô-ngã, Tham-Sân-Si. Ở trình độ này, chánh-Kiến là bản đồ vạch rõ vị trí của ta đang ở đâu, tình hình như thế nào, có những vấn đề gì, giải quyết ra sao, mục tiêu là gì,…nó là mũi tên chỉ ta hướng đi đến mục tiêu, và điểm quan trọng là trên đường đi trường hợp bị lệch lạc sai đường thì chánh-Kiến sẽ là mực thước điều chỉnh và giữ ta đi đúng hướng. Bảy yếu tố còn lại chỉ được gọi là Chánh khi thực hành theo hướng chánh-Kiến.
Sau khi trải qua phần tu tập thực hành (Bát Chánh Đạo), ở cấp độ rốt ráo thì chánh-Kiến là sự thấu triệt thực tướng của bản thân mình, trực nhận được thực tại tuyệt đối của vạn vật như nó là, vạn vật đều là Không (Không có tự tánh). Lúc bấy giờ chánh-Kiến là Trí Tuệ phá trừ Vô-minh, chánh-Kiến chính là mục tiêu.
2)     Chánh Tư-Duy [Right Thought / Understanding]: Suy nghĩ đúng, tư tưởng chân chính – tư tưởng liên hệ đến xuất gia, xã bỏ. Tư Duy còn có nghĩa là tác ý, động cơ [intention, motivation]. Ở trình độ sơ cơ, để phát triển chánh-Tư Duy, tư tưởng của hành gia phải luôn luôn xoay quanh các đề tài trong Chánh-Kiến. Thí dụ, trong mỗi hành động của Thân-Ngữ-Ý hoặc khi có sự việc gì xảy ra ta đều xét xem Khổ nằm ở đâu, vô-thường ở đâu, nhân-quả, v.v…Rèn luyện như vậy cho đến khi thấm nhuần thì chánh-Tư Duy là những tư tưởng không vị kỷ, không dính mắc trong Tham-Sân-Si, và chúng được lồng trong Từ-Bi-Hỷ-Xả.
3)     Chánh Ngữ [Right Speech]: Tư tưởng chân chính sẽ dẫn đến lời nói chân chính. Chánh-Ngữ (trái ngược với Vọng Ngữ) là kiêng cữ những lời nói gian dối, đâm thọc, thô ác và nhảm nhí. Chánh-Ngữ là những lời nói chân thật, hòa nhã, thanh tao, hữu ích phát sinh từ tâm Từ-Bi thay vì từ Tham-Sân-Si. Sự thật phải được tôn trọng vì hành giả là người đi về hướng chân lý để tìm chân lý thì không thể gian dối được.
4)     Chánh Nghiệp [Right Action]: Kiêng cữ ba loại hành động là sát sinh, trộm cướp, tà dâm. Hoặc nói một cách tổng quát, chánh-Nghiệp là hành động qua thân không do Tham-Sân-Si thúc đẩy.
5)     Chánh Mạng [Right Livelihood]: Nghề sinh sống chân chính không mang lại sự thiệt hại cho xã hội, cho chúng sinh. Hành giả không nhúng tay vào những nghề để nuôi mạng sống như buôn bán võ khí, nô lệ, độc dược, thú vật (để giết thịt), chất say (ma túy,  rượu).
6)     Chánh Tinh Tấn [Right Effort]: Sự nỗ lực;
a.     Ngăn ngừa không để phát sinh những ý tưởng Tà chưa phát sinh,
b.     Diệt trừ những ý tưởng Tà đã phát sinh,
c.      Khai triển những ý tưởng Chánh chưa phát sinh,
d.     Trau dồi và bảo tồn những ý tưởng Chánh đã phát sinh.
Chánh –Tinh Tấn, sự nỗ lực ‘cải Tà quy Chánh’, còn được gọi là Tứ Chánh Cần. Chánh Tinh Tấn hỗ trợ cho Chánh-Niệm.
7)     Chánh Niệm [Right Mindfulness]: Khi Tứ Niệm Xứ [xem phụ lục; phần Căn Bản sẽ chỉ bàn đến pháp Thiền Tứ Niệm Xứ - Minh Sát], bốn lãnh vực – sinh hoạt của thân, cảm giác, các trạng thái tâm, và các đối tượng của tâm – bao gồm tất cả các hiện tượng thân và tâm cùng các đề tài trong Chánh-Kiến, được quán chiếu một cách đặc biệt [Minh Sát] trong sự cảnh giác và chú tâm thì gọi là Chánh-Niệm’Quán chiếu một cách đặc biệt’ nghĩa là xuyên qua các hiện tượng thân-tâm, hành giả trực nhận được ba Pháp-Ấn: khổ, vô-thường, vô –ngã. Được kiên trì bằng sự nỗ lực của Chánh-Tinh-Tấn, Chánh-Niệm thanh tịnh hóa thân tâm bằng cách ngăn chặn và diệt trừ tâm Tà trong khi phát triển và vung bồi tâm-Chánh. Đó cũng có nghĩa là sửa [reprogram] cái tâm lại chuyển hướng cho nó đi theo con đường Chánh, hoặc nói cách khác, lấy con đường Chánh làm điều kiện để tâm theo đó mà vận hành. Chánh Niệm còn được gọi là Thiền Quán.
8)     Chánh định [Right Concentration]: Nếu cái kính hiển vi không đứng yên một chỗ gom ánh nắng lại một điểm trên tờ giấy thì tờ giấy không bốc cháy được. Cũng vậy, nếu tâm bị giao động không gom lại được để an trụ trên đối tượng thì hành giả không thể đào sâu vào các tầng lớp bên trong và như vậy sẽ không thể thấy rõ được bản chất chân thực của đối tượng. Định nghĩa là trạng thái tâm tập trung và an trú trên một điểm duy nhất. Chánh-Định là đạo luyện tâm định để hổ trợ cho chánh niệm chứ không phải để dùng vào những việc như chữa bệnh, tăng cường sức khỏe, hưởng sự an lạc trong các tầng định, v.v…Đề mục cho thiền định không hỗn tạp nhiều thứ vì tâm sẽ dễ bị chi phối nên khó ổn định được; đối tượng thường chỉ tinh thuần một thứ, chẳng hạn như chỉ theo hơi thở, hoặc chỉ một màu đỏ, v.v…Có 40 đề mục phổ thông [xem phụ lục] thường được áp dụng để phát triển định. Tập định sẽ trải qua bốn tầng Thiền và lên trên nữa là bốn tầng Định. Chánh Định còn được gọi là Thiền Chỉ.
            Cả tám yếu tố đều thiết yếu cho việc tu hành vì chúng tương trợ lẫn nhau nên không thể bỏ sót một yếu tố nào. Nói tóm lại, Bát Chánh Đạo là con đường chuyển hóa con người từ Tà sang Chánh, nó là công thức cải cách toàn diện cả thân lẫn tâm từ thô đến tế. Nó là phương pháp tháo gỡ “cuộn chỉ rối” mà ta đang vướng kẹt, phương pháp giải tỏa vòng xích thập-nhị-Nhân-Duyên mà ta đang bị trói buộc. Vậy tu hành không phải là việc diệt trừ Khổ mà là sự tận diệt nguyên nhân gây ra Khổ - Vô Minh – và Tham-Sân-Si – bằng cách thực hành Bát Chánh Đạo – con đường dẫn đến trí huệ giải thoát.

C.   GIỚI – ĐỊNH – HUỆ
            Luật Pháp xã hội được đặt ra với mục đích phòng ngừa vấn đề phá rối trật tự ngõ hầu duy trì an ninh trong xã hội. Giới trong Phật Pháp mang ý nghĩa rộng lớn hơn ở chỗ ngoài việc ngăn chặn ta vi phạm luật pháp trong phạm vi xã hội, chúng còn là những điều răn cấm cho riêng cá nhân ta cần phải tuân theo để tránh những hành động của thân-khẩu-ý đi sái với quy luật Ta-bà. Vậy Giới giữ vai trò là cảnh giác và ngăn ngừa những khuynh hướng khả dĩ gây tạo nghiệp Thiện hoặc Ác mà sẽ trói buộc ta lẩn quẩn trong vòng tròn Ta-bà. Chẳng những vậy, khi giữ Giới ta tránh không phương hại đến người và vật xung quanh tức là ta mang lại sự an ổn cho kẻ khác, và sự quan tâm đến kẻ khác là hình thức phát triển tâm Từ-Bi của mình. Giới bao gồm Chánh-Nghiệp và Chánh-Mạng (Thân), Chánh-Ngữ (Ngữ) và chánh-Tư Duy (Ý).
            Nói chung, “Thiền” [Meditation] là từ ngữ mang ý nghĩa bao quát về pháp hành, trong khi “Định” [concentration] rất dễ bị lẫn lộn với chánh-Định. Ở đây nên hiểu Định là một nhóm gòm có cả ba yếu tố - Tinh-Tấn, Chánh-Niệm và Chánh-Định.
//Trong trường hợp này, nếu lấy chữ “Thiền” thay cho “Định”, như một số học giả và hành giả ngoại quốc đã dùng, thì sẽ giúp cho người học đỡ bị bối rối hoặc hiểu biết sai lạc.//
            Xin nói sơ thêm về định theo nghĩa chánh-Định. Tâm định nghĩa là tâm có khả năng an trú trên một đối tượng mà không lay động bởi ý tưởng hoặc cảnh vật bên ngoài. Thí dụ như trong một căn phòng trống chỉ có một vật duy nhất, bởi vậy khi nhìn vào phòng ta không thấy vật gì khác ngoài vật đó, và vì nó là vật duy nhất nổi bật nên ta không bị phân tâm và cũng vì thế nên ta dễ thấy rõ được những chi tiết, tính chất của nó.
            Kiến thức thế gian không phải là Trí Huệ theo nghĩa nhà Phật. Các nhà bác sĩ, bác học, luật sư tuy là những người học rộng biết nhiều, nhưng họ vẫn bị Tham-Sân-Si sai sử, vẫn bị phiền não quấy nhiễu, và không biết đường nào giải quyết vấn đề sinh tử. Bởi vậy, họ vẫn thuộc thành phần vô-minh, không có trí-huệ. Trí-Huệ ở mức độ sơ khởi là sự hiểu biết trên lý trí về Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo và các định luật Ta-bà. Trí-Huệ rốt ráo là sự trực nghiệm thế gian là vô-thường, Khổ, và vạn-Pháp, kể cả thân-tâm, đều vô-ngã. Nói vắn tắt, trí-huệ là sự ‘ trực nhận bản chất của thực tại, của vạn pháp như nó là’. Người có trí-huệ sống trong thế gian nhưng không nhiễm mắc thế sự.
            Mối liên hệ giữa Giới, Định, và Huệ rất chặt chẽ, không thể thiếu cái nào trên con đường tu hành – bộ ba này chính là con đường tu hành – Bát Chánh Đạo.
            Những kẻ từng làm điều phạm pháp thường lo sợ sẽ có ngày bị khám phá và bị buộc tội, còn không thì cũng chẳng được yên ổn với lương tâm mình. Tương tự, nếu không nhờ Giới ngăn chặn ta làm điều sai quấy, tạo tác Tà nghiệp, ta sẽ sống trong tâm trạng bất an, và đến khi trả nghiệp phải đối đầu với nghịch cảnh cũng sẽ làm tâm bất an, ta sẽ khó lòng Định. Trong số các đại đệ tử đức Phật có vị đắc quả A-la-hán do pháp hành chuyên về giữ giới luật. Vậy Giới trợ giúp cho Định và Huệ.
            Xin nhắc lại, Định là sự nỗ lực (chánh-Tinh Tấn) cùng với tâm an định (chánh-Định) và sự quán xét đúng đắn (chánh-Niệm). Cũng như ngọn nến không bị gió lay động nên sự sáng tỏ của nó giúp việc quán sát và nhận biết cảnh vật xung quanh được dễ dàng và không lầm lẫn (Huệ). Khi Tham-Sân-Si tạm lắng xuống thì trạng thái tâm an định nó sẽ mang lại phần nào sự an lạc và sáng suốt, đồng thời sự đòi hỏi được xoa dịu, và như vậy tránh được tình trạng vọng động dẫn đến những hành vi bất Chánh (Giới). Vậy Định trợ giúp cho Giới và Huệ.
            Nhờ có sự hiểu biết – trí-Huệ - (thí dụ như hiểu luật Nhân-Quả) ta sẽ dễ giữ Giới vì hiểu rõ lý do; và nhờ hiểu thấu sự vật, không có sự hoài nghi, không bị hoang mang về chuyện thế gian, về những chuyện không đáng thắc mắc, tâm sẽ an định và dễ dàng quán sát (Định) Vậy Huệ trợ giúp cho Giới và Định.
            Theo như ba yếu tố Giới, Định và Huệ được bàn ở trên, một yếu tố sẽ trợ giúp cho cả hai yếu tố kia, và ngược lại, nếu một yếu tố không được trao giồi, tôi luyện, nó sẽ gây trở ngại cho hai yếu tố kia. Khởi đầu việc tu hành, một yếu tố sẽ được chú trọng hơn hai yếu tố kia tùy theo cá tính khác biệt của từng cá nhân, và sau đó không nhất thiết phải theo một thứ tự nào mà cả ba – nói rõ hơn là Bát Chánh Đạo – nên đồng song hành với nhau. Cũng có thể tùy trường hợp, một yếu tố sẽ là yếu tố chủ động trong một thời điểm nào đó.

D.   THIỀN CHỈ (Chánh Định) và THIỀN QUÁN (Chánh Niệm)
            Thiền nghĩa là Pháp lành, bất luận là phương pháp gì, dùng để thanh lọc các ô nhiễm (Tham, Sân, Si) trong tâm, chuyển tâm tự trạng thái Tà sang Chánh, phát triển trí – huệ - trọng yếu là trực nhận được tánh-Không – dẫn đến giải thoát. Tất cả các pháp thiền đều không nằm ngoài hai loại là thiền Chỉ và thiền Quán.
            Chỉ nghĩa là dừng, đứng lại một chỗ. Thiền Chỉ là pháp hành gom tâm lại không cho nó lay động, giữ nó an trú trên đối tượng; do tâm không bị chi phối bởi cảnh vật bên ngoài cũng như những tư tưởng bên trong nên đạt đến trạng thái vắng lặng, sự định tâm. Thiền Quán là quán sát tất cả các hiện tượng tinh thần (Tâm) lẫn vật chất (Thân và cảnh) để có thể phát triển trí-huệ, trực nhật được thực tại như nó là.
            Nói vắn tắt,
Thiền Chỉ là Chánh Định dẫn đến Định
Thiền Quán là Chánh Niệm dẫn đến Huệ (Trí-Huệ giải thoát).
            Mục đích tối hậu của việc tu hành là đạt đến trí huệ để phá trừ vô-minh bởi vậy không thể không hành thiền Quán được. Thế nhưng cả hai thiền Chỉ và thiền Quán đều quan trọng trong công việc tu tập như chim bay phải có đủ cả hai cánh. Như đã thí dụ về ngọn nến không bị gió và kính hiển vi không lay động, Định là dụng cụ trợ giúp cho Thiền Quán vì nếu tâm bị giao động, không an trú được trên đối tượng thì hành giả khó lòng quán sát được đối tượng và không thể quán sát ở mức độ sâu xa vi tế.
            Chữ ‘Định’ trong câu “Định sinh Huệ” mà ta thường nghe nói phải là cái ‘Định’ bao gồm Chánh Tinh-Tấn, Chánh-Định, và Chánh-Niệm [như đã bàn trong Bát Chánh Đạo]. Còn nếu đây chỉ là cái ‘Định’ (trạng thái vắng lặng, không bị giao động) của Thiền Chỉ thì nó sẽ không tự động sinh ra Huệ.
// Thí dụ ta lấy tảng đá đặt lên bãi cỏ thì cỏ dưới tảng đá sẽ ngưng mọc và có vẻ như bị chết, thế nhưng khi dời tảng đá đi thì cỏ lại mọc trở lại vì gốc rễ nó vẫn còn.//
// Thí dụ ta để yên một ly nước thì dât bụi sẽ lắng xuống, thế nhưng khi động đến thì ly nước lại bị vẫn đục trở lại vì đất bụi chỉ tạm thời nằm yên dưới đáy.//
            Ta có thể hiểu tảng đá đặt trên cỏ và bụi đất lắng động trong ly nước là Định, còn cỏ (và gốc rễ) và đất bụi trong ly nước là phiền não (Tham Sân Si). Ta thấy Định chỉ tạm thời đè nén Tham-Sân-Si xuống và khi buông Định ra chúng sẽ phát tác trở lại, như vậy Định không trừ được Tham-Sân-Si, không sinh được Huệ, mà trí-Huệ, dùng để nhổ cỏ tận gốc rễ, lược sạch đất bụi, hay tận diệt gốc rễ Tham Sân Si, phải được phát triển qua thiền Quán.
            Thêm thí dụ sau đây làm tỏ rõ vai trò và sự liên hệ giữa Đinh, Thiền Quán, và Huệ.
            Ban đêm thấy có con rắn đang nằm ngoài sân nên ta đâm sợ hãi, tưởng tượng ra đủ thứ chuyện về con rắn và không dám đi đâu. Đánh bạo, ta có thể lấy đèn pin mạo hiểm ra ngoài và rọi vào con rắn xem nó ra làm sao, nhưng vì ngọn đèn pin không sáng đủ nên ta chỉ thấy mập mờ không biết rõ nó là loại rắn gì, lớn nhỏ thế nào, hay là nó cũng chẳng phải là con rắn mà là một con gì khác, vật gì khác. Rốt cuộc ta vẫn mang tâm trạng hoang mang sợ hãi. Nhưng trường hợp ta có cái đèn pha thì khi sợi dây thừng phơi bày nguyên hình dưới ánh đèn sáng như ban ngày, ngay lập tức, tất cả những hoang mang nghi ngờ vụt tan biến và những sợ hãi tưởng tượng được thay thế bằng sự an lạc tự tại.
            Chú thích: Vì màn đêm (vô minh) che phủ nên sợi dây thừng (thực tại) bị nhìn lầm thành con rắn (thế gian)gây ra những sợ hãi, tưởng tượng (Tham, Sân, Si, Vọng Tưởng). Mang đèn pin (định lực) ra ngoài sân để xem xét (quán), nhưng vẫn không thấy rõ vì ánh đèn pin không đủ sáng (định yếu) nên vẫn còn hoang mang sở hãi (Tham Sân Si, Vọng Tưởng). Nhưng khi đén pha (định lực mạnh) để rọi xét (quán) thì thấy rõ con rắn chỉ là sợi dây thừng (thấy rõ thực tại như nó là, không còn cái nhìn sai lầm, huệ), ngay lập tức nạn nhân bừng tỉnh (giác) và những hoang mang sợ hãi (Tham Sân Si, vọng tưởng) được thay thế bằng an lạc tự tại (Niết Bàn).
            Thí dụ trên cho thấy những điểm quan trọng sau. Định lực càng mạnh thì việc quán sát càng dễ dàng và nếu không có định lực thì khó có thể quán sát sự vật. Nếu có định lực mạnh mà không đem dùng để quán sát thì cái nhìn sai lầm về thực tại vẫn sẽ còn đó. Nếu có định lực mạnh mà không rọi vào đúng đối tượng (như đèn pha không rọi đúng vào con rắn) thì cũng sẽ không thể giải tỏa được cái nhìn sai lầm.
            Trí-huệ là ánh sáng phá tan bóng tối vô minh, bởi vậy đối tượng cho thiền Quán không phái là đề mục nào cũng được, mà phải là những đề mục có liên hệ đến định luật ta-bà và có thể thanh lọc được thân tâm để hành giả trực nhận được bản chất của thực tại, của vạn pháp. Các đề mục tổng quát đã thực tại, của vạn pháp. Các đề mục tổng quát đã được liệt kê ở phần Chánh Kiến, còn các đề mục trong Chánh Niệm (Tứ Niệm Xứ - xem phụ lục) sẽ hướng dẫn ta đi sâu hơn vào chi tiết ở trình độ cao hơn.
           
E.   CUỘN CHỈ RỐI
            Xin nhắc sơ lại sự tương quan và nương tựa lẫn nhau của mọi sự theo luật duyên-khởi qua một số các đề tài đã bàn: ngũ uẩn, thập nhị nhân-duyên, bát-chánh-đạo và tứ-diệu-đế.
            Về ngũ uẩn, trong Sắc uẩn, bốn Đại (Đất-nước-lửa-gió) nương vào nhau để sinh khởi; trong khi căn và trần phải ỷ dựa lẫn nhau để hiện hữu. Bốn uẩn còn lại (Thọ-Tưởng-Hành-Thức), mỗi một uẩn phải nương vào một hoặc cả ba uẩn kia để tác hiện. Và cả năm uẩn (thân và tâm) phải nương vào nhau để sinh hoạt.
            Tám yếu tố trong bát-chánh-đạo hỗ trợ và ỷ dựa lẫn nhau qua sự tương quan về Giới-Định-Huệ như đã bàn.
            Tứ-diệu-đế - Tập là nhân, Khổ là quả, Đạo là nhân, diệt là quả; Khổ-Tập là nhân, Diệt-Đạo là quả.
            Mười hai nhân-duyên diễn tả tiến trình tương sinh giữa thân và tâm. Chúng cũng đan kết và nương tựa lẫn nhau, mỗi một nhân-duyên đều có sự liên hệ với mười một nhân-duyên còn lại. Dựa theo sự tương quan của chúng, ta liệt kê sự móc nối của một số nhân duyên sau đây:
Vô-Minh ¬ ® Hành
Vô-Minh ¬ ®   Ái
Vô-Minh gây ra những loại tâm Tham Sân Si, và những hành động Tham Sân Si lại bồi dưỡng cho Vô-Minh. Ngược lại, những loại tâm hiện như tâm Xả, tâm Từ, sẽ làm Vô Minh suy yếu.
Hành ¬ ® Thức
Những hành động qua thân-khẩu-ý sẽ được ghi lại trong giòng tâm thức và từ trong giòng tâm thức chúng sẽ là điều kiện thúc đẩy ta hành động.
Thức ¬ ® Danh Sắc
Trong giòng tâm thức chứa đầy đủ điều kiện để tạo nên Danh Sắc và những sinh hoạt của Danh Sắc sẽ lưu lại dấu vết trong giòng tâm thức.
Danh Sắc: Danh ¬ ® Sắc
Thân và tâm nương nhau để đồng sinh khởi.
Danh Sắc ¬ ® Sinh
Lục Nhập: Căn ¬ ® Trần
Căn (chủ thể [subject]) và Trần (đối tượng [object]) nương nhau để đồng sinh khởi.
Xúc: Căn ¬ ® Trần ¬ ® Thức ¬ ® Căn
Căn, Trần và Thức (tinh thần và vật chất / chủ thể và đối tượng) nương nhau để đồng sinh khởi.
            Thực tế ta đang đối diện với khổ đau, ai cũng đều biết và đều tìm cách thoát khổ. Song thoát khổ lại là vấn đề cực kỳ khó khăn, chính vì luật duyên khởi chi phối làm ta lâm vào tình trạng rối mù, chẳng biết đầu mối ở đâu mà tháo gỡ. Định luật duyên khởi vạch rõ sự tương quan giữa tất cả sự vật và sự nương tựa lẫn nhau của chúng. Nhưng cũng vì vậy mà mọi thứ đều ở trong tình trạng đầu đuôi lẩn quẩn, chồng chéo và quấn rối vào với nhau. Ta may mắn gặp được Phật Pháp, con đường giúp ta giải quyết vấn đề, thế nhưng chính ngõ thoát này cũng không đơn giản và thẳng tắp rõ ràng vì nó không nằm ngoài luật duyên khởi – nó cũng lại như cuộn chỉ rối, cái này chỉ vào cái kia, cái kia chỉ vào cái nọ - nên gây hoang mang không ít cho người tu. Sự kiện phức tạp, đan kết chằng chịt trong Phật Pháp cần được hiểu rõ, nó sẽ giúp ta có được cái nhìn toàn diện của vấn đề, và như vậy sẽ đỡ được tâm trạng mơ hồ bối rối.
            Biểu đồ dưới đây cho ta thấy mối tương quan và sự nương tựa lẫn nhau giữa các thành phần của các nhóm khác nhau. Chẳng hạn như Đạo đế (trong Tứ-Diệu Đế) chính là Bát Chánh Đạo, nhưng dưới Bát Chánh Đạo, Chánh-Kiến đòi hỏi phải hiểu biết về Tứ Diệu Đế. Như vậy Tứ Diệu Đế tựa và chỉ vào Bát Chánh Đạo, và Bát Chánh Đạo tựa và chỉ vào Tứ Diệu Đế.


 
 
 
F.    TU LÀ CHUYỂN NGHIỆP
            Nếu không muốn nhận lãnh hậu quả mà ta đã gieo nhân thì ta có thể hóa giải nghiệp bằng cách áp dụng luật nhân quả và nguyên lý Đồng-Thanh Đồng-Khí và Lực & Phản Lực.  Thí dụ ta lỡ đánh ai đó gãy chân thì muốn cái nhân ác này triệt tiêu đi ta phải tạo ra một nhân thiện, cái nhân cùng loại (cũng về chân cẳng) và đối nghịch (giúp đỡ thay vì làm hại) với nhân ác, chẳng hạn như đóng góp công sức tiền của vào những nghiên cứu chế tạo chân giả cho người què hay giúp người què có được tiện nghi tốt hơn trong đời sống.
            Nhưng có một trở ngại lớn là ta không biết được những nhân ta đã từng gây tạo từ vô lượng kiếp trong quá khứ thì làm sao áp dụng được luật nhân quả để hóa giải chúng? Một cách là ta cứ làm việc thiện, bất cứ việc thiện gì, vì theo luật duyên khởi mọi thứ lòng vòng liên quan đến nhau nên có thể chúng sẽ ảnh hưởng và sẽ làm suy giảm phần nào hậu quả của các nhân ác. Nhà Phật có giảng là nếu ném nắm muối (nghiệp ác) vào thau nước (phước ít) thì cả thau sẽ mặn chát; nhưng nắm muối sẽ không ăn thua gì nếu bỏ vào cái ao (phước nhiều).
            Lý lẽ trên nghe có vẻ đươn giản, nhưng thật ra không dễ dàng vì nhiều khi hoàn cảnh không cho phép, như trường hợp ta không thể có thì giờ, khả năng hoặc phương tiện tài chánh để thực hiện. Dĩ nhiên ta sẽ tạo được một ít phước lành, nhưng vì không tạo đúng các nhân thiện cùng loại và đối nghịch nên sự suy giảm của các nhân ác có lẽ không đáng kể, trong khi đó có thể nhân ác vô số đang chờ dịp để trổ quả. Bằng chứng là những vị thánh và ngay cả đức Phật cũng không thể giải sạch hết nghiệp của mình được. Như vậy có nghĩa là không có cách nào bảo đảm có thể hóa giải hết nghiệp xấu.
            Nếu không thể giải hết nghiệp được thì phải có cách chuyển nghiệp. Chuyển nghiệp ở đây sẽ được hiểu là tuy nghiệp xấu phát tác nhưng nó sẽ không ảnh hưởng gì đến ta – nói đúng hơn là ta chuyển tâm, tức là ta sửa đổi lại những giá trị tốt xấu đã được định sẵn trong tâm. Thí dụ ta làm cho kẻ nào đó phải tán gia bại sản, để hắn lâm vào tình trạng nghèo khốn cho bõ ghét. Đương nhiên là trường hợp ta bị mất mát tài vật và ở trong hoàn cảnh nghèo khó, ta sẽ đau khổ vì đối với ta mất mát và nghèo khó mang tính chất xấu xa, ta tin rằng chúng sẽ mang lại khổ đau cho ta và cũng như mọi người khác. Tìm cách góp nhặt tài vật và trốn tránh cái nghèo không phải là giải pháp vững chắc, mà giải pháp bảo đảm là chuyển tâm, tức là thay đổi lối nhìn, thay đổi giá trị. Nếu lối nhìn của ta thay đổi, vật chất không phải là nguồn hạnh phúc thật sự, cái nghèo không phải là điều xấu xa, thì chúng không thể gây khổ đau cho ta được.
            Ta trân quý viên kim cương, nhưng ngay khi biết được nó là thứ giả, ta liền liệng bỏ không thương tiếc. Trường hợp được biếu chiếc xe Mercedes, ta thật yêu quý và chăm sóc nó nhưng khi khám phá  ra là bên trong nó trống rỗng, không máy móc thì sự yếu quý cũng tiêu tan ngay lúc đó. Do đó muốn chuyển tâm hay sửa đổi giá trị, điều quan trọng là làm sao thấu rõ bản chất của sự vật là ‘trống rỗng’, không thực chất.
            Theo công ước thế tục thì sự vật có giá trị tương đối của chúng, tuy nhiên ở khía cạnh tuyệt đối (chân đế) thì chúng không mang giá trị tốt xấu gì cả, chúng không có thực chất, chúng không thực có. Chỉ vì cái nhìn sai lạc (vô-minh), không hiểu các định luật ta-bà (vô thường, nhân quả, tái-Sinh, duyên khởi, vô ngã, tánh-Không) nên ta bám chấp vào những giá trị đã được quy định mà ta cho là chân thật.

G.  THỰC HÀNH
            Như đã bàn, cách thức chữa trị bệnh Khổ phải hội đủ ba yếu tố: Giới-Đinh-Huệ; việc chữa trị lại được áp dụng theo công thức văn-tư-tu, và văn-tư tu sẽ được tiếp tục lập lại ở các cấp độ cao hơn.
            Nói chung, hành giả giữ Giới theo khuôn thước của chánh-Ngữ, chánh-Nghiệp, và chánh-Mạng (kể cả chánh-Tư Duy). Đi vào chi tiết, đối với giới tăng lữ, có 250 giới luật cho tăng và 350 giới luật cho ni. Nếu nói văn tắt thì tất cả những giới luật này là phương tiện giúp kẻ tu hành ngăn ngừa không để tâm Tham-Sân-Si sinh khởi; chẳng hạn như giới điều ngăn cấm tăng ni không được  phép bước chân vào làng xóm sái giờ (ngoài giờ khất thực), lý do là vì khi không có việc chính đáng thì sẽ dễ ngồi lê la tán dóc về các chuyện như chính trị, thời trang, trái gái, v.v…ngăn ngừa như vậy sẽ không tạo cơ hội để khởi động và làm tăng cường cho các tâm Tham-Sân-Si.
            Theo lẽ trên, điểm quan trọng của việc giữ giới vẫn chỉ để nhắm vào Tham-Sân-Si. Khi tăng đoàn được thiết lập, ban đầu, lúc chưa có các loại tạp nhạp trà trộn vào, đức Phật không ban giới luật gì cả vì tăng sĩ đều tự giác và ý thức được quy tắc tu hành. Họ luôn luôn canh chừng cẩn mật, kiểm soát động cơ đằng sau các hành vi thân-khẩu-ý và có do tâm Tham-Sân-Si sai khiến hay không, và sự đề cao cảnh giác trong mọi lúc chính là trì giới và nó cũng là thiền-Quán (chánh-Niệm).
            Huệ (chánh-Kiến, chánh-Tư Duy) đạt được trên phương tiện kiến thức do Văn và Tư (tham vấn, học hỏi và suy nghiệm); đạt được trên phương diện thực nghiệm do Tu (thực hành chánh-Định và chánh-Niệm [thiền Chỉ và thiền Quán]).
            Ta đã biết tất cả các pháp Thiền đều thuộc về thiền-Chỉ hoặc thiền-Quán. Thiền-Chỉ (chánh-Định) tương đối đơn giản, chỉ cần an trú tâm trên một đối tượng [xem 40 đề mục phổ thông ở phần Phụ Lục], hoặc nói cách khác, ta gom tâm, tập trung trên đối tượng; tức là gạt hết các tư tưởng khác ra ngoài và chỉ còn thấy có đối tượng mà thôi. Đối tượng thường là vật đơn thuần [simple, pure] như nước hoặc lửa, hoặc chỉ một màu nào đó, xanh hoặc đỏ, v.v…để hành giả không bị phân trí, nhờ vậy tâm không bị giao động, định lực mới phát triển. Có định lực mạnh ta mới thực hành thiền Quán sâu xa được.
            Ở đây ta sẽ bàn kỹ hơn về Thiền Quán (chánh-Niệm). Cách thức quán sát các định luật được lập lại, và một phần pháp thiền Tứ-Niệm-Xứ [xem phụ lục] được trình bày sơ qua vì mục đích chính của nó cũng là để đi sâu vào các định luật. Nhiệm vụ quan trọng của thiền Quán là phát triển trí-huệ về ba Pháp Ấn: thấu suốt cái Khổ, thể nghiệm Vô-thường, và trực nhận tánh-Không / vô –ngã.
            Nói thì dễ nhưng thực hành không phải là chuyện có thể xong được trong một sớm một chiều. Ngay từ lúc lọt lòng mẹ, gia đình và sau đó là xã hội đã ‘giáo dục’ cho ta về những gì phải trái, tốt xấu, v.v…Thật sự là ta đã bị ‘nhồi sọ’ những tư tưởng, lối nhìn cũng như lối sống và ta đánh giá mọi thứ theo chiều hướng của thế gian. Được huấn luyện như thế trải qua vô lượng kiếp những tập khí (giá trị trong hồ sơ) này trở nên thật kiên cố với gốc rễ thật sâu dày. Dù cho sự việc là trắng nhưng quanh ta ai cũng bảo là đen thì đến một lúc nào đó ta sẽ tin tưởng theo họ và cũng thấy nó là đen. Như chuyện thân mẫu thày Tăng Tử (Thày là học trò Đức Khổng Tử, nổi tiếng là người hiền).
// Có kẻ trùng danh với Tăng Sâm (Tăng Tử) giết người. Một lần có người hớt hải chạy qua báo cho bà thân mẫu của Thày, lúc đó đang ngồi trong nhà dệt cửi. Tin tưởng rằng con mình không thể đi làm một việc xấu xa như thế, bà vẫn ngồi điềm nhiên làm việc. Một lát  sau, thêm một người nữa chạy qua kêu là Tăng Sâm giết người, nhưng bà vẫn chẳng quan tâm đến. Đến khi người thứ ba hô hoán Tăng Sâm giết người thì bà hoảng hốt quăng thoi bỏ chạy.//
            Một số trở ngại nữa là nếu không có sự hiểu biết toàn diện và không áp dụng đúng cách thì kết quả gặt hái sợ là sẽ không được viên mãn, và vẫn dễ bị sa ngã. Thí dụ, một số hành giả áp dụng định luật vô-thường để giảm trừ tâm ái dục, khi gặp phái nữ thì không nhìn thấy đó là những cô gái đẹp mà quán trong tâm họ là những bà già xấu xí. Sự việc diễn tiến như thế cứ tạm coi như là tốt đẹp, tuy nhiên nếu các ‘bà già’ cứ xán lại nói chuyện vui vẽ thì chẳng mấy chốc hành giả chỉ còn biết đó là những tiên nữ mỷ miều khả ái. Thí dụ, những hành giả thực hành hạnh nhẫn-nhục nếu chỉ  biết chịu đựng thì đấy chỉ là lối đè nén tâm Sân chứ không phải là dùng trí-huệ để giải quyết vấn đề.
            Bây giờ muốn đi ngược lại những quan niệm, thói tật thế gian, ta sử dụng công thức “lấy độc trị độc”  - áp dụng cách thức ‘nhồi sọ’. Phải đến kẻ hàng xóm thứ ba mới lay chuyển được bà thân mẫu Tăng Tử, bởi vậy chỉ nêu lên một lý do thì rất khó tự thuyết phục được chính mình. Thay vì chỉ quán về vô-thường khi chạm trán các ‘bà già’, hoặc chỉ cố gắng nhẫn-nhục khi bị hành hung, ta quán sát tất cả các định luật, và dựa vào đó đưa ra cả chục lý do để khẳng định sự sai lầm của lối nhìn thế gian. Mỗi khi gặp thuận cảnh hoặc nghịch cảnh, ta quán sát [thiền quán] tất cả các định luật ta-bà – Khổ, vô-thường, nhân-quả, tái-Sinh, duyên-khởi, tánh-Không.
·       Thí dụ khi ta bị hành hung, hoặc thấy, nghe về những chuyện bất công:
-       Luật nhân-quả đang tái tạo sự quân bình, ta đang nhận lãnh hậu quả do nhân đã gây ra trong quá khứ.
-       Cái khổ có thật không? ‘Ai’ đang chịu khổ? [vô-ngã]
-       Thật ra ta mới là kẻ hưởng lợi, vì đây là dịp để trả nghiệp [nhân quả] và thực hành hạnh nhẫn nhục.
-       Đáng thương cho kẻ hại ta, họ sẽ phải gặt hái nghiệp ác trong tương lai [nhân quả ]
-       Rồi sự việc cũng sẽ qua đi, nhiều khi ta với kẻ thù sẽ lại là bạn thân sau này, hoặc đã từng là bà con quyến thuộc trong những kiếp trước, hoặc sẽ tái sinh làm bà con quyến thuộc sau này. [vô thường, tái sinh]
-       Nếu không vì Khổ (sân hận / tham lam) thì họ đã không gây phiền nhiễu cho ta, họ không có sự lựa chọn.
-       Do luật duyên khởi nên phải có những điều kiện dẫn đến việc ta vị hại và hành động của kẻ làm hại.
-       Xét theo luật duyên khởi và nhân quả, không phải là có kẻ hận thù ta một cách vô cớ. Có thể ta đã làm việc gì gây tổn hại đến hắn, người thân của hắn; có thể ta với hắn không liên can gì đến nhau, nhưng chỉ vì tâm đố kỵ, nên sự giàu sang phú quý của ta làm hắn bực bội ganh ghét; hoặc chỉ vì ta là người Việt mà hắn lại không ưa dân Việt, và tâm thù ghét người Việt của hắn phát khởi từ kinh nghiệm không mấy tốt đẹp với những người Việt hắn va chạm trước đó, v.v…
-       Chỉ có một chuỗi hiện tượng diễn biến của thân tâm chứ không thật có kẻ bị hại và kẻ làm hại [vô-ngã]
-       Tâm Từ nhìn theo luật tái –sinh – kẻ hại ta có thể đã từng là con cái ta trong những kiếp trước. Mặc dù con cái hư hỏng hỗn hào, gây buồn phiền cho cha mẹ, nhưng với lòng thương yêu bao la, cha mẹ vẫn cam chịu, vẫn thương yêu và sẵn sàng hy sinh cho chúng.
-       Hoặc kẻ hại ta có thể đã từng là cha mẹ ta trong những kiếp trước. Nghĩ đến công ơn sinh thành dưỡng dục, sự hy sinh và lòng thương yêu vô bờ bến của cha mẹ, và nhiều khi cha mẹ chịu gây tạo ác nghiệp chỉ vì muốn mang lại sự  no ấm hạnh phúc cho con cái, thì đối với những công ơn to tát như thế, những thiệt thòi kẻ thù gây tổn hại cho ta thật không thám vào đâu cả [tái-Sinh].
·       Thí dụ khi gặp người khác phái:
-       Đã trải qua vô lượng kiếp sống thì thế nào người này cũng đã từng là bố, mẹ, hoặc anh, em, bà con với ta rồi [tái sinh].
-       Có thể bây giờ họ trông đẹp đẽ, nhưng được bao lâu? Sau này trông sẽ ra sao? [vô-thường].
-       Vẻ xấu / đẹp của người khác phái cũng chỉ là do ta tin tưởng ở cái giá-trị xã hội đã gán đặt như vậy.
-       Dưới lớp da mịn màng chỉ là máu mủ tanh hôi [bất tịnh].
-       Có thể bây giờ tính tình họ thùy mị, quân tử thật dễ thương, nhưng họ còn những tính (xấu) nào nữa và có được mãi vậy không? [vô thường]
-       Nhiều khi đã từng là kẻ thù với nhau và bây giờ gặp lại để thanh toán mòn nợ củ [tái sinh và nhân quả]
-       Bây giờ chỉ có một mình nhưng sau này khi có hai mình và cả đám con cháu, tức là ta tự tạo thêm những vướng bận [duyên]; chẳng những vậy, vì muốn vợ / chồng con được no đủ, ta bị ràng buộc vì công ăn việc làm [Khổ], đâm ra hèn hạ và nhiều khi phải làm những chuyện phi pháp có hại cho kẻ khác [tạo nghiệp]
-       Trường hợp con cháu ta hư hỏng (chẳng có gì bảo đảm là chúng sẽ ngoan ngoãn, nên người) sẽ mang lại sự phiền muộn [Khổ]
-       Nói tóm lại, hạnh phúc mà ta cầu mong và bám chấp qua sự liên hệ với người khác phái sẽ làm cho cái tôi [ngã] ngày càng lớn mạnh (chồng / vợ tôi, con cái tôi, gia đình tôi, v.v…)Hạnh phúc có được này phải nương tựa vào những yếu tố khác [duyên-khởi] nên nó không có thực chất [vô-ngã / tánh-không] và nó nằm ngoài sự kiểm soát của ta [Khổ].
Sau đây là phần thực hành căn cứ trên sự vận hành của ngũ uẩn [xem chương ngũ uẩn]:
SẮC-THỨC-TƯỞNG-THỌ-HÀNH
            Vì không hiểu biết về các định luật nên giá trị mà ta thẩm định cho mọi thứ cũng bị sai lầm. Những giá trị không trung trực này được ghi nhận kèm theo các sự kiện trong ‘hồ sơ’, và khi được TƯỞNG lôi ra chúng sẽ kích động những cảm THỌ sướng-khổ, rồi thúc đẩy ta khởi tâm Tham-Sân-Si và tạo nghiệp ở HÀNH.
            Việc tu tập cũng không khác gì dọn cái nhà kho, ta phải làm việc:
1)   Thải bỏ đồ ra ngoài (sửa đổi, tẩy xóa giá trị trong hồ sơ ở giai đoạn THỨC và TƯỞNG), đồng thời
2)   Ngăn chặn không mang thêm đồ vào (không để Tham-Sân-Si sinh khởi ở giai đoạn HÀNH). THỌ đóng vai trọ rất quan trọng (Thọ được nhắc đến trong ngũ uẩn, thập nhị nhân-duyên, Tứ-Niệm-Xứ), nó là dấu hiệu chỉ cho ta biết hồ sơ vẫn còn những giá trị gì, và nếu nhận biết nó kịp thời thì ta có thể tự kiềm chế không để bị đẩy qua giai đoạn HÀNH. Dừng lại trước giai đoạn HÀNH rất cần thiết, vì như vậy, ngoài việc ngăn chặn không gây tạo thêm nghiệp, những tâm Tham-Sân-Si cũng sẽ không có cơ hội để tăng trưởng được; những khuynh hướng như buồn-vui-giận-ghét, v.v…sẽ tăng trưởng mỗi khi được lập lại, cũng giống như vết hằn của con đường mòn sẽ càng sâu đậm hơn sau mỗi lần đi qua.
            Chuyển tâm cũng là Tu-Tâm – nghĩa là sửa đổi tâm, mà sửa đổi tận gốc rễ là sửa đổi hoặc xóa tẩy giá trị trong hồ sơ, và như vậy sẽ không có gì để bám chấp, để phân biệt. Khi Tưởng lôi hồ sơ ra mà không có giá trị đính kèm- hoặc giá trị được hiểu là mang tánh-Không, đã bị vô hiệu hóa bởi tánh-Không – thì Thọ không sinh khởi, Thọ không sinh khởi thì Hành (Tham-Sân-Si) không sinh khởi, Hành không sinh khởi thì không tạo nghiệp.
1)     Sau đây là giai đoạn Hành, ngăn chặn không mang thêm đồ vào:
SẮC – THỨC – TƯỞNG – THỌ - HÀNH
Sau khi một sự việc gì xảy ra (không nhất thiết là xảy đến cho cá nhân ta mà có thể là những sự việc và hiện tượng ta chứng kiến về những người và vật xung quanh, thí dụ như mục kích hai kẻ giận dữ cãi nhau, hoặc nghe nói chiến tranh bùng nỗ ở xứ nào đó, hoặc có kẻ vui mừng vì được thăng quan tiến chức, hoạc lụt lội, chết đói, .v.v…), cảm Thọ sưởng khổ khởi lên cho ta biết hồ sơ vẫn mang giá trị tốt xấu, nếu có bắt kịp và dừng lại được ở Thọ, hoặc khi đang ở HÀNH, hoặc khi đã xong giai đoạn HÀNH, ngay lập tức ta đều quán sát sự việc theo các định luật như trên. Trường hợp không thuận tiện ngay lúc đó, ta quán biến cố này vào dịp khác, chẳng hạn như vào giờ thiền buổi tối.
2)     Sau đây là giai đoạn Thọ, vừa ngăn chặn vừa sửa đổi:
SẮC – THỨC – TƯỞNG – THỌ - HÀNH
Khi có cảm THỌ [dễ chịu (lạc), khó chịu (khổ) hoặc vô ký (không sướng không khổ)] sinh khởi – tức là vẫn có giá trị tốt xấu, hay dở trong hồ sơ (Tưởng) – ta lại nghiệm xét sự vật theo định luật; và khi đi vào chiều sâu (thường là qua các pháp thiền quán), ta sẽ nhận thấy chỉ có tinh thuần những cảm giác sướng khổ đến rồi đi do duyên khởi, chúng chẳng là sở hữu của ai, và chỉ có cái tâm đang ghi nhận chúng chứ cũng chẳng có ai đang kinh nghiệm chúng cả. Dừng lại được ở đây ta sẽ không bị đẩy qua Hành.
3)     Sau đây là giai đoạn Tưởng,  sửa đổi giá trị, thải bỏ đồ ra:
SẮC – THỨC – TƯỞNG – THỌ - HÀNH
Tùy ở các cấp độ thiền định thô thiển hoặc sâu xa, cách thức sửa đổi giá trị trong hồ sơ là ta thường xuyên quán sác các định luật trong mọi sinh hoạt hàng ngày, nhất là mỗi khi có sự việc gì xảy đến ta hoặc kẻ khác, và trong giờ thiền tọa (ngồi thiền).
Các cách thức sau đây trong pháp thiền Tứ-Niệm-Xứ cũng giúp ta đánh giá lại mọi thứ:
a)     Quán Thân:
            Thấy rõ tất cả hiện tượng vật chất kể cả thân xác đều do TỨ-ĐẠI [bốn yếu tố căn bản] cấu thành [duyên khởi], bởi vậy chúng không có gì đáng yêu quý [chỉ có giá trị tương đối] và chẳng có ai làm chủ chúng cả [tánh-Không].
            Chỉ có ý định (tâm) phát khởi rồi theo sau là những tư thế đi-đứng-nằm-ngồi (thân), tức là chỉ có những hiện tượng thân-tâm diễn tiến chứ không có ai đang đi-đứng-nằm-ngồi, bởi vậy không có lý do gì để bám chấp vào thân xác này.
            Do 32 thành phần (tóc, thịt, mỡ, xương, tim, gan, v.v…) dơ bẩn tạo nên cơ thể, bởi vậy cơ thể này và cơ thể khác đều không có gì đẹp đẽ đáng để bám chấp, yêu quý.
            Chín giai đoạn tan rã của tử thi cho thấy cái thân xác dơ bẩn tạm bợ này rồi sẽ đến lúc hủy hoại, nó chẳng đáng yêu quý và chẳng có ai là chủ nhân của nó cả.
// Ở trình độ hiện thời ta cần nhìn thân xác là dơ bẩn (bất tịnh) để đối trị lại với giá trị đẹp đẽ ta gán đặt cho nó. Cách thức này tạm thời dùng để trị tâm bám chấp, vì chẳng có gì thật sự dơ sạch – dơ sạch cũng chỉ là tên gọi, tánh của chúng là Không. //
b)    Quán Tâm:
            Chỉ có hiện tượng tâm (vui, không vui, giận, không giận, buồn ngủ, v.v….) sinh rồi diệt [vô-thường] do duyên khởi [tánh không] chứ chẳng thật có ai chủ động đằng sau.
4)     Sau đây là giai đoạn THỨC, thải bỏ đồ:
SẮC – THỨC – TƯỞNG – THỌ - HÀNH
Ngay khi vừa nhận biết – THỨC- sự vật, chẳng hạn như thấy vật gì hoặc nghe âm thanh gì, hoặc ngửi, nêm, chạm, ta ghi nhận là chỉ có sự thấy (“thấy, thấy, thấy, …”) hoặc chỉ có sự nghe (“nghe, nghe, nghe,…”). Như đức Phật đã từng dạy một vị bà la môn, “Trong cái thấy chỉ có sự thấy, trong cái nghe chỉ có sự nghe, trong…”. Ngăn chặn tại THỨC tức là “thu thúc lục căn”, ta không đeo đuổi đối tượng qua TƯỞNG, THỌ, HÀNH để rồi sinh khởi vọng tưởng. Theo phương pháp này [pháp Thiền của Tứ-Niệm-Xứ] hành giả dừng lại ở ngay THỨC để nhận biết là không thật có ai đang nghe, thấy, …mà chỉ có đối tượng – hình tướng, âm thanh, v.v…hoặc sự thấy, sự nghe, .v.v…và cái tâm đang ghi nhận đối tượng, với mục đích là thấy rõ cả đối tượng lẫn cái tâm ghi nhận đều là hiện tượng do duyên khởi, chúng không thật có.
            Lưu ý: Một tên gọi khác thường được dùng thay cho thiền Quán (chánh-Niệm) là ‘tỉnh thức’. Theo nghĩa tỉnh thức, hành giả thường được hướng dẫn là trong mọi giây phút phải nhận biết những hành vi cử chỉ của mình, thí dụ như đi thì biết là mình đang đi, rửa bát biết mình đang rửa bát, gánh nước bổ củi biết mình đang gánh nước bổ củi, v.v… tức là hành giả sống trong giây phút hiện tại, không tưởng về quá khứ mà cũng không nghĩ đến tương lai. Như vậy, phiền não không bị quậy khởi và vọng tưởng không bị phát sinh, do đó hành giả được hưởng giây phút an lạc trong hiện tại, đồng thời không gây tạo thêm nghiệp dữ. Nhưng nếu pháp tỉnh thức này dừng lại ở đây và chỉ có vậy thì vẫn chưa đúng nghĩa của pháp thiền-quán. Tỉnh thức theo lối này chỉ là sự chú ý hoặc chú tâm vào công việc làm của mình, nó không tận diệt được gốc rễ của Tham-Sân-Si, không phát triển được Từ-Bi-Hỷ-Xả và không dẫn đến trí-huệ giải thoát. Một kẻ trộm đang lẻn vào nhà một nạn nhân nào đó thì chắc chắn là hắn dang sống trong hiện tại, sự tỉnh thức đều hiện diện trong mỗi bước chân của hắn (sợ rằng sự tỉnh thức của ta trong các buổi thiền tập cũng không tinh thuần bằng), nhưng dĩ nhiên là hắn sẽ chẳng phát huy được trí huệ gì cả và sự ‘tỉnh thức’ này sẽ chẳng giúp hắn thánh thiện gì hơn.
            [Những pháp thiền Đại Thừa và Kim Cang Thừa sẽ được bàn trong tập hai – Thảo Luận].

H.  KẾT LUẬN
1)     TU LÀ GÌ?
            Tu là sửa. Sửa, hay chuyển hóa, cái tâm từ nẻo qua đường chính. Việc sửa đổi đòi hỏi sự hiểu biết về định luật Ta-bà, cách thức hoạt động của tâm và phương pháp tu tập.
2)     TU NHƯ THẾ NÀO? PHƯƠNG PHÁP?
            Bát Chánh Đạo (Giới-Định-Huệ).
3)     TẠI SAO TU?
            Nếu tu tập đúng theo quy tắc chánh-Niệm thì nhất cử nhất động, trong tất cả các hành vi thân-khẩu-ý, ta đều phải để ý xem chú ý ở đằng sau là gì. Nói cách khác, ta phải kiểm soát những hành động của ta do động cơ nào – thanh tịnh hay không thanh tịnh – thúc đẩy. Có những kẻ đi học chỉ để có được công ăn việc làm tốt đẹp, đời sống thoải mái. Cũng có những người khác đi học với mục đích giúp ích cộng đồng, xã hội sau này. Cùng một việc làm nhưng khác động cơ. Vậy động cơ [motivation] thúc đẩy ta tu hành là gì? Nếu tu hành chỉ để thoát thân cho riêng ta thì cũng là điều tốt rồi, tuy nhiên tất cả chúng sinh đều có sự liên hệ mật thiết với nhau nên động cơ tu hành của ta cần phải rộng lớn hơn nữa.
            Ta tu với mục đích là tự giải thoát và để hướng dẫn cho người đi sau.
            Nói chung, muốn thành công trong công việc gì ta cần phải có ý định kiên quyết. Và trên đường đi, để tránh trường hợp bị lung lạc thối thất giữa chừng, nhất là con đường tu hành, con đường dài gần như vô tận, ta buộc mình vào sự quyết tâm hay nguyện vọng này bằng cách phát nguyện. Như đứa bé tự bảo là nhất định sẽ trở thành nhà bác học thì nó không dễ gì bị chuyện khác lôi cuốn, và nhờ chí nguyện mạnh mẽ đó, sự khó nhọc của việc học đã nhẹ đi được phần nào rồi. Nói riêng về việc tu hành, ta phát khởi ước nguyện cao thượng nhất là đạt đến vị Phật để được lợi ích tối đa cho mình và cho chúng sinh.
            Phát nguyện tu hành đát đến quả vị Phật để cứu giúp chúng sinh tức là phát bồ đề tâm, tức là ta đi con đường bồ-tát-đạo [xem chương Bồ Tát]. Bồ Đề Tâm được đặt trên cơ sở Từ-Bi-Hỷ-Xả (bốn vô lượng tâm), vì nếu không có hoặc không chịu đạo luyện bốn loại tâm ‘vô lượng’ này thì việc phát bồ-đề-tâm chỉ có tính cách trên lời nói chứ không có thực chất. Một cách tổng quát, ta đã biết cách phát triển Từ-Bi-Hỷ-Xả là quán chiếu Khổ và các định luật Ta-bà (ngoài ra, cũng có các pháp quán đặc thù của Nguyên Thủy và Mật Tông Tây Tạng).
            Nhìn từ một khía cạnh thì tâm xả lại là nền tảng cho ba tâm kia, từ-bi-và hỷ. Xả nghĩa là buông bỏ, đối nghịch với ‘chấp’ – nắm, bám víu. Và tâm xả cũng có nghĩa là tâm bình đẳng, vì nếu tâm còn phân biệt tốt xấu, thân sơ, v.v…ta sẽ thiên vị và vướng vào chấp trước. Bởi vậy, nếu không có tâm xả thì khó lòng phát triển được các tâm từ-bi-và hỷ. Xả lại phải dựa vào trí huệ, loại trí huệ nhìn thấy điểm tương đồng (‘mẫu số chung’ [common denominator] của chúng sinh – tất cả đều tìm cầu hạnh phúc và xa lánh khổ đau – và của vạn pháp – tánh Không. ‘Bình Đẳng’ ở đây là nói theo hai nghĩa này.
4)     LÀM THẾ NÀO để luôn luôn đi đúng đường?
            Phải trao dồi Chánh-Kiến.
5)     LÀM THẾ NÀO để tương lai, các kiếp sau này vẫn được tiếp tục con đường tu hành?
            Thực hành Sáu-Ba-La-Mật [xem chương Bồ Tát] sẽ giúp ta phát triển trí huệ  và tạo phước, như vậy sau này ta đỡ phải bận tâm về phương diện vật chất, đồng thời dễ gặp được hoàn cảnh thuận lợi, chân sư và các bậc thiện tri thức (những người cũng đi trên con đường đạo) hướng dẫn. Điều này dễ hiểu, đức Phật có giảng, khi một cành cây bị cắt xuống, nếu đang chĩa về hướng nào thì nó sẽ rớt về hướng đó; bởi vậy, trong kiếp này nếu triệt để dồn hết tâm trí hướng về đạo thì nó sẽ là động lực dẫn dắt ta tiếp tục trên con đường đạo trong những kiếp sau.
6)     HÃY VẮN TẮT và ĐƠN GIẢN nói lại những điểm chính yếu về THIỀN TẬP  cho người sơ cơ.
            Chương Tu Tập ở trên đã đề ra một cách sơ lược nguyên tắc về cách thức tu tập dựa trên trên những bối cảnh đã được bàn qua ở các chương trước. Các pháp thiền tập, ngoại trừ một số pháp đặc biệt, tuy có sai biệt về phần hình thức (vì cá tính khác nhau của chúng sinh), nhưng nói chung chúng đều phải thực hành theo đúng nguyên tắc. Tuy nhiên chúng ta gặp phải vấn đề là pháp môn tu tập thì quá nhiều, trong khi phần đông sơ cơ như chúng ta lại không có Thày hướng dẫn trực tiếp. Do đó chúng ta rất dễ bị hoang mang bối rối.
            Để đơn giản hóa [simplify] vấn đề, bước đầu tu tập(kể cả về đường dài) chúng ta cần nên tập trung vào ba điểm sau đây:
a)     Thay đổi quan niệm, lối nhìn (Chánh-Kiến)
b)    Sám hối:
            Quay trở lại câu hỏi là làm sao để biết được những nghiệp xấu ác ta đã từng gây tạo trong những kiếp quá khứ? Và ta phải hóa giải như thế nào?
            Xét theo luật nhân-quả, những tai họa, rủi ro, hoặc những hoàn cảnh bất hạnh như nghèo hèn, phải sống ở vùng không an ninh, v.v…mà ta gặp phải chính la những dấu hiệu cho biết ta đã từng là kẻ keo kiệt, kêu mạn, gây bất an cho kẻ khác, v.v…Biết vậy, thay vì than thân trách phận, ta sám hối. Và khi bị những kẻ gian ác hãm hại, ta phải hiểu là họ hại ta như thế nào thì ta đã từng hại kẻ khác đúng như thế. Nhờ họ mà ta thấy được tội ác ta đã gây tạo trong quá khứ. Bởi thế, thay vì căm hận và nguyền rủa kẻ ác, hoặc tìm cách báo thù, ta sám hối.
            Nghiệm xét trên phương diện tái-sinh, với chuỗi sinh tử trải qua vô lượng [innumerable] kiếp, có lẽ ta chưa từng bỏ qua một hành động sai quấy nào. [Như trường hợp Ngài Mục Kiền Liên, một bậc A-la-hán, đã từng giết bố mẹ trong một kiếp trước]. Bởi vậy, những gian trá, đồi bại [corruption], tội ác, v.v…mà ta chứng kiến hàng ngày không phải là để ta lên án, mà chúng đều là những nhắc nhở để ta sám hối.
            Sám hối nghĩa là:
            a) nhìn nhận lỗi lầm mình đã phạm.
            b) thật tâm ăn năn hối lỗi.
            c) quyết tâm không tái phạm lỗi lầm này nữa [Kinh Nhật Tụng có chỉ cách thức sám hối].
c)     Đem Đạo vào Đời:
                        Nghĩa là áp dụng Phật Pháp vào đời sống. Trong ngày ta cố gắng tỉnh thức [be mindful of] để kiểm soát các hành động (Thân), lời nói (Ngữ) và tư tưởng (Ý) có phải do động cơ Tham-Sân-Si thúc đẩy hay không? Đời sống luôn luôn biến động và rất phức tạp, nên có thể việc nhận bắt được tâm Tham-Sân-Si trong các sinh hoạt hàng ngày không phải là điều dễ dàng. Tuy nhiên, đến cuối ngày ta có thể bỏ ra chút ít thời giờ kiểm điểm lại các hành vi thân-ngữ-ý trong ngày và tìm cho ra động cơ Tham-Sân-Si đằng sau; rồi xét xem tâm Tham-Sân-Si sinh khởi vì ta đang bám vào những giá trị gì, có những mong đợi gì ở người khác, v.v… để thấy rõ cái nhìn và những giá trị sai lầm của ta.
            Tham và Sân là hai tâm trạng đối lập nhau được sinh khởi bởi những giá trị có tính cách đối-đãi như hay / dở, tốt / xấu, v.v…do ta định sẵn. Nếu ta kiên trì thực hành theo ba điểm trình bày ở trên thì tâm Tham-Sân-Si sẽ phải giảm trừ dần và khoảng cách giữa giá trị tốt và xấu, hay và dở, v.v… sẽ phải thu hẹp lại. Tu tập như thế tức là Thiền Quán và đấy cũng là bước đầu để ta vượt ra ngoài vòng ảnh hưởng của đối-đãi.