Thứ năm, ngày 08 tháng năm năm 2008
Dừng tâm sinh diệt ( Hòa thượng Thích Nhật Quang )
Buổi sinh hoạt hôm nay, chúng tôi chọn đề tài dừng tâm sanh diệt.
Nhân
có một Phật tử than: Trong đời tu hành của con có một chướng ngại mà
con không vượt qua được, đó là những niệm tưởng lăng xăng. Nó quấy rầy
luôn, cả những lúc nghỉ ngơi cũng không yên.
Tôi nói: Nếu đạo hữu
bắt được những vọng tưởng ấy đem tới đây, tôi quất cho nó mấy roi. Bằng
như đạo hữu không bắt được, tôi cũng không biết làm sao hơn. Hòa thượng
thường dạy: Vọng tưởng không thật, đừng theo nó thì yên. Ngày xưa một
thiền sư Trung Hoa nói với người học trò hỏi đạo thế này: Ma quỷ nào dẫn
ông tới đây hỏi đạo?. Ông đệ tử không trả lời được. Thật ra niệm tưởng
là gì? Nó là những dấy niệm. Chữ niệm là nhớ nghĩ. Sự nhớ nghĩ thì đa
dạng, nó ra sao mình không biết, dài ngắn thế nào không hình dung được.
Nó có mặt vào những lúc mình không thích tí nào hết. Lúc nghỉ ngơi, ăn
uống, tụng niệm, tọa thiền v.v.. nó cứ trào dâng với đủ thứ hình thức,
cái còn lại trong chúng ta sau khi nó tới viếng là phiền não. Bởi vì nó
tới quấy rầy choáng hết một khoảng thời gian, sự an tĩnh của chúng ta
mất hết. Cho nên nghĩ đến công phu tu hành mình không vui. Như người
khách mình không thích tiếp, không muốn tới mà họ cứ tới hoài, quý vị sẽ
phiền não chứ gì. Mình muốn nói thẳng: Tôi không thích ông nữa. Nhưng
có ai mà dám nói thẳng đâu, nên nó xìu xìu ểnh ểnh, chùng chùng, thẳng
thẳng, thành ra phiền não, bất ổn.
Cho nên điều mà ở đây chúng ta
cần trao đổi là công phu. Chúng ta phải làm sao có được một chút thiền
định. Như nghe người nào nói: Sao con cứ bị vọng tưởng quấy rầy hoài,
mình biết công phu của vị đó chưa được định. Bây giờ chúng ta phải làm
sao để được thiền định? Trong công phu tu hành, nếu mình có thiền định
thì trí tuệ phát sinh, bấy giờ vọng tưởng lăng xăng không làm gì được
ta. Thật ra chúng tôi cũng còn niệm tưởng, nhưng tôi không quan trọng
nó. Nó muốn tới thì tới, muốn đi thì đi, tôi không quan tâm, việc tôi
tôi cứ làm. Những lúc nào chúng ta làm chủ được thì nó đứng ngoài cửa
ngó thôi, không làm sao động đến ta nổi.
Bây giờ tôi đề nghị quí
Phật tử khi vọng tưởng lăng xăng đến mình cứ mặc kệ nó, không phiền,
không bận tâm, không nghĩ ngợi gì về nó. Miễn làm sao tâm chúng ta vững,
tròn đầy thì tự nhiên vọng tưởng không làm gì được mình. Đó là một cách
để chúng ta nuôi dưỡng công phu. Theo lời Phật dạy, người tu thiền mạnh
trị vọng tưởng rất dễ. Do sức thiền định của chúng ta yếu nên khó yên
ổn, vọng tưởng cứ quấy rầy hoài. Quý vị nghiệm lại xem trong một ngày,
sự tu tập của mình cứ loay hoay với ba thứ gì đâu. Cuối cùng chúng ta
thấy hôm ấy trôi qua một cách vô lý, mình không làm được gì.
Nghĩ
cho cùng không ai bắt chúng ta đi mãi trong luân hồi, mình cũng thừa
biết vòng luân hồi luẩn quẩn, lọt vô đó rồi thì cứ loay hoay mãi, không
ai gỡ ra được. Đức Phật thị hiện nơi đời chỉ dạy những phương pháp để
chúng ta dừng, cắt đứt vòng loay hoay luẩn quẩn đó, nhưng chúng ta làm
chưa được. Bởi thực tế hiện tại những niệm tưởng ta chưa dứt được, những
lăng xăng dấy niệm vẫn còn. Bây giờ chúng ta phải cố gắng! Nghĩ lại coi
ai bắt mình đi trong đó? Tại sao mình đi tu? Thật ra đâu có ai bắt,
vọng tưởng cũng không đem dây đem hèo gì tới bắt mình theo nó, tự nhiên
mình cứ như vậy. Cuối cùng quả thật vì định tuệ của mình yếu quá, nên
chúng ta bị loay hoay như vậy.
Bây giờ tập trung tu hành làm sao
để chúng ta có sức mạnh. Sức mạnh bằng trí lực, dũng lực, bằng sự tỉnh
táo. Có sức mạnh ấy ta mới trị được những thứ kia. Tu làm sao để không
bị luân hồi sanh tử nữa, đừng loay hoay lẩn quẩn nữa, thật là khó ghê
lắm. Bởi vì thói quen lăng xăng mình chưa chịu dừng. Nhiều vị nói: Thưa
thầy con đến thiền viện là nhất định tu đến chết thôi. Tôi bảo: Tốt!
Phải có tinh thần, có tâm mãnh liệt như vậy mới tu được, mới xứng đáng.
Nhưng ở trong chùa đâu được mười ngày, lại thưa: Thầy ơi! Ở nhà kêu con
về. Hỏi về làm gì? Nói không biết nữa, cứ điện thoại lên kêu con về,
nhất định phải có mặt con mới giải quyết được. Đó, cứ như vậy thôi. Lần
nầy điện thoại kêu về, lần sau tự dưng tới khoảng đó quí vị tự về.
Ngoài
ra còn nhiều thứ khác nữa. Chẳng hạn nhức đầu quá phải đi bác sĩ, hổm
rày ăn không được phải đi bác sĩ, hai chân đau phải đi bác sĩ, con mắt
lem nhem phải đi bác sĩ v.v.. trăm ngàn thứ việc. Như vậy làm sao tập
trung được tỉnh lực để yên tu, đạt được định tuệ. Với cuộc diện này,
nhìn chung chúng ta yếu thế hơn vọng tưởng. Nghĩ cũng lạ, phải chi mấy
thằng vọng tưởng nó to lớn hay hung tợn mạnh mẽ nên mình ngán mình sợ,
đằng này không thấy mặt mày nó ra sao, nhưng nó lôi tới đâu là mình theo
tới đó, mà chẳng thể làm gì nổi nó.
Bây giờ đối với vọng tưởng chúng
ta phải làm gì? Phải khởi lên một sự quyết tâm, một niệm kiên quyết
mình không chơi chung với nó, không chấp nhận nó, nó rủ mình đi mình
không đi, có điện thoại tới liền cắt đứt v.v.. như vậy mai ra mới có
thời gian tu. Tôi nghĩ ngày xưa Bồ tát Sĩ Đạt Ta ở trong khổ hạnh lâm
sáu năm, nếu ngài cứ bị triều đình gọi điện thoại về hoài chắc là không
thiền định gì được. Không đắc cả những pháp tu của ngoại đạo, hà huống
là định tuệ, trí lực của pháp giác ngộ giải thoát. Nhờ Bồ tát Sĩ Đạt Ta
kiên quyết một phen qua sông, ngài quyết liệt tăng tiến cho tới thành
Phật. Sau khi thành Phật rồi, ở nhà năm lần bảy lượt cho người mời về,
chớ không phải gọi bằng điện thoại nha, bấy giờ Phật mới chịu về. Khi về
ngài chủ động, chớ không phải bị sắp đặt chỗ này chỗ kia. Đọc lại những
đoạn sử này mình thấy thích thú làm sao.
Tin đức Thế Tôn trở về
Ca-tỳ-la-vệ, Tịnh Phạn vương và thần dân, hoàng thân quốc thích chuẩn bị
một cuộc đón rước thật long trọng. Tuy nhiên Phật không báo trước về
lúc nào, đón rước ở đâu, ăn nghỉ ra sao. Triều đình cũng cho người hỏi
han tin tức nhưng Phật không nói. Ngài về bất ngờ trong hình ảnh một vị
khất sĩ hướng dẫn tăng đoàn đi khất thực từng nhà. Thành ra sự chuẩn bị
linh đình của triều đình không dính dáng gì tới Thế Tôn cả. Ngài dẫn đệ
tử đi khất thực, khất thực đầy bát rồi về, cứ cơm sẵn đó mà dùng đúng
như pháp.
Hình ảnh này cho chúng ta một bài học thật quí báu.
Chúng ta đi đâu sắp về là điện thoại báo "Trưa nay nấu cơm nha, thầy đi
với mấy chục Phật tử nữa đó. Ra chợ coi cái gì ngon mua về nấu". Do vậy ở
nhà phải tính toán đúng giờ, tất bật chuẩn bị đủ thứ. Thấy như bình
thường nhưng rõ ràng mình mất chủ động. Đáng lẽ trên đường mình tự do,
muốn đi thì đi, muốn ngừng thì ngừng, chừng nào về tới thì tới, không
quan trọng việc đặt định ở nhà phải cơm nước, như vậy khoẻ hơn không.
Mình đi đứng tự tại, nói làm tự tại, không bị lệ thuộc bởi điều gì cả.
Đàng này dính mắc cơ sở, sự sắp đặt... đủ thứ. Nghiệm từ những việc nhỏ
rồi tới những việc lớn, sự tu hành vì thế khó giải thoát quá. Rất khó,
chớ không phải đơn giản.
Ngày về của đức Thế Tôn ở cung thành
Ca-tỳ-la-vệ, bao nhiêu người trọng vọng, đón rước, cả vua Tịnh Phạn cũng
thế. Nhưng Thế Tôn thực hành đúng theo nghi luật của một đức Phật. Ngài
không để sự thân thương của gia đình, tổ quốc làm trở ngại phép ứng xử
của một đức Phật. Người tu chúng ta bây giờ không khéo còn dính mắc hơn
ai hết. Như từ đây tôi về Đà Lạt thăm Hòa thượng, vừa tính đi thì mấy
chú thị giả biết, liền điện thoại lên Trúc Lâm báo: Bữa nay thầy về đó
nha, khoảng mấy giờ đó là tới. Mỗi lần thông tin như vậy, có khi Hòa
thượng lo. Ngài trông Ủa! Nghe nói chú đi hồi sáng mà tới chiều mới tới,
xe có sao không, đi gặp chuyện gì không... Quý vị thấy, những vướng mắc
của mình ảnh hưởng đến chung quanh. Cho nên chúng ta cố gắng làm sao
gói gọn lại, tháo gở lần ra, để cho hơi thở, cho sự sống của mình được
tự do tự tại một chút.
Bây giờ chúng ta phải định vị lại, định vị
cái gì? Định vị chúng ta là một chúng sanh còn trong luân hồi sanh tử
hay đã giác ngộ giải thoát? Nghe thầy dạy tất cả chúng sanh đều có tánh
giác, ta phải sống được với tánh giác thì mới tự tại, mới giác ngộ giải
thoát. Nhưng bây giờ chúng ta biết được tánh giác ấy chưa, sống được với
nó chưa, hay chỉ nghe và nói qua danh từ? Với người tu, tôi nghĩ mình
phải biết mình. Người xưa dạy chúng ta phải phản quan, phải biết mình
như thế nào. Tôi nghĩ trong công phu, sự tỉnh giác mạnh mẽ và sự khiêm
cung trên bước đường tu tập sẽ giúp cho hành giả đẩy lùi vọng tưởng một
cách có hiệu quả.
Hòa thượng thường động viên chư tăng: Mấy chú
phải tỉnh, nghe tiếng kiểng liền ngồi dậy, cuốn mùng liền, dù muỗi mòng
gì cũng cuốn lại. Rửa mặt rồi đi tới đi lui, hít thở. Nếu thấy hơi lừ
nhừ, uống thêm vài hớp trà rồi đi ngồi thiền. Trong những thời điểm mình
thấy mắt không muốn mở ra, chân không muốn đứng lên, dậy cứ ngồi đó
không chịu rửa mặt, nếu mình chìu theo nó, thì nó dẫn đi đâu? À, ngồi đó
một chút là ngã ra, nằm xuống. Nằm xuống rồi không biết gì nữa. Tới
chừng giựt mình thức dậy nghe đâu năm giờ, người ta xả thiền rồi. Như
vậy suốt hai tiếng đồng hồ, mình ở trong si mê, tăm tối. Cho nên thiền
sư nói hôn trầm là ma quỷ, quả đúng như vậy. Mình đâu biết gì nữa, nó
dẫn đi tuốt luốt không hay. Cũng tại tâm không quyết liệt, xìu xìu ểnh
ểnh mà ra nông nổi ấy.
Nếu chúng ta cố gắng, mãnh tỉnh một chút
thì sẽ vươn lên, vượt qua những trạng thái đó. Nghiệp tập chúng ta vốn
sâu dày mà công đức cạn mỏng, nếu không cố gắng làm sao tu được. Các
thiền sư thường nhắc: Ông đợi tới chừng nào mới kết thúc sanh tử? Lúc
còn tỉnh táo, có thể kiên quyết, có thể lập định thế này thế khác thì
phải cố gắng thực hiện cho bằng được. Chớ đợi tới khi không làm chủ nổi
thân này, đầu óc mù mờ, thân thể mệt mỏi thì đâu có tu được nữa. Cho nên
chúng ta phải định vị để cố gắng vươn lên, nhất định chúng ta phải
thoát ra khỏi con đường trầm luân sanh tử .
Bồ tát Sĩ Đạt Ta khi
ngài khổ hạnh triệt để, thân thể gầy còm, không thể tưởng tượng nổi.
Trong sách diễn tả, hai ánh mắt của ngài sâu hóm như đáy giếng. Thân chỉ
còn một chuỗi xương sống thôi, ngài biết con đường tìm đạo của mình
trước đây chưa rốt ráo, chưa viên mãn. Do vậy ngài kiên tâm quyết chí
phải đi cho tới viên mãn. Từ đó ngài nhận bát sữa của nàng mục nữ và đi
tới dưới cội Bồ-đề, trải cỏ ngồi với một lời thề kiên quyết: Dù thịt nát
xương tan, nếu chưa đạt được đạo quả vô thượng thì ta nhất định không
rời khỏi chỗ ngồi này. Phải ý chí lẫm liệt như vậy mới có một ngày mai
giác ngộ rực rỡ. Chúng ta ngược lại, cứ chấp nhận ngã xuống rồi ngáy
lên, tới chừng trời rực sáng là đã năm giờ. Bửa nào rũi ro như vậy, sáng
mai nghe đánh bảng ăn cơm, mình tự thấy xấu hỗ làm sao, thấy không xứng
đáng tí nào hết. Anh em dậy tu, người nấu cơm chịu nóng, chịu lạnh, dọn
lên cực khổ, bây giờ nghe bản mình lên ăn tỉnh bơ. Ngày nào cũng như
vậy thì biết thành cái gì?
Đối với tâm sanh diệt, nếu chúng ta dứt
được thì làm chủ vấn đề sanh tử. Thật ra chỗ này rất khó nói. Khi Hòa
thượng giảng, có người hỏi: Người tu Tịnh độ, lúc lâm chung niệm Phật A
Di Đà thì được Phật rước, mình tu thiền tới lúc lâm chung ai rước? Các
thiền sư nói đó là lúc tự tại chọn đường mà đi, chứ không ai rước hết.
Chỗ nào chúng sanh cần đến độ thì tới độ. Tới như một sứ giả chứ không
phải bị nghiệp dẫn. Rõ ràng như vậy, khi niệm lăng xăng dứt được thì
sanh tử dứt được. Đi đứng nằm ngồi trong mọi giờ giấc kiểm nghiệm, mình
thấy niệm lăng xăng chưa dứt, thì biết vòng luân hồi chưa thể dứt.
Chúng
ta muốn dứt niệm lăng xăng khó hay dễ? Rất dễ cũng rất khó. Đừng chạy
theo nó thì dễ, còn chạy theo nó thì khó. Hoà thượng dạy chúng ta phải
chủ động, đừng để nó chủ động mình, phiền lắm. Chúng ta đều biết vòng
luân hồi sanh tử nếu không dừng được thì chúng ta còn khổ. Biết sẽ khổ
mà cứ lao tới, đó là người không có trí tuệ. Các thiền sư nói khổ lại
thêm khổ. Thành thử bây giờ phải làm sao dừng được lăng xăng. Nghiệm lại
quá trình tu tập, đối với những dấy niệm chúng ta còn nhiều hay ít thì
đoán được kết quả của mình. Từ đó cố gắng, chứ khỏi cần trông cậy vào
ai.
Có một đệ tử đến hỏi thiền sư: Thưa thầy con có Phật tánh
không? Thiền sư đáp: Không có. Vị đệ tử ngạc nhiên hỏi lại: Tại sao Phật
bảo tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, mà thầy lại nói con chó không
có Phật tánh? Thiền sư đáp: Tại vì có mà không dám nhận thì cũng như
không có. Quý vị thấy phải vậy không? Mình biết dễ mà tu không được kể
như khó chớ gì. Dễ mà khó. Khó nhưng rất dễ. Đây là chỗ ách yếu trong
công phu tu hành của chúng ta.
Trong cuộc sống hiện tại, nếu
chúng ta không chỉnh đốn công phu, cứ để ngày qua ngày, trôi theo các sự
duyên, trong tâm luôn dấy niệm loạn tưởng, thì làm sao tự chủ để đi con
đường mình chọn. Thiền sư thì phải làm chủ, không bị nghiệp dẫn. Nghiệp
là cái gì? Nghiệp là năng lực tạo tác từ thân khẩu ý. Thân làm gì,
miệng nói gì, ý nghĩ gì, các thao tác ấy tạo thành năng lực, năng lực đó
hình thành nghiệp lực. Nghiệp lực dẫn mình đi thọ báo. Ví dụ chúng ta
hay nói lời gì, làm gì, lâu dần thành quen, nó dẫn mình đi theo hướng
đó. Rồi ý nghĩ, như xưa nay mình chuyên môn nghĩ xấu thiên hạ, thì ý
nghĩ ấy tạo thành năng lực, đẩy mình đi tới chỗ hễ nghĩ là nghĩ xấu
thiên hạ.
Người tu phải chủ động ba nghiệp thân, khẩu, ý. Đó là
cách chúng ta khống chế năng lực xấu. Được thế ta mới tự tại, còn không
khống chế nó, không có năng lực gì hết thì đâu thể tự tại. Nếu muốn
trước giờ phút lâm chung tự tại chọn đường đi thì ngay đây ta phải tự
tại. Bây giờ mình chưa tự tại nên ngồi nghĩ một hồi thì toát mồ hôi
lạnh. Thiền định chưa vững, thầy dạy phải tỉnh mình cũng chưa tỉnh, xìu
xìu ểnh ểnh, buổi khuya ai nấy đều dậy ngồi thiền còn mình nằm ngủ. Thói
quen xấu chưa dừng được tức là còn bị nghiệp lôi.
Chư huynh đệ
nhớ, khi thấy tay chân quờ quạng, hơi thở yếu, ta không còn chủ động
được là biết lúc này mình sắp từ giã. Đừng sợ, đừng hoảng hốt thì mới
không đi vào các đường dữ. Bằng ngược lại, nghiệp lực sẽ dẫn chúng ta
thọ sanh ở những nơi tương ưng. Trong kinh nói rằng người vừa nhắm mắt,
tự nhiên thấy trời nổi sấm sét, rồi tiếng hú, tiếng gầm của cọp beo thật
ghê gớm, đương sự mất tự chủ. Bấy giờ bên cạnh không có đệ tử, cũng
không thân thuộc, không có cha mẹ, hoảng quá rồi chạy lẩn quẩn. Thấy có
lùm tre gai nào đó liền tới núp cho cọp beo đừng xơi. Nhưng vừa núp vô,
mở mắt ra thấy mang lông đội sừng, chuyển sang đời khác. Nghiệp dẫn
chúng ta đi chớp nhoáng như vậy. Nguy hiểm ghê chớ đâu phải chuyện đơn
giản. Do vậy cần phải định vị kiểm thấy mình chưa sáng, còn nghiệp nào
xấu nhiều thì phải lo tu sửa, đừng để tới lúc sắp lâm chung, không thể
tu kịp nữa.
Huynh đệ nghĩ rằng, khi mình lâm chung có những bậc
thầy, những huynh đệ đến nói lời khai thị, nếu được như thế thì tốt. Giả
như không có thì sao? Cho nên ngay trong khi sống, mình luôn nhớ những
lời khai thị thì mới đảm bảo lúc lâm chung an ổn. Thầy tổ chúng ta
thường dạy, người tu phải quan tâm vào việc chính của mình, không để
dính mắc chuyện bên ngoài. Có ông thầy nào dạy đệ tử tu thì cứ tu, nhưng
chuyện làm ăn lỗ lã của ai con phải biết dùm không? Không có. Chẳng có
thầy nào dạy kỳ vậy. Chỗ này chúng ta chính chắn nghiệm lại, xem mình có
làm đúng lời thầy dạy chưa, hay mình còn quan tâm nhiều thứ bên ngoài?
Thiù dụ chiều chiều ra ngồi gốc Bồ-đề, thấy xe chạy rần rần, thiệt là
sảng sốt. Rồi nghĩ, không biết mấy anh em chạy tới đâu, có chuyện gì
không? Nghĩ rồi tưởng tượng, vẽ thêm sự việc. Có một người trong nhóm
năm bảy huynh đệ nói chuyện xe đụng ở bên tây bên tàu gì đó. Chuyện vừa
dứt thì chuyện xe đụng ở Sài Gòn hay Vũng Tàu được kế tiếp. Hết Sài Gòn,
Vũng Tàu tới các tỉnh miền nam rồi miền bắc. Tự nhiên buổi chiều hôm đó
xe đụng tùm lum hết. Cuối cùng đứng dậây ngơ ngác, vọng tưởng dẫn cả
đám đi nhà thương. Việc người ta chạy báng mạng ngoài đường có dính dáng
gì tới mình đâu, mà suốt buổi chiều xúm nhau, cấm đầu vô đó mà tưởng
tượng, mà nói thôi là nói. Đó là gì? Là điên đảo vọng tưởng, là không
soi xét lại chính mình mà chiếu lộn ra bên ngoài. Thành ra tầm bậy,
khiến cho ba nghiệp không thanh tịnh.
Là người tu, chúng ta phải
quan tâm vào việc của chính mình ngay bây giờ. Ta đang ngồi đây, làm gì?
Đang ngồi tự tại, không làm gì hết. Nhớ luôn quan tâm như vậy, không để
niệm lăng xăng phóng ra, thì mới làm chủ được. Còn nếu ngồi đó mà nói
chuyện năm trên năm dưới thì tu không biết chừng nào cho xong. Đó là ta
không chiếu cố, không chủ động, không xoay lại, không quan tâm chính
mình. Việc làm của chúng ta là vừa nghĩ tới chợ Phước Thái liền chặt,
nghĩ Sài Gòn chặt, nghĩ Vũng Tàu chặt, nghĩ Đà Lạt cúp luôn. Như vậy
mình mới yên. Nếu chúng ta chỉ chuyên tâm chiếu cố việc của mình, đừng
chạy ra ngoài, thì ngay đó trí tuệ rực sáng, mình có thể dừng bớt vọng
tưởng dễ dàng.
Bây giờ chúng ta có thể đoán biết tại sao mình
nhiều vọng tưởng? Tại vì mình cứ nghĩ ngợi, cứ lo ra hoài. Bộ phận đầu
não cứ lao lư hoài, từ đó hình thành những dấy niệm, vọng tưởng thế này
thế khác. Bây giờ làm sao đừng để như vậy nữa. Đó là điều rất khó nhưng
không phải là không làm được, nếu chúng ta chịu làm. Hoà thượng dạy niệm
vừa dấy lên liền biết, thì cái biết đó là chân tâm. Ngài chỉ thẳng như
vậy cho chúng ta tu, nhưng nếu huynh đệ không chịu thực hiện, cứ xìu xìu
thì tới lúc bỏ thân này chúng ta sẽ quờ quạn. Cho nên bây giờ phải hạ
quyết tâm nỗ lực tu hành.
Chúng ta biết rằng mình đã lang thang
trong luân hồi sanh tử nhiều đời kiếp rồi, bây giờ là lúc phải dừng.
Biết luân hồi sanh tử khổ, đã nếm cái khổ đó nhiều rồi, bây giờ phải tự ý
thức, tự dừng, tự mình làm chủ, đừng để nó kéo lôi lang thang nữa. Như
hôm nay, huynh đệ chúng ta đang ngồi lắng nghe cách hành trì tu tập để
được tự tại đối với các pháp, không bị luân hồi sanh tử nữa. Đó là một
bước tiến. Do đó chúng ta biết cách dừng, biết sợ luân hồi sanh tử thì
kết quả sẽ bớt trôi lăn. Như Phật nói: Người tại gia bị gia duyên ràng
buộc như gông cùm, biết như vậy rồi quí vị không để cho những thứ đó bận
bịu mình nữa. Đó là một cách vươn lên, vùng lên để được giải thoát.
Đã
có cách rồi, bây giờ chúng ta phải gì? Phải nỗ lực, phải tinh cần. Vọng
tưởng không có hình tướng gì hết, nhưng nó có sự hấp dẫn, vì vậy mình
dễ lao theo. Bây giờ ta phải giành quyền làm chủ. Làm chủ ban ngày, làm
chủ ban đêm, làm chủ luôn cả trong giấc ngủ và tất cả các sinh hoạt của
mình. Dĩ nhiên thời gian đầu chưa quen ta bị rối loạn, không được như ý,
nhưng không nản chí cứ tiếp tục thực hành như thế, dần dần ta sẽ làm
được. Trước tiên chúng ta dừng được một số niệm tưởng lăng xăng, từ từ
hạ quyết tâm phải chiến thắng toàn bộ bọn chúng.
Thiền sư Phù
Dung thường nhắc nhở: Các ông đi trong luân hồi sanh tử đã nhiều lần,
bây giờ cố gắng ngay trong đời này phải giải quyết cho xong, đừng đi
theo lối mòn đó nữa, chỉ toàn khổ ách mà thôi. Biết khổ thì đừng lao
tới, phải dừng, phải tự khắc phục lấy. Các ông hạ thủ công phu giống như
người trồng hoa trên đá. Chúng ta luôn quan tâm, xét lại việc bổn phận
của mình, dù khó khăn bao nhiêu cũng cố gắng, nhất định sẽ thành công.
Tóm lại, làm sao dứt được luân hồi sanh tử, đó là điều cốt yếu nhất của
người tu.
Muốn dứt luân hồi sanh tử phải làm chủ được những dấy
niệm, đừng để nó chi phối mình. Làm chủ cách nào đây? Quí vị sắp đặt
trong nhà có tấm bảng nhỏ, trên đó ghi rõ năm giờ sáng thức dậy ngồi
thiền, sáu giờ ăn cơm, bảy giờ làm việc, mười một giờ nghỉ... sắp cho
tới năm giờ chiều. Đã ghi trên đó thế nào thì làm y như vậy. được thế là
tập trung, là có sức mạnh. Chúng ta muốn tu đạt kết quả tốt thì phải đủ
bản lĩnh giải quyết việc của mình, không để lơ lững nữa. Ví dụ năm giờ
là giờ tọa thiền, gần năm giờ có bà bạn điện thoại tới nói: Chị ơi! Bữa
nay mình đi chơi chỗ này vui lắm. Nếu quý vị có quyết tâm trong việc tu
hành, sẽ trả lời: Cảm ơn chị, năm giờ em có việc. Cắt một cái rụp, khỏi
giải thích gì hết. Làm được như vậy nhất định quý vị có sức mạnh, nhất
định sẽ thành công.
Việc tu hành hằng ngày phải cương quyết đối
với các dấy niệm, các vọng tưởng. Chúng ta cố gắng chủ trì nó, đừng để
nó dẫn mình đi. Trong những việc đời thường, ta làm một cách an ổn,
không để phiền não len vô, đó là sự định tỉnh thường nhật. Sự định tỉnh
nếu được thực tập thường xuyên sẽ có sức mạnh phi thường. Như khi chúng
ta ngồi thiền được định, đó là chuyện dĩ nhiên. Nhưng xả thiền ra mình
còn định hay không, mới là chuyện đáng nói. Người có sức định tỉnh sâu,
trí tuệ sáng suốt, thấy rõ các sự kiện trước mắt trong mọi thời điểm,
mọi sinh hoạt. Đó mới là nội lực chắc thực.
Hành giả tu thiền
không được ai đón như hành giả tu Tịnh độ, thì mình phải tự tại mà đi.
Nếu không, khi thấy mưa, gió, sấm chớp, tiếng la hét, kêu thương của
người thân v.v… làm mình không yên. Những thứ đó sẽ kéo lôi mình vào các
đường xấu. Như vị nào trước phút lâm chung mà sân thì đi vào cõi ngạ
quỷ. Thường thường khi gần chết, người ta nhớ lại đủ thứ chuyện cũ. Có
người nhớ lại rồi sân, hoặc thân thể đau nhức quá cũng sân. Nhiều người
đau quá không thể niệm Phật mà kêu trời, vì họ không làm chủ được thân
đau nhức. Chúng ta đôi khi cũng vậy, vì hằng ngày không quen làm chủ nên
tới lúc hấp hối, cận tử nghiệp quay mình. Bây giờ phương pháp tu hành
chúng ta đã nắm, chỉ còn tích cực gầy dựng năng lực trong công phu, để
đảm bảo có thể chủ động được trước phút lâm chung. Lúc này phải có sức
mạnh mới cắt được dòng cận tử nghiệp.
Các thiền sư Việt Nam luôn
dạy chúng ta phản quan tự kỷ, đó là việc bổn phận của mình. Xem xét lại
chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc
thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
Chính mỗi người nghiệm xem coi mình làm chủ được chưa, rồi những huynh
đệ chung quanh có làm chủ được không? Trong huynh đệ chúng ta có người
làm chủ được, đó là tin vui, giúp mình tin tưởng rồi tất cả sẽ làm chủ
được hết. Chúng ta tu thiền, Tổ bảo phải được định, có trí tuệ, chúng ta
cố gắng tu cho được như vậy. Chớ biểu được định, chúng ta không định,
không định làm sao có tuệ, mà không có định tuệ thì đâu làm chủ được.
Trong
số các Phật tử đây, có nhiều vị đâu phải mới đi chùa ngày hôm nay. Tôi
biết quý vị đã đi chùa nhiều năm tháng rồi, đã học Phật, đã có tâm tu
hành mong cầu giác ngộ giải thoát, nhưng tại sao không được kết quả tốt.
Đó là vấn đề quí vị phải suy nghĩ. Các thiền sư nói: Mỗi chúng ta đều
có chân tâm, có bản lai diện mục, có Phật tính. Phật tính là gì? Là chất
Phật thật. Có sẵn tánh Phật chúng ta mới tu thành Phật được. Nếu không
có tánh Phật mình tu không thành Phật đâu. Chúng ta có sẵn nhưng vì bỏ
quên, ngược xuôi theo trần cảnh bên ngoài nên lắm lem. Bây giờ cố gắng
xoay về, nhận lại tánh Phật ấy thì hết khổ, hết lang thang trôi dạt
trong sáu nẻo luân hồi. Đó là chúng ta biết tu.
Thiền sư Hoàng Bá có lời răn nhắc thế này:
Muốn thoát trần lao việc phi thường,
Đầu dây nắm chặt giữ lập trường,
Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt,
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.
Mình
phải là người gìn giữ lập trường. Bởi vì muốn tu, muốn được hết khổ,
được giải thoát thì phải giữ vững lập trường. Nhưng chỉ giữ vững lập
trường không đủ chưa? Chưa. Ví chẳng một phen xương lạnh buốt, nghĩa là
nếu chúng ta không có công phu, không có sự gắng gổ, thì không thể nào
giác ngộ. Câu chót ngài nói: Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương, tức là không
có công phu chắc thực thì trí tuệ không sáng suốt, không nhận ra được
tánh Phật sẵn có nơi mình.
Trên đường tu, chư huynh đệ chúng ta
hữu duyên kết được chủng Phật và ít nhiều gì chúng ta đã có một quá
trình tu tập. Ngày hôm nay mình nhận ra lẽ chân ngụy là đã khá lắm rồi,
bây giờ chỉ cần cương quyết lên, nỗ lực công phu thấu xương thấu tuỷ thì
lo gì không có ngày đạt đạo. Kính chúc toàn thể chư huynh đệ dừng được
tâm sanh diệt của mình, để rồi tất cả chúng ta tích cực bảo vệ sự tu tập
của mình đạt được kết quả viên mãn, vĩnh viễn an vui, tự tại.
Hòa Thượng Thích Nhật Quang (Thiền Viện Thường Chiếu)
Thursday, December 16, 2010
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
0 comments:
Post a Comment