Showing posts with label HT. Thanh Từ. Show all posts
Showing posts with label HT. Thanh Từ. Show all posts

Wednesday, June 17, 2015

Tuesday, June 16, 2015

Giải Nghi Về Nhân Quả - Thầy Thích Thanh Từ



Nghiệp duyên (rất hay) - HT Thích Thanh Từ



Wednesday, March 4, 2015

Sunday, December 21, 2014

Tánh Không Duyên Khởi - Thầy Thích Thanh Từ


Saturday, December 6, 2014

Sunday, August 17, 2014

Tập Nghiệp - Thầy Thích Thanh Từ ( rất hay )


HT Thích Thanh Từ - TRỌN MỘT ĐƯỜNG TU




Hình của HT  hồi trẻ  thần sắc rất đẹp ....hihi.... khí sắc khác người thường , đúng là 1  vị Phật sống thị hiện  .

Saturday, June 14, 2014

Monday, May 19, 2014

Sư Ông Thanh Từ dạy cách ngồi thiền trị bá bệnh



Hành giả chuyên tâm tu hành, hoặc tứ đại có bệnh là vì dùng quán tâm, quán hơi thở kích động bệnh cũ
phát khởi. Hoặc không khéo điều hòa ba việc - thân, tâm, hơi thở - trong, ngoài có chỗ sai suyễn, cho nên
có bệnh hoạn. Phàm phương pháp tọa thiền nếu khéo dụng tâm thì bốn trăm lẻ bốn bệnh tự nhiên lành, nếu
dụng tâm sai suyễn thì bốn trăm lẻ bốn bệnh nhân đó phát sanh. Thế nên, nếu tự tu hay dạy người tu, phải
khéo biết gốc bệnh, phải khéo biết phương pháp dùng nội tâm trị bệnh trong lúc tọa thiền. Một phen phát
bệnh chẳng những chướng ngại sự tu hành, còn lo mất mạng là khác.
Nay nói về pháp trị bệnh có hai ý:
1. Tướng bệnh phát khởi.
2. Phương pháp trị bệnh.
1. Tướng bệnh phát khởi:
Bệnh phát tuy có nhiều cách, lược nói không ngoài hai thứ:
Tướng bệnh do tứ đại tăng giảm:
Nếu địa đại tăng thì mắc bệnh thủng kiết trầm trọng, thân thể khô gầy, như thế một trăm lẻ một bệnh sanh.
Nếu thủy đại tăng thì đàm ấm dẫy đầy, ăn uống không tiêu, đau bụng, hạ hơi v.v... một trăm lẻ một bệnh
sanh. Nếu hỏa đại tăng thì chợt lạnh, chợt nóng toàn thân đau nhức, hôi miệng, đại tiểu không thông v.v...
một trăm lẻ một bệnh sanh. Nếu phong đại tăng thì thân thể lơ lửng như treo trên không, lăn lộn đau nhức,
phổi sưng thở gấp, ụa mửa mệt lã, như thế v.v... một trăm lẻ một bệnh sanh. Cho nên trong kinh nói: "Một
đại không điều hòa thì một trăm lẻ một bệnh sanh, tứ đại không điều hòa thì bốn trăm lẻ bốn bệnh đồng
khởi". Tứ đại phát bệnh mỗi thứ có tướng mạo của nó, chính trong khi ngồi thiền và trong khi mộng phải
khảo sát cho rõ.
b) Tướng ngũ tạng sanh bệnh:
Từ tim sanh bệnh thì thân thể nóng, lạnh, đầu nhức, miệng khô v.v... vì tim là chủ về miệng. Từ phổi sanh
bệnh thì thân thể mập phù, tứ chi mỏi mê, mũi nghẹt v.v... vì phổi chủ về mũi. Từ gan sanh bệnh trong lòng
thường không vui, buồn rầu, thương lo, giận hờn, đầu nhức, mắt mờ v.v... vì gan chủ về con mắt. Từ lá lách
sanh bệnh thì thân thể và trên mặt nổi phong khắp cả, ngứa ngáy đau nhức, ăn uống không ngon v.v... vì lá
lách chủ về lưỡi. Từ trái cật sanh bệnh thì ở cổ sanh nấc cục, bụng no, lỗ tai bùng v.v... vì trái cật chủ về lỗ
tai. Năm tạng sanh bệnh rất nhiều, mỗi cái có tướng của nó, phải xem xét trong khi ngồi thiền và trong
mộng thì biết được.
Như thế nguyên nhân sanh bệnh của tứ đại, ngũ tạng không phải một, tướng bệnh rất nhiều không thể nói
hết. Hành giả nếu muốn tu pháp môn Chỉ, Quán để thoát ly sanh tử, phải khéo biết nguyên nhân sanh bệnh.
Hai thứ bệnh này nguyên nhân chung là do trong và ngoài phát động. Hoặc do dụng tâm không điều hòa,
quán hạnh sai lạc, hoặc do khi pháp định phát sanh không biết giữ gìn đến khiến tứ đại, ngũ tạng sanh
bệnh, ấy là tướng bệnh do bên trong phát khởi.
Lại nữa, có ba thứ nhân duyên khiến người mắc bệnh:
1. Tứ đại, ngũ tạng tăng giảm khiến người mắc bệnh như đã nói ở trên. 2. Quỉ thần gây nên khiến người
mắc bệnh.
3. Nghiệp báo khiến người mắc bệnh.
Những bệnh như thế, mới mắc phải sớm trị rất dễ được lành, nếu để qua thời gian lâu bệnh thành thục, thân
gầy bệnh nặng, chữa trị rất khó lành.
2. Phương pháp trị bệnh:
Ðã rõ nguyên nhân phát bệnh, cần tạo phương pháp trị bệnh. Phương pháp trị bệnh có nhiều cách, tóm lược
không ngoài hai phương tiện Chỉ và Quán.
Thế nào dùng Chỉ trị bệnh? Có thầy nói: "Phải an tâm ngưng tại chỗ bệnh, tức là bệnh lành. Tại sao? Vì tâm
là chủ của thân quả báo trong một thời kỳ, ví như vua đến chỗ nào thì bọn trộm cướp đều tan sạch". Lại có
thầy bảo: "Dưới rốn một tấc gọi là đơn điền, nếu ngưng tâm tại chỗ này không tán loạn, trải qua thời gian
lâu đa số bệnh đều dứt". Có thầy bảo: "Thường ngưng tâm dưới chân, bất luận đi, đứng, nằm hay nghỉ liền
trị được bệnh. Vì cớ sao? Vì người do tứ đại không điều hòa cho nên sanh các bệnh, đó là do tâm thức duyên
lên trên khiến tứ đại không điều hòa. Nếu an tâm ở dưới thì tứ đại tự nhiên điều hòa, các bệnh đều lành".
Dùng Quán trị bệnh. Có thầy nói: Dùng Quán tâm tưởng sáu thứ hơi thở trị bệnh, tức là dùng Quán trị bệnh.
Thế nào là sáu thứ hơi thở? Nghĩa là: suy, hô, hy, ha, hư, hứ. Sáu thứ hơi thở này đều do trong lưỡi, miệng
và tâm tưởng phương tiện chuyển động mà thành, phải dùng đều đều nhẹ nhẹ. Bài tụng chép:
Tâm thuộc về ha, thận thuộc suy,
Tỳ ho phổi hư tánh đều biết,
Gan và tạng nhiệt do chữ hư,
Tam tiêu ngăn trệ chỉ nói hy.
Có thầy nói: Nếu khéo dùng Quán tưởng vận chuyển mười hai thứ hơi thở thì trị được nhiều bệnh. Mười hai
thứ hơi thở:
1. Hơi thở lên.
2. Hơi thở xuống.
3. Hơi thở đầy.
4. Hơi thở tiêu.
5. Hơi thở tăng trưởng.
6. Hơi thở diệt hoại.
7. Hơi thở ấm.
8. Hơi thở lạnh.
9. Hơi thở xông lên.
10. Hơi thở gìn giữ.
11. Hơi thở điều hòa.
12. Hơi thở bồi bổ.
Mười hai thứ hơi thở này đều do tâm quán tưởng mà có. Nay lược tướng đối trị của mười hai thứ hơi thở. Hơi
thở lên trị bệnh trầm trọng. Hơi thở xuống trị bệnh lơ lửng. Hơi thở đầy trị bệnh khô gầy. Hơi thở tiêu trị
bệnh thủng phù. Hơi thở tăng trưởng trị bệnh ốm yếu. Hơi thở diệt hoại trị bệnh tăng thạnh. Hơi thở ấm trị
bệnh lạnh. Hơi thở lạnh trị bệnh nóng. Hơi thở xông lên trị bệnh ngăn nghẹn không thông. Hơi thở gìn giữ trị
bệnh lăn lộn. Hơi thở điều hòa chung trị bệnh tứ đại bất hòa. Hơi thở bồi bổ bồi dưỡng tứ đại suy kém. Khéo
dùng các thứ hơi thở này, có thể trị lành các bệnh, suy ra có thể biết.
Có thầy nói: Khéo dùng giả tưởng quán hay trị hết các bệnh. Như người mắc bệnh lạnh, tưởng trong thân
hơi lửa xông ra liền trị được bệnh lạnh. Cách trị bệnh này trong kinh Tạp A Hàm về bảy mươi hai thứ bí pháp
trị bệnh có nói rộng.
Có thầy bảo: Dùng Chỉ, Quán kiểm xét tứ đại trong thân không có bệnh, tâm cũng không có chỗ sanh bệnh
thì các bệnh tự lành. Như thế, bao nhiêu thuyết nói dùng Quán trị bệnh chỗ ứng dụng không đồng, nếu khéo
hiểu được ý đều trị lành bệnh.
Hai pháp Chỉ, Quán nếu người khéo hiểu được ý thì không bệnh nào mà trị chẳng lành. Nhưng người thời
nay, căn cơ tối, cạn, đa số tập quán tưởng không thành công nên pháp này ít được lưu truyền. Lại có người
tu không được pháp này, bèn xoay qua học khí thuật, nhịn cơm e sau này sanh kiến chấp tà dị, những thứ
thuốc bằng cây, cỏ, vàng, đá ... thích hợp với bệnh thì nên dùng.
Nếu là bệnh do quỉ phá thì phải lập tâm cho vững, thêm tụng chú để giúp sự trị bệnh. Nếu là bệnh nghiệp
báo cần phải tu phước và sám hối, bệnh ắt tiêu diệt. Hai pháp Chỉ, Quán trị bệnh, nếu người khéo hiểu một
pháp cũng đủ tự tu và dạy người, huống là thông đạt cả hai. Nếu cả hai pháp đều không biết thì bệnh sanh
không thể trị, chẳng những bỏ bê sự tu hành, còn e tánh mạng khó bảo toàn làm sao tự tu và dạy người?
Thế nên, người muốn tu Chỉ, Quán phải hiểu phương pháp nội tâm trị bệnh. Pháp này không phải hiểu một,
hiểu ý tại người, chớ không thể truyền bằng văn tự.
Lại nữa, trong khi ngồi thiền dụng tâm trị bệnh cần phải gồm đủ mười pháp sẽ được lợi ích. Mười pháp:
1. Tin.
2. Dùng.
3. Siêng.
4. Thường trụ trong duyên.
5. Phân biệt nguyên nhân bệnh khởi.
6. Phương tiện.
7. Thực hành lâu.
8. Biết thủ xả.
9. Giữ gìn.
10. Biết ngăn cản.
Thế nào là tin? Nghĩa là tin pháp này hay trị được bệnh.
Sao là dùng? Nghĩa là tùy thời hằng dùng.
Sao là siêng? Chuyên cần không nghỉ, đến khi lành bệnh mới thôi.
Sao là trụ trong duyên? Tâm vi tế luôn luôn y nơi pháp, không duyên cái gì khác.
Sao là phân biệt nguyên nhân bệnh khởi? Như đoạn trước đã nói.
Sao là phương tiện? Là thở ra, hít vào tâm tưởng vận chuyển khéo léo thành tựu không cho trái phép.
Sao là thực hành lâu? Nếu áp dụng chưa có lợi ích chẳng kể ngày tháng thường tập không phế bỏ.
Sao là biết thủ xả? Biết cái có ích liền chuyên cần, cái có hại liền xả đi, chín chắn chuyển tâm điều trị.
Sao là gìn giữ? Khéo biết các duyên xúc phạm mà giữ gìn.
Sao là ngăn cản? Ðược điều ích lợi không đến người khác nói, chưa tổn hại không sanh nghi chê.
Nếu y mười pháp này trị bệnh quyết định có hiệu nghiệm không dối vậy

Vô Sư Trí - Thầy Thích Thanh Từ




VĂN PHÁT NGUYỆN - Hòa thượng Thích Thanh Từ soạn



Đệ tử chúng con một lòng thành,
Nguyện cho đất nước mãi thanh bình,
Tai nạn đao binh đều dứt sạch,
Huynh đệ nhìn nhau con một nhà.

Xót thương cứu giúp tiêu thù hận,
Cả trên thế giới thảy an lành,
Cùng chung nhân loại lòng yêu mến,
Sớt cơm chia áo một tâm thành.
Kết tình đồng loại như ruột thịt,

Nguyện cả chúng sanh đến côn trùng,
Cùng khởi lòng thương che chở thảy,
Ai đành sát hại làm lợi mình.
Mong sao toàn thể cùng vui sống,
Nguyện mưa chánh pháp khắp quần sanh,

Mọi người đều được ơn nhuần gội,
Nhiệt não tiêu tan lòng thanh lương.
Tam thừa thánh quả đều an trụ,

Nguyện con dứt sạch mọi não phiền,
Gắng tu chẳng chút sanh lười mỏi,
Lập chí vững chắc như kim cương.
Dù bao sóng gió không lay động,

Thẳng bước tiến lên quả vô sanh,
Yêu ma quỉ mị không ngăn nổi,
Chiếc gươm trí tuệ tay chẳng rời.
Đơn đao đột nhập vô thượng giác,
Tam độc bát phong không chướng ngăn,

Chỉ một chân như tam-muội ấn,
Tiến thẳng vào trong nhà Pháp thân.
Trên ngọn Diệu Phong rong tự tại,
Xem xét mười phương chúng khổ đau,
Khởi từ phương tiện tùy ứng hóa,
Đưa chúng đồng lên bờ Niết-bàn.

Dù bao gian khổ lòng không nản,
Công đức tu hành xin hướng về,
Tất cả chúng sanh cùng mình được,
Đồng nương chánh pháp tối thượng thừa,
Lên ngôi chánh giác chứng Phật đạo.
***

Thursday, May 15, 2014

Lý thuyết và Thực hành - HT. Thích Thanh Từ giảng bài này rất hay ( CN NGHE RẤT NHIỀU LẦN MÀ VẪN THẤY QÚA HAY )





 Tự trách mình qúa kém phước khg được ngồi trong pháp hội của Sư Ông để nghe Sư Ông thuyết pháp ...huhu....

Wednesday, April 23, 2014

Nghiệp báo P1 2 HT Thích Thanh Từ giảng bài này rất hay




 HT Thanh Từ nói  những người tốt , nhất là những vị tu tiên  họ có ánh hào quang sáng trên đầu , còn ai xấu xa độc ác thì hào quang màu đen  :)  mắt con người mình khg thể thấy được những thứ ánh sáng đó nhưng những vị tu có thiên nhãn thông thì nhìn thấy được ....hay là con chó  nó cũng có thể nhìn thấy được đó , chẳng hạn như những người mà giết chó để ăn thịt đi tới đâu là cả đàn chó xúm lại sủa , tại sao ? Vì con chó nó nhìn thấy được 1 con người đó qúa ác độc , cho nên ai đi đâu mà bị chó sủa qúa trời là tự biết nghen ....hihi...( câu sau CN tự nói  :) )  ( nói chơi chứ nhiều con chó nó  khùng lên sủa cả ngày  ) .....

Friday, March 28, 2014

Buổi Nói Chuyện Với Lớp Bồi Dưỡng Giảng Sư




Tuesday, March 25, 2014

VUI NÀO TẠM BỢ VUI NÀO CHÂN THẬT


Ðề tài buổi nói chuyện hôm nay là Vui nào tạm bợ, vui nào chân thật. Chúng ta tu theo Phật là tìm nguồn vui chân thật, chẳng những cho hiện tại mà cho cả mai sau.
Trước khi nói đến niềm vui chân thật, tôi dẫn những thứ vui tạm bợ cho quí Phật tử nhận thấy. Thế gian cho những trò chơi như đá bóng là vui, nhưng nhà Phật bảo cái vui đó tạm bợ không thật, vui trong nỗi khổ. Bởi vì bên thắng vui, bên thua khổ và chỉ vui trong một hai tiếng đồng hồ thôi. Hoặc xem ca nhạc kịch, gặp cảnh vui thì cười, cảnh khổ thì khóc. Như vậy, trong cái vui có cái khổ, cười khóc theo người ta, mà còn tốn tiền nữa. Thế nhưng thiên hạ rủ nhau đi xem thật đông. Những chuyện này nhiều lắm, kể không hết. Rõ ràng thế gian vui trong đau khổ, không có vui thật.
Người biết đạo thấy rõ vui nào thật thì tìm, vui nào giả thì tránh, đừng để niềm vui của mình là nỗi khổ của người. Lòng từ bi không cho phép chúng ta cười khi người khác khóc. Phật tử biết thế rồi nên tìm niềm vui chân thật, không chạy theo cái vui tạm bợ, khổ vui lẫn lộn. Phật tử tu Phật phải có trí tuệ và từ bi, không bao giờ tìm vui trong sự đau khổ như thế.
Ðến niềm vui chân thật. Niềm vui này mới nghe không thấy gì vui hết. Thí dụ Phật dạy quí Phật tử giữ năm giới, nghe buồn hiu. Nhưng thật tình đó là cội gốc đem lại sự an vui. Chúng ta không có tâm giết hại ai thì mình được bình an. Chẳng những không giết hại mà cũng không xúi bảo người khác giết hại. Do đó mình bình an và mọi người chung quanh cũng được bình an. Niềm vui được thể hiện ở cuộc sống không hồi hộp, không lo sợ bị giết hại. Nếu cứ lo sợ người này trả thù, người kia hại thì cuộc sống đâu có vui. Ðó chính là niềm vui lặng lẽ chân thật.
Một xã hội không trộm cướp là một xã hội an vui. Mọi người nhìn nhau lòng không dè dặt, lo sợ, tâm thản nhiên thư thả, đó là vui rồi. Tâm không tà dâm thì hạnh phúc gia đình được bảo đảm. Tinh thần Á Ðông rất tôn trọng hạnh phúc gia đình. Xã hội được tốt đẹp gốc từ mỗi gia đình tốt đẹp. Gia đình tốt đẹp gốc từ những cá nhân biết bảo vệ hạnh phúc chung. Nên muốn gia đình tốt đẹp, để đi tới xã hội tốt đẹp, mỗi người phải giữ gìn phẩm hạnh trong sạch của mình. Ðây là vấn đề hết sức hệ trọng. Nếu mỗi người cứ làm theo ý riêng để thỏa mãn ham muốn của mình, không nghĩ tới người bên cạnh, đó là ích kỷ. Chính cái ích kỷ này đưa đến tai họa cho nhiều người.
Vừa rồi, Thầy nghe nhiều Phật tử kể lại có những phụ nữ Mỹ năm ba đời chồng, nhưng rốt cuộc già ở một mình. Như câu chuyện một phụ nữ Mỹ ở cạnh nhà gia đình Phật tử nước mình. Hôm đó chiều thứ bảy, mọi người trong gia đình Phật tử đi làm về, quây quần bên mâm cơm trước sân, ăn uống vui vẻ. Phụ nữ Mỹ kia đứng nhìn và khóc. Người chủ trong gia đình thấy vậy chạy qua hỏi:
- Sao bà lại khóc?
Bà trả lời:
- Thấy gia đình ông sum họp vui vẻ, tôi buồn tủi quá nên khóc.
- Sao bà buồn?
Bà nói:
- Thưa ông, tôi có đứa con mười tám tuổi đã bỏ nhà đi mất rồi.
Rõ ràng hạnh phúc gia đình nằm ở sự thủy chung với nhau. Vợ chồng thủy chung thì con cái sum họp. Vợ chồng không thủy chung thì con cái bơ vơ, tình cảm gia đình cũng không còn. Như vậy mới thấy con người sống trong thế giới văn minh, tự do, mỗi người tự làm theo ý muốn của mình để rồi đưa tới sự tan nát gia đình. Trong gia đình, chồng không ra chồng, vợ không ra vợ, thử hỏi tình thương ở đâu?
Có người nói bên Mỹ chỉ nghĩ đến hai điều: một là tình, hai là tiền. Họ có vợ chồng nhưng không được lâu dài, tuy đang sống hòa hợp nhưng ngày mai có thể chia tay không biết chừng. Như vậy cuộc sống có an ổn, có vui không? Tiền bạc thì dĩ nhiên phải lo rồi, nhưng cái tình mới quan trọng. Bởi vì nếu sống cạnh nhau mà không tin, không thương, không chung thủy với nhau thì đâu còn hạnh phúc nữa. Có lòng tin đó là người bạn đời chung thủy với mình thì cuộc sống mới hòa vui, mới lo cho con cái nên thân nên hình. Ðược vậy gia đình mới hạnh phúc. Còn nếu sống đơn độc một mình thì già chắc vô trại dưỡng lão thôi. Chừng đó mới thấy nỗi cô đơn, đau khổ của mình vì trách nhiệm đối với con cái không tròn.
Qua đó, chúng ta thấy rằng Phật dạy giữ năm giới, trong đó có giới không tà dâm, tức không ngoại tình với kẻ khác, sống thủy chung với nhau từ trước đến sau thì gia đình sẽ được bình an, hạnh phúc, con cái nên người. Thường ta thấy gia đình người Việt hoặc người Hoa con cái học giỏi, vì cha mẹ chúng chung thủy vui vẻ. Nhờ thế họ dốc lực lo cơm ăn áo mặc, con cái chỉ việc học hành nên giỏi. Ngược lại, nếu cha mẹ nay thế này mai thế khác, thì tâm hồn trẻ đâu có an ổn mà học.
Nên yếu tố chánh yếu để có những đứa con ngoan tốt là từ cha mẹ. Làm cha làm mẹ, dù có những vui buồn với nhau cũng phải giữ còn tình thủy chung, để con cái mình có chỗ nương tựa. Con cái có chỗ nương tựa sẽ trở thành người tốt cho xã hội, sau này nhớ nghĩ đến công ơn cha mẹ, chúng sống hiếu để hết lòng. Nếu không như vậy vô tình đưa con mình tới chỗ hư hỏng, lúc về già lại càng thấy cô độc và ân hận cũng đã muộn rồi. Những người cứ lo thỏa mãn tình cảm riêng tư, để rồi già vô trại dưỡng lão một mình, sống trong nỗi cô đơn thật đau khổ. Cho nên ý nghĩa lời Phật dạy hết sức thâm trầm.
Như vậy quí Phật tử phải nhìn sâu, thấy rõ cái vui nào bền bỉ lâu dài, chân thật thì chọn, cái vui nào tạm bợ thì bỏ đi để không bị đau khổ mai sau. Dù niềm vui ấy có trong hiện tại nhưng mai sau đau khổ thì ta nhất định không theo.
Phật dạy Phật tử không được nói dối, giới này cũng rất thâm trầm. Người nào nói chuyện với mình một cách chân thật ta mới tin được. Người nào nói chuyện năm lần bảy lượt mà mình xét thấy họ nói dối thì ta mất lòng tin liền. Nếu không tin nhau ngang đó tình thương trở nên lợt lạt. Như trong gia đình, con nói dối cha chừng năm mười lần, thì dần dần cha cũng mất lòng tin. Lòng tin mất thì tình thương cũng giảm theo. Như vậy chung quanh ta anh em, bạn bè, nếu không giữ chữ tín, tức không nói thật với nhau, thì tình thương sẽ bị sứt mẻ, những mối quan hệ trong xã hội cũng sẽ xấu đi.
Sống giữa mọi người mà không ai tin ai hết đó là khổ hay là vui? Sống như vậy rất cô đơn. Vì chúng ta phải giữ chữ tín với mọi người, nói điều gì phải giữ giá trị của lời nói, không nói bướng nói bừa để lừa bịp nhau. Như thế uy tín ngày càng tăng, người chung quanh mới tin tưởng mình. Có lòng tin thì làm việc gì cũng dễ thành công. Ngược lại, ta đánh mất lòng tin nơi mọi người thì làm việc gì cũng thất bại. Ðiều này rất quan trọng.
Ðến giới không uống rượu. Hồi xưa chỉ có rượu mạnh như rượu đế rượu vang, bây giờ có chế bia nhẹ một chút. Cho nên giữ giới này chủ yếu là không uống rượu mạnh, không uống say. Ðối với bia, uống ít ít thì được, uống nhiều thành say không được. Khi mới vào tiệc, uống rượu cười vui hỉ hả, nhưng tới say rồi mất hết tư cách, múa may quay cuồng như người điên. Hơn nữa, uống rượu say mà lái xe thì dễ gây tai nạn chết người, rất nguy hiểm.
Không những uống rượu mạnh, uống rượu say mới có tai hại, mà gần đây còn có á phiện, xì ke, ma túy. Người Phật tử phải giữ thêm, không được uống rượu mạnh, uống say, không được hút á phiện, xì ke, ma túy. Tại sao Phật lại cấm như vậy? Có hai lý do:
1. Uống rượu mạnh, say làm cho con người khờ dại, mất trí tuệ. Ðạo Phật là đạo giác ngộ, đạo trí tuệ, nếu Phật tử đánh mất trí tuệ thì việc theo đạo không hợp lý nữa.
2. Khi say rồi con người không còn khả năng phân biệt phải quấy, không còn biết sợ luật pháp. Lúc đó muốn làm gì cứ làm, gây tội lỗi không thể lường. Như câu chuyện đứa con trai của bà cụ già ở Bà Rịa. Một hôm cậu ta đi chơi tới khuya vẫn chưa về, bà sốt ruột ra cửa chờ. Khoảng mười hai giờ đêm, nó về trong trạng thái ngã nghiêng ngã ngửa. Bà tức giận la mắng nó. Cậu ta bèn vô nhà lấy dao chặt cổ mẹ mình. Tai họa của rượu ghê gớm như vậy.
Chính vì thấy trước những tai họa đó mà Phật cấm uống rượu say và dùng các chất gây ghiền. Chúng ta thấy rõ ràng điều đức Phật cấm rất có lý, rất thiết yếu. Nếu giữ được năm giới của Phật thì chúng ta bảo vệ được hạnh phúc gia đình, bản thân và mọi người có cuộc sống an vui lâu dài, xã hội được tốt đẹp. Niềm vui này không phải vui nhộn, vỗ tay ầm ầm như xem đá bóng, nhưng nó thật sự là niềm vui chân thật.
Phật tử khi đi sâu trong đạo lý, mới thấy những lời Phật dạy là khuôn vàng thước ngọc, đem lại sự tốt đẹp cho con người. Nếu trong năm giới, chúng ta giữ được bốn, còn thiếu một đó là chưa tốt trọn vẹn. Chỉ cần một điều không giữ được, thì tội lỗi xảy ra không thể lường trước. Cho nên, giữ tròn năm giới là bước tiến của người Phật tử. Vì vậy người nào giữ tròn năm giới, Phật gọi đó là tu Nhân thừa Phật giáo.
Trong đạo Phật chia ra Thiên thừa, Nhân thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa, gọi chung là Ngũ thừa Phật giáo. Giữ tròn năm giới là tu Nhân thừa. Từ Nhân thừa tiến lên Thiên thừa v.v. Chặng đầu không bước được thì nấc thứ hai làm sao bước lên được? Nên căn bản là Nhân thừa Phật giáo.
Nhân thừa là sao? Phật tử giữ tròn năm giới, trong đời này là người tốt, đời sau tiếp tục trở lại làm người tốt hơn nữa. Trong kinh dạy nếu Phật tử giữ giới không giết người v.v. đời sau trở lại làm người sống khỏe mạnh, tuổi thọ lâu dài. Giữ giới không trộm cướp, đời sau trở lại làm người giàu có, không bị giặc cướp hay nạn lửa nước cuốn trôi tài sản. Người giữ giới không tà dâm, đời sau sanh ra đẹp đẽ trang nghiêm. Người giữ giới không nói dối, đời sau nói năng được lưu loát, được mọi người tín nhiệm. Người giữ giới không uống rượu mạnh, không uống say, không hút á phiện, xì ke, ma túy đời sau sanh ra trí tuệ sáng suốt.
Như vậy đối với năm điều này quí Phật tử có muốn thiếu điều nào không? Sống dai, có của nhưng xấu, ai thấy cũng không dám nhìn quí vị có chịu không? Hoặc sống dai, có của, đẹp đẽ nhưng nói năng ngọng liệu quí vị có chịu không? Bây giờ giả sử quí vị  được bốn điểm: sống dai, có của, đẹp đẽ, nói năng lưu loát, nhưng ngu tối quí vị có chịu không? Như vậy năm điều đó là năm điều căn bản, thiết yếu cho cả một con người, đời này và đời sau.
Chúng ta tu không phải chỉ lo cho hiện tại, mà chuẩn bị luôn cho tương lai. Nếu cứ theo cái vui tạm bợ, không biết gì là hay là tốt, là kế lâu dài, tới chừng lớn tuổi hối hận sao kịp. Ðó là nói về niềm vui chân thật. Con đường Phật dạy chúng ta là con đường an vui, hạnh phúc, bền vững lâu dài. Vậy mà có nhiều người coi thường, không để tâm đến nói gì đi theo. Ðó là lý do khiến chúng sanh đau khổ mãi.
Theo lý nhân quả thì ta tạo nhân lành hưởng quả lành, gây nhân ác chịu quả ác. Thí dụ như quí Phật tử tin Phật rất sâu, bây giờ có việc phải đi xa. Quí vị đến trước Phật thắp hương, nguyện Phật từ bi gia hộ con đi đường được bình an. Nhưng khi ra đường, gặp ai nói điều trái ý, liền chửi người ta, như vậy bình an được không? Phật làm sao can thiệp được chuyện đó. Chúng ta không giữ mình, không dẹp bớt nóng giận, tham lam v.v. thì không bao giờ an được. Tu là dẹp bỏ những thói xấu của mình. Quí vị không ý thức điều đó để giữ gìn thân khẩu ý cho tốt, thì Phật cũng không làm sao cứu giúp được.
Nhiều người thắc mắc Phật dạy tạo nhân nào chịu quả nấy, nhưng sao người ăn ở hiền lành vẫn nghèo khổ, còn kẻ gian ác quá lại giàu sang sung sướng, như vậy nhân quả có đúng không? Nhân quả Phật dạy liên quan tới ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai, không phải chỉ có đời này thôi. Chúng ta cứ lấy thời gian hiện tại mà đoán định thì không đúng. Ðó là sự thật.
Nếu không hiểu như thế ta sẽ có cái nhìn thiển cận, không đúng lẽ thật. Hiện tại người làm phước lành nhưng gặp tai họa, đó là do nợ trước còn nên bây giờ phải trả. Biết vậy ta nên vui vẻ trả, không than trách gì cả. Còn những người làm xấu, làm ác nhưng vẫn được sung sướng, đó là do đời trước họ có tu chút ít. Nên biết nhân quả là lẽ công bằng, chớ không phải chuyện tưởng tượng.
Chúng ta có bệnh làm gì, đòi hỏi phải có kết quả liền. Nhiều Phật tử đem quà tặng ai, người đó nhận rồi làm thinh, không cám ơn thì quí vị không vui, phải cám ơn liền mới được. Thật ra có người mang ơn thầm lặng, không nói ra lời, chờ cơ hội sẽ đền ân. Phật tử chúng ta vội quá, đòi cám ơn liền mới vui. Do đó quí vị không nhận ra được sự nhớ ân và đền ân của những người sâu lắng, đằm thắm. Phật tử hiểu đạo lý sâu, biết rõ ràng như vậy, trên đường tu sẽ không lầm nhân quả, nhờ thế được an vui.
Học Phật là chúng ta phải tu. Tu là sửa. Ðối với những điểm xấu dở, chúng ta chừa bỏ. Ðối với những điểm hay tốt, chúng ta nên làm. Ðó là người biết tu. Tu Phật phải nhìn cho đúng, hiểu cho rõ, mới thấy được sự lợi ích lớn lao của nó. Ðạo Phật rất thâm trầm nên có câu Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, nghĩa là giáo pháp của chư Phật rất vi diệu, nhiệm mầu, sâu xa, chớ không phải cạn cợt. Chúng ta hiểu nhớ, ứng dụng cho đúng thì đời mình không khổ. Chẳng những hiện đời không khổ, mà mai kia cũng được vui hơn. Ðó là kế lâu dài.
Cho nên hiểu đạo lý chân chánh rồi, quí Phật tử nắm vững giai đoạn đầu Phật dạy chúng ta phải giữ năm giới, đó là chận đứng, không cho mình rơi xuống hố tội lỗi. Nếu giữ năm giới thì đối với những tội lỗi trầm trọng của thế gian, chúng ta không phạm. Ðó là không bị rơi vào hố tội lỗi. Chặng thứ hai Phật dạy phải tu tạo nhân lành để được quả lành. Ðó là tu nhân quả. Chỉ hai điểm này nếu Phật tử đủ lòng tin, chắc chắn trên đường tu sẽ được an ổn lâu dài, hạnh phúc cho đời này và cả đời sau nữa. Ðây là niềm vui chân thật, còn tất cả những cái vui tạm bợ của thế gian, tự nó không có giá trị gì hết, đùa một chút rồi qua, nên nói vui trong đau khổ. Chúng ta đừng mắc bẫy nó mà uổng phí một đời tu.
Học Phật pháp cần thấm nhuần, ứng dụng tu chớ không phải hiểu rồi thôi. Cốt làm cho được, chớ không cần ăn nói lưu loát, mọi người khen hay mà bản thân mình không thực hành, không được lợi ích gì cả. Mong tất cả hiểu, ứng dụng tu để được lợi ích thiết thực cho mình và mọi người.

                                                          HT Thích Thanh Từ giảng tại Mỹ năm 2000