Monday, November 30, 2009

Cu*a ? Thien

http://thuvienphathoc.blogspot.com/

Phat giao doi Tran

http://thuvienphathoc.blogspot.com/

Sunday, November 29, 2009

Khuyen the ca

http://thuvienphathoc.blogspot.com/

Quan chieu de tu

http://thuvienphathoc.blogspot.com/

Tho Phat tai nha

http://thuvienphathoc.blogspot.com/

Đạo Phật thấy nói đúng như thật

http://thuvienphathoc.blogspot.com/

Tinh thần giáo ngoại biệt truyện

http://thuvienphathoc.blogspot.com/

Tu là hết khổ - 2 ,MP3

http://thuvienphathoc.blogspot.com/

Tu trong mọi hoàn cảnh - 1 ,MP3

http://thuvienphathoc.blogspot.com/

Tu trong mọi hoàn cảnh - 2 ,MP3

http://thuvienphathoc.blogspot.com/

Tu là hết khổ - 1 ,MP3

http://thuvienphathoc.blogspot.com/

Tu là điều phục tâm -2 MP3

http://thuvienphathoc.blogspot.com/

Tu 3 nghiệp -1 MP3

http://thuvienphathoc.blogspot.com/

Tu 3 nghiệp -2 MP3

http://thuvienphathoc.blogspot.com/

Tu là điều phục tâm -1 MP3

http://thuvienphathoc.blogspot.com/

Tri tue va tu bi - 2 , MP3

http://thuvienphathoc.blogspot.com/

Tri tue va tu bi , MP3

http://thuvienphathoc.blogspot.com/

Cai vui nao tam bo , MP3

http://thuvienphathoc.blogspot.com/

3 con ran doc -2 MP3

http://thuvienphathoc.blogspot.com/

3 con ran doc MP3

http://thuvienphathoc.blogspot.com/

Thien tong VN khac voi cac nuoc khac

http://thuvienphathoc.blogspot.com/

Saturday, November 28, 2009

3 buoc di cua Thien Vien Truc lam -2

http://thuvienphathoc.blogspot.com

Do nghiep -1

http://thuvienphathoc.blogspot.com

Do nghiep -2

http://thuvienphathoc.blogspot.com

3 buoc di cua Thien Vien Truc lam -1

http://thuvienphathoc.blogspot.com/

Chu truong duong loi tu hanh-2A

http://thuvienphathoc.blogspot.com/

Chu truong duong loi tu hanh-2B

http://thuvienphathoc.blogspot.com/

Wednesday, November 25, 2009

Hỏi Người Xuất Gia

Một số câu hỏi và trả lời trích từ Hoa Sen Ngày Xuân
THPGPG giải đáp một số câu hỏi:- Làm sao nếu trở lại làm người trong kiếp tới, không gặp lại những người đã gặp trong kiếp này ?
- Tụng Chú Lăng Nghiêm có giảm được nghiệp chướng không ? Chú Lăng Nghiêm có nên tụng từ câu 421 trở xuống không ? Hay là phải tụng từ đầu ?
- Chú Lăng Nghiêm, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Kim Cang, Kinh Pháp Hoa hoặc Chú Phật Ðảnh Tôn Thắng Ðà La Ni, kinh nào sẽ làm cho mau hết nghiệp chướng ?
- Nghe nói là mỗi 6 tháng thì vận mạng sẽ thay đổi, có phải như vậy không ?
- Chiêm Tinh, Tử Vi là tà kiến nhưng sao lại rất đúng khi nói về quá khứ của tôi. Vậy nghĩa là sao ? Có phải Ma biết tôi đọc Chiêm Tinh, Tử Vi nên khiến như vậy phải không ?
- Làm tội gì mà thân thể không được đẹp như mình muốn ? Muốn sám hối thì phải làm sao ?
- Dựa theo giáo lý Tùy Duyên thì việc đi xuất gia, tìm Thầy học Ðạo, tìm chỗ ở để nương cho việc tu học có nên dùng lý Tùy Duyên hay không ? Làm thế nào để bước đầu của người mới phát tâm bồ đề không dễ bị thất bại và thối chuyển dễ dàng nếu không gặp thuận thắng duyên ?
- Thầy có thể cho con biết phải tốn bao nhiêu tiền để ấn tống Kinh ? Ví dụ Kinh Thiện Ác Nhân Quả, Kinh Kim Cang.

Hỏi: Tôi xin có câu hỏi, kính nhờ chỉ dạy, sự gặp gỡ nhau trong kiếp này là do có nhân duyên với nhau, tôi xin hỏi làm sao nếu trở lại làm người trong kiếp tới, không gặp lại những người đã gặp trong kiếp này ? Xin thành thật cảm ơn. Kính
Ðáp: Có lẽ vì một nhân duyên nào đó mà Ðạo Hữu không muốn gặp lại những người đã gặp trong kiếp này. Ðó là “Oán Tắng Hội Khổ”; nghĩa là buồn bực khi gặp lại những kẻ mình không ưa. Thế nên, trước khi trả lời làm sao để không gặp lại họ, thì xin thưa rằng lý do không bao giờ muốn gặp lại họ vì tâm hận thù ganh ghét của mình. Do đó, việc đầu tiên là chuyển hóa tâm hận thù của mình thành tâm từ bi hỷ xả; nghĩa là sẵn sàng tha thứ những lỗi lầm của họ đã lỡ phạm; đây là điều mà ai ai cũng mong muốn khi mình lỡ làm những gì sai trái.
Thứ hai, cũng chưa chắc là chúng ta sẽ gặp lại tất cả những ai mà mình đã và đang gặp trong hiện tại, vì mỗi người sẽ đi tái sanh tùy theo nghiệp lành hay xấu của mỗi cá nhân.
Nếu ai thường tạo nhiều nghiệp lành như giúp người, bố thí, cúng dường, thì chắc chắn sẽ tái sanh lại làm người hay làm chư thiên. Nếu ai thường gây những nghiệp xấu như giết hại, trộm cướp, tà dâm, lường gạt, cờ bạc rượu chè trác táng thì khó lòng mà tái sanh làm người trở lại, chỉ hướng xuống ba đường xấu như địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Chính bản thân của mình cũng không ra ngoài ngoại lệ lý nhân quả đó
Vì vậy, nếu chúng ta thường tạo nghiệp lành thiện thì đa phần sẽ gặp lại những người hiền lương. Ví dụ, một sinh viên nếu muốn học về ngành xã hội học thì thường xuyên tiếp xúc với các giáo sư cũng như những sinh viên khác trong ngành nghề. Nếu ai thích cờ bạc rượu chè thì tìm đến những quán Bar, tiệm rượu, casino, để nhậu nhẹt bên những canh bạc đỏ đen; đương nhiên là những thành phần mà họ gặp gỡ ở những nơi đó đa số là những thành phần bất hảo trong xã hội.
Tóm lại, thay vì không muốn gặp lại những người trong hiện tại, chúng ta hãy tự nhìn lại và chuyển hóa tâm sân hận của mình, tha thứ cho những lỗi lầm của họ, cũng như tích cực tạo nghiệp lành nhiều hơn nữa để có đầy đủ phước báo và để thường tạo duyên lành gặp lại những người lương thiện. Nếu làm được như thế thì dù có gặp lại những người mình không thích, chúng ta cũng sống vui vẻ, an lạc.

Hỏi: Tụng Chú Lăng Nghiêm có giảm được nghiệp chướng không ? Chú Lăng Nghiêm co nên tụng từ câu 421 trở xuống không ? Hay là phải tụng từ đầu ?

Ðáp: Chắc chắn sẽ giảm được nghiệp chướng nếu chuyên tâm thành ý tụng toàn bộ thần chú Thủ Lăng Nghiêm.

Hỏi: Chú Lăng Nghiêm, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Kim Cang, Kinh Pháp Hoa hoặc Chú Phật Ðảnh Tôn Thắng Ðà La Ni, kinh nào sẽ làm cho mau hết nghiệp chướng ?
Ðáp: Tất cả kinh chú đều giúp chúng ta mau tiêu trừ hết nghiệp chướng. Tuy nhiên, tùy theo căn cơ ý muốn của mỗi cá nhân, nếu cảm thấy có duyên lành với bộ kinh hay thần chú nào thì nên cố gắng trì tụng miên mật với tâm thành khẩn. Nếu hành trì như thế thì chắc chắn sẽ mau tiêu trừ nghiệp chướng và được cảm ứng.

Hỏi: Nghe nói là mỗi 6 tháng thì vận mạng sẽ thay đổi, có phải như vậy không ?
Ðáp: Không phải đợi đến 6 tháng vận mạng mới thay đổi. Vì sao? Vận mạng có thể thay đổi trong từng giây phút tùy theo nghiệp duyên phước báu của mỗi cá nhân. Ðiển hình, hơn ba ngàn người làm việc trong 2 tòa WTC đâu có ngờ trước được rằng 9/11/2001 là ngày cuối của đời họ. Nói chung, nếu thường tạo nghiệp lành thì vận mạng của mình luôn tốt lành. Ngược lại, nếu thường gieo những nhân xấu thì vận mạng của mình cũng xấu luôn.

Hỏi: Chiêm Tinh, Tử Vi là tà kiến nhưng sao lại rất đúnng khi nói về quá khứ của tôi. Vậy nghĩa là sao ? Có phải Ma biết tôi đọc Chiêm Tinh, Tử Vi nên khiến như vậy phải không ?
Ðáp: Có thể nói đúng, nhưng chưa hẳn là đúng 100%. Tuy nhiên, quá khứ đã qua, không thể nào trở lùi lại được, dù ma quỷ gì đi nữa. Cho nên dù gì đi nữa, phải bắt đầu lại và cố gắng sống với hiện tại thì cuộc đời mới có ý nghĩa nhiều hơn.

Hỏi: Làm tội gì mà thân thể không được đẹp như mình muốn ? Muốn sám hối thì phải làm sao ?
Ðáp: Trong kinh Nhân Quả Ba Ðời, đức Phật nói rõ nhân duyên có hình tướng đẹp hay xấu tùy theo nghiệp lành ác.
1/Ðui mù vì đời trước không chỉ đường rõ ràng.
2/ Môi miệng sứt thiếu vì đời trước thổi tắt đèn cúng Phật.
3/ Câm điếc vì đời trước dùng lời ác mắng nhiếc cha mẹ.
4/ Lưng gù vì đời trước chê cười người lạy Phật.
5/ Tay chân bị cong quẹo vì đời trước ngăn đường đánh đập, cướp đoạt của cải của người khác.
6/Lùn bé vì đời trước xem kinh rồi để xuống đất.
7/ Thân có mùi hôi vì đời trước bán hương thơm gian dối.
Nói chung, thân thể của mình có được ngày hôm nay không phải do ai ban cho mình, mà tự mình tạo đầy đủ phước báu. Ví dụ, nếu muốn có gương mặt hồng hào đẹp đẽ thì trong tâm phải có sự hoan hỷ tươi vui, buông xả mọi chấp trước, sẵn sàng giúp đỡ mọi người xung quanh. Hãy nhìn gương mặt của những ai đang cau có tức giận. Dù họ có xinh đẹp đến đâu đi nữa, ngay lúc họ nổi giận lên thì cũng không ai dám nhìn hay gần gũi họ.
Muốn chuyển thân nghiệp thì trước hết phải chuyển ý nghiệp, bằng cách thành tâm sám hối tất cả lỗi lầm mình đã lỡ tạo trong quá khứ, và tạo công đức lành để đền bù lại những tội lỗi đó. Có thể tụng kinh Thủy Sám, Lương Hoàng Sám để sám hối ý nghiệp của mình. Tạo công đức lành bằng cách bố thí, cúng dường, giúp đỡ người nghèo khổ, tàn tật, cô nhi, quả phụ.
Hỏi: Dựa theo giáo lý Tùy Duyên thì việc đi xuất gia, tìm Thầy học Ðạo, tìm chỗ ở để nương cho việc tu học có nên dùng lý Tùy Duyên hay không ? Làm thế nào để bước đầu của người mới phát tâm bồ đề không dễ bị thất bại và thối chuyển dễ dàng nếu không gặp thuận thắng duyên ?

Ðáp: Thuận thắng duyên là gì ? Nghịch duyên là gì ? Tùy duyên là gì ?
Thế nào là thuận duyên? Thế nào là nghịch duyên ? Thế nào là tùy duyên ?
Hỏi: Thầy có thể cho con biết phải tốn bao nhiêu tiền để ấn tống Kinh ? Ví dụ Kinh Thiện Ác Nhân Quả, Kinh Kim Cang.
Ðáp: Ấn tống kinh điển hoàn toàn tùy vào sự phát tâm của Phật tử. Có ít thì ấn tống ít. Có nhiều thì ấn tống nhiềụ Không nhất thiết là phải bao nhiêụ
Nhưng, phải biết là dù làm việc lành bao nhiêu, đừng có chấp trước, thí dụ như nghĩ rằng: "Ồ! Tôi sẽ có công đức, tôi sẽ có quả báo tốt hay tôi là người tốt bởi tôi làm việc thiện, giúp người." Nếu có tâm như vậy thì không tương ưng hay phù hợp với tự tánh thanh tịnh vốn có của mình. Mà nếu không phù hợp với tự tánh thì sự tu hành của mình không thể thành tựu được hay dạt đến cứu cánh được.
Phải xem sự làm việc lành chỉ là bổn phận hay giống như việc ăn cơm uống, rất bình thường.

Làm sao nếu trở lại làm người trong kiếp tới, không gặp lại những người đã gặp trong kiếp này ?

Hỏi: Tôi xin có câu hỏi, kính nhờ chỉ dạy, sự gặp gỡ nhau trong kiếp này là do có nhân duyên với nhau, tôi xin hỏi làm sao nếu trở lại làm người trong kiếp tới, không gặp lại những người đã gặp trong kiếp này ? Xin thành thật cảm ơn. Kính
Ðáp: Có lẽ vì một nhân duyên nào đó mà Ðạo Hữu không muốn gặp lại những người đã gặp trong kiếp này. Ðó là “Oán Tắng Hội Khổ”; nghĩa là buồn bực khi gặp lại những kẻ mình không ưa. Thế nên, trước khi trả lời làm sao để không gặp lại họ, thì xin thưa rằng lý do không bao giờ muốn gặp lại họ vì tâm hận thù ganh ghét của mình. Do đó, việc đầu tiên là chuyển hóa tâm hận thù của mình thành tâm từ bi hỷ xả; nghĩa là sẵn sàng tha thứ những lỗi lầm của họ đã lỡ phạm; đây là điều mà ai ai cũng mong muốn khi mình lỡ làm những gì sai trái.
Thứ hai, cũng chưa chắc là chúng ta sẽ gặp lại tất cả những ai mà mình đã và đang gặp trong hiện tại, vì mỗi người sẽ đi tái sanh tùy theo nghiệp lành hay xấu của mỗi cá nhân.
Nếu ai thường tạo nhiều nghiệp lành như giúp người, bố thí, cúng dường, thì chắc chắn sẽ tái sanh lại làm người hay làm chư thiên. Nếu ai thường gây những nghiệp xấu như giết hại, trộm cướp, tà dâm, lường gạt, cờ bạc rượu chè trác táng thì khó lòng mà tái sanh làm người trở lại, chỉ hướng xuống ba đường xấu như địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Chính bản thân của mình cũng không ra ngoài ngoại lệ lý nhân quả đó
Vì vậy, nếu chúng ta thường tạo nghiệp lành thiện thì đa phần sẽ gặp lại những người hiền lương. Ví dụ, một sinh viên nếu muốn học về ngành xã hội học thì thường xuyên tiếp xúc với các giáo sư cũng như những sinh viên khác trong ngành nghề. Nếu ai thích cờ bạc rượu chè thì tìm đến những quán Bar, tiệm rượu, casino, để nhậu nhẹt bên những canh bạc đỏ đen; đương nhiên là những thành phần mà họ gặp gỡ ở những nơi đó đa số là những thành phần bất hảo trong xã hội.
Tóm lại, thay vì không muốn gặp lại những người trong hiện tại, chúng ta hãy tự nhìn lại và chuyển hóa tâm sân hận của mình, tha thứ cho những lỗi lầm của họ, cũng như tích cực tạo nghiệp lành nhiều hơn nữa để có đầy đủ phước báo và để thường tạo duyên lành gặp lại những người lương thiện. Nếu làm được như thế thì dù có gặp lại những người mình không thích, chúng ta cũng sống vui vẻ, an lạc.

Monday, November 23, 2009

Điều Thiết Yếu Khi Niệm Phật

Pháp môn niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ nguyên là việc trọng đại liễu sanh thoát tử nên nói niệm Phật liễu sanh tử. Nay kẻ phát tâm vì muốn liễu sanh tử do đó mà niệm Phật.
Song nếu không biết gốc của sanh tử ở đâu thì tâm niệm hướng vào đâu mà tu? Nếu cái tâm dùng niệm Phật, không thể chặt phăng được gốc rễ sanh tử thì làm sao giải thoát tử sanh? Đâu là gốc sanh tử?
Cổ nhân dạy:
Nghiệp bất trọng bất sanh Ta Bà
Ái bất đoạn bất sanh Tịnh Độ.
Nghĩa là:
Nghiệp không nặng không sanh ở Ta Bà
Lòng yêu không dứt, không sanh Tịnh Độ.
Nên biết được ái dục là gốc rễ của sanh tử. Chúng sanh chịu khổ trong vòng luân hồi đều là do lòng ái dục mà ra. Truy cho cùng gốc ái dục thì nào phải chỉ mới có trong đời này, hay đã có từ 2, 3, 4 kiếp trước đâu. Nó đã có từ vô thỉ kiếp, khi sanh tử mới bắt đầu vậy. Đời đời kiếp kiếp, bỏ thân này sanh thân kia, đều do ái dục làm cho luân chuyển. Chỉ đến ngày nay, thử hỏi mình đã có một mảy may ý nghĩ tạm rời cái gốc rễ ái dục này chưa? Bởi cái hột giống, cái gốc rễ ái dục quá sâu dầy, nên sanh tử cứ vô cùng vô tận.
Nay phát tâm niệm Phật, chỉ đem lòng cầu sanh Tây Phương song le lại chẳng biết gốc sanh tử, tức là ái dục, do đó chưa từng có ý cắt đứt nó. Nếu không biết gốc rễ sanh tử, mà cứ một mặt niệm Phật thì cái gốc rễ sanh tử vẫn lớn mạnh. Như vậy thì niệm Phật và đoạn sanh tử chẳng hề dính dấp gì nhau! Thôi mặc các vị muốn niệm Phật làm sao thì niệm. Chỉ biết khi hấp hối gần chết, gốc rễ ái dục chình ình trước mắt! Lúc đó mới biết Phật chẳng giúp được. Sanh tâm oán hận rằng niệm Phật không linh nghiệm hối hận thì quá trễ rồi.
Cho nên tôi khuyên các vị niệm Phật, trước hết phải thấu rõ ái dục là gốc sanh tử. Nay niệm Phật cần mỗi niệm mỗi niệm đoạn trừ gốc rễ ái dục đó đi. Như ở nhà hằng ngày niệm Phật những chuyện mình mắt thấy tai nghe như con cái, cháu chắt, gia duyên, tài sản, công việc, làm ăn v.v…không có gì không là ái dục cả. Không có chuyện gì, không có ý nghĩ gì không là mầm móng sanh tử cả. Như thử toàn thân này chìm trong hầm lửa (ái dục) vậy. Mình chẳng ngờ rằng chính lúc niệm Phật, tâm mình chưa hề buông bỏ gốc rễ này đâu. Chính lúc niệm Phật mình chỉ lo niệm không khẩn thiết, chớ không biết rằng ái dục vẫn ngự trị lòng mình. Cho nên đó là niệm Phật ngoài da. Phật càng niệm ái dục càng tăng! Nếu ngay khi đối diện với con cái, công việc…mình có thể xoay ngược tâm lại, nhìn vào lòng mình, coi thử một tiếng niệm Phật này có thể địch lại với niệm ái dục kia chăng? Quả thật có thể chặt phăng niệm ái dục chăng? Nếu không đoạn được ái dục thì làm sao liễu sanh tử đây?
Bởi vì ái dục nhiều đời kiếp ăn sâu thành thói quen, mà mình chỉ mới phát tâm niệm Phật chưa lâu, rồi niệm cũng không khẩn thiết lắm cho nên công phu không có hiệu lực chi mấy. Bây giờ lúc còn sức mà mình không nắm đầu được ái dục, thì lúc hấp hối gần chết, nắm sao đặng nó! Cho nên tôi khuyên các vị niệm Phật rằng: Đầu tiên phải có tâm sanh tử cho khẩn thiết, phải ở nơi gốc của sanh tử mà chặt nó, ngay trong từng niệm từng niệm một. Như vậy thì mỗi niệm mỗi niệm mình đều liễu được sanh tử. Cần gì phải chờ đến ngày 30 tháng chạp mới dứt được sanh tử! Trễ quá đó! Cho nên nói:
Trước mắt mọi chuyện đều là sanh tử.
Trước mắt hiểu thấu, sanh tử là không.
Cứ mỗi niệm hết sức khẩn thiết như vậy, vung đao chặt đứt (gốc ái dục). Dụng tâm như vậy mà không thoát khỏi sanh tử thì chư Phật ắt là nói dối. Cho nên là kẻ tại gia hay xuất gia, cần biết cái tâm sanh tử thì mới đặng giải thoát sanh tử. Ngoài đây ra, còn pháp kỳ diệu nữa chăng?
 

Tu Ðạo Phải Ðoạn Dục Khử Ái

Tại sao chúng ta có phiền não? Bởi lòng tự tư (ích kỷ). Tại sao có tự tư? Bởi có dục tâm, mới tìm hết cách để giữ lấy nó, sợ nó đi mất. Nếu nó bị thương tổn thì sẽ phát ra nóng giận. Tại sao nóng giận? Chính là do vô minh và tình ái tác quái. Giả thử, không có vô minh, không có tình ái, thì tâm nóng giận sẽ chạy xa cả mười vạn tám ngàn dặm, muốn kiếm nó cũng kiếm không được.
Nếu có tình ái tất có tự tư. Có tâm tự tư rồi thì chẳng còn từ một thủ đoạn nào để tiến tới mục đích, thậm chí có thể hy sanh cả mạng sống mà không tiếc thân. Truy ra tận gốc là vì dục niệm. Nếu quả không có dục niệm, tất không có tâm tự tư. Không có tự tư thì không có phiền não.
Có phiền não, tất có sanh tử; nếu không có phiền não, thì không có sanh tử. Ý nghĩa này, ai ai cũng biết, có điều không thực hành mà thôi. Phải biết rằng, không có dục thì không có vô minh. Phá được vô minh thì pháp tánh hiển hiện. Chúng ta học Phật, đầu tiên là trừ vô minh, đoạn phiền não. Dụng công tới chỗ viên mãn thì chứng được giải thoát.
Tại sao chúng ta không có trí huệ? Bởi vì vô minh. Vô minh sanh ra dục, dục sanh ra tự tư, tự tư sanh ra phiền não. Tham cầu mà không được thì có phiền não, người đối với ta không tốt cũng là nguyên nhân của phiền não. Tại sao có phiền não ? Bởi có cái Ngã. Nếu quả là vô ngã, thì không có phiền não. Nếu có thể tới được chỗ không có vô minh, không có tự tư, thì phiền não sẽ biến mất. Quý vị tin hay không tin, cái lý nó là như vậy. Thiên kinh vạn điển, nói tới nói lui cũng chỉ có thế. Cho cái ngã không còn, phá cái vô minh, tiêu diệt cái dục, thì sẽ không có tự tư, không có phiền não, kiếm phiền não cũng không kiếm ra được. Tại sao? Bởi gốc gác của vấn đề đã được giải quyết.
Quý vị phải chú ý! Năm thứ dục, tài, sắc, danh, thực, thụy (ngủ), đều do vô minh và tình ái mang đến. Nếu như không có tình dục, ta sẽ thấy không có gì là trọng yếu. Bởi có tình dục nên mới cảm thấy cái này không tốt, cái kia cũng không tốt, cái gì cũng không đúng, đó chính là con quỷ tình dục nó tác quái. Nếu chúng ta hàng phục được quỷ tình dục này, thì chúng ta vào nhà của Như Lai một cách mau chóng, lên tòa Như Lai, mặc áo Như Lai và thuyết pháp Như Lai.

Vô Minh Là Căn Bản Của Sanh Tử
Vô minh tức là tham, sân, si, mạn, nghi. Năm thứ ác nghiệp nầy có thể khiến cho con người điên đảo đến phát cuồng.
1. Tâm tham: Là đối với cảnh thuận, chúng ta sẽ khởi lòng tham ái đến nỗi không có thì không được. Thậm chí có người vì muốn được mục đích của mình mà bất chấp các thủ đoạn, bằng không họ chẳng cam lòng.
2. Tâm sân: Là khi gặp cảnh nghịch, chúng ta sẽ giận hờn và nổi nóng, như không chửi người thì cũng đánh người, thậm chí còn giết hại người nữa. Đó đều là do tâm sân hận tác quái, nó khiến con người mất cả lý trí và ý chí xử sự mọi việc. Người có tâm như thế, ắt sẽ làm cho xã hội chẳng được an ninh, trật tự.
3. Tâm si: Là người không có trí huệ, không biết phải trái, cũng không phân biệt được thiện ác, cho nên hồ đồ điên đảo, hậu quả là thành kẻ bất lương, tạo nhiều nghiệp tội.
4. Tâm mạn: Là tự đề cao mình và đè ép người khác. Tự cho chuyện gì mình cũng hay hơn, nổi bậc hơn người. Thứ hành vi cống cao ngã mạn nầy là điều tối kỵ, chúng ta không nên có.
5. Tâm nghi: Là người đối với việc chánh đáng lại sanh lòng hoài nghi, không tin lời nói của bất cứ ai. Người có thứ tâm lý như vậy là bất thường, là sai lầm vì đã tự hạ thấp mình.
Năm loại tâm lý nầy đều là không bình thường, đều là do cái nhân vô minh dẫn đến. Người tu hành nhất định phải tiêu diệt vô minh, đừng để nó gây sóng gió thành tai họa vô cùng tận như vậy.
Vô minh khiến cho kẻ phàm phu chỉ biết dụng công vào mấy thứ tình dục. Họ nghĩ rằng chuyện tình ái ở thế gian là thật, cho nên họ không thể xa rời và cũng không nỡ buông bỏ nó. Do đó họ gắn bó với lục thân quyến thuộc một cách rối ren mà buông xả không đành. Rồi họ tạo ra biết bao thiện ác lẫn lộn, họ cũng không phân biệt được giữa ô nhiễm và thanh tịnh. Đời đời kiếp kiếp, họ cứ quay quanh trong vòng sanh tử luân hồi, vĩnh viễn không bao giờ ngừng. Cho nên nói vô minh là căn bản của sanh tử.
Người tu hành không có mấy thứ rắc rối đó đè nặng trong tâm, cho nên họ dễ được thanh tịnh, giải thoát và hết sanh tử. Nếu không cắt đứt vô minh, chúng ta vĩnh viễn sẽ bị nó chi phối, để rồi xuống địa ngục, chạy lên núi đao, hay là vào chảo dầu sôi. Lúc bấy giờ, chúng ta sẽ hối hận là lúc đầu sao mình không chịu tu hành tinh tấn. Nhưng rất tiếc là đã không còn kịp nữa.
Tôi xin khuyên quý vị nên tu hành cho kịp thời, đừng có tưởng là ngày tháng còn dài mà hẹn lần, hẹn lựa.
Bậc cổ đức có nói: “Đừng đợi đến già mới học đạo, mồ lẻ loi lắm kẻ thiếu niên.” Học đạo được một ngày là gần được Tịnh Độ thêm một chút. Như vậy từng chút từng chút, quý vị sẽ đến được cõi Tịnh Độ. Nếu quý vị không chuyên cần tu đạo mà lại muốn đến Tịnh Độ, thì sẽ không đến được đâu! Công việc trên đời, dù chúng ta có lãng phí thời gian để làm, rốt cuộc cũng chẳng được lợi ích gì. Nhưng chỉ có pháp môn tu hành là không lãng phí thời gian. Nếu quý vị tu được một phút thì được một phút lợi lạc. Cho nên nói: “Gom cát thành tháp,” tức là từng bước, từng bước không ngừng tiến tới, tự nhiên quý vị sẽ đến được bờ bên kia.
Giảng ngày 5 tháng 7 năm 1984
 
 
Giữ Miệng Phòng Tâm

Cổ đức có câu: "Thiện ác lưỡng điều đạo, tu đích tu, tạo đích tạo" (thiện ác hai con đường, đường tu và đường tạo). Ðiều này nói ra hoàn toàn xác đáng. Tu cái gì? Tu đường thiện. Tạo cái gì? Tạo nghiệp ác. Thiện tri thức cảnh giác chúng ta mà không bao giờ chán, có điều chúng ta ngu si, không biết lãnh giáo những điều ngay, cứ việc ta ta làm, chỉ biết lợi cho mình mà không nghĩ lợi cho người khác và, nói cách khác là chỉ biết tạo nghiệp ác, không tu thiện, cho nên không thể nào ra khỏi sáu nẻo trong vòng luân hồi.
Ý nghĩ của chúng ta kể ra thì vô lượng, vô biên, vô cùng tận. Niệm thì chạy lên thiên đàng, niệm thì xuống địa ngục. Vọng tưởng về thiện tức thuộc phạm vị thiên đàng, vọng tưởng về ác thì thuộc về địa ngục, do đó, chúng ta nhất cử nhất động, một lời nói một công việc làm, lúc nào cũng phải thận trọng, từng giờ từng khắc lưu tâm, đâu đâu cũng phải chú ý, trong ngoài như một.
Trông bề ngoài thì hành động rất tốt, nhưng bên trong thì đầy vọng tưởng, cái đó cũng không mang lại kết quả. Phải làm sao cho trong ngoài như một, không chạy theo vọng tưởng mới được. Có những người trong tâm thì đầy vọng tưởng, nghĩ rằng người ngoài không ai biết, rồi cứ như vậy ngày ngày vọng tưởng, cho đến khi xuống địa ngục cũng mang theo, mà chính mình thì không biết tại sao đọa địa ngục. Những hạng người như vậy thật đáng thương!
Chúng ta là người tu học, ở chung phải giữ miệng. Ðại chúng ở chung một nơi, phải đề phòng chuyện thị phi. Có câu nói rất chí lý: "Họa tòng khẩu xuất, bệnh tòng khẩu nhập." Nghĩa là họa do bởi lời từ miệng thốt ra, bệnh cũng do từ miệng mang vào. Chúng ta không nên bạ đâu nói đấy, cố tránh chuyện phiền phức, giữ miệng cho kín là tốt hơn cả. Lại có câu: "Thị phi chỉ vì hay mở miệng, phiền não đều do cưỡng xuất đầu." Ðộc tọa phòng tâm, nghĩa là khi ngồi một mình chúng ta phải cẩn thận đề phòng tâm ý, chớ theo vọng tưởng, nhất là các tư tưởng về dâm dục. Người xuất gia càng phải đặc biệt chú ý, quản lý kỹ càng cái tâm, không cho những tư tưởng vô ích đến quấy nhiễu.
Vọng tưởng thì ai ai cũng có, nhưng khi đã khởi vọng tưởng thì ta phải vận dụng các phương cách để khống chế, không cho vọng tưởng làm mưa làm gió. Những phương cách đó là hoặc ta niệm Phật, hoặc ta trì chú, hoặc giả ngồi thiền, bái sám, tóm lại kiếm một cái gì khác để làm, sao cho tinh thần tập trung lại thì sẽ không có vọng tưởng.
Người tu đạo, thứ nhất phải phá được cánh cửa sắc dục. Nếu không phá được nó thì không có hy vọng tu tập thành công. Cả ngày mà đầu óc hồ đồ, tâm điên đảo, cũng không thành công. Cho nên tôi thực thà nhắn quý vị là chúng ta phải hàng phục cái tâm này. Hàng phục tâm chính là dứt cái niệm dâm dục. Nếu không đoạn trừ được nó thì dù tu cho đến tám vạn đại kiếp cũng chẳng khác gì nấu cát để hòng có cơm ăn, xưa nay chẳng có chuyện đó bao giờ.
Các vị có muốn tu thành quả thánh vô lậu không? Ðoạn dục cắt ái, thanh tâm quả dục, thì còn có chút hy vọng, nếu không, không hy vọng gì, tốt hơn là mau mau hoàn tục kẻo lãng phí thời gian!
Bất kể là phái nam hay phái nữ, hoặc giả là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, là người già hay trẻ nít, ai nói đạo lý chánh đáng thì ta nghe, ai nói không chánh đáng thì đừng có tin, chúng ta nhất định phải có con mắt chọn pháp (trạch pháp nhãn). Hợp đạo lý thì đi tới, không hợp đạo lý thì rút lui; chọn điều thiện mà theo, bất thiện thì sửa đổi, đó là quan điểm hết sức cơ bản của người tu.
Có người biết rõ lỗi của mình mà không sửa đổi, biết mà vẫn làm quấy. Những hạng người này rất khó giáo hóa, họ chẳng kham nổi Phật pháp, chẳng thể học gì thêm. Người ta nói: "Gỗ mục khó đẽo gọt, tường bằng phân khó trét," nếu chính mình không tự giúp cho mình, tự mình coi thường mình, thì ai còn coi trọng mình, ai còn giúp đỡ mình nữa? Ðó là điều cần phải tự xét cho kỹ.

BÍ QUYẾT TU ÐẠO: TIẾT THỰC, QUẢ DỤC

(Vạn Phật Thành ngày 9 tháng 5 năm 1982)

Thế giới có thành, trụ, hoại, không; loài người có sinh, lão, bịnh, tử; đó là đạo lý tự nhiên. Các vị nên hiểu rõ đạo lý này: thành tức rồi sẽ trụ, rồi sẽ hoại, rồi sẽ không; sinh rồi sẽ già, rồi sẽ bịnh, rồi sẽ chết. Nếu chẳng có thành thì chẳng có trụ, chẳng có hoại, chẳng có không; nếu không có sinh thì cũng không có lão, không có bịnh, không có tử.
Song nếu ta dùng vọng tưởng chấp trước để phân biệt chuyện này, thì dù phân biệt đến hết mấy đại kiếp cũng không phân biệt rõ ràng đặng. Phân biệt bao nhiêu cũng là hồ đồ. Vừa mới hiểu rõ được một chút thì lại hồ đồ, thế nên ở mãi trong vòng luân hồi không thoát ra được. Nếu muốn thoát luân hồi phải đả phá cái đạo lộ si mê vọng tưởng này thì tu hành mới thành Ðạo, chứng ngộ bổn lai Phật quả, xưa nay vốn chẳng đi chẳng đến, chẳng dơ chẳng sạch, cũng không tăng không giảm, cũng không sinh không diệt, chẳng có gì là âu sầu phiền não. Tất cả những thứ Ngũ trược, Lục trược đều chẳng có. Song loài người không biết buông bỏ cái giả, nên không nắm được cái chân thật; nên nói rằng:
"Xả bất liễu giả,
Thành bất liễu chân;
Xả bất liễu tử,
Hoán bất liễu sanh".
Dịch là:
"Không vất bỏ cái giả
Sao có đặng cái thật;
Không buông xả cái chết
Sao đổi thành cái sống?"
Nếu không kiềm chế tánh hư vọng cuồng dại thì trí huệ chân chính không bao giờ xuất hiện được. Tự tánh bị che đậy bởi vô minh. Vô minh có hai kẻ giúp đỡ, có hai tên làm kế hoạch. Bọn chúng là gì? Thứ nhất là thức ăn, thứ hai là sắc đẹp; một cái gọi là thực dục, một cái gọi là sắc dục! Hai thứ này giúp đỡ cho vô minh làm đủ thứ chuyện xấu, cho nên sách Nho có nói rằng: "Thực, sắc tánh dã." Nghiãờ là háo ăn, háo sắc đều là bản tánh của chúng sinh vậy. Song, mình phải biết tại sao vô minh chẳng phá đặng? Tại sao phiền não cũng không đoạn được? Trí huệ tại sao chẳng hiện? Ðó chính là do mình có lòng tham ăn, lòng háo sắc!
Ăn uống thì trợ giúp cho dục vọng, dục vọng lại làm tăng trưởng vô minh. Con người sinh ra thì biết ăn, con nít sinh ra là biết uống sữa. Không có sữa thì nó khóc, uống rồi lại muốn thêm nữa. Ðúng vậy! Lòng tham này mới sinh ra đã có, sau khi có lòng tham ăn rồi thì sinh ra lòng tham sắc. Con trai thì ham nữ sắc, con gái thì ham nam sắc, quyến luyến nhau, ham muốn không chịu buông bỏ, không thể nhìn suốt được. Ăn uống bao nhiêu thứ tinh hoa đều biến thành tinh. Hễ tinh mà sung mãn thì sinh ra lòng sắc dục, cho nên người xưa nói rằng: "Bão noãn tư dâm dục, Cơ hàn khởi đạo tâm." (No ấm thì nghĩ chuyện dâm dục, Ðói lạnh mới khởi lòng trộm cắp.) Khi ăn no rồi, con trai nghĩ đến con gái, con gái thì nghĩ đến con trai, chỉ có khởi dục niệm này. Khi nghèo thì nghĩ cách trộm cắp, cũng vì để có đồ mà ăn, ăn rồi tình dục lại khởi lên. Thế nên hễ ăn cho đủ chất dinh dưỡng, mập mạp phì nộn rồi thì lại chỉ khởi lòng dâm. Con người trước tiên là khởi lòng tham ăn, muốn ăn thật ngon miệng, muốn ăn để thân thể cường tráng. Song ăn ít thì không đủ, mà ăn nhiều làm sao thỏa mãn được lòng tham? Cho nên người ta chết vì sắc, vì thực. Nếu vô minh không có thực và sắc toa rập thì chẳng có thể tác hại được ai.
Người xuất gia ăn đồ càng dở càng tốt, không có dinh dưỡng thì lại càng tốt nữa. Thế nên đối với vấn đề ăn uống đừng có quá coi trọng. Ăn là để duy trì mạng sống mà hành Ðạo; không cần phải có quá nhiều chất dinh dưỡng nhưng cũng không ăn những đồ hư hoại, khiến cho cơ thể sinh bịnh; đó là thực hành Trung Ðạo.
Tôi rất cảm phục một người ở Ðài Loan, vị đó tức là Thủy Quả Hòa Thượng, (5) Ngài không ham tiền cũng không ham sắc. Ngài chẳng thèm nhìn đến những phẩm vật người ta cúng dường Ngài. Ðó là việc mà kẻ phàm phu không làm được, bởi vì không ai có thể buông bỏ được lòng tham, thậm chí còn coi tiền tài như tánh mạng. Nhưng Ngài thì rất thanh thoát, coi nhẹ tiền tài, lễ vật chất đống một chỗ ai muốn lấy gì thì lấy, Ngài không để ý tới, và để cho đồ đệ muốn ăn cắp bao nhiêu tiền cũng được (những kẻ ăn cắp sau này đều hoàn tục). Các vị thấy đó, phải chăng sau đó Ngài đã quản lý tiền một cách chặt chẽ hơn? Không phải vậy đâu! Không những Ngài không quản lý tiền bạc, mà ngay đến nhìn, Ngài cũng không thèm nhìn nữa. Các vị coi Ðịnh lực của Ngài cao như thế nào! Ngài chỉ ăn trái cây, đậu phụng, không ăn những thức nào có mùi vị hay đồ nấu, xào, luộc. Bởi vì Ngài không nhập theo sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, cho nên chứng được Sơ Quả A La Hán. Ngài tu hành cảm ứng rất lớn nên Ngài thường bảo hộ Ðài Loan này. Có người nhận ra được Ngài là ai, nhưng cũng có người chẳng biết được đức hạnh của Ngài, do đó nhục mạ Ngài, gọi Ngài là "Á Dương Tăng" (ông thầy ngu dốt).
Năm nay thân thể Ngài yếu đi nên Ngài chỉ ăn một chút cháo, song có kẻ lại phỉ báng, nói rằng Ngài đọa lạc rồi. Kỳ thật, những người đó không hiểu được và họ đã sai lầm. Ăn hay không ăn cháo là chuyện của Ngài, tại sao phải tìm cách xoi mói Ngài? Nếu như ai ai cũng tu hành như Lão Hòa Thượng Thủy Quả, chẳng tham chẳng nhiễm, thì Phật Giáo nhất định ngày càng sáng tỏ và phát triển, Chánh Pháp sẽ trụ thế. Ngài đã làm tôi hết sức hoan hỷ, là vị đồng tu đồng Ðạo, hợp với tôi lắm vậy.
Không thể nói rằng tất cả ở Vạn Phật Thành đều tốt đẹp, đều là Phật Pháp cả. Song mọi người ở đây đều y chiếu Phật Pháp mà thi hành, không chú trọng đến chuyện ăn ngon, mặc đẹp, ở tốt; họ chỉ chú trọng làm sao duy trì cái thân Tứ Ðại giả hợp này để sống là đủ rồi. Nhu yếu của chúng ta là Pháp, là mùi vị Pháp Vô thượng. Thế nên mỗi ngày ở Vạn Phật Thành đều có giảng Kinh thuyết Pháp. Lúc nghe Kinh thì cần phải dũng mãnh tinh tấn, hết lòng mà nghe giảng Kinh Hoa Nghiêm, đừng lười biếng. Các vị nghe giảng Kinh không phải vì Sư Phụ, mà nghe là vì mình mà nghe. Nếu các vị chuyện gì cũng biết thì không cần phải nghe, song không phải chuyện gì các vị cũng biết cả. Những điều mình biết là thứ Thế Trí Biện Thông, thứ thông minh có thể biện biệt, thấu đạt chuyện đời của kẻ phàm phu. Học Phật Pháp tức là vì mình mà học, không phải là vì Sư Phụ hay là vì người khác mà học. Các vị hãy ghi nhớ, đừng để cho thời gian trôi qua vô ích, rồi sau đó có hối tiếc thì đã trễ.

Tham Hưởng Thọ Thì Cần Gì Xuất Gia

Ðừng cố tình nói dối, đừng làm những chuyện như "bịt tai mà ăn cắp chuông."

Người xuất gia nhất định phải có một nền tảng tu hành cho vững vàng. Nền tảng vững vàng là gì? Tức là nghiêm thủ giới luật. Người xuất gia phải cần học thuộc lòng "Tứ Phân Luận" tức là Luật Sa-di, Luật Tỳ-kheo, Luật Tỳ-kheo-ni, Kinh Phạm Võng, v.v... rồi nghiên cứu tường tận, thì mới đủ tư cách làm người xuất gia.
Nếu nền tảng không vững vàng, suốt ngày hết nghĩ đến tiền bạc lại nghĩ đến sắc dục thì "thân tuy xuất gia, nhưng tâm không nhập đạo." Như thế thì xa cách đạo trăm ngàn dặm. Những người xuất gia nầy ở trong Phật-giáo làm chuyện bại hoại, không thể thừa nhận họ là người xuất gia đặng.
Người xuất gia không được đi phan duyên cái nầy, đi phan duyên cái khác, cũng không được đơn độc đi ở một ngôi chùa nhỏ, kêu cư sĩ lại hộ pháp. Ðơn độc tiếp thọ đồ cúng dường, hành vi như vậy không hợp với qui luật của đức Phật chế định. Nếu như mình có những hành vi nầy, thì phải mau mau sửa đổi, bởi vì:
Thí chủ nhất lạp mễ, trọng nhược Tu Di Sơn.
Thực liễu bất tu Ðạo, bì mao đãi giác hoàn.
Nghĩa là:
Hạt gạo thí chủ cho, nặng bằng núi Tu Di.
Ăn xong chẳng tu Ðạo, đeo sừng, đội lông trả.
Thuở xưa người chân chính tu đạo, ở nhà tranh, tự mình cày ruộng, tự mình ăn; tuyệt đối không nhờ vào ngoại duyên. Vì mục đích diệt lòng tham, nên họ ở nhà lá mà tu hành. Hoặc giả họ bế quan, vì muốn làm cho học vấn và đạo đức mình được chắc thật. Nếu như chân chính tu Ðạo, thì có thể ở một mình đơn độc, nhưng không thể đơn độc tiếp thọ sự cúng dường của cư sĩ. Làm vậy là đem Chính-pháp biến thành Mạt-pháp, cũng là phá hoại Phật-giáo.
Hiện tại người tu hành thích đơn độc tu ở nơi tịnh xá. Tại sao vậy? Bởi vì nếu họ không giữ giới luật thì chẳng có người nào thấy, phạm qui củ cũng không có ai biết được, có thể tùy tâm sở dục, muốn làm gì, chẳng có ai quản thúc, được tự do tự tại, có thể nói rằng không có ràng buộc gì cả. Hoặc giả có kẻ khác thì ở trong tịnh xá của mình chiêu tập một số cư sĩ, lại nói là làm pháp này hội nọ, nhưng thực tế chỉ là mượn áo nhà Phật, nhờ vào danh Phật để kiếm miếng ăn mà thôi.
Có những người xuất gia, không dùng tiền cúng dường của cư sĩ vào những việc Phật sự, ngược lại lợi dụng tiền đó đi mua những vật xa xỉ, xe hơi, làm những điều ích lợi riêng tư. Hoặc giả là mua T.V., rồi ngày ngày coi T.V., quên lãng cả việc tụng kinh sớm tối. Hoặc giả là mua tủ lạnh để chứa những thức ngon vật lạ. Nói tóm lại, họ đắm trước sự hưởng thụ, tham đồ vật, tham sung sướng. Phong khí hiện tại chính thật là như vậy. Họ đem tính chất khổ hạnh của Phật-giáo hoàn toàn biến cải, thật là cô phụ sự khổ tâm của Ðức Thích Ca Mâu Ni Phật xưa kia vậy!
Có người nói: "Sinh ra trong thời đại nầy, mình cần phải coi T.V., cần phải biết tin tức quốc tế, nếu không thì là đui mù, câm điếc không biết gì cả." Bạn biết những chuyện ngoài đời rồi thì sao? Biết được chuyện ngoài đời, đến lúc chết có tránh được chăng?
Có người lại nói: "Người tu hành có thể tránh được cái chết hay sao?" Bạn tu hành, tới khi chết cũng phải chết, song trước khi chết tâm mình sáng suốt, tuyệt đối không phiền não, không rối ren, an nhiên mà chết. Nếu mình không tu hành, tới lúc chết thì cũng chết vậy; nhưng chết một cách hồ đồ, mơ màng, mê muội. Không nhớ nam, cũng nhớ bắc, lòng không thanh tịnh, ôm hận mà chết. Ðó là chỗ khác biệt, quý-vị có biết chăng?
Ðối với người tu hành chân chính, lúc chết tâm họ rất sáng suốt, biết mình từ đâu tới và sẽ đi về đâu; rõ ràng không có mơ hồ gì cả, không quên đi bản lai diện mục của mình. Người không tu hành lúc tới thì mơ màng, khi đi thì lại càng hồ đồ, cả một đời mê muội. Họ không biết gì lý do gì mình tới, rồi vì sao đi. Cũng không biết từ đâu lại, rồi đi về đâu. Hoàn toàn mù mịt.
Mục đích xuất gia là liễu sinh thoát tử, không phải vì hưởng thụ. Nên khi đã đi tu rồi cần gì tham lam vật chất hưởng thụ? Có lòng tham hưởng thụ thì cần gì xuất gia? Tôi chủ trương rằng bất luận ai muốn đơn độc trụ một ngôi chùa nhỏ để tìm cách hưởng thụ, thì chi bằng hoàn tục cho rồi. Bởi vì sao? Bởi vì hoàn tục so với đơn độc trụ một chùa nhỏ tốt hơn nhiều, không tạo nên những tội nghiệp vừa kể. Ðiểm đó hy vọng quý-vị đại chúng chú ý.
Nói rằng người tu hành đơn độc trụ nơi một chùa nhỏ mục đích không phải là để tu hành mà tại tham đồ hưởng thụ cúng dường, câu nói đó nhất định có nhiều người không muốn nghe. Tôi không cần biết quý-vị có muốn nghe hay không, tôi vẫn nói vì nghĩ đến tiền đồ của Phật-giáo. Nên chi nói ra, khiến người khác khó chịu. Thêm một lần nữa: "Phàm là người xuất gia thích hưởng thụ, không có sự tu trì, thì bất quá chỉ đội lốt thầy tu thôi." Hy vọng các đạo hữu khuyến khích lẫn nhau, nhắc nhở lẫn nhau, đừng cố tình nói dối, đừng làm chuyện như "Bịt tai mà ăn cắp chuông." Lấy vải thưa che mắt thánh.
Giảng ngày 11 tháng 11 năm 1983

Si Ái Triền Miên


Sự tai hại nhất trên đời là ái tình sâu đậm.
Việc cao thượng nhất là tu đạo thanh tịnh.

Hai gốc cậy hiện được lưu giữ tại Vô Ngôn Đường VPTT
Quý-vị xem gốc cây nầy gồm có hai nhánh, song đôi hợp thành một, nhánh trên nhánh dưới kết hợp với nhau, quý-vị biết đó là gì không? Ðây là do vô lượng kiếp về trước có một đôi nam nữ thương yêu nhau rất sâu đậm. Hai người đó phát nguyện rằng: "Tại thiên, nguyện tác tỷ dực điểu. Tại địa, nguyện vị liên lý chi." Nghĩa là nếu sinh lên trời thì làm đôi uyên ương hai cánh liền nhau, nếu sinh dưới đất thì nguyện làm gốc cây liền cành. Ðôi nam nữ nầy rất chung tình, nên kết làm vợ chồng. Cả hai người có một sở thích giống nhau, đó là: ham tiền. Người đàn ông thì thí mạng để kiếm tiền, người đàn bà thì thích phung phí tiền, cho nên có qua có lại hết sức hợp tình hợp ý.
Tuy nhiên, bởi vì yêu nhau quá đậm đà nên tạo ra tội nghiệp cũng hết sức sâu dầy. Ðời đời kiếp kiếp sinh ra trầm luân, đọa lạc vào đường súc sanh, trở thành ngạ quỷ, cuối cùng đọa địa ngục. Ðến nay đôi vợ chồng nầy biến thành thảo mộc. Gốc cây nầy đáng lẽ gồm có hai nhánh, nhưng nó lại sinh trưởng cùng một chỗ, nên mãi mãi ràng buộc với nhau không xa lìa. Quý-vị thấy không, nhánh bên trái bao quanh lấy nhánh bên phải, nhánh bên phải cũng nhào sang ôm lấy nhánh bên trái, giống như đàn ông đàn bà hai người ôm nhau vậy. Ðó mới thấy rằng đôi nam nữ nầy tập khí ái tình si mê, hạ liệt bao kiếp rất sâu đậm. Ngày nay chúng thành loại thảo mộc mà cũng không bỏ được lòng si ái đó. Ở giữa hai gốc nầy có một cục đá, mà hai người nầy quý như châu báu. Cục đá đó là gì? Nguyên lai nó là trương mục ngân hàng của hai vị đó trong tiền kiếp.
Mấy năm trước có lần chúng tôi vào thành thuyết Pháp. Khi đi ngang qua bờ sông thấy gốc cây nầy, liền nhặt đem về. Quý-vị nhìn xem: đầu gốc cây nầy bị chặt đứt, rễ cũng bị chặt mất luôn, lộ ra hai nhánh rất khô cằn, song hai nhánh cây nầy vẫn triền miên ôm chặt lấy nhau. Quý-vị không thấy đó đáng thương xót sao?
Như vậy đủ thấy rằng tình yêu càng sâu đậm thì càng nguy hiểm. Ðây không phải là chuyện nói chơi nói giỡn đâu. Có người trong bụng nghĩ rằng: "Thầy ơi! Thầy nói Pháp này tôi không thể tin được, bởi vì nó không có chứng minh, không hợp lý. Ðại khái Thầy muốn dọa con nít, nói lời chiêm bao thôi." Tin hay không là do quý-vị, tôi không có cách nào làm quý-vị tin được bởi vì đây là Pháp rất khó nói, khó thuyết. Người đã mê luyến ái thì dù mình có nói cách nào đi nữa họ vẫn không thức tỉnh, không chấp nhận được. Sự tai hại nhất trên đời là ái tình sâu đậm. Việc cao thượng nhất là tu đạo thanh tịnh. Không phải người ta không biết lý ấy; biết nhưng cố phạm là vì chẳng cách gì dứt bỏ thói quen đã làm trong nhiều kiếp trước.
Tục ngữ Trung Hoa có câu rằng: "Khi tay đã cầm cây củi khô rồi, thì y khó chịu bỏ ra để đổi lấy cành hoa." Ðó là muốn ví dụ những người luôn luôn chấp trước vào tình yêu. Nếu mình nói với họ rằng, hãy bỏ đi những thứ luyến ái đó để tu Ðạo là điều quý hơn, chắc chắn họ sẽ cố chấp không muốn quay đầu lại. Rằng:
Thiên vũ tuy khoan, nan nhuận vô căn chi thảo.
Phật môn tuy quảng, nan độ bất tín chi nhân.
Nghĩa là:
Trời mưa rưới nước khắp nơi, song khó tươi nhuận cây cỏ không gốc.
Cửa Phật tuy rộng thênh thang, mà vẫn khó độ kẻ chẳng lòng tin.
Tôi đã bảo tồn gốc cây nầy lâu năm rồi. Có nhiều người tôi không muốn cho họ thấy bởi vì có nói pháp nầy cho họ, họ cũng chẳng tin. Tôi phải chờ cho thời điểm chín mùi rồi tôi mới nói. Ngày 24 tháng 10, quý-vị từ khắp nơi xa xôi đến đây để triều bái, tôi đem gốc cây nầy ra Vạn Phật Ðiện. Tuy nhiên cho đến ba tuần sau tôi mới nói là vì nếu không nói thì e chẳng còn thời gian nữa; nên bất kể là quý-vị có tin hay không, tôi cứ kể nhân duyên của gốc cây nầy cho quý-vị nghe.
Giảng tối ngày 12 tháng 11, năm 1982
tại Vạn Phật Thánh Thành
 

 

Tình Ái và Dục Vọng là Tảng Ðá Buộc Chân Người Tu Ðạo

Cho đến hơi thở cuối cùng, cũng nên đối xử tốt với mọi người, nhưng đừng để tình ái xen vào.

Trong nghiệp sinh tử, tình ái và dục vọng là gốc chướng Ðạo. Là người tu Ðạo, bất luận đối với người hoặc đồ vật, nếu sinh ra lòng ái dục thì sẽ chướng ngại sự tu hành, làm mình không phát triển được. Nói một cách rõ ràng hơn, ái dục là sinh tử, sinh tử chính là ái dục. Ái dục là nguồn gốc của sinh tử. Nếu không phá vỡ tình ái dục vọng vô minh, thì mình sẽ không thể ra khỏi biển lớn sinh tử. Làm sao để thoát sinh tử? Rất giản dị, chỉ cần "đoạn dục khử ái," nghĩa là dứt dục vọng, trừ ái tình, chẳng cách nào khác hơn.
Người tu Ðạo đừng nên suy nghĩ về tình ái dâm dục, càng không nên có hành vi yêu đương. Ðối với bất cứ người nào, không nên sinh lòng yêu đương; hễ có lòng yêu đương thì gốc khổ không thể tránh được; vì có lòng yêu đương thì khó thoát vòng sinh tử.
Có người nói: "Con người là động vật có tình cảm, chuyện ăn uống và dâm dục là việc tự nhiên." Chính bởi vì nhân duyên đó, nên cần phải tu Ðạo. Trong Kinh Tứ-Thập-Nhị-Chương có dạy rằng:
Mình xem những người già như mẹ mình, những người lớn tuổi như chị, những cô trẻ là em và những đứa nhỏ là con. Hãy Sinh ra lòng độ thoát họ và diệt trừ những niệm ác.
Là kẻ tu đạo mình phải luôn luôn quán tưởng như vậy. Nếu quả không có ái, phải chăng khi gặp người khác mình cứ ngậm miệng chẳng để ý đến họ? Không đúng! Mình không chấp trước vào tình ái, không sinh lòng yêu đương, nhưng không sinh ra lòng ruồng ghét kẻ khác, cũng không thể nói rằng: "Bởi vì tôi không thương người ta nên tôi phải ghét họ." Ðó là điều sai lầm. Như vậy thì thế nào là đúng? Tức là không thương mà cũng chẳng ghét ai. Không thương, không ghét chính là Trung-đạo.
Tu hành là tu cái gì? Chính là tu pháp Trung-đạo. Ðối đãi với người mình luôn luôn bình đẳng, dùng tâm từ bi; nhưng phải luôn cẩn thận, chớ để rớt vào cạm bẫy ái tình.
Quý-vị nên chú ý! Ðừng nên bị tình ái làm cho mê hoặc. Nếu có người gởi cho quý-vị phong thơ tình, quý-vị cảm thấy lòng mình vui mừng, giống như có con thỏ nhảy nhót, con tim hết sức hoan hỉ, cho rằng hễ có kẻ yêu mình, là chuyện tốt. Sự thật là người yêu quý-vị chỉ muốn kéo quý-vị đọa lạc mà thôi.
Quý-vị thiện-tri-thức nên tựa vào chỗ này mà dụng công phu, phải thật sự hiểu rằng: "Ái tình là thứ phiền hà vô cùng." Từ vô lượng kiếp tới nay, sở dĩ sanh tử không thể chấm dứt được là vì sao? Chính là bị hai chữ "ái tình" làm hại. Nếu như mình có thể "đoạn dục khử ái" thì mới có thể siêu thoát Tam-giới, không còn sanh tử nữa.
Thứ mình thích thì mình yêu, không thích thì ghét bỏ. Hễ khi thích, tức là mình đã sinh lòng yêu thương. Hễ khi ghét lòng mình sinh ra sự ghét hận. Cả hai thứ, yêu, ghét đều là do tình cảm mà có. Người tu hành xử lý sự việc không dựa vào tình cảm. Tuy nhiên cũng không thể giống như ông Quan Công, ngồi chễm chệ trên bàn xử lý, người ta đảnh lễ, ông cũng không thèm nhìn tới. Ðối với người, mình phải có sự hòa nhã, lễ độ, không nên cống cao, ngạo mạn, coi thường kẻ khác.
Tóm lại, đối với người khác mình phải có lòng từ bi, tìm phương tiện giúp đỡ họ. Lúc nào cũng nên nghĩ đến người khác và khiến họ sinh lòng hoan hỉ. Cho đến hơi thở cuối cùng, cũng nên đối xử tốt với mọi người, nhưng đừng để tình ái xen vào. Các vị nhớ lấy! Ðó là pháp môn vô cùng trọng yếu.
 

Sunday, November 22, 2009

Bồ Tát Quán Âm Đến Thánh Thành

Hôm nay là bắt đầu mùa xuân Quán Âm thất. Tôi hy vọng quý vị đem hết tâm chân thành của mình mà chí thành khẩn thiết niệm thánh hiệu “Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.” Chẳng những miệng niệm mà tâm cũng phải niệm. Tâm khẩu tương ưng sẽ tạo thành một khối, tự nhiên cảnh giới cảm ứng sẽ hiện tiền. Quý vị hãy chú ý! Có tâm là vọng tưởng, vô tâm là cảm ứng vậy.
Chúng ta tuy không thể từ Vạn Phật Thánh Thành, ba bước một lạy đến đạo tràng Quán Âm Bồ Tát ở Phổ Đà Sơn. Nhưng nếu chúng ta có thể niệm với lòng chân thành thì cũng giống y như thế, là sẽ cảm ứng được Bồ Tát Quán Âm đến gia trì, khiến cho chúng ta khai ngộ và được đại trí huệ.
Tục ngữ nói: “Ông tu thì ông được, bà tu thì bà được, không tu thì không được.” Câu nói nầy rất có đạo lý, gọi là:
“Tự mình sanh tử, tự mình dứt,Tự mình ăn cơm, tự mình no.”
Người khác tuyệt đối không giúp được mình gì đâu. Đừng tưởng rằng khóa đả thất nầy là việc chung như thường lệ, rồi làm qua loa cho xong chuyện. Vì vậy chúng ta nên hiểu rằng thời gian rất là quý báu và đừng để nó trôi qua một cách vô ích.
Nếu quí vị thành kính niệm thánh hiệu, nhất định Bồ Tát Quán Âm sẽ gia trì, giúp quý vị tiêu diệt hết các nghiệp xưa nay và tăng trưởng thêm căn lành. Cho nên biết rằng, khi quý vị tưởng nhớ đến Bồ Tát Quán Âm, Bồ Tát Quán Âm cũng sẽ nhớ tưởng đến quý vị. Đây gọi là “cảm ứng đạo giao.” Quý vị niệm Bồ Tát là cảm, Bồ Tát đến gia trì quý vị là ứng. Cũng giống như trẻ con kêu gọi mẹ, mẹ nghe là trả lời ngay. Đó là đạo lý cảm ứng đạo giao vậy.
Tóm lại, quý vị dự khóa đả thất là tinh tấn lại càng tinh tấn hơn, và tuyệt đối không được giải đãi, buông lung. Tại sao chúng ta tu hành? Vì liễu sanh thoát tử, ngõ hầu vượt ra khỏi luân hồi. Nếu chúng ta không nỗ lực tu hành, thời sanh tử sẽ vĩnh viễn không chấm dứt được. Mọi người nên mau mắn, vững chân bước vào vùng thật địa để tu hành. Đừng dụng công hời hợt ở bên ngoài, vì như thế chúng ta sẽ không đi đến đâu cả!
Giảng ngày 1 tháng 4 năm 1985

 

Xuất Gia Hoàn Tục Sẽ Đọa Lạc

Người người đều muốn thành Phật, nhưng thành Phật cũng cần phải có điều kiện. Ai nấy muốn làm người tốt, nhưng làm người tốt thì phải trải qua thời gian dài thử thách mà không đổi chí nguyện của mình. Cũng như lúc nào chúng ta cũng làm tất cả điều lành, không làm chuyện ác, như thế mới đủ tư cách để làm người tốt.
Trong tâm chúng ta thì muốn làm người tốt, nhưng lại có những hành vi không chịu hợp tác với mình. Như không có điều ác nào mà không làm, còn dù có chuyện thiện đi nữa cũng không chịu làm. Nếu tâm và hành động không hợp nhất với nhau, vậy chúng ta làm sao có thể bàn đến chuyện làm người tốt cho được? Lúc mới phát nguyện, chúng ta rất nghiêm chỉnh, nhưng thời gian lâu dần lại sanh tâm giải đãi, không lười biếng thì cũng là sống cho qua ngày tháng, rồi quên hết bao ý nguyện của thuở ban đầu mới phát tâm.
Như nói về người xuất gia chúng ta, thời gian mới xuất gia, chúng ta rất có tâm đạo và nỗ lực tinh tấn. Nhưng từ từ ý nguyện thuở ban đầu của chúng ta thay đổi, không biết tiến lên, mà bắt đầu làm những chuyện trái với lương tâm. Rốt cuộc chúng ta chẳng những không được thành Phật, mà lại còn bị đọa địa ngục nữa. Có người xuất gia được vài năm, nhưng không chịu nổi các khảo nghiệm thử thách. Vì bị hoàn cảnh chuyển biến, lại không đủ định lực, thế là họ hoàn tục ra đời. Từ đó họ làm những chuyện theo ý họ. Hoặc là họ sẽ phát tài lớn, hoặc sẽ làm quan to; bất quá các việc đó chỉ là những thứ huyễn hóa trước mắt. Nhưng quả báo của họ thì lại như bóng theo hình, khó mà trốn tránh.
Hôm nay tôi thành thật nói cho quý vị biết. Phàm hễ người xuất gia nào muốn hoàn tục, nhất định sẽ bị đọa lạc và chịu khổ không ngừng. Đó là sự thật và tôi cũng không khách sáo chút nào khi nói về điều nầy. Một niệm lúc mới ban đầu là xuất gia thành Phật và một niệm sau rốt là hoàn tục để làm quỷ. Đây là hai con đường mà quý vị phải lựa chọn, sự quyết định là ở trong tay quý vị đấy.
Chuyện thế gian nếu không tốt thì là xấu, không thành tức là bại, không thịnh tức là suy. Cho nên nói: “Quân tử thượng đạt, tiểu nhân hạ đạt,” người quân tử đi lên, kẻ tiểu nhân đi xuống. Quý vị hướng thượng đi lên là đến bốn quả vị Thánh; quý vị muốn tuột đi xuống thời đọa trong ba đường ác, gọi là: “Thiện ác hai đường, tu thì tu, tạo thì tạo.”
Người có căn sâu dầy thì tu theo đường lành, người mang nghiệp nặng thì tạo đường ác. Nếu chúng ta nói những lời thành thật với họ, họ sẽ không tin. Trái lại, nếu chúng ta nói lời giả dối thì họ lại tin ngay. Vì sao? Bởi vì nghiệp chướng của họ nặng nề. Chúng ta học Phật đã nhiều năm, mà không hiểu rõ đạo lý trên, thật đáng thương thay! Tôi vốn không muốn nói về đạo lý nầy, vì nghĩ rằng quý vị đều đã biết rõ hết rồi. Nhưng giờ đây tôi mới biết là mọi người chưa hiểu rõ một cách triệt để và vẫn còn lẩn quẩn ở ngã tư đường vì đã thất lạc phương hướng.
Bây giờ tôi sẽ nhắc lại cho mọi người nghe là: Con người chúng ta đang sống trong cái biển lớn sanh tử, nếu không nổi lên được thì chỉ có chìm xuống thôi.
Tục ngữ có câu: “Trèo cao, té nặng!” Hướng thượng muốn thành Phật, nhưng chúng ta không đi lên thì không thành Phật được; còn nếu té ngã xuống thì sẽ đọa địa ngục, vĩnh viễn khó mà thoát ra.
Có người hỏi: “Rốt cuộc là có địa ngục hay không?” Tôi xin nói với quý vị rằng, như con người đang sống đây là đang ở trong địa ngục đấy. Quý vị xem, có số người phiền phiền não não, tranh cãi láo nháo không bao giờ ngừng dứt. Như thế không phải giống như ở địa ngục sao? Con người sống như thế thì có ý nghĩa gì? Lại còn có hỏa tai, phong tai, chiến tranh và những tai họa do con người gây ra, vậy cũng như là sống trong địa ngục trần gian thôi! Hãy nhìn xem, khi người mang bệnh tật trên thân thì khổ không thể nói, như lúc chứng ung thư hoành hành, họ đau đớn đến nỗi không còn muốn sống. Như thế há không phải là địa ngục sao? Nhưng người ta vẫn không nhìn thấy, buông không được, bỏ không đặng, cứ lo tham luyến cố chấp, lại không có tâm từ bi, thấy lợi quên nghĩa, thừa nước đục thả câu. Cho nên cuối cùng họ vẫn là quanh quẩn trong vòng luân hồi, không bao giờ ngừng dứt.
Thôi được rồi, tôi sẽ không nói nữa, nếu không thì mọi người sẽ sợ hãi mà bỏ chạy hết!


HT Tuyen Hoa' giang ngay 4 thang 5 nam 1985

http://www.chuavanphat.org/

Tiêu Diệt Ngoại Tam Ác Và Nội Tam Độc

Sao gọi là ngoại tam ác? Đó là sát, trộm, dâm. Xã hội vì sao không được an ổn? Cũng bởi vì ba cái ác đó tác quái đấy. Mỗi ngày các tin tức đăng trên báo chí, thì đã hơn một nửa tin là có liên quan đến ba ác: sát, trộm, dâm nầy. Cho nên nói: “trong vạn ác thời dâm đứng đầu,” cũng bởi trong thiên hạ có đến tám hoặc chín phần mười người vì dâm mà sanh ý sát hại. Loại phong độc nầy, thật đáng sợ thay! Nếu chúng ta không phạm sát, trộm, dâm thì vô hình trung, chúng ta đã giúp cho xã hội được an ổn và duy trì sự hòa bình cho thế giới.
Sao gọi là nội tam độc? Đó là tham, sân, si. Tham mà không chán thì vĩnh viễn không bao giờ biết đủ. Tham mà được vào tay thời ta vui mừng, tham mà không được thời ta sân giận. Một khi chúng ta khởi lòng sân là vô minh sẽ gây sóng gió, thúc dục đấu tranh. Lúc bấy giờ chúng ta mất hết lý trí, cho nên ngu si bèn xuất hiện, khiến gây ra những chuyện điên đảo mà ta không suy nghĩ gì về hậu quả. Chuyện nhẹ là trái với nhân tình, còn nặng thì làm tổn hại lý trời.
Chúng ta làm thế nào để tiêu diệt được nội tam độc? Đức Phật Thích Ca đã để lại cho chúng ta một phương thuốc rất hay, đó là giới, định, huệ. Người tu đạo nhất định phải giữ giới. Do giới phát sanh định lực, rồi từ định lực mới sanh ra huệ lực. Những thứ nầy có mối quan hệ liên đới với nhau. Nếu có thể giữ giới, chúng ta sẽ không có tư tưởng tham dục. Khi chúng ta có được định thì mới không có tâm sân hận. Nếu chúng ta có thể phát sanh trí huệ, chúng ta sẽ không có những hành động ngu si.
Ba cái ác của thân chúng ta là do từ thân tánh bên ngoài mang lại. Ba độc trong ý tưởng của chúng ta là do từ tâm tánh bên trong phát sanh. Vì một khi đã có tham, sân, si thì người ta sẽ phạm sát, trộm, dâm. Nếu chúng ta có thể đem tham, sân, si biến thành giới, định, huệ, tức sẽ không có sát, trộm, dâm.
Ba độc làm ô nhiễm tự tánh, khiến cho tự tánh không được thanh tịnh. Chân tâm bị che khuất, vọng tâm bèn vào nhà làm chủ nhân ông và chỉ huy tất cả. Rồi nó khiến cho con người điên đảo, mê muội hồ đồ, không lúc nào được rõ ràng minh bạch. Kiếp sống của người nầy ví như cái thây thịt biết đi, vậy có gì đáng vui thú để mà nói!
Chúng ta phải rửa sạch tự tánh của mình. Vậy rửa bằng cách nào đây? Thì dùng Lục Đại Tông Chỉ: không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ nầy để tẩy rửa, để quét dọn, và nhất định rửa sạch cho đến không còn một chút nhơ bẩn nào. Nếu không tranh thì thế giới tự nhiên sẽ không có chiến tranh. Không tham danh, không tham lợi thì mọi người sẽ chung sống hòa thuận với nhau. Không cầu tức nhân cách mình tự nhiên sẽ cao thượng, ở đâu cũng được người ta cung kính. Không ích kỷ là việc gì cũng nên nghĩ cho người khác mà quên mình, và không tính toán với người, cũng không phân biệt bốn tướng: ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Không tự lợi là khi được lợi ích thì ta chia đồng đều, chứ không có tư tưởng muốn độc chiếm. Thậm chí ta còn theo nguyên tắc tự chịu thiệt thòi, khiến cho người khác được vui vẻ. Không vọng ngữ là bất luận việc gì, ta cũng dùng lòng tin cậy để đối xử với nhau. Khi nói lời chân thật sẽ không sanh ra những chuyện phiền phức không cần thiết.
Chúng ta dùng Lục Đại Tông Chỉ nầy để thân làm, tâm nhớ, như vậy là gián tiếp giúp đỡ chính quyền quốc gia và trực tiếp giúp đỡ cho chính mình. Chúng ta nên nhận rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình là trọng yếu như thế nào. Vì vậy chúng ta nên làm một phần tử vẹn toàn và ưu tú, chứ không làm người dân hư xấu gây nhiễu loạn trong nhân dân. Nếu làm được như thế, chúng ta mới không hổ thẹn là người Phật tử. Hy vọng mọi người nên dụng công về phương diện nầy. Nếu quý vị chuyên đi tìm cầu những pháp huyền diệu viễn vong, thế là bỏ gốc để chạy theo ngọn, tức quý vị vĩnh viễn sẽ không tìm được pháp chân thật.
Sau hết tôi hy vọng mọi người sẽ ném bỏ nội tam độc, ngoại tam ác ra khỏi chín tầng mây, và vĩnh viễn đừng bao giờ giao du với bọn chúng. Vì bọn chúng là những kẻ tiểu nhân, hễ thấy lợi là quên mất tình nghĩa. Cho nên nếu không cẩn thận, chúng ta sẽ bị rơi vào cạm bẫy của chúng. Vì bọn chúng cũng rất hoan nghênh chúng ta hợp tác với chúng, để cùng chúng trôi giạt vào bùn nhơ. Hãy nhớ kỹ! Chớ để lọt vào bẫy rập của chúng. Chúng ta phải nên đề cao cảnh giác, và phải có trí huệ để bội trần hợp giác, tức là quay lưng với trần tục để hòa hợp với giác ngộ. Nếu như không biết nhận thức rõ ràng, tức là chúng ta hòa hợp vào trần nhơ mà quay lưng với bờ giác, là hợp với lục trần để lập thành một công ty cổ phần với chúng.
Giảng ngày 5 tháng 5 năm 1985
 
Câu Châm Ngôn Của Phật Tử
Chúng ta cùng nhau tụ họp về đây để nghiên cứu Phật Pháp, nhưng mọi người cũng không nên chấp trước vào Phật Pháp. Chúng ta nên quán sát mọi việc một cách khách quan và phân tích sự vật bằng trí huệ vốn có của mình. Đừng mê tín hay tin tưởng một cách mê muội, gượng gạo. Chúng ta cũng không nên nhận giặc làm con, lấy trái làm phải, đen trắng chẳng phân minh, thiện ác điên đảo. Điều quan trọng nhất là chúng ta nên làm người Phật tử chân chánh trong việc tìm cầu chân lý, chớ chẳng dùng thủ đoạn như người đui dẫn người mù, thôi miên dân chúng khiến họ tin theo một cách hồ đồ, rồi làm những việc thiện ác hỗn độn để nhầm lẫn về nhân quả. Người học Phật nên chú ý về điểm nầy.
Tại sao chúng ta cần phải học Phật Pháp? Có phải vì chúng ta có chỗ tham cầu chăng? Nếu người nào có tham cầu thời đừng nên học. Học Phật nhất định là phải loại bỏ lòng tham, nếu không thì sân, si sẽ dễ phát sanh. Một khi ta có lòng tham, lòng sân và lòng si sẽ phát sanh theo, như vậy thì khỏi bàn gì đến giới, định, huệ nữa.
Bởi tự tánh của chúng ta vốn đã là Phật, cho nên khi nghiên cứu học tập Phật Pháp, chúng ta không nên tham cho mau, tham được tự tại, hoặc tham có thần thông. Vì những sự theo đuổi đó đều trái ngược với đạo, khiến ta quên mất ý nghĩa chân thật của việc học Phật. Chúng ta vốn muốn xuất ly biển khổ, ra khỏi nhà lửa của tam giới và rời khổ được vui, mà lại tham cầu tức là càng học thì càng khổ thêm.
Lục Đại Tông Chỉ: Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ chính là câu châm ngôn của những người Phật tử. Nếu lúc nào, ở đâu chúng ta cũng có thể thực hành theo, tức chúng ta mới là người Phật tử thật sự hiểu rõ được Phật Pháp.
Nói đi nói lại gì, tôi cũng nói bấy nhiêu đạo lý đó thôi, tuy có vẻ rất cạn cợt đấy, nhưng quý vị cũng không dễ gì làm được đâu. Nếu quý vị làm được thì cũng sẽ sớm thành Phật. Nếu quý vị cung hành thực tiễn theo Lục Đại Tông Chỉ nầy mà không thành Phật, thì tôi sẽ ở mãi dưới địa ngục và không bao giờ thoát ra. Tôi tin tưởng và bảo đảm rằng: Người nào tu hành theo Lục Đại Tông Chỉ nầy, tương lai nhất định sẽ thành Phật.
Giảng ngày 20 tháng 5 năm 1985

Friday, November 20, 2009

Khổng tiên sinh bói số mạng

Lúc ta (1) còn nhỏ, thân phụ mất sớm. Thân mẫu bảo ta «Nên bỏ con đường thi cử (2) làm quan mà nên chọn nghề thầy thuốc, vì nghề này vừa có thể sinh sống, vừa có thể giúp người. Hơn nữa, nếu hành nghề giỏi sẽ có tiếng tăm. Đó cũng là ước muốn của cha con vậy. »
Sau ta gặp một cụ già tại chùa Từ Vân, cụ râu dài oai nghi, phơi phới như tiên. Ta do đó cung kính chào hỏi. Cụ thấy ta bèn nói: « Tướng ngươi có mạng làm quan, năm tới sẽ đậu Tú Tài, sao giờ này còn lang thang ở đây không lo học ? » Ta trình bày nguyên do và đồng thời xin cụ cho biết tên họ và quê quán. Cụ nói: « Ta họ Khổng, người Vân Nam . Ta được chân truyền quyển Hoàng-Cực-Số (3) của ông Thiệu. Ta biết môn này sau này sẽ truyền lại cho ngươi. » Ta mời cụ về nhà và kể lại cho mẹ. Mẹ dặn phải tiếp đãi tử tế và xem cụ đoán số ra sao. Cụ bói cho ta từ việc lớn đến việc nhỏ đều chính xác vô cùng. Làm ta ước mơ trở lại học văn và bàn với ông anh họ Thẩm Xứng. Ông anh nói : « Thầy Úc Hải Cốc đang mở lớp học tại nhà ông Thẩm Hữu Phu, anh sẽ gởi em đến đó học không thành vấn đề. » Ta bèn bái lạy thầy Úc làm thầy.
Cụ Khổng lấy số cho ta như sau : Lúc còn là đồng sinh (4), sẽ thi ở Huyện đậu hạng 14, thi ở Phủ hạng 71 và thi ở Đề Đốc (5) hạng 9. Năm tới đi thi, quả thật cả ba nơi đều đậu hạng đúng y như tiên đoán của cụ.
Cụ Khổng lấy thêm số tốt xấu suốt cuộc đời cho ta. Tiên đoán rằng, năm nào sẽ thi đậu hạng mấy, năm nào sẽ thi vào dự bị lẫm sinh (6), năm nào sẽ lên cống sinh. Sau khi lên cống sinh, đến năm nào sẽ được bổ nhiệm làm huyện trưởng trong tỉnh Tứ-Xuyên, nhưng chỉ làm được ba năm rưỡi rồi sẽ xin về hưu. Năm 53 tuổi, ngày 14 tháng 8, giờ Sửu, sẽ mất tại nhà. Tiếc rằng không con nối dõi. Ta cẩn thận ghi lại tất cả.
Từ đó về sau, mỗi lần thi cử đều đậu hạng không ngoài sự tiên đoán của cụ Khổng. Chỉ có một lần, cụ tiên đoán chừng nào phụ cấp lẫm sinh ta lên đến 91,5 thạch (7) gạo mới được lên cống sinh. Nhưng đến khi phụ cấp ta lên đến 70 thạch, quan Tông-Sư họ Đồ trong Đề-đốc-học-viện đã xin cho ta lên dự bị cống sinh. Ta thầm nghi trong bụng rằng cách bói của cụ Khổng chưa chắc chính xác hoàn toàn.
Nhưng sau đó quả thật vì cấp trên vắng mặt, quan thay thế tạm thời lúc đó là ông Dương, bác bỏ đơn xin này. Mãi cho đến năm Đinh Mão (1627), quan Tông-Sư Ân Thu Minh tình cờ xem lại những bài thi tuyển (8) còn xót lai nơi trường thi, thấy bài thi của ta xuất sắc mà tiếc rằng : « Năm bài thi vấn đáp này đâu có thua những bài tấu nghị (9) trong triều đình. Ta nỡ nào để những học trò tài giỏi như thế mà chôn vùi mãi trong phòng học. » Bèn chiếu theo đơn xin cũ, phê chuẩn cho ta lên dự bị cống sinh. Nếu tính luôn những trợ cấp từ trước đến giờ, vừa đúng 91,5 thạch.
Kể từ đó ta càng tin theo số mạng an bài; mọi việc thăng quan tiến chức, giàu sang phú quý đều có thời có lúc của nó. Vì vậy ta an phận mặc đời đẩy đưa, chẳng mong cầu gì cả.

(1) Liễu Phàm : họ Viên, hiệu Liễu Phàm, tên Huỳnh, tự Khôn Nghị. Người Giang Nam sông Ngô, đời Minh. Sanh năm 1535, mất năm 1609, hưởng 74 tuổi. Sống tại quê vợ ở tỉnh Triết Giang, huyện Gia Thiện. Lúc 16 tuổi đậu Tú tài, 33 tuổi đậu Cử nhân và 52 tuổi đậu Tiến sĩ. Ông viết lại 4 bài để dạy con của ông là Thiên Khải, sau này cũng đậu tiến sĩ.
(2) Thi cử : Ngày xưa Trung Quốc lập chế độ thi cử để tuyển lựa người tài giỏi làm quan.
(3) Hoàng Cực số : Sách Hoàng Cực Kinh Thế Thư , tác giả là Thiệu Khang Thiết. Sách này căn cứ trên Kinh Dịch và số học để bói về thời thế đất nước cũng như vận mệnh của con người.
(4) Đồng sinh : học sinh chưa thi đậu lần nào. Đồng sinh theo học ở tư thục (tiểu học tư nhân do một người thầy tổ chức tại địa phương). Sau đó đồng sinh sẽ thi tú tài. Tú tài phải thi ba nơi; huyện, phủ và Đề đốc (tỉnh). Cả 3 nơi đều đậu mới được gọi là đậu tú tài.
(5) Đề đốc học viện : là bộ giáo dục cấp tỉnh. Các kỳ thi cử tú tài và cử nhân đều tổ chức tại đó.
(6) Lẫm sinh : Học sinh sau khi đậu tú tài sẽ học ở Học-Cung (trường trung học công lập địa phương) gọi là tiến học. Trong vòng 3 năm đầu phải trải qua 2 kỳ thi : Tuế khảo và Khoa khảo. Nếu thi đậu sẽ được liệt vào danh sách dự bị lẫm sinh gọi là bổ lẫm. Đợi cho đến khi nào có chỗ trống sẽ được đôn lên làm lẫm sinh. Kể từ lẫm sinh trở đi có thể hưởng phụ cấp gạo theo tiêu chuẩn. Lẫm sinh phải thi nhiều lần để lên cõng sinh. Các kỳ thi đều tổ chức tại Đề đốc học viện. Thi đậu cống sinh sẽ coi như mãn khoá Học-Cung, gọi là xuất học hay xuất cõng. Rồi lại phải lên thủ đô Quốc Tử Giám để học tiếp và thi lên tiến sĩ.
(7) 1 thạch = 100 lit (gao)
(8) Bài thi tuyển : Những giám khảo trong Đề đốc học viện đều do triều đình bổ nhiệm xuống. Trong đó có một chánh chủ khảo, một phó chủ khảo và nhiều giám khảo phòng thi. Mỗi phòng thi có khoảng từ 8 đến 18 thí sinh. Lúc chấm bài, giám khảo phòng thi tuyển lựa những bài xuất sắc cho chủ khảo chấm. Ngoài những bài chủ khảo đã chấm đậu, phần còn lại gọi là bài thi tuyển, trong đó có bài của ông Liễu Phàm.
(9) Tấu nghị : Các quan trong triều đình mỗi khi muốn đề nghị chính sàch đều phải viết trên giấy để trình lên vua xét duyệt gọi là tấu nghị.

Thuyết đổi mạng của thiền sư Vân-Cốc
Sau khi xuất cống, ta lên Yến-Đô (1) học tiếp. Ở đó một năm, suốt ngày ngồi yên không học chữ nào. Đến năm sau Kỷ Tỵ (1629), ta trở về Nam-Ung (2). Nhân dịp Quốc-Tử-Giám(3) còn chưa khai giảng, ta lên núi Thê Hà thăm thiền sư Vân-Cốc Pháp-Hội (4). Ngồi trong phong đối diện với thiền sư suốt ba ngày đêm không chợp mắt.
Sau sư hỏi : « Sở dĩ con người không thể trở thành thánh nhân chỉ vì bị những vọng niệm lăng xăng trong lòng không ngừng trồi sụt quấy rầy mà thôi. Ngươi ngồi ba ngày mà không thấy khởi lên một vọng niệm nào, làm sao mà làm được như vậy » ? Ta trả lời rằng : « Vì sau khi Khổng tiên sinh bói số mạng con, con đã thấy cuộc đời sống chết vinh nhục đều do trời đã sắp đặt sẵn. Dù muốn dù không cũng chẳng thay đổi được gì. Suy nghĩ thêm cũng vậy thôi! »

(1) Yến Đô : Nay tên là Bắc Kinh.
(2) Nam Ung = Nam Kinh Bích Ung, nay gọi là Nam Kinh.
(3) Quốc Tử Giám : Trường đại học công lập. Đặc biệt trong thời Minh, vì Nam kinh từng là kinh đô nhà Minh, nhưng sau đó dời lên Bắc kinh cho nên thời đó có 2 kinh đô và 2 Quốc Tử Giám.
(4) Thiền sứ Pháp Hội : biệt hiệu Vân Cốc. Người Triết Giang. Người ta xưng ngài là tổ thiền tông Trung Hưng. Năm đó thiền sư 69 tuổi, Liễu Phàm 35 tuổi.
 

Thiện, Ác Không Rời Một Niệm Ở Tâm Ta

Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng vào Mùa đông 1980, tại Vạn Phật Thánh Thành

Một ý niệm làm lành, trời đất thêm chính khí.Một ý niệm làm ác, trời đất thêm trược khí.
"Không làm việc ác, Làm mọi việc lành, Tự thanh tịnh tâm mình, Là điều Phật dạy."
Đây là chân-đế cuả đạo Phật. Ai cũng hiểu đạo lý ấy, song chẳng ai thực hành được cả, nên thiên hạ đại loạn.
Đả Thiền-thất tức là cơ hội tốt nhất để chúng ta "sửa ác hướng thiện, sửa lỗi đổi mới." Với một ý niệm ác độc, thiên địa có thể sinh ra cuồng phong, bão táp, tạo đủ tai ương. Nếu nhân loại khắp toàn cầu ai ai cũng biết thọ giữ Năm Giới, thực hành Mười Thiện, thì trời đất sẽ mưa thuận gió hòa, thế giới nơi nơi an lạc. Nói tóm lại, nếu trên từ bậc nguyên thủ xuống tới nhân dân trăm họ, ai cũng giữ Năm Giới, làm Mười Thiện, thì quốc gia ấy hẳn được cơm ăn áo mặc sung túc, người người an cư lạc nghiệp. Nếu mọi người phạm Năm Giới, tạo Mười Ác, thì chẳng phải nghi ngờ gì nữa, tại quốc gia ấy, gia đình sẽ không hòa thuận, xã hội không an ninh, đất nước chẳng giàu mạnh, nhân dân phải sống cuộc đời lầm than, vất vả.
Tham Thiền chính là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu. Tại Thiền-đường, bạn hãy chuyên tâm tham Thiền, đề khởi thoại đầu, buông bỏ mọi chuyện, chuyên tâm vào chữ "Ai." Lúc nào cũng chiếu tìm, khiến tất cả mọi vọng tưởng khác đều ngừng lại hết, đó chính là trì giữ Năm Giới, cũng là thực hành Mười Thiện. Do vậy, tọa Thiền ở Thiền-đường thì đầy đủ Năm Giới, Mười Thiện vậy. Vì thế, chớ nên lãng phí thời giờ, nghĩ chuyện vớ vẩn vô ích, mà phải nắm lấy thời cơ tham cứu "Niệm Phật là ai?"
Lúc tham Thiền, chúng ta cần phải nỗ lực dụng công, dũng mãnh tinh tấn. Chúng ta phải "hồi quang phản chiều" (thâu nhiếp tâm trí, chiếu ngược nội tâm), tự vấn lòng mình, hỏi xem mình đã sinh bao nhiêu niệm thiện, dấy bao nhiêu niệm ác, khởi bao nhiêu vọng tưởng. Hãy thống kê xem.
"Chưa sinh niệm thiện, khiến sinh thiện niệmĐã sinh niệm thiện, khiến nó tăng trưởngChưa sinh niệm ác, khiến nó chẳng sinhĐã sinh niệm ác, khiến nó diệt mất."Đó là bước đầu căn bản của việc tu hành.
Vì sao thế giới bị hủy diệt? Vì người ta khởi "ít niệm thiện, nhiều niệm ác." Với một niệm thiện, trời đất tăng thêm chính khí. Chỉ một niệm ác, trời đất chất thêm trược khí. Vì thế chúng ta phải làm sao để biến khí ác-trược thành khí an-lành. Trược-khí chính là độc-khí, mà hễ chúng ta sinh một niệm tham lam thì độc-khí trong vũ trụ sẽ tăng lên một chút, nảy một niệm sân hận thì độc-khí trong vũ trụ cũng tăng lên một ít, khởi một niệm si mê thì độc-khí trong vũ trụ lại thêm hơn một tí. Nếu chúng ta dùng tham, sân, si để xử lý mọi việc thì trời đất sẽ u ám đen tối, tai nạn sẽ nảy sinh; nhưng nếu dùng Giới Định Huệ để giải quyết mọi sự thì trời trong đất lặng, nơi nơi an bình. Do đó nói rằng, nơi kẻ ác ở đông, chỗ đó tai nạn dẫy đầy; nơi đông người tốt cư ngụ, điều lành tăng gia. Nói tóm lại, tại ương hay điềm lành đều do con người tạo ra cả.
Cổ nhân nói: "Thiện ác hai con đường, ai tu thì tu, ai tạo (nghiệp) thì tạo." Kẻ tu thiện thì sẽ thoát khỏi Tam Giới, kẻ tạo ác thì sẽ đọa Tam Ác Đạo. Thiện, ác chỉ ở trong một ý niệm cách biệt. Có trí huệ tức là thiện niệm, có ngu si tức là ác niệm.
Mọi sự trên đời đều nói pháp (hiển bày chân lý). Có thứ nói pháp lành, có thứ nói pháp ác. Có thứ nói pháp bàng môn tả đạo, quan điểm sai lầm. Có thứ nói pháp trung đạo liễu nghĩa, quan niệm đúng đắn. Nói cách khác, nói pháp lành tức là dạy người ta nhìn thông suốt mọi hiện tượng, buông bỏ mọi chấp trước, đạt được tự tại; còn nói pháp ác tức là dạy người ta đừng nhìn thủng, đừng buông bỏ chấp trước, chẳng đắc được tự tại. Vì sao con người điên đảo? Bởi vì chấp trước, không chịu buông bỏ. Câu thơ xưa nói rằng:
Cổ lai đa thiểu anh hùng hán,Nam Bắc sơn đầu ngọa thổ nê.
Nghĩa là:
Xưa nay bao kẻ anh hùng hảo hán,Nằm dưới đất bùn khắp núi đầy non.
Các bạn hãy nghĩ xem: bao nhiêu người ở trần gian, ai có thể nhảy thoát qua cửa sinh tử? Lúc sống, mưu đồ cái hư danh, chết rồi, danh nào còn? Ham chức quan lớn, chết rồi, quan cũng hết luôn! Mọi thứ đều hóa thành không. Trung Quốc có Tần Thủy Hoàng vì muốn bảo vệ con cháu, khiến muôn đời sau sẽ mãi làm hoàng đế, nên cho xây Vạn Lý Trường Thành. Nào ngờ chỉ truyền tới đời thứ hai, con là Hồ Hải (Tần Nhị Thế) nối ngôi chưa được ba năm thì bị Thừa-tướng Triệu Cao giết chết. Thế chẳng phải là đã hao phí tâm cơ sao?
Xưa nay, từ trong đến ngoài nước, những kẻ cực kỳ giàu sang, kẻ làm quan to chức lớn, đều sống một đời mê muội tranh danh đoạt lợi, tạo ra biết bao nghiệp chướng tội lỗi; tới lúc chết thì với hai tay không đi gặp Diêm Vương. Xem đấy, khi tham Thiền chúng ta phải quyết chí dụng công, không thể giải đãi, không thể buông lung, chớ để lỡ cơ hội rồi sau này hối hận không kịp. Rằng:
"Một chút thời gian, một chút mạng sống."
Có người nói: "Chờ tôi thành danh rồi, tôi sẽ buông bỏ mọi thứ, chuyên tâm tu Đạo." Song le, thời gian không chờ đợi ai, chờ tới lúc đó thì đã quá muộn rồi.
Tham Thiền hay niệm Phật đều tốt cả. Chỉ cần chân thật tu hành thì có thể thoát khỏi vòng sinh tử, tới lúc lâm chung tất sẽ "thân không bịnh khổ, tâm chẳng tham luyến, như nhập Thiền-định, vui cười vãng sinh." Đó mới là nắm chắc được việc sinh tử trong tay mình vậy!
(Thiền thất 12/1980)

Thông Suốt Mọi Pháp--Niệm Quán Âm

Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta cứ sanh ra rồi chết đi, chết đi rồi lại sanh ra. Trải qua quãng thời gian dài có tới trăm ngàn vạn kiếp, chúng ta vẫn chưa từng gặp được Pháp-hội Quán-Âm. Chính vì thế nên các thói hư tật xấu của chúng ta chẳng giảm bớt một mảy may, trong khi vô minh, phiền não thì lại mỗi ngày một gia tăng! Nay được gặp Pháp-hội Quán Thế Âm Bồ-tát, có thể nói rằng nhờ những thiện căn chúng ta gieo trồng trong vô lượng kiếp về trước đã chín muồi cho nên chúng ta mới được tham gia một Pháp-hội vi diệu và bất khả tư nghị như thế này. Nếu không có thiện căn, không có đức hạnh, thì chẳng thể có được cơ hội tham gia Quán-Âm Thất. Do đó, quý vị phải biết quý bảy ngày quý báu này mà đừng khởi vọng tưởng, đừng phí thời giờ. Nếu quý vị cứ khởi vọng tưởng, thì có tham gia Pháp-hội cũng như không, bởi vì quý vị sẽ không đạt được một sự lợi ích nào cả!
Mặc dù Pháp-hội này chỉ mới bắt đầu được hai hôm nay, tôi biết rằng có người đã thấy Bồ-tát, hào quang, hoặc những cảnh giới bất khả tư nghị hiện ra; và cũng có người sắp được mở Ngũ nhãn nữa. Do đó, những người chưa đạt được sự lợi ích phải biết hổ thẹn, và chớ cho rằng bản thân mình không đạt được sự lợi ích thì người khác cũng giống như thế--không phải vậy đâu!
Có thể nói rằng Chùa Kim Sơn là nơi “đãi cát tìm vàng”--những ai muốn tu hành thật sự thì không thể rời khỏi Chùa Kim Sơn bởi vì tìm được một nơi để chân chánh tu hành thì không phải dễ. Những người ở Chùa Kim Sơn đều là những hành-giả có Đạo-tâm, dù lâm vào hoàn cảnh hết sức gian khổ, khó khăn, họ vẫn tinh tấn dụng công tu hành.
Pháp-môn tu Đạo thì có tới tám vạn bốn ngàn thứ và thứ nào quý vị cũng nên hiểu biết đôi chút, chứ đừng chỉ biết độc nhất có mỗi một thứ mà thôi. Nếu về pháp-môn nào quý vị cũng có được chút ít khái niệm thì dần dần quý vị sẽ hiểu được mọi các pháp-môn. Nếu chỉ hiểu một pháp-môn thì khó mà thể hội được cảnh giới “thâm sâu như biển cả” của Phật Pháp; và như thế, quý vị cũng chẳng khác gì “kẻ khờ nhìn trời qua ống tre,” cứ đinh ninh rằng bầu trời chỉ lớn bằng miệng ống tre mà thôi! Nếu không dùng ống tre để nhìn thì quý vị sẽ thấy bầu trời rộng lớn vô cùng. Do đó, quý vị học Phật Pháp thì chớ nên chỉ biết về một pháp-môn duy nhất, mà cần phải thông suốt mọi pháp, hiểu rõ mọi pháp.
Hiện tại chúng ta niệm danh hiệu Quán-Âm Bồ-tát, đó chính là một phần của Phật Pháp vậy. Nếu quý vị chưa từng tu tập pháp-môn này thì nhất định phải đến tham gia thử một phen; đừng nên chưa thử mà đã không chịu tu! Nếu có thể tham gia trọn vẹn bảy ngày niệm danh hiệu Quán-Âm Bồ-tát này, thì chắc chắn quý vị sẽ thâu hoạch được nhiều điều lợi ích cho cả thân lẫn tâm. Do đó, quý vị chớ nên để lỡ dịp may, đừng bỏ qua cơ hội hiếm có trước mắt!
Bậc Bồ-tát thì tu Lục độ Vạn hạnh. Lục độ chính là:
1) Bố thí. Bố thí tức là tự chúng ta bố thí cho người khác, chứ không phải là muốn người ta bố thí cho mình.
2) Nhẫn nhục. Qua khóa Quán-Âm Thất này quý vị có thể biết được mình có khả năng nhẫn chịu hay không. Người có khả năng nhẫn chịu tất sẽ hoàn tất khóa Quán-Âm Thất này một cách mỹ mãn. Người không có khả năng nhẫn chịu thì suốt ngày chỉ toàn là khởi vọng tưởng, như: “Lát nữa mình phải đến nhà hàng nọ ăn một bữa cho thật no nê mới được,” hoặc là: “Mình cứ ở đây niệm danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-tát thì có lợi gì đâu? Thật là vô ích! Thôi, mau mau đi về cho rồi!”
Không có khả năng nhẫn nhịn, chịu đựng, thì không thể tu Đạo! Quý vị muốn tu phép ngồi Thiền, phép niệm danh hiệu Phật hoặc niệm danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-tát đều được cả--bởi các pháp môn ấy là như nhau, hoàn toàn không có gì khác biệt. Bất luận tu theo pháp môn nào, chỉ cần có lòng nhẫn nại thì quý vị sẽ có được sự thành tựu. Nếu không có lòng nhẫn nại thì pháp môn nào quý vị cũng chẳng thể tu tập được! Người thiếu lòng nhẫn nại thì luôn luôn cảm thấy thế này là không đúng, thế kia là không phải, việc gì cũng không vừa ý; như vậy thì còn tu gì được nữa chứ?
Đạo vốn không có ngã-kiến, không có sự chấp trước về cái “ngã”; do đó, người nào có chấp trước thì vĩnh viễn chẳng thể nào tu Đạo được! Có người nói: “Tôi muốn tham Thiền!” Quý vị muốn tham Thiền ư? Thế thì quý vị càng cần phải có lòng nhẫn nhục hơn nữa!
3) Trì giới. Trì giới tức là: “Chư ác mạc tác, Chúng thiện phụng hành.” (Không làm điều ác, Chỉ làm việc lành.)
4) Tinh tấn. Tinh tấn có nghĩa là siêng năng, không lười biếng, giải đãi.
5) Thiền-định. Hiện tại chúng ta niệm danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-tát là cầu nguyện Đức Quán-Thế-Âm Bồ-tát giúp chúng ta có được Thiền-định.
6) Trí huệ. Một khi đã có Thiền-định, thì trí huệ sẽ nảy sanh. Do đó, sáu công hạnh này đều có quan hệ liên đới với nhau.
Có người nói: “Tôi thích chuyên về tu Thiền-định.” Vậy bây giờ tôi sẽ nói cho quý vị biết về cách tu Thiền-định. Một khi đã đặt chân vào Thiền-đường thì bất luận thế nào, quý vị cũng không được rời khỏi Thiền-đường nửa bước! Có người thắc mắc: “Nếu bị bệnh thì phải làm sao?” Bị bệnh thì cứ việc bệnh thôi! Có bệnh cũng vẫn phải tham Thiền như thường!
“Thế rủi chết thì làm sao?” Chết rồi thì xác cũng không được mang ra khỏi Thiền-đường! Nếu có Thiền-sinh bị chết, thi hài của y sẽ được nhét vào dưới một bục ngồi còn trống, và dù có sình thối cũng vẫn phải để ở đó chứ không được đem ra ngoài. Người chết cũng không được rời Thiền-đường!Có người nói: “Như thế thì có khác gì bị cầm tù đâu?” Quý vị tưởng rằng hiện tại quý vị không phải ở tù sao? Mọi người đều đang bị giam hãm trong nhà tù của chính họ, chẳng qua là họ không tự ý thức được điều đó mà thôi! Tự-tánh của quý vị muốn thoát ra mà ra không được, muốn trở về cũng không về được. Hễ đi ra rồi thì không về lại được, mà hễ về rồi thì lại không thể thoát ra được nữa--như thế mà gọi là “tự do” sao? Thân thể của mỗi người chính là một cái nhà tù; song, quý vị chưa hiểu được điều ấy!
Trong khóa Thiền-thất, một khi đã vào Thiền-đường rồi thì không được bước chân ra khỏi cửa Thiền-đựờng nữa. Người nào đi ra thì sẽ bị ăn đòn--cây hương-bản sẽ vun vút trên đầu, trên lưng. Đó là trong khóa Thiền-thất. Trong khóa Quán-Âm Thất cũng thế--không ai được phép rời Phật-điện! Người nào bất tuân thì sẽ bị ăn đòn, bởi vì, ai bảo quý vị đến đây làm gì!?
Có người nói: “Tôi đọc được thông báo nên mới đến tham gia.” Thế nhưng trong bản thông báo không nói rằng hễ đến đây rồi là có thể tự ý bỏ đi kia mà! Muốn đi thì cũng được, tuy nhiên quý vị phải thanh toán chi phí ăn uống của mọi người rồi mới được đi; bằng không, quý vị không thể đi được. Tại sao vậy? Bởi vì nếu quý vị bỏ đi, những người khác thấy thế cũng bắt chước quý vị mà bỏ đi. Quý vị bỏ đi, người nọ bỏ đi, người kia cũng bỏ đi, rồi mọi người đều bỏ đi hết--như thế là quý vị “phá hoại đạo-tràng.” Do đó, để khỏi mang tội “phá hoại đạo-tràng,” quý vị phải trả tiền ăn của mọi người. Nếu quý vị trả không nổi thì tốt nhất là đừng bỏ đi!
Quý vị đều có thiện duyên với nhau nên mới cùng đến Chùa Kim-Sơn. Nếu không có thiện duyên thì không cách gì đặt chân tới ngưỡng cửa Chùa Kim-Sơn được. Đã có thiện duyên thì mọi người chớ ngần ngại mà không kết bạn với nhau trong Pháp-hội Quán-Âm này. Quý vị hãy nâng đỡ lẫn nhau và cùng nhau tiến tới phía trước. Tới đâu? Tới nơi mà thâm tâm mọi người muốn tới. Mỗi chúng ta đều nên giúp đỡ người khác. Vì sao tôi nói như thế? Vì tôi e rằng quý vị sẽ bị lầm đường lạc lối!
(Quán-Âm Thất, ngày 15 tháng 3 năm 1976)