Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Nan Ðà:
-
Ta có giáo pháp, đầu giữa cuối đều thiện, văn nghĩa vi diệu, thuần nhất viên
mãn, thanh bạch phạm hạnh, đó là kinh Vào Thai Mẹ. Thầy hãy lắng nghe, hết sức
chú ý, ghi nhớ thật kỹ, Ta sẽ giảng thuyết.
Nan Ðà thưa:
-
Xin vâng Thế Tôn! Con xin được nghe!
Phật dạy:
-
Này Nan Ðà! Tuy có thai mẹ nhưng có khi nhập và không nhập. Thế nào là thọ sinh
vào thai mẹ? Nếu cha mẹ có tâm ô nhiễm giao hội nhau, bụng người mẹ ổn định, đến
nguyệt kỳ, trung uẩn hiện tiền, nên biết chính là lúc nhập thai mẹ được. Hình
trung uẩn này có hai loại: Một: hình sắc xinh đẹp; Hai: dung mạo xấu xa. Trung
hữu địa ngục dung mạo xấu xa như khúc cây cháy nám. Trung hữu bàng sinh có sắc
như khói. Trung hữu ngạ quỷ có sắc như nước. Trung hữu trời người có hình vàng
kim. Trung hữu Sắc giới có sắc tươi trắng. Trời vô sắc giới không có trung hữu
vì vốn không có sắc. Trung uẩn của hữu tình có hai tay hai chân, hoặc bốn chân
nhiều chân, hoặc không có chân. Tuỳ theo nghiệp đã tạo sẽ sinh vào đâu, trung hữu
cảm ứng theo hình trạng ấy. Nếu trung hữu cõi thiên thì đầu hướng lên; Người,
bàng sinh, quỷ thì nằm ngang mà đi; Trung hữu địa ngục thì đầu ngược xuống. Các
trung hữu đều có thần thông nương hư không mà đi, từ xa thấy chổ sinh, như có
thiên nhãn. Nói đến nguyệt kỳ là trong thời gian thọ thai được.
Này Nan Ðà có những người nữ trải qua ba
ngày, năm ngày, nữa tháng, một tháng ... có
người chờ đợi thời
gian lâu thủy kỳ
mới đến. Người
nữ nào không có uy thế, chịu nhiều
khổ cực, hình dung xấu xí, ăn uống không ngon, nguyệt kỳ có đến nhưng chấm dứt
ngay, như đất khô khan, rảy nước xuống rất mau khô. Người nữ nào có uy thế, thường
hưởng thụ an lạc, hình dáng xinh đẹp, được ăn uống ngon, nguyệt kỳ đến không chấm
dứt mau, như khi đất ướt rãy nước lâu khô.
Thế nào là không nhập thai? Khi tinh cha
xuất mà tinh mẹ không xuất; Tinh mẹ xuất mà tinh cha không xuất; Hay tinh cả
hai đều không xuất thì không nhập thai. Nếu mẹ không ổn định mà cha ổn định,
cha không ổn định mà mẹ ổn định, hay cả hai đều không ổn định cũng không thụ
thai. Nếu căn môn của mẹ bị bệnh phong, bệnh vàng, bệnh phổi, bệnh tim, hoặc
huyết khí kết ở thai, hoặc mọc thịt thừa, hoặc uống
thuốc, bệnh mạch phúc, bệnh eo quá nhỏ,
hoặc sản môn như miệng ngựa, hoặc bên trong như cây nhiều rễ, hoặc như đầu cày,
hoặc như càng xe, hoặc như khúc dây leo, hoặc như lá cây, hoặc như đầu hạt lúa
mạch, hoặc dưới bụng trên bụng sâu quá, hoặc chẳng có dạ con, hoặc thường chảy
máu, hoặc như mỏ quạ thường mở không khép, hoặc trên dưới bốn bên rộng hẹp
không bằng nhau, hoặc cao thấp lồi lõm, hoặc bên trong có trùng ăn làm hư hoại
bất tịnh. Nếu người mẹ có những bệnh này thì không thể thọ thai. Hoặc cha mẹ
tôn quý mà trung hữu ty tiện, hay trung hữu tôn quý cha mẹ ty tiện, như vậy
cũng không thành thai. Nếu cha mẹ và trung hữu cùng tôn quý, nhưng không cộng
nghiệp cũng không thành thai. Nếu đối với cảnh cha mẹ quan hệ nhau
mà trung hữu
không luyến ái về nam hay nữ, cũng không thọ sinh.
Nan Ðà! Thế nào là trung hữu được vào
thai mẹ? Nếu bụng mẹ ổn định, trung hữu thấy đang làm việc dâm dục, không có những
bệnh hoạn như nói ở trên, con với cha mẹ có nghiệp lực cảm ứng nhau, mới vào được
thai mẹ.
Lại nữa, khi sắp vào thai, tâm trung hữu
điên đảo luyến ái với mẹ, oán ghét với cha; Nếu là nam, luyến ái với cha; oán
ghét mẹ, nếu là nữ. Nếu đã tạo các nghiệp trong đời quá khứ liền sinh vọng tưởng
với tâm hiểu sai lầm, như tưởng lạnh lẽo, gió lớn, mưa lớn, mây mù ... hoặc
nghe tiếng nhiều người cãi cọ nhau. Sau khi sinh tưởng này, rồi tùy theo nghiệp
mạnh yếu, phát sinh mười tưởng hư vọng. Ðó là: 1- Ta đang vào nhà; 2- Ta sắp
lên lầu; 3- Ta lên đài điện; 4- Ta lên giường tòa; 5- Ta vào thảo am; 6- Ta vào
nhà lá; 7- Ta vào vùng cỏ rậm; 8- Ta vào trong rừng cây; 9- Ta vào kẻ tường hở;
10- Ta vào giữa rào.
Nan Ðà! Khi trung hữu có niệm này liền
vào thai mẹ. Nên biết, vừa thọ thai gọi là yết la lam, chính là tinh cha huyết
mẹ, nhờ nhân duyên tinh huyết cha mẹ hòa hợp để thức dựa vào đó mà tồn tại. Như
đổ lạc vào bình dùng nhân công lắc đều sẽ được tô, làm khác vậy thì không có.
Nên biết, thân yết la lam cũng như tinh huyết bất tịnh của cha mẹ.
Lại nữa, này Nan Ðà! Có bốn ví dụ, ông
hãy lắng nghe. Như trùng sinh ra nhờ vào cỏ xanh; Cỏ không phải trùng, trùng
không rời cỏ, nhưng dựa vào nhân duyên hòa hợp với cỏ nên sinh ra thân trùng
mang màu sắc xanh.
Nan Ðà nên biết! Thân yết la lam với
tinh cha huyết mẹ cũng như vậy, do nhân duyên đại chủng hòa hợp nên sinh ra
căn. Như dựa vào phân bò nên trùng sinh ra, phẩn không phải là trùng, trùng
không rời phẩn, nhưng y vào nhân duyên hòa hợp với phẩn nên sinh ra thân trùng
màu vàng.
Nan Ðà nên biết! Thân yết la lam với
tinh cha huyết mẹ cũng như vậy, do nhân duyên đại chủng hòa hợp
nên sinh ra căn. Như dựa vào gai
sinh ra trùng, gai không phải là trùng, trùng không rời gai, nhưng y vào nhân
duyên hòa hợp với gai nên sinh ra thân trùng màu đỏ.
Nan Ðà nên biết! Thân yết la lam với tinh cha huyết mẹ cũng như vậy, do
nhân duyên hòa hợp nên sinh ra căn. Như y vào lạc sinh ra thân trùng có màu trắng.
(Nói rộng cho đến)… nhân duyên đại chủng hòa hợp nên sinh ra căn.
Lại nữa, Nan Ðà! Y vào thân yết la
lam bất tịnh của cha mẹ, địa giới hiện tiền, với tính chất cứng, thủy giới hiện
tiền với tính chất ẩm ướt, hỏa giới hiện tiền với tính chất ấm nóng, phong giới
hiện tiền với tính chất nhẹ động.
Nan Ðà! Thân yết la lam bất tịnh của cha mẹ nếu chỉ có địa giới không có
thủy giới, thì bị khô khan và phân tán hết, như tay nắm lấy bột tro khô. Nếu chỉ
có thủy giới không có địa giới, thì bị phân ly như giọt dầu trên nước. Do thủy
giới nên địa gi?i không rã, do địa giới nên thủy giới không trôi đi. Này Nan
Ðà! Nếu thân yết la lam có địa thủy giới mà không có hỏa giới, thì bị hư nát,
như mùa hạ để cục thịt trong chỗ râm.
Này Nan Ðà! Nếu thân yết la lam có địa thủy hỏa giới mà không có phong giới
thì không thể phát triển to lớn. Chúng đều do nghiệp từ trước làm nhân, lại
cùng làm duyên hổ trợ, cùng nhau chiêu cảm, thức mới được sinh. Ðịa giới nâng đỡ,
thủy giới kết dính, hỏa giới làm chín,
phong giới làm tăng trưởng.
Này Nan Ðà! Như có người hay đệ tử
người ấy, điều chế đường cát dùng hơi thổi vào làm cho phồng lên nhưng bên
trong rỗng như ngó sen. Ðại chủng địa thủy hỏa phong trong thân do nghiệp lực
làm tăng trưởng cũng như vậy.
Nan Ðà! Chẳng phải chỉ có chất bất tịnh của cha mẹ mà có yết la lam, cũng
chẳng phải riêng bụng mẹ, cũng chẳng phải riêng nghiệp, chẳng phải riêng nhân
hay riêng duyên, mà phải do các yếu tố này hòa hợp mới trở thành thai. Như hạt
giống mới không bị gió nắng làm hư hoại, chắc không bị lép, được cất giữ đúng
cách, đem gieo xuống ruộng tốt đủ độ ẩm ướt, có các yếu tố hòa hợp nhau mới mọc
thành mầm, lần lượt phát triển thành cành lá hoa trái. Như vậy, nên biết là
không phải chỉ có cha hay mẹ hay riêng các duyên khác mà có thai, phải do tinh
cha huyết mẹ hợp cùng các nhân duyên khác mới thành thai.
Nan Ðà! Như người có mắt sáng tìm
lửa, đem ngọc nhật quang đặt vào ánh sáng mặt trời, để trên phân bò khô thì lửa
phát sinh. Như vậy nên biết nhờ vào tinh cha huyết mẹ và các duyên hòa hợp mới
có thai. Bất tịnh của cha mẹ hợp thành yết la lam gọi là sắc, thọ, tưởng, hành,
thức là danh, nên gọi là danh sắc. Tụ uẩn các danh sắc đáng chán này phát sinh
các hữu, cho đến trong một sát na nhỏ nhất ta cũng không tán thán nó. Vì sao? Ðời
sống trong các hữu thật là khổ. Ví như phẩn uế, dù chút ít cũng hôi thối.
Như vậy nên biết! Ðời sống trong các hữu dù nhỏ nhất cũng khổ. Năm thủ uẩn
sắc, thọ, tưởng, hành, thức này đều có sinh trú tăng trưởng hoại diệt. Sinh là
khổ, trú là bệnh, tăng trưởng hoại diệt là già chết.
Vậy nên, này Nan Ðà! Ðối với biển hữu, ai lại ưa thích mùi vị ái. Nằm
trong thai mẹ chịu đau khổ khốc liệt như vậy.
Lại nữa, này Nan Ðà! Như vậy nên biết rằng, phàm nhập thai, nói theo số lớn
thì có ba mươi tám lần bảy ngày. Trong bảy ngày đầu, thai trong bụng mẹ như quặng,
như ung nhọt nằm trong phẩn uế, như trong bầu dầu thân căn và thức cùng ở một
chổ bị nung nấu nóng bức khổ vô cùng nên gọi là yết la lam, thể trạng như cháo
lỏng hoặc như lạc tương. Trong bảy ngày bị nung nấu, tính cứng của địa giới,
tánh ướt của thủy giới, tánh nóng của hỏa giới, tánh động của phong giới mới hiện
tiền.
Này Nan Ðà! Bảy ngày thứ hai, thai trong bụng mẹ nằm chung nơi nhơ uế như
trong bầu dầu thần căn và thức cùng ở một chổ, bị nung nấu nóng nảy thật là cực
khổ. Trong bụng mẹ có gió tự nổi lên gọi là xúc chạm khắp, do nghiệp trước sinh
ra khi xúc chạm vào thai gọi là yên bộ đà, dạng như sữa
đặc hay bơ, bị nung nấu, trong bảy ngày này có bốn đại chủng hiện tiền.
Này Nan Ðà! Bảy ngày thứ ba, nói rộng như trước, trong bụng mẹ có gió tên
dao cắt miệng do nghiệp trước kia sinh ra, khi tiếp xúc như cắt vào thai, gọi
là bế thi, dạng như đũa sắt hay con giun, trong bảy ngày này, bốn đại chủng hiện
tiền.
Này Nan Ðà! Trong bảy ngày thứ tư,
nói rộng như trước, trong bụng mẹ có gió tên là nội khai, do nghiệp trước kia
sinh ra, thổi vào thai như tên bắn, gọi là kiện nam, dạng như chiếc hài hay như
cục đá ôn (serpentine), trong bảy ngày này bốn đại chủng hiện tiền.
Này Nan Ðà! Trong bảy ngày thứ
năm, nói rộng như trên, trong bụng mẹ có gió tên là nhiếp trì. Gió này tiếp xúc
với thai có năm tướng hiện ra, đó là hai chi tay, hai đùi, và đầu. Như mùa
xuân, trời mưa nước ngọt, rừng cây phát triển cành nhánh rậm rạp, giống như năm
tướng biểu hiện ở đây.Nan Ðà! Trong bảy ngày thứ sáu, trong thai mẹ có gió tên
là quảng đại. Khi gió này tiếp xúc vào thai, có bốn tướng hiện ra. Ðó là hai khuỷu tay và hai đầu gối. Vào mùa xuân, mưa rơi
cỏ tranh mọc cọng như bốn tướng hiển hiện ở đây.
Nan Ðà! Trong bảy ngày thứ bảy, trong bụng
mẹ có gió tên là toàn chuyển. Khi gió này tiếp xúc với thai có bốn tướng hiện
ra, là hai bàn tay và hai bàn chân, bốn tướng này như bọt tụ hoặc như rêu nước.
Này Nan Ðà! Vào bảy ngày thứ tám, trong
bụng có gió tên là phiên chuyển. Khi gió này tiếp xúc thai, có 20 tướng hiện
ra. Ðó là 20 ngón tay chân mới mọc ra như trời mưa mới, rễ cây mọc ra.
Này Nan Ðà! Vào bảy ngày thứ chín, trong bụng
mẹ có gió tên là phân tán. Gió này tiếp xúc vào thai, có chín tướng trạng xuất
hiện, đó là: Hai mắt, hai tai, hai mũi, miệng, và hai nơi đại tiểu.
Này Nan Ðà! Vào bảy ngày thứ mười, trong bụng
mẹ có gió tên kiên tiện, làm cho thai cứng lại. Trong bảy ngày này trong thai mẹ
lại có gió tên phổ môn, thổi phồng bọc thai lên, như cái phao được thổi đầy
khí.
Này Nan Ðà!
Vào bảy ngày
thứ mười một,
trong thai mẹ
có gió tên sơ
thông. Tiếp xúc với gió này, làm cho thai thông triệt, chín lỗ xuất hiện hết.
Khi mẹ
đi đứng nằm ngồi
làm việc ... gió này
xoay chuyển theo khoảng trống
thông ra làm cho các lỗ lớn lên. Nếu gió thổi lên, làm lỗ trên mở ra, nếu thổi
xuống, làm thông lỗ dưới. Như người thợ rèn và đệ tử họ, dùng ống bể quạt thổi
khí lên xuống, luồng gió thổi qua rồi tự ẩn mất.
Này Nan Ðà! Vào bảy ngày thứ mười hai, trong thai mẹ có gió tên khúc khẩu.
Gió này thổi hai bên thai tạo thành đại tiểu trường quấn quít trong thân, cũng
như tơ sen. Ngay trong bảy ngày này, có gió tên xuyên phát, ngay trong thai
phát sinh đúng 120 chi tiết, lại do sức của gió làm thành 101 chỗ
giữ lại.
Này Nan Ðà! Vào bảy ngày thứ mười ba, trong thai mẹ do sức gió ở trước
nên thai nhi có đói khát. Khi mẹ ăn uống, những chất bổ dưỡng theo cuống rốn dẫn
vào để nuôi thân thai nhi.
Nan Ðà! Vào bảy ngày thứ mười bốn,
trong bụng mẹ có gió tên tuyến khẩu. Gió này làm cho thai mọc ra một ngàn sợi
gân. Trước thân có 250, sau thân có 250, bên phải có 250, bên trái có 250.
Nan Ðà! Vào bảy ngày thứ mười lăm, trong bụng mẹ có gió tên liên hoa, làm
cho thai nhi hình thành hai mươi loại mạch để hấp thụ chất bổ dưỡng. Trước thân
có năm, sau thân có năm, bên phải có năm, bên trái có năm. Các mạch này có nhiều
tên và nhiều màu sắc, hoặc tên bạn, hoặc tên lực, hoặc tên thế sắc, các màu sắc
như xanh, vàng, đỏ, trắng, đậu tô, dầu lạc ... Lại có những màu xen lẫn nhau.
Nan Ðà! Hai mươi mạch này, mỗi mạch
lại có bốn mươi mạch phụ, hợp thành tám trăm mạch hấp thụ khí, ở trước
sau hai bên thân mỗi nơi có hai trăm mạch.
Nan Ðà! Tám trăm mạch này đều có một trăm đường mạch phụ thuộc, hợp lại
có tám vạn, trước sau hai bên mỗi nơi có hai vạn.
Nan Ðà, tám vạn mạch này có nhiều lỗ trống, một hai cho đến bảy lỗ. Mỗi lỗ
tiếp nối theo lỗ chân lông, như ngó sen có nhiều lỗ trống.
Nan Ðà! Vào bảy ngày thứ mười sáu, trong thai mẹ có gió tên Cam lộ hành.
Gió này có khả năng tạo điều kiện hình thành chỗ hai ổ mắt, hai tai, hai mũi,
cuống họng ngực và ức của thai nhi, làm cho thức ăn đi vào có chổ chứa lại, làm
cho thống suốt hấp thụ hơi thở vào ra. Như người thợ gốm và đệ tử lấy cục đất
sét nhuyễn đặt trên bàn quay, tuỳ theo hình dáng của vật mà nắn làm cho không bị
sai lạc. Ở đây, do gió nghiệp mà tùy chổ bố trí ổn định vị trí con mắt ... Như
vậy, cho đến làm cho hơi thở vào ra thông suốt không sai lạc.
Nan Ðà! Vào bảy ngày thứ mười bảy,
trong thai mẹ có gió tên Mao phất khẩu. Gió này làm chỗ cho chất dinh dưỡng đi
vào mắt tai mũi miệng yết hầu, ngực ức của thai nhi, làm cho nó trơn láng để
hơi thở ra vào tận nơi. Như người thợ giỏi hay đệ tử họ dùng dầu và tro chùi tấm
kính bị bụi ố,
hoặc dùng đất mịn chà làm sạch. Ở đây do gió nghiệp làm cho an trí nơi chỗ
không có trở ngại.
Nan Ðà! Vào bảy ngày thứ mười tám,
trong thai mẹ có gió tên vô cấu, làm cho sáng sạch sáu căn của thai nhi. Như
mây lớn che nhật nguyệt, có gió lớn nổi lên thổi mạnh mây tan tứ tản, làm nhật
nguyệt sáng lạn.
Nan Ðà! Sức gió nghiệp này làm cho sáng sạch sáu căn của thai cũng như vậy.
Nan Ðà! Vào bảy ngày thứ mười chín, thai nhi trong bụng mẹ hình thành bốn
căn mắt tai mũi lưỡi. Khi vào thai mẹ, trước tiên được ba căn là thân mạng và
ý. Nan Ðà! Vào bảy ngày thứ hai mươi, trong bụng mẹ có gió tên kiên cố. Gió này
làm cho chân trái sinh ra 20 đốt xương ngón chân, chân
phải cũng sinh 20 xương, bàn chân bốn xương, bắp tay hai xương, đầu gối
hai xương, đùi vế có hai xương, bàn tọa có ba xương, xương sống mười tám cái,
xương sườn có hai mươi bốn cái, bàn tay trái có hai mươi xương, bàn tay phải có
hai mươi xương, cổ tay có hai xương, tay có bốn xương, ngực có bảy xương, vai
có bảy xương, cổ sau có bốn xương, cầm có hai xương, răng có ba mươi hai cái, sọ
có bốn xương.
Nan Ðà! Như thợ làm tượng hay đệ tử ông ta, trước tiên dùng gỗ làm sườn,
sau đó quấn dây chung quanh, cuối cùng đắp đất lên làm thành hình tượng. Sức
gió nghiệp này, xếp đặt các đốt xương cũng như vậy, trừ các xương nhỏ khác.
Nan Ðà! Vào bảy ngày thứ hai mươi
mốt, trong bụng mẹ có gió tên sinh khởi, làm sinh ra thịt trên thân thai nhi.
Như người thợ hồ trước hết nhồi bùn, sau đó tô lên vách, gió này sinh thịt cũng
như vậy.
Nan Ðà! Vào bảy ngày thứ hai mươi hai, trong bụng mẹ có gió tên phù lưu.
Gió này làm cho thai nhi sinh máu.
Nan Ðà! Vào bảy ngày thứ hai mươi ba, trong bụng mẹ có gió tên phù trì.
Gió này làm cho thai nhi sinh da.
Nan Ðà! Vào bảy ngày thứ hai mươi bốn, trong thai mẹ có gió tên tư mạn.
Gió này làm cho da dẻ thai nhi bóng láng.
Nan Ðà! Vào bảy ngày
thứ hai mươi
lăm, trong bụng mẹ
có gió tên Trì thành. Gió này làm cho máu thịt thai nhi
càng thêm dồi dào.
Nan Ðà! Vào bảy ngày
thứ hai mươi
sáu,trong bụng mẹ
có gió tên
sinh thành, làm cho thai nhi sinh ra tóc lông móng tay móng chân chúng đều
liên kết với các mạch máu.
Nan Ðà! Vào bảy ngày thứ hai mươi
bảy, trong bụng mẹ có gió tên Khúc nghiệp. Gió này làm cho tóc lông móng tay
móng chân của thai nhi được hoàn thiện.
Nan Ðà! Nếu nghiệp trước đây của
thai nhi, là keo kiệt biển lận tài sản nên giữ chặt không bố thí, không nghe lời
dạy của cha mẹ sư trưởng, vì thân miệng ý tạo nghiệp bất thiện, ngày đêm tăng
trưởng thì thọ báo này:
- Sinh vào loài người thì bị quả báo không vừa ý. Nếu người đời cho dài
là đẹp thì họ bị ngắn, nếu cho ngắn là đẹp thì họ bị dài, nếu cho thô là đẹp
thì họ bị nhỏ bé, nếu cho nhỏ bé là đẹp thì họ bị thô, nếu cho chi tiết khít
nhau là đẹp thì họ bị rời rạc, nếu cho rời rạc là đẹp thì họ bị khít nhau, nếu
cho nhiều là đẹp thì họ bị ít, nếu cho ít là đẹp thì họ bị nhiều, nếu thích mập
thì họ bị ốm, nếu thích ốm thì họ mập, thích khiếp nhược thì họ dũng mãnh,
thích dũng mãnh thì họ khiếp nhược, ưa trắng thì họ đen, ưa đen thì họ trắng.
Này Nan Ðà! Lại do nghiệp ác đưa đến quả báo điếc mù câm ngọng, ngu si xấu
xí, ngôn ngữ nói ra mọi người không thích nghe, tay chân cong vẹo hình
dáng như
ngạ quỷ, thân
thuộc đều ghét
không thích nhìn đến huống
chi người khác. Có ba loại nghiệp này nên khi nói với người, họ không
tin và không để ý đến. Vì sao vậy? Do đời trước họ tạo nghiệp ác nên bị quả báo
này.
Nan Ðà! Do trước đây thai nhi có
tu tập phước nghiệp, thích bố thí thương xót người bần cùng, không có tâm tham
lam keo kiệt tài vật. Nghiệp đã làm này ngày đêm tăng trưởng, sẽ nhận ấy quả
báo tốt. Nếu sinh vào loài người thì được nhận quả báo vừa ý. Nếu người đời cho
dài là đẹp thì họ được dài, cho ngắn là đẹp thì được ngắn, thô hay nhỏ đều đúng
cỡ, các chi tiết đều thích nghi, nhiều ít mập ốm dũng mãnh khiếp nhược nhan sắc
ai thấy cũng thương mến, sáu căn đầy đủ xinh đẹp tuyệt trần, ngôn ngữ phân minh
âm thanh hòa nhã, đầy đủ tướng mạo con người, ai cũng ưa nhìn, có ba nghiệp ấy
khi nói với người, họ đều tin nhận và chú ý đến. Vì sao? Do đời trước họ tạo
thiện nghiệp nên nay được quả báo này.
Nan Ðà! Nếu thai ấy là nam thì ngồi xổm bên hông phải mẹ, hai tay ôm mặt
hướng vào xương sống của mẹ. Nếu là nữ thì ngồi xổm bên hông trái mẹ, hai tay
ôm mặt hướng ra ngoài bụng mẹ, dưới sinh tạng trên thục tạng, bị sinh vật đè xuống
thục vật đẩy lên, như trói chặt thân thể để trên cọc nhọn, mẹ ăn nhiều hay ít
thai nhi đều bị khổ não. Như vậy, nếu mẹ ăn quá béo hay quá khô cứng, quá lạnh
quá nóng, quá mặn nhạt đắng chua ngọt cay, thai nhi đều bị thống khổ. Nếu mẹ
hành dục hoặc đi nhanh, khi ngồi chỗ khó khăn, ngồi lâu, nằm lâu, nhảy nhót,
thai nhi đều bị khổ.
Nan Ðà nên biết! Thai nhi ở trong
thai mẹ có những đau khổ như vậy, sự chèn ép thân thể không thể nói hết. Loài
người còn chịu khổ như vậy huống chi khổ cực trong đường ác địa ngục khó ví dụ
được. Thế nên Nan Ðà! Ai là người trí lại thích sống trong sinh tử, nơi biển khổ vô biên chịu
ách nạn như vậy.
Nan Ðà! Vào bảy ngày thứ hai mươi tám,
thai nhi trong bụng mẹ sinh ra sáu tưởng điên đảo. Ðó là: tưởng về nhà, xe, vườn,
lầu gác, rừng cây, giường tòa, sông, ao. Những thứ ấy không thật có chỉ do vọng
tưởng phân biệt.
Nan Ðà! Vào bảy ngày thứ hai mươi chín,
trong thai mẹ có gió tên Hoa điều. Gió này thổi vào thai nhi làm cho màu sắc
thân thể trở nên trắng đẹp sáng sạch, hoặc do nghiệp lực làm cho đen đúa, hoặc
màu xanh, hoặc trở thành các loại nhan sắc xen lẫn khác, hoặc làm khô khan
không có tươi nhuận, ánh sáng trắng hay đen tùy theo màu sắc mà có.
Nan Ðà! Vào bảy ngày thứ ba mươi, trong bụng mẹ
có gió tên Thiết khẩu. Gió này thổi làm cho tóc lông móng tay móng chân thai
nhi tăng trưởng. Các màu sáng trắng đen đều tùy theo nghiệp hiện ra, như nói ở
trên.
Nan Ðà! Vào bảy ngày thứ ba mươi mốt,
trong bụng mẹ, thai nhi lớn dần. Theo như vậy đến bảy ngày thứ ba mươi hai, ba
mươi ba, ba mươi bốn, thai nhi phát triển to lớn.
Nan Ðà! Vào bảy ngày thứ ba mươi lăm, trong
thai mẹ, các chi thể của thai nhi đã đầy đủ.
Nan Ðà! Vào bảy ngày thứ ba mươi sáu, thai nhi
không thích ở trong thai mẹ nữa.
Nan Ðà! Vào ngày thứ ba mươi bảy, trong thai mẹ,
thai nhi bỗng sinh ra ba tưởng không điên đảo. Ðó là bất tịnh tưởng, xú uế tưởng,
hắc ám tưởng (nói theo như trước một phần)...
Nan Ðà! Bảy ngày thứ ba mươi tám, trong bụng mẹ có gió tên Lam hoa. Gió
này làm cho thai nhi di chuyển thân thể trở xuống, duỗi thẳng hai tay, hướng về
sản môn. Lại có gió tên Thú hạ, do nghiệp lực nên gió thổi vào thai nhi làm cho
đầu quay xuống dưới, chân hướng lên trên, sắp ra khỏi sản môn.
Nan Ðà! Nếu đời trước, thai nhi ấy có tạo nghiệp ác và làm đọa thai người,
do nhân duyên này khi sắp sinh ra, tay chân ngang ngược không nằm xuôi chiều,
và bị chết trong bụng mẹ. Khi ấy, nếu người nữ có trí tuệ hoặc thầy thuốc giỏi,
dùng dầu bơ ấm, nước vỏ cây du, và các chất trơn khác bôi lên tay, dùng ngón
tay giữa kẹp dao nhỏ thật bén, mũi nhọn sắc bén. Bên trong như hầm phẩn tối đen
hôi hám thật gớm. Có vô số vi trùng ở đó, nước hôi thường chảy ra, tinh huyết
hư thật đáng nhàm chán, da mỏng che đậy, vết thương của thân ác nghiệp này nhơ
bẩn như vậy. Ðưa tay vào đó dùng dao bén cắt thân thai nhi thành từng mảng lấy
ra ngoài. Do đó người mẹ chịu đau khổ vô cùng không vừa ý, vì vậy qua đời. Nếu
còn sống không khác gì chết.
Nan Ðà! Nếu thai nhi nhờ vào thiện nghiệp đã làm, dù có điên đảo nhưng
không gây tổn hại mẹ, an ổn sinh ra không chịu đau khổ.
Này Nan Ðà! Giai đoạn đó chỉ là tầm thường không thể so với ách nạn vào bảy
ngày thứ ba mươi tám này. Khi sắp sinh, mẹ chịu khổ lớn, tính mệnh gần như chết
mới sinh được thai.
Này Nan Ðà! Ông hãy quán sát kỹ để câu xuất ly.
Phật lại bảo Nan Ðà:
- Thai nhi vừa sinh ra rất cực khổ.
Nam hay nữ khi mới sinh được đặt vào tay người, dùng tả quấn lại suốt ngày để tại
nơi bóng mát, hoặc trên nôi lắc, hoặc trên giường chiếu, bị ôm trong lòng nên
phải chịu nhiều khó chịu cực khổ.
Nan Ðà! Như trâu bị lột da ở gần
tường thì bị trùng ở tường rúc rỉa, ở gần cỏ cây thì trùng ở cỏ cây rúc rỉa, gần
chỗ trống thì các loại trùng khác rúc rỉa, đều bị đau đớn, khi mới sinh cũng vậy.
Dùng nước nóng tắm rửa, em bé phải chịu đau khổ, như người bị hủi da dẻ lở lói
máu mủ tuôn ra, lại bị đánh đập bằng gậy, chịu khổ vô cùng. Ðứa bé mới sinh phải
uống máu đục của mẹ mới lớn lên được. Này Nan Ðà! Sữa mẹ trong Thánh Pháp Luật
gọi là máu đục.
Này Nan Ðà! Cực khổ như vậy thật
vô cùng chẳng có chút nào vui cả, có người
trí nào lại
luyến ái với biển khổ
này để bị
lưu chuyển mãi
không ngừng nghỉ. Sinh được bảy ngày, trong thân có tám vạn hộ trùng
tung hoành ăn rỉa.
Nan Ðà! Có một loại hộ trùng tên
ăn tóc, sống ở chân tóc và ăn tóc. Có hai loại hộ trùng: Một tên Trượng tạng, một
tên Thô đầu, sống tên đầu và ăn ở đó. Có một loại hộ trùng tên Nhiễu nhãn, sống
trong mắt và ăn ở mắt. Có bốn loại hộ trùng: Một tên Khu trục, hai tên Bôn tẩu,
ba tên Ốc trạch, bốn tên Viên mãn sống ở não và ăn não. Có một loại hộ trùng tên
Ðạo diệp, sống trong tai và ăn tai. Có một loại hộ trùng tên Tàng khẩu sống
trong mũi và ăn mũi. Có hai loại hộ trùng: Một tên Diêu trịch, hai tên Biến trịch
sống ở môi và ăn môi. Có một loại hộ trùng tên Mật diệp,
sống ở răng và ăn răng. Có một loại trùng tên Mộc khẩu, sống ở chân răng và ăn
chân răng. Có một loại trùng tên là Châm khẩu, sống ở lưỡi và ăn lưỡi. Có một
loại hộ trùng tên Lợi khẩu sống ở chân lưỡi và ăn chân lưỡi. Có một loại hộ
trùng tên là Thủ viên sống trong răng và ăn ở đó. Có hai loại hộ trùng: Một tên
Thủ cương, hai tên Bán khuất, sống nơi bàn tay và ăn bàn tay. Có hai loại hộ
trùng: Một là Ðoản huyền, hai là Trường huyền, sống ở cổ tay và ăn ở đó. Có hai loại
trùng: Một là Viễn tý, hai là Cận tý, sống ở tay và ăn tay. Có hai loại trùng:
Một là Dục thôn, hai là Dĩ thôn, sống ở yết hầu, ăn yết hầu. Có hai loại hộ
trùng: Một là oán, hai là Ðại oán, sống ở ngực, ăn ở ngực. Có hai loại hộ
trùng: Một là Luy bối, hai là Luy khẩu, sống trong thịt ăn thịt. Có hai loại hộ
trùng: Một là hữu sắc, hai là Hữu lực, sống trong máu ăn máu. Có hai loại
trùng: Một là Dũng kiện, hai là Hương khẩu, sống trong gân ăn gân. Có hai loại
hộ trùng: Một là bất cao, hai là hạ khẩu, ở xương sống, ăn xương sống. Có hai
loại hộ trùng: đều tên là Chỉ sắc, sống trong mỡ ăn mỡ. Có một loại trùng tên
là Màu vàng, sống theo màu vàng ăn màu vàng. Có một loại trùng tên Chân châu, sống
ở thận ăn thận. Có một loại trùng tên là Ðại chân châu, sống ở eo và ăn eo. Có một loại hộ trùng tên Vị chí ở bàn tọa ăn bàn tọa. Có
bốn loại trùng: Một tên Thủy mạng, hai tên Ðại thủy mạng, ba tên Châm khẩu, bốn
tên Lực khẩu, sống trong ruột ăn ruột. Có năm loại hộ trùng: Một tên Nguyệt
mãn, hai tên Nguyệt diện, ba tên Huy hoàng, bốn tên Huy diện, năm tên biệt trú,
sống bên hông phải và ăn ở đó. Lại có năm loại trùng: Tên giống như trên, sống
bên hông trái và ăn ở đó. Có bốn loại trùng: Một tên Xuyên tiền, hai tên Xuyên
hậu, ba tên Xuyên kiên, bốn tên Xuyên trú, sống trong xương và ăn xương. Có bốn
loại hộ trùng: Một tên Ðại bạch, hai tên Tiểu bạch, ba tên Trùng vân, bốn tên
Xú khí, sống theo mạch và ăn
mạch. Có bốn hộ trùng: Một là Sư tử, hai là Bị lực, ba là
Cấp tiễn, bốn là Liên hoa, sống trong sinh tạng và ăn sinh tạng. Có hai loại
trùng: Một là An chí, hai là Cận chí, sống trong thục tạng và ăn thục tạng. Có
bốn hộ trùng: Một là Diêm khẩu, hai là Uẩn khẩu, ba là Võng khẩu, bốn là Tước
khẩu, sống nơi đường tiểu, ăn nước tiểu mà sống. Có bốn hộ trùng: Một tên Ưng
tác, hai tên Ðại tác, ba tên Tiểu hình,
bốn tên Tiểu kích, sống trong đường đại
tiện, ăn phẩn để sống. Có hai hộ trùng: Một tên Hắc khẩu, hai tên Ðại khẩu, sống
ở đùi vế ăn đùi vế. Có hai hộ trùng: Một tên lại, Hai tên tiểu lại, sống ở đầu
gối ăn đầu gối. Có một hộ trùng tên Ngu căn, sống ở bắp chân ăn bắp chân. Có một
hộ trùng tên Hắc cảnh, sống ở dưới chân, ăn dưới chân.
Nan Ðà! Thân thể như vậy thật đáng nhàm chán. Thân thể bằng sắc chất này
thường có tám vạn hộ trùng ngày đêm ăn nuốt. Do đó, làm cho thân thể bị nóng bức,
gầy ốm, mệt mỏi, đói khát. Lại nữa, trong tâm có biết bao khổ não âu sầu buồn
phiền ... các bệnh hiện hữu mà không có lương y nào có thể trị liệu được.
Này Nan Ðà! Trong biển hữu lớn sinh tử
có khổ não như vậy, tại sao sinh ưa thích sống trong ấy? Lại nữa sinh mạng bị
các thần các bệnh nắm giữ, đó là Thiên thần, Long thần, Bát bộ và các quỷ thần
cho đến Yết thát bố đơn na, hoặc bị các cầm thú quỷ quái
khác nắm giữ,
hoặc bị nguy
ách bởi nhật nguyệt các sao. Các loại quỷ thần này
gây ra bệnh hoạn, hành hạ gây khổ thân không thể nói cho hết được.
Ðức Phật bảo Nan Ðà:
-
Ai đối với sinh tử lại ưa thích vào thai mẹ để chịu khổ cực vô cùng. Sinh thành
như vậy, trưởng thành như vậy, uống máu sữa mẹ vọng tưởng là ngon, và uống các thứ khác dần dần trưởng thành. Giả sử
thân thể được an lạc không bệnh, ăn mặc vừa ý, sống hết trăm năm, cũng đã ngủ gần
một nữa đời sống. Trước tiên là trẻ sơ sinh, sau đó là đồng tử, dần dần trưởng
thành bị ưu buồn khổ nạn áp bức. Vô lượng khổ não quấy nhiễu thân thể, không thể
nói hết. Trong thân, khi bị các khổ không chịu nổi thì không muốn sống nữa, ý
chỉ muốn chết. Thân như vậy có khổ nhiều vui ít, tuy duy trì tạm thời, nhưng chắc
sẽ hoại diệt.
Này Nan Ðà! Sinh đều phải chết, không có trường tồn. Giả sử dùng thuốc,
thức ăn để nuôi dưỡng mạng sống kéo dài nhiều năm, cuối cùng cũng không thể
thoát khỏi bị thần chết giết hại, bỏ ra đồng trống. Vì vậy, đời sống này thật không
đáng thích thú,
nên chuyên cần
tích tụ tư
lương cho đời
sau, không nên phóng dật, siêng tu tập phạm hạnh chớ nên lười biếng
; Thường nên thích thú tu tập lợi hạnh, pháp hạnh, công đức hạnh, thuần thiện hạnh.
Tự thân luôn quán sát hai nghiệp thiện ác, giữ gìn tâm ý, chớ để sau này hối hận
lớn. Tất cả những gì đáng ưa thích, đều phải biệt ly, tuỳ theo nghiệp thiện ác
đưa đến đời sau.
Nan Ðà! Ðời sống một trăm năm, có mười giai đoạn. 1- Khi là trẻ sơ sinh nằm
trong tả lót. 2- Ðồng tử thích đùa giỡn theo trẻ em. 3- Thiếu niên, cảm thọ các
dục lạc. 4- Thiếu tráng mạnh khỏe sung sức. 5- Thịnh niên có trí đàm luận. 6-
Ðã trưởng thành có thể suy nghĩ đúng, tính toán giỏi. 7- Tay nghề và trí thức cạn
dần. 8- Tuổi già, các việc suy nhược. 9- Quá già không làm gì được. 10- Trăm tuổi là chờ chết.
Nan Ðà! Nói những giai đoạn lớn, đại
khái là như vậy. Nếu tính bốn tháng là một mùa thì một trăm năm có ba trăm mùa.
Mỗi mùa Xuân, Hạ, Ðông đều có một trăm lần. Một năm có mười hai tháng, tổng số
tháng trong một trăm năm là một ngàn hai trăm tháng. Nếu tính theo nữa tháng
thì tổng số có 2400 lần nữa tháng. Trong ba thời đều có 800 lần nữa tháng. Tổng
số có ba vạn sáu ngàn ngày đêm. Mỗi ngày ăn hai lần, tổng số có bảy vạn hai
ngàn lần ăn, tuy có lúc không ăn nhưng cũng nằm trong số này. Lý do không ăn
có: Sân hận nên không ăn, gặp khổ nên không ăn, mong cầu nên không ăn, khi ngủ
nghỉ, giữ trai giới, vui đùa cũng không ăn, bận việc nên không ăn.
Ăn hay không ăn, cộng lại có số lượng
như trên, cùng với uống sữa mẹ. Ta đã nói đầy đủ về số lượng năm tháng ngày đêm
ăn uống của mạng người trong một trăm năm, ngươi nên sinh tâm nhàm chán.
Nan Ðà! Như vậy từ khi sinh ra đến khi trưởng thành, thân có nhiều bệnh.
Ðó là: Ðầu, mắt, tai, mũi, lưỡi, răng, yết hầu, ngực, bụng, tay, chân, ghẻ, hủi,
điên cuồng, phù thủng, ho hen, phong vàng, tim bị nhiệt, nhiều loại bệnh sốt
rét, thân thể đau nhức.
Này Nan Ðà! Trong thân người
có những bệnh khổ như vậy. Lại có 101 bệnh về phong, 101 bệnh về hoàng,
101 bệnh về đàm nhiệt, 101 các bệnh tổng hợp, gom lại có 404 bệnh sinh ra từ
bên trong. Nan Ðà! Thân như vết thương bị tên bắn do các bệnh gây ra, không ngừng
nghỉ trong một niệm nào
cả. Thân thể là vô thường khổ
không vô ngã, luôn sống chung với pháp hư hoại tử vong, nên không nên yêu mến
gìn giữ.
Nan Ðà! Các chúng sinh phải bị các đau khổ trong đời sống như chặt tay
chân mắt tai mũi lưỡi đầu và các chi thể, lại bị gông cùm xiềng xích đánh đập
tra khảo trong ngục, đói khát làm khổ, lạnh nóng mưa tuyết, ruồi muỗi, gió bụi,
mãnh thú, bị các loại độc tiếp xúc gây nhiều khổ não vô lượng vô biên, không thể
nói hết được. Hữu tình thường yêu thích đắm chìm trong sự khổ đau bền vững này.
Các dục làm gốc cho khổ, không biết vứt bỏ lại còn tìm cầu. Ngày đêm nung nấu
áp bức làm cho thân tâm khổ não, thiêu đốt không ngừng từ bên trong. Như vậy là
khổ về
sinh, già, bệnh, chết,
yêu không được gặp, oán ghét gặp nhau, mong cầu không được, khổ về năm
thủ ấm.Trong bốn uy nghi đi đứng nằm ngồi cũng đều là khổ. Nếu thường đi, không
đứng ngồi nằm thì có cảm giác khổ khó chịu. Nếu chỉ đứng không đi ngồi nằm,
hay chỉ ngồi không đi đứng nằm,
hay chỉ nằm không đi đứng ngồi, đều
cảm thấy cực khổ không an lạc.
Nan Ðà! Những việc này đều là bỏ khổ lại cầu khổ, chỉ là sự sinh và diệt
của khổ. Do nhân duyên, các hành tương tục phát sinh. Như
Lai liễu tri nên giảng thuyết về pháp sinh tử của hữu
tình. Các hành vô thường, không phải là cứu cánh chân thật, là pháp biến hoại
không thể giữ gìn, nên cầu biết đủ, sinh tâm nhàm chán, siêng cầu giải thoát.
Nan Ðà! Hữu tình trong các nẻo thiện có sinh xứ bất tịnh khổ cực như vậy
với biết bao sự dối trá không nói hết được. Huống chi nói đến các hữu tình khác
như ngạ quỷ, bàng sinh, địa ngục trong ba nẻo ác, nói không thể hết những khổ sở
bệnh hoạn không thể chịu nổi.
Lại nữa, này Nan Ðà! Có bốn trường hợp vào thai. Ðó là:
1- Hữu tình chánh niệm vào,
chánh niệm ở, chánh niệm xuất thai.
2- Chánh niệm vào, chánh niệm ở
thai, nhưng khi xuất thai không chánh niệm.
3- Chánh niệm vào thai nhưng
không chánh niệm khi ở và xuất thai.
4- Cả ba giai đoạn đều không chánh
niệm.
Hạng nào chánh niệm khi vào, ở và xuất? Như có một loại phàm phu hữu tình
tính thích trì giới, thường tu tập thiện pháp, ưa thích thắng sự, làm các việc
phước, rất khéo phòng hộ, luôn suy nghĩ chân thật, không sống phóng dật, có trí
tuệ lớn, lâm chung không hối hận liền thọ sinh ngay, hoặc là bậc Dự Lưu bảy lần
sinh, hoặc là bậc Gia gia, hoặc là Nhất lai, hoặc là Nhất gian. Người này trước
đây nhờ tu tập thiện hạnh, khi lâm chung có bị khổ áp bức, chịu nhiều đau đớn,
nhưng tâm không tán loạn, chánh niệm qua đời. Họ lại chánh niệm khi vào thai mẹ,
liễu tri các pháp do nghiệp mà sinh, đều từ nhân duyên mà sinh khởi, thường
cùng các bệnh làm chổ cư trú.
Nan Ðà, nên biết! Thân này là hầm chứa tất cả bất tịnh, bản chất vô thường,
là vật ngu si, dối gạt người mê. Thân này nhờ bộ xương làm phần chính kết nhau,
gân mạch thông đến các huyệt, mỡ thịt xương tủy ràng buộc với nhau, với lớp da
che đậy ở trên nên không thấy lỗi của chúng. Trong thân thể như cái hầm nóng
này, bất tịnh đầy tràn, với những tóc lông móng răng ở vị trí khác nhau, ta chấp
cho đó là ngã ngã sở nên thường bị chúng lôi kéo không được tự do. Thân này thường
chảy ra mũi dãi, những chất nhơ bẩn, nước vàng, đàm nóng, mỡ mồ hôi hư thối. Thận,
mật, gan, phổi, ruột già, ruột non, phẫn,
nước tiểu thật đáng gớm, có các loại trùng sống đầy bên trong. Lỗ trên,
lỗ dưới thường chảy ra chất hôi hám. Sinh thục hai tạng được che đậy bằng da mỏng,
là nơi nhà xí, ngươi nên quán sát chúng. Khi nhai thức ăn, hàm răng cắn thức
ăn, thấm ướt với nước miếng, nuốt vào trong cổ họng, hoà với tủy não trôi vào
trong bụng. Với bộ xương khô lớn kết nhau, vọng tưởng cho là đẹp. Thức ăn nuốt
xuống dưới rốn, ói lên trên, lại nuốt xuống dưới.
Này Nan Ðà! Thân này đầu tiên từ yết la
lam, át bộ đà, bế thi, kiện nam, bát la xa khư, vật ô uế bất tịnh mà được sinh
trưởng. Từ lúc sơ sinh chuyển dần đến già chết, bị trói buộc trong luân hồi,
như trong hầm tối đen, giếng hôi thối, thường được nuôi dưỡng bằng thức ăn với
các vị mặn nhạt đắng cay chua. Lại nữa, sức nóng trong thai mẹ thiêu đốt thân
căn thai nhi, trong nồi bất tịnh thường bị khổ nóng. Khi mẹ đi đứng ngồi nằm,
thai nhi như bị năm chỗ trói, như nướng trên lửa, thật khó chịu nổi, không ví dụ
được.
Nan Ðà! Thai nhi tuy ở trong hầm phẩn
nhơ như vậy, bị nhiều đau khổ, nếu do lợi căn, thì tâm không tán loạn. Lại có một
loại hữu tình bạc phước, nằm ngang hay ngược trong thai mẹ, vì do sức nghiệp đời
trước đã tạo, hoặc do mẹ ăn các thúc ăn lạnh nóng mặn chua ngọt cay đắng, không
điều hòa, hoặc uống nước quá nhiều, hoặc hành dâm quá nhiều, hoặc nhiều tật bệnh,
hoặc nhiều sầu não, hoặc khi bị té ngã, hoặc bị đánh, nên thân thể mẹ bị nóng sốt.
Do thân mẹ bị sốt nên thai cũng nóng theo, và chịu nhiều khổ não vì nóng. Thai
nhi bị khổ nên chuyển động, nên thân nằm ngang không thể ra ngoài. Như có người
phụ nữ giỏi biết cách, dùng bơ dầu thoa vào tay đưa vào lỗ nhơ bẩn kia, nhẹ
nhàng xếp thai về vị trí cũ. Khi tiếp xúc với tay người, thai nhi bị rất đau đớn.
Nan Ðà! Ví như với em bé nam hay nữ, bị người
dùng dao bén cắt xẻ da thịt rồi rắc tro lên nên rất khổ não ; Thai nhi khổ sở
cũng như vậy. Tuy bị đau khổ này, nhưng do lợi căn nên thai nhi chánh niệm
không tán loạn.
Nan Ðà! Ở trong bụng mẹ, thai nhi này chịu
khổ cực như vậy. Khi sắp sinh, thai ra khỏi mẹ rất khổ cực, do gió nghiệp của
nó làm cho tay nắm lại, các chi thể cuộn lại rất đau đớn. Khi sắp ra khỏi thai
mẹ, thân thai nhi bị sưng tái xanh, như bị ung nhọt sưng lên không thể chạm
vào, bị đói khát hành hạ, nóng bức trói tâm. Do nhân duyên của nghiệp, thai nhi
bị gió đẩy ra, khi đã ra rồi bị gió bên ngoài chạm vào thân như bôi tro vào vết
thương. Tay và áo chạm nhau, đều bị đau khổ. Tuy bị khổ này,
nhưng là hạng lợïi
căn bậc thượng nên chánh niệm không tán loạn. Trong bụng mẹ, hữu tình khi vào,
trú, xuất thai đều bị khổ. Nan Ðà! Ai lại
ưa thích vào trong thai như vậy?
Nan Ðà! Hạng nào chánh niệm khi vào, khi
trú nhưng không chánh niệm khi xuất thai? Có một loại hữu tình, tính thích trì
giới tu tập thiện pháp, thường vì thắng sự làm các việc phước. Tâm họ chất trực,
không làm việc phóng dật, có ít trí tuệ, khi lâm chung không hối hận, hoặc là bậc
Thất sinh Dự lưu, hoặc là bậc Gia gia, hoặc là Nhất lai, hoặc là Nhất gian. Người
này trước đó có tu tập thiện hạnh, khi lâm chung tuy có bị khổ hành hạ, chịu
nhiều phiền não, nhưng tâm không tán loạn, khi tái sinh vẫn chánh niệm vào thai
mẹ, rõ biết các pháp do nghiệp mà sinh, đều sinh khởi từ nhân duyên ... như trước
... cho đến khi xuất thai tuy chịu nhiều khổ sở nhưng là hạng lợi căn bậc trung
nên nhập và trú thai chánh niệm, xuất thai không chánh niệm ... (nói rộng như
trên, cho đến) ai lại ưa thích vào trong
thai mẹ như vậy ?.
Nan Ðà! Hạng nào chánh niệm vào thai
nhưng không chánh niệm khi trụ và xuất?
Nan Ðà! Có một hạng hữu tình phàm phu,
tính trì giới tu tập thiện pháp, thường vì thắng sự làm các việc phước ... (như
trên ... cho đến) lâm chung không hối hận, hoặc là Thất sinh Dự lưu ... khi lâm
chung vẫn bị các khổ hành hạ, tuy bị thống khổ nhưng tâm không tán loạn, chánh
niệm tái sinh ngay vào thai mẹ. Do là hạng lợi căn bậc hạ nên khi vào thai mẹ
thì biết nhưng khi trụ, xuất thì không biết, (nói rộng như trên ... cho đến) ai
muốn vào thai như vậy?
Nan Ðà! Hạng nào khi vào, trụ, xuất thai đều
không chánh niệm? Có một hạng hữu tình phàm phu ưa hủy tịnh giới không tu tập
thiện pháp thường vì việc ác làm các pháp ác, tâm không chân thật, thường hành
động phóng dật, không có trí tuệ, tham lam tài sản, tay thường nắm của cải lại
không thả ra để đem cho người khác, luôn luôn hy vọng, tâm ý rối ren, thấy và
làm điên đảo. Khi lâm chung, họ hối hận, các nghiệp không thiện đều hiện ra hết,
lúc chết rất đau đớn bị thống khổ hành hạ, tâm ý tán loạn, vì các khổ não nên
không tự nhớ biết ta là ai, từ đâu đến đây và đang đi về đâu. Nan Ðà! Ðó là
không chánh niệm cả trong ba giai đoạn, (nói rộng như
trên).
Nan Ðà! Những hữu tình này sinh trong
loài người, tuy có vô số khổ não như vậy, nhưng đó là chỗ thắng xứ, trong vô lượng
trăm ngàn cu đê kiếp khó được làm thân người. Nếu sinh lên trời, thường sợ rơi
vào khổ yêu thương phải xa lìa. Khi sắp qua đời, các vị thiên khác bảo: - Cầu
cho bạn được sinh vào thiện xứ trong thế gian.
Thiện xứ
trong thế gian là gì? Ðó là cõi trời người. Thân người
khó được, xa lìa các nạn xứ lại càng khó hơn. Thế nào là đường ác? Có ba đường
ác là:
1-
Ðường địa ngục : thường bị khổ khốc liệt,
không vừa ý, khổ sở
ghê gớm không thể ví dụ được.
2-
Ðường ngạ quỷ, tính
tình nhiều sân hận, không có tâm nhu hòa, dối trá sát hại nhau tay bôi đầy máu,
không có tâm từ. Hình dáng chúng xấu xí, ai thấy cũng sợ hãi. Giả sử gần với
người thì bị chướng ngại bởi khổ luôn luôn đói khát.
3-
Loài bàng sinh có nhiều
vô lượng vô biên, làm việc vô nghĩa, việc vô phước, việc phi pháp, việc bất thiện,
việc dối trá, ăn nuốt lẫn nhau, lớn lấn hiếp bé. Có những loại bàng sinh từ khi
sinh ra, lớn lên và chết đi đều sống trong chổ tối tăm bất tịnh phẩn tiểu nhơ bẩn,
hoặc có thấy ánh sáng trong thời gian ngắn như các loại ong, bướm, ruồi, muỗi,
bọ chét, rận, giòi ... Ngoài ra còn có vô lượng vô biên loại sinh trưởng luôn
luôn trong tối tăm, do đời trước họ là kẻ ngu si, không nghe kinh pháp, buông
ung thân miệng và ý, tham đắm năm dục gây các việc ác, sinh trong loại này chịu
khổ ngu mê.
Nan Ðà! Lại có vô lượng vô biên hữu tình
bàng sinh, sinh và lớn lên trong nước. Ðó là: Cá, ba ba, rùa, trạnh, lươn, đỉa,
trai, nghêu, ễnh-ương. Do đời trước, thân miệng ý gây ác ... như nói ở trước.
Này Nan Ðà, lại có vô lượng vô biên hữu tình bàng sinh, nghe mùi phân, nước tiểu,
vội đến chỗ ấy để ăn uống. Ðó là các loại cầm thú như: heo, dê, gà, chó, cáo, hạc,
điêu, kên kên, quạ, ruồi, bọ hung. Chúng đều do nghiệp ác đời trước đã tạo, nay
nhận lấy quả báo này.
Nan Ðà! Lại có vô lượng vô biên các loại bàng
sinh thường lấy cỏ cây, các loại bất tịnh làm thức ăn, như voi, ngựa, lạc đà,
bò, lừa, la ... cho đến qua đời đều do ác nghiệp trước đây nên chịu quả báo
này. Lại nữa, này Nan Ðà! Khổ thay, đau đớn thay sự sinh tử trong biển hữu với
lửa cháy rực rỡ rất nóng bức, không một chúng sinh nào chẳng bị thiêu đốt. Ðây
đều do lửa ở mắt tai mũi lưỡi thân ý bốc cháy rực rỡ vì tham cầu cảnh sắc thanh
hương vị xúc pháp ở trước.
Nan Ðà! Vì sao gọi là lửa bốc cháy rực rỡ?
Ðó là lửa tham sân si, lửa sinh lão bệnh tử, lửa ưu bi khổ não độc hại, thường
tự thiêu đốt không ai thoát khỏi cả.
Nan Ðà! Người biếng nhác chịu nhiều thống
khổ, phiền não trói buộc, làm theo pháp ác, luân hồi không ngừng, sinh tử mãi
mãi. Người tinh tấn được nhiều an lạc, phát tâm dũng mãnh, đoạn trừ phiền não,
tu tập thiện pháp, không lúc nào rời bỏ việc thiện.
Thế nên, ngươi
hãy quán sát
thân này, không bao lâu nữa da thịt
gân cốt máu mạch tủy sẽ tan rã, nên thường nhất tâm chớ nên biếng nhác, chưa chứng
ngộ cầu chứng ngộ, nên học như vậy.
Nan Ðà!
Ta không tranh luận với thế gian, nhưng thế gian cố tranh luận với Ta. Vì sao?
Những người biết pháp không tranh luận với người khác, đã thoát ly ngã và ngã sở
vậy tranh luận vì ai? Người không có
kiến giải nên sinh ra chấp trước sai lầm. Ta chứng Chánh Giác nên tuyên bố như
vậy vì Ta đã liễu tri tất cả các pháp. Nan Ðà! lời Ta nói có sai khác
không?
Nan Ðà thưa:
-
Bạch Thế Tôn! Không! Lời đức Như Lai dạy không sai.
Phật dạy:
-
Lành thay! Lành thay! Nan Ðà! Lời nói của Như Lai chắc chắn không sai. Lời nói
của Như Lai là lời nói đúng, nói thật, nói chính xác, nói không sai khác, nói
không dối trá, muốn làm cho thế gian mãi mãi an lạc được thắng lợi lớn. Ta là bậc
Tri đạo, bậc Thức đạo, bậc Thuyết đạo, bậc Khai đạo, bậc Ðại đạo sư, là bậc Như
Lai, Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế
Tôn.
Người đời không biết, không tin, nên thường
làm nô lệ cho các căn, chỉ thấy trong phạm vi bàn tay chứ không xét đến lợi ích
lớn, không sửa việc dễ, thích làm việc
khó.
Nan Ðà! Tạm gác cảnh giới trí tuệ này
qua một bên, ngươi hãy dùng cái thấy của mắt thịt mà quán sát, biết rõ sự thấy
đều là hư vọng, thì được giải thoát.
Nan Ðà!
Ngươi chớ tin theo cá nhân Ta, chớ tùy theo theo ý muốn của Ta, chớ y theo lời
Ta nói, chớ nhớ đến hình tướng của Ta, chớ lệ thuộc theo kiến giải của Sa-môn,
chớ sinh cung kính vì là Sa-môn, chẳng cần nói rằng Sa-môn Kiều Ðáp Ma là đại
sư của tôi, nhưng chỉ cần đối với pháp mà Ta đã chứng đắc, ở riêng nơi chỗ vắng,
tư duy quán sát, thường xuyên tu tập, tùy theo sự dụng tâm đối với pháp cần
quán sát, quán tưởng thành tựu pháp ấy, sống trong chánh niệm, tự mình làm hòn
đảo cho mình, tự mình làm chỗ quy y cho mình, lấy pháp làm hòn đảo, lấy pháp
làm chỗ quy y, không có dựa vào hòn đảo hay chỗ quy y nào khác.
Như vậy, này Nan Ðà! Nếu có Bí-sô nào tự
quán sát trong thân, tinh cần hệ niệm được chánh giải thoát, đối với các sân
não trong thế gian, thường tư duy điều phục. Ðó là quán sát khổ trong nội thân,
quán ngoại thân, quán nội ngoại thân cũng như vậy. Thứ đến quán tập pháp trong
thân, quán diệt pháp trong thân. Thứ đến quán sát tập diệt hai pháp trong thân,
tức luôn chánh niệm ngay trong thân này, hoặc chỉ với trí, hoặc chỉ với kiến,
hoặc chỉ với niệm, không trụ vào nơi nào cả, đối với thế gian này biết rõ không
thể chấp thủ.
Như vậy, này Nan Ðà! Ðó là Bí-sô tự mình sống
quán trên nội thân, quán trên ngoại thân, trên nội ngoại thân cũng vậy. Thứ đến
tự mình sống quán trên nội thọ, ngoại thọ, nội ngoại thọ. Tự mình sống quán
trên nội tâm, ngoại tâm, nội ngoại tâm. Tự mình sống quán trên nội pháp, ngoại
pháp, nội ngoại pháp, tinh cần hệ niệm đắc chánh giải thoát. Ðối với các sân hận
phiền não trong thế gian, thường tư duy điều phục, sống quán sát trên tập pháp,
quán sát trên diệt pháp.
Lại nữa, sống quán pháp trên hai pháp tập
và diệt, ngay trên thân này luôn luôn chánh niệm hoặc chỉ có trí, hoặc chỉ có
kiến, hoặc chỉ có niệm, đối với những gì ở thế gian biết rõ không thể chấp thủ.
Như vậy, này Nan Ðà! Ðó là Bí-sô tự mình
làm hòn đảo, tự mình làm chỗ quy y cho mình, lấy chánh pháp làm hòn đảo, lấy
pháp làm chỗ quy y cho mình, không có hòn đảo khác, không quy y chỗ khác. Này
Nan Ðà! Có bậc trượng phu nào bẩm tánh chất trực, xa lìa dối trá, vào sáng sớm
đến gặp Ta, Ta sẽ tùy theo căn cơ, chỉ dạy giáo pháp. Vào buổi chiều, vị ấy tự
trình bày sở đắc. Ðược dạy vào buổi chiều, vị ấy trình bày sở đắc vào buổi sáng
sau.
Nan Ðà! Thiện pháp của Ta đưa đến chứng
ngộ trong hiện tại, trừ diệt phiền não, khéo thích ứng thời cơ, phương pháp thuận
tiện, là pháp tự giác, được che chở hoàn toàn, tự mình đến nghe pháp của Ta
thuyết, thuận với tịch tịnh, có thể đưa đến Bồ Ðề, là chỗ hiểu biết của Ta. Thế
nên, thấy pháp nào có tự lợi, có tha lợi và có lợi cho cả hai, đối với những
pháp ấy ông hãy thường tu học, đối với pháp xuất gia phải cẩn thận hành trì chớ
để đời sống trôi qua một cách trống rỗng, phải đạt được thắng quả vô vi an lạc,
nhận các vật cúng dường như thức ăn, y phục, đồ nằm, thuốc thang ... của người
khác phải làm cho thí chủ được phước lợi lớn, chứng đắc thắng quả tôn quý to lớn.
Này Nan Ðà, cần phải học như vậy.Lại nữa,
này Nan Ðà! Có một sắc nào đáng ưa thích mà sau đó không bị tan hoại, việc ấy
không có; không sinh ưu buồn phiền não là không có.
Nan Ðà! Ông nghĩ thế nào? Sắc này là thường
hay vô thường?
- Bạch Thế Tôn! Thể của sắc là vô thường.
- Nan Ðà! Thể đã vô thường vậy có khổ
không?
-
Bạch Thế Tôn! Là khổ.
-
Nếu vô thường khổ là pháp biến hoại, các chúng thánh đệ tử đa văn của ta có cho
sắc là ngã, ngã có các sắc, sắc thuộc ngã, ngã trong sắc không?
- Bạch Thế Tôn! Không.
-
Ý ông nghĩ sao! Thọ, tưởng, hành, thức là thường hay vô thường?
-
Bạch Thế Tôn! Chúng đều là vô thường.
-
Này Nan Ðà! Bản chất là vô thường vậy có khổ không?
-
Bạch Thế Tôn! Là khổ.
-
Nếu vô thường khổ là pháp thay đổi, chúng Thánh đệ tử đa văn của Ta có cho thọ
... là ngã, ngã có thọ ..., thọ ... thuộc ngã, ngã trong thọ ... không?
- Bạch Thế Tôn! Không.
-
Thế nên biết rằng phàm là các sắc ở quá khứ, vị lai, hiện tại, trong, ngoài,
thô, tế, thắng, kém, xa, gần, các sắc ấy đều không phải là ngã, ngã không có sắc,
sắc không thuộc ngã, ngã không ở trong sắc. Như vậy, cần phải dùng chánh niệm,
chánh tuệ mà quán sát kỹ. Thọ, tưởng, hành, thức ở quá khứ, vị lai, hiện tại,
trong, ngoài, thô, tế, thắng, kém, xa, gần, đều không phải là ngã, ngã cũng chẳng
phải là chúng, ngã cũng không ở trong chúng. Như vậy nên dùng chánh niệm chánh
tuệ mà quán sát kỹ.
Nếu chúng đa văn Thánh đệ tử của Ta quán
sát như vậy thì nhàm chán với sắc, nhàm chán với thọ, tưởng, hành, thức. Nếu đã
nhàm chán thì không còn đắm nhiễm, không đắm nhiễm thì giải thoát, đã giải
thoát thì tự biết giải thoát, tuyên bố: Ta sinh đã tận, phạm hạnh đã lập, việc
làm đã xong, không
nhận nghiệp nữa.
Khi Thế Tôn thuyết pháp này xong, Cụ thọ
Nan Ðà viễn ly trần cấu đắc pháp nhãn tịnh. Năm trăm Bí-sô đối với các hữu lậu,
tâm được giải thoát.
Thế Tôn lại nói kệ bảo Nan Ðà: