Thursday, December 26, 2013

TRỊ BỆNH _ HT Thanh Từ

Hành giả chuyên tâm tu hành, hoặc tứ đại có bệnh là vì dùng quán tâm, quán hơi thở kích động bệnh cũ
phát khởi. Hoặc không khéo điều hòa ba việc - thân, tâm, hơi thở - trong, ngoài có chỗ sai suyễn, cho nên
có bệnh hoạn. Phàm phương pháp tọa thiền nếu khéo dụng tâm thì bốn trăm lẻ bốn bệnh tự nhiên lành, nếu
dụng tâm sai suyễn thì bốn trăm lẻ bốn bệnh nhân đó phát sanh. Thế nên, nếu tự tu hay dạy người tu, phải
khéo biết gốc bệnh, phải khéo biết phương pháp dùng nội tâm trị bệnh trong lúc tọa thiền. Một phen phát
bệnh chẳng những chướng ngại sự tu hành, còn lo mất mạng là khác.
Nay nói về pháp trị bệnh có hai ý:
1. Tướng bệnh phát khởi.
2. Phương pháp trị bệnh.
1. Tướng bệnh phát khởi:
Bệnh phát tuy có nhiều cách, lược nói không ngoài hai thứ:
Tướng bệnh do tứ đại tăng giảm:
Nếu địa đại tăng thì mắc bệnh thủng kiết trầm trọng, thân thể khô gầy, như thế một trăm lẻ một bệnh sanh.
Nếu thủy đại tăng thì đàm ấm dẫy đầy, ăn uống không tiêu, đau bụng, hạ hơi v.v... một trăm lẻ một bệnh
sanh. Nếu hỏa đại tăng thì chợt lạnh, chợt nóng toàn thân đau nhức, hôi miệng, đại tiểu không thông v.v...
một trăm lẻ một bệnh sanh. Nếu phong đại tăng thì thân thể lơ lửng như treo trên không, lăn lộn đau nhức,
phổi sưng thở gấp, ụa mửa mệt lã, như thế v.v... một trăm lẻ một bệnh sanh. Cho nên trong kinh nói: "Một
đại không điều hòa thì một trăm lẻ một bệnh sanh, tứ đại không điều hòa thì bốn trăm lẻ bốn bệnh đồng
khởi". Tứ đại phát bệnh mỗi thứ có tướng mạo của nó, chính trong khi ngồi thiền và trong khi mộng phải
khảo sát cho rõ.
b) Tướng ngũ tạng sanh bệnh:
Từ tim sanh bệnh thì thân thể nóng, lạnh, đầu nhức, miệng khô v.v... vì tim là chủ về miệng. Từ phổi sanh
bệnh thì thân thể mập phù, tứ chi mỏi mê, mũi nghẹt v.v... vì phổi chủ về mũi. Từ gan sanh bệnh trong lòng
thường không vui, buồn rầu, thương lo, giận hờn, đầu nhức, mắt mờ v.v... vì gan chủ về con mắt. Từ lá lách
sanh bệnh thì thân thể và trên mặt nổi phong khắp cả, ngứa ngáy đau nhức, ăn uống không ngon v.v... vì lá
lách chủ về lưỡi. Từ trái cật sanh bệnh thì ở cổ sanh nấc cục, bụng no, lỗ tai bùng v.v... vì trái cật chủ về lỗ
tai. Năm tạng sanh bệnh rất nhiều, mỗi cái có tướng của nó, phải xem xét trong khi ngồi thiền và trong
mộng thì biết được.
Như thế nguyên nhân sanh bệnh của tứ đại, ngũ tạng không phải một, tướng bệnh rất nhiều không thể nói
hết. Hành giả nếu muốn tu pháp môn Chỉ, Quán để thoát ly sanh tử, phải khéo biết nguyên nhân sanh bệnh.
Hai thứ bệnh này nguyên nhân chung là do trong và ngoài phát động. Hoặc do dụng tâm không điều hòa,
quán hạnh sai lạc, hoặc do khi pháp định phát sanh không biết giữ gìn đến khiến tứ đại, ngũ tạng sanh
bệnh, ấy là tướng bệnh do bên trong phát khởi.
Lại nữa, có ba thứ nhân duyên khiến người mắc bệnh:
1. Tứ đại, ngũ tạng tăng giảm khiến người mắc bệnh như đã nói ở trên. 2. Quỉ thần gây nên khiến người
mắc bệnh.
3. Nghiệp báo khiến người mắc bệnh.
Những bệnh như thế, mới mắc phải sớm trị rất dễ được lành, nếu để qua thời gian lâu bệnh thành thục, thân
gầy bệnh nặng, chữa trị rất khó lành.
2. Phương pháp trị bệnh:
Ðã rõ nguyên nhân phát bệnh, cần tạo phương pháp trị bệnh. Phương pháp trị bệnh có nhiều cách, tóm lược
không ngoài hai phương tiện Chỉ và Quán.
Thế nào dùng Chỉ trị bệnh? Có thầy nói: "Phải an tâm ngưng tại chỗ bệnh, tức là bệnh lành. Tại sao? Vì tâm
là chủ của thân quả báo trong một thời kỳ, ví như vua đến chỗ nào thì bọn trộm cướp đều tan sạch". Lại có
thầy bảo: "Dưới rốn một tấc gọi là đơn điền, nếu ngưng tâm tại chỗ này không tán loạn, trải qua thời gian
lâu đa số bệnh đều dứt". Có thầy bảo: "Thường ngưng tâm dưới chân, bất luận đi, đứng, nằm hay nghỉ liền
trị được bệnh. Vì cớ sao? Vì người do tứ đại không điều hòa cho nên sanh các bệnh, đó là do tâm thức duyên
lên trên khiến tứ đại không điều hòa. Nếu an tâm ở dưới thì tứ đại tự nhiên điều hòa, các bệnh đều lành".
Dùng Quán trị bệnh. Có thầy nói: Dùng Quán tâm tưởng sáu thứ hơi thở trị bệnh, tức là dùng Quán trị bệnh.
Thế nào là sáu thứ hơi thở? Nghĩa là: suy, hô, hy, ha, hư, hứ. Sáu thứ hơi thở này đều do trong lưỡi, miệng
và tâm tưởng phương tiện chuyển động mà thành, phải dùng đều đều nhẹ nhẹ. Bài tụng chép:
Tâm thuộc về ha, thận thuộc suy,
Tỳ ho phổi hư tánh đều biết,
Gan và tạng nhiệt do chữ hư, 
Tam tiêu ngăn trệ chỉ nói hy. 
Có thầy nói: Nếu khéo dùng Quán tưởng vận chuyển mười hai thứ hơi thở thì trị được nhiều bệnh. Mười hai 
thứ hơi thở: 
1. Hơi thở lên. 
2. Hơi thở xuống. 
3. Hơi thở đầy. 
4. Hơi thở tiêu. 
5. Hơi thở tăng trưởng. 
6. Hơi thở diệt hoại. 
7. Hơi thở ấm. 
8. Hơi thở lạnh. 
9. Hơi thở xông lên. 
10. Hơi thở gìn giữ. 
11. Hơi thở điều hòa. 
12. Hơi thở bồi bổ. 
Mười hai thứ hơi thở này đều do tâm quán tưởng mà có. Nay lược tướng đối trị của mười hai thứ hơi thở. Hơi 
thở lên trị bệnh trầm trọng. Hơi thở xuống trị bệnh lơ lửng. Hơi thở đầy trị bệnh khô gầy. Hơi thở tiêu trị 
bệnh thủng phù. Hơi thở tăng trưởng trị bệnh ốm yếu. Hơi thở diệt hoại trị bệnh tăng thạnh. Hơi thở ấm trị 
bệnh lạnh. Hơi thở lạnh trị bệnh nóng. Hơi thở xông lên trị bệnh ngăn nghẹn không thông. Hơi thở gìn giữ trị 
bệnh lăn lộn. Hơi thở điều hòa chung trị bệnh tứ đại bất hòa. Hơi thở bồi bổ bồi dưỡng tứ đại suy kém. Khéo 
dùng các thứ hơi thở này, có thể trị lành các bệnh, suy ra có thể biết. 
Có thầy nói: Khéo dùng giả tưởng quán hay trị hết các bệnh. Như người mắc bệnh lạnh, tưởng trong thân 
hơi lửa xông ra liền trị được bệnh lạnh. Cách trị bệnh này trong kinh Tạp A Hàm về bảy mươi hai thứ bí pháp 
trị bệnh có nói rộng. 
Có thầy bảo: Dùng Chỉ, Quán kiểm xét tứ đại trong thân không có bệnh, tâm cũng không có chỗ sanh bệnh 
thì các bệnh tự lành. Như thế, bao nhiêu thuyết nói dùng Quán trị bệnh chỗ ứng dụng không đồng, nếu khéo 
hiểu được ý đều trị lành bệnh. 
Hai pháp Chỉ, Quán nếu người khéo hiểu được ý thì không bệnh nào mà trị chẳng lành. Nhưng người thời 
nay, căn cơ tối, cạn, đa số tập quán tưởng không thành công nên pháp này ít được lưu truyền. Lại có người 
tu không được pháp này, bèn xoay qua học khí thuật, nhịn cơm e sau này sanh kiến chấp tà dị, những thứ 
thuốc bằng cây, cỏ, vàng, đá ... thích hợp với bệnh thì nên dùng. 
Nếu là bệnh do quỉ phá thì phải lập tâm cho vững, thêm tụng chú để giúp sự trị bệnh. Nếu là bệnh nghiệp 
báo cần phải tu phước và sám hối, bệnh ắt tiêu diệt. Hai pháp Chỉ, Quán trị bệnh, nếu người khéo hiểu một 
pháp cũng đủ tự tu và dạy người, huống là thông đạt cả hai. Nếu cả hai pháp đều không biết thì bệnh sanh 
không thể trị, chẳng những bỏ bê sự tu hành, còn e tánh mạng khó bảo toàn làm sao tự tu và dạy người? 
Thế nên, người muốn tu Chỉ, Quán phải hiểu phương pháp nội tâm trị bệnh. Pháp này không phải hiểu một, 
hiểu ý tại người, chớ không thể truyền bằng văn tự. 
Lại nữa, trong khi ngồi thiền dụng tâm trị bệnh cần phải gồm đủ mười pháp sẽ được lợi ích. Mười pháp: 
1. Tin. 
2. Dùng. 
3. Siêng. 
4. Thường trụ trong duyên. 
5. Phân biệt nguyên nhân bệnh khởi. 
6. Phương tiện. 
7. Thực hành lâu. 
8. Biết thủ xả. 
9. Giữ gìn. 
10. Biết ngăn cản. 
Thế nào là tin? Nghĩa là tin pháp này hay trị được bệnh. 
Sao là dùng? Nghĩa là tùy thời hằng dùng. 
Sao là siêng? Chuyên cần không nghỉ, đến khi lành bệnh mới thôi. 
Sao là trụ trong duyên? Tâm vi tế luôn luôn y nơi pháp, không duyên cái gì khác. 
Sao là phân biệt nguyên nhân bệnh khởi? Như đoạn trước đã nói. 
Sao là phương tiện? Là thở ra, hít vào tâm tưởng vận chuyển khéo léo thành tựu không cho trái phép. 
Sao là thực hành lâu? Nếu áp dụng chưa có lợi ích chẳng kể ngày tháng thường tập không phế bỏ. 
Sao là biết thủ xả? Biết cái có ích liền chuyên cần, cái có hại liền xả đi, chín chắn chuyển tâm điều trị. 
Sao là gìn giữ? Khéo biết các duyên xúc phạm mà giữ gìn. 
Sao là ngăn cản? Ðược điều ích lợi không đến người khác nói, chưa tổn hại không sanh nghi chê. 
Nếu y mười pháp này trị bệnh quyết định có hiệu nghiệm không dối vậy


Ðiều hòa sự ăn uống _ HT Thích Thanh Từ

1. Ðiều hòa sự ăn uống: Sự ăn uống cốt để nuôi thân tiến tu đạo nghiệp. Nếu ăn no quá thì bao tử đầy, 
hơi thở gấp, trăm mạch không thông, tâm bị bế tắc, ngồi niệm không yên. Nếu ăn quá ít thì thân gầy, bao 
tử lỏng lẻo, ý lao lự xao động, không vững. Hai việc này đều không được định. Nếu ăn những vật trược uế 
khiến tâm thức phải hôn mê. Nếu ăn những vật không thích nghi hay khơi bệnh cũ, khiến tứ đại chống 
nghịch nhau. Người mới tập tu thiền định phải dè dặt tránh những điều này. Cho nên kinh chép: "Thân yên 
thì đạo đầy đủ, ăn uống có tiết độ, thường ưa ở chỗ vắng vẻ, tâm lặng ưa tinh tấn, ấy là lời dạy của chư 
Phật". 

Xả giận hờn - HT Thích Thanh Từ

2. Xả giận hờn: Giận là cội gốc làm mất Phật pháp, là nhân duyên sa vào ác đạo, là oan gia của pháp an 
lạc, là bọn giặc dữ của thiện tâm, là tạng phủ của bao nhiêu ác khẩu. Thế nên hành giả khi tọa thiền suy 
nghĩ người này hiện tại phá hại ta, phá hại gia quyến ta, khen ngợi người thù của ta; suy nghĩ quá khứ, vị lai 
cũng thế, ấy là chín thứ phiền não. Do đó sanh sân hận, khởi sân hận nên sanh oán thù, do tâm oán thù bèn 
khởi tâm tàn hại kẻ ấy. Sân hận che đậy tâm như thế, nên gọi là Cái. Phải gấp bỏ nó, không cho tăng 
trưởng. Như ngài Thích-đề-bà-na dùng bài kệ hỏi Phật: 
Vật gì giết an lạc? 
Vật gì giết vô ưu? 
Vật gì gốc của độc? 
Nuốt tiêu tất cả thiện? 
Phật đáp: 
Giết sân thì an lạc, 
Giết sân thì vô ưu, 
Sân là gốc của độc, 
Sân diệt tất cả thiện. 
Ðã biết sân nguy hiểm như thế, phải chóng tu từ bi, nhẫn nhục để diệt trừ nó cho tâm được thanh tịnh.

SỐNG LÂU TRĂM TUỔI NHỜ BÀI THỞ

Tác Giả: Theo Bác Sĩ Nguyễn Khắc Viện   

Sống thêm 50 năm chỉ nhờ... lối thở dưới đây: Hót bụng thở ra,
Phình bụng thở vào
.
Hai vai bất động,

Chân tay thả lỏng.
Êm chậm sâu đều,
Tập trung theo dõi,
Luồng ra luồng vào,
Bình thường qua mũi,
Khi gấp qua mồm.
Đứng ngồi hay nằm,
Ở đâu cũng được,
Lúc nào cũng được!

Bị lao phổi, sau 7 lần mổ, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện chỉ còn một góc phổi bên trái, mất 8 xương sườn. Bệnh viện bảo ông chỉ còn sống được hai năm. Thế nhưng ông đã sống đến tuổi 85 chỉ nhờ một bài thở cổ xưa. 
Ông sinh năm 1913 tại Hà Tĩnh, học Đại học Y khoa Hà Nội rồi sang Pháp tiếp tục học, tốt nghiệp bác sĩ Nhi khoa năm 1941. Năm 1942, ông bị lao phổi nặng, điều trị ở Bệnh viện Saint Hilaire du Touvet, Grenoble.



Thời đó, bệnh lao chưa có thuốc chữa. Từ năm 1943 đến 1948, ông phải chịu mổ bảy lần, cắt bỏ tám xương sườn, cắt bỏ toàn bộ lá phổi bên phải và một phần ba lá phổi bên trái. Các bác sĩ Pháp bảo ông chỉ có thể sống được hai năm nữa.

Trong thời gian nằm chờ chết, ông đã tìm ra phương pháp thở để tự chữa bệnh cho mình. Và kết quả là ông đã sống đến tuổi 85 mới mất (1997), nghĩa là sống thêm được 50 năm nữa.
Ông là bác sĩ, đồng thời là một nhà văn, nhà báo, nhà hoạt động xã hội rất nhiệt tâm. Ông là cố vấn của bộ môn tâm lý - xã hội học, tại Trung tâm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ y tế TP HCM, (nay là Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch).


Trong lúc nhiều người giảng bài, nói chuyện, hội họp, làm việc... thấy uể oải, hụt hơi, thì một người chỉ còn hai phần ba lá phổi, chỉ còn gần một nửa "dung tích sống" như ông lại vẫn ung dung, thư thái.
Những buổi hội họp dông dài, vô bổ, ông chỉ ngồi... thở, nhờ vậy mà ông không bị stress, không bị mệt. Ông bảo sau này khi ông mất đi, điều quan trọng ông để lại không phải là những tác phẩm văn học, triết học này nọ, mà chính là bài vè dạy thở chỉ với 12 câu.


Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, bạn đồng nghiệp với bác sĩ Viện, kể lại: "Trước kia, tôi cũng chỉ nghe để mà nghe chớ chẳng thực hành. Rồi một lần tôi bị tai biến nặng, phải nằm viện dài ngày, lúc đó tôi mới thử đem ra áp dụng. Quả có điều kỳ diệu!"
Phương pháp này giúp ông thảnh thơi hơn, ít nhọc mệt hơn và sức khỏe tốt hơn. Trong thời gian dưỡng bệnh, các bạn đồng nghiệp cho rất nhiều thuốc, nhưng ông chỉ chọn một vài món thực sự cần thiết, còn thì chỉ dùng phương pháp thở để tự chữa bệnh cho mình.
Phương pháp thở của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện thực ra không phải là điều hoàn toàn mới. Nó chỉ là một sự tổng hợp của khí công, thiền, yoga, dưỡng sinh... của Đông phương từ ngàn xưa, được nhìn bằng sinh lý học hô hấp hiện đại của một người thầy thuốc.

Ghi chú :  Mình rất tin phương pháp thở này , vì mấy năm trước có 1 thời gian CN bị  ho qúa chừng  , lúc đó vào mùa Đông , ai ai cũng bị bệnh ho , khi bị bệnh ho gà  này ho liên tục khg ngừng nổi , ho tới nước mắt ràn rụa , tới muốn tắt thở chứ khg chơi , mà CN bị ho vậy cả tháng mà khg hết , bác sĩ cho uống thuốc qúa chừng cũng khg hết luôn ..... nhưng cũng có tí phước hay sao ấy , tự nhiên mình nghe được  băng giảng mà HT Thanh Từ dạy  là hồi xưa HT cũng bị ho qúa chừng vậy , thì HT  ngồi xoay mặt hướng ra cửa sổ , HT hít  thật mạnh vô thì tưởng tượng là hít vô khg khí trong sạch nhất trong vũ trụ , và khi thở ra thật mạnh bằng miệng thì  HT tưởng tượng là  tống ra hết những chất dơ nhất trong cơ thể .....CN cũng bắt chước làm theo , khoảng 15 phút  thì thấy bớt ho , thế là khi nào mà đang ngủ nữa đêm mà bị ho qúa là  CN ngồi dậy liền , quay mặt ra hướng cửa sổ  và làm như vậy khoảng 10 phút , khg ngờ khoảng 2 ngày sau là hết ho luôn , và sau đó hết bệnh luôn khg cần uống 1 viên thuốc nào hết ..... HT có nói là tâm ( ý nghĩ ) của mình rất mạnh , mọi việc do tâm tạo , nếu biết cách sử dụng nó thì mình sẽ có nhiều việc kỳ lạ lắm mà trong Kinh hay nói là có thần thông đó :)

  HT Thanh Từ còn dạy cách trị nhiều bệnh khác nữa , chẳng hạn như đau bao tử thì phải thở như thế nào , hay bị đau bụng hay bị  bệnh nhức đầu qúa thì  phải tập thở như thế nào ....nhưng sau này tự nhiên mình khg thể nào tìm ra bài đó trên mạng , tìm hoài cũng khg ra , tiếc  ghê !