Monday, December 21, 2009

Lục hòa

November 10 2009

A Mở Ðề

1. Tai hại của sự bất hòa:

Trong sự sống chung đụng hằng ngày, không có gì tai hại bằng sự bất hòa. Sự bất hòa làm ung độc cuộc sống chung và bắt buộc người ta phải xa nhau, nếu không muốn ở gần nhau để làm khổ cho nhau. Trong gia đình, anh em không hòa, thì tình cốt nhục chia ly. Vợ chồng không hòa, thì gia nghiệp chẳng thành, con cái phải bị đau khổ, vì gần cha thì phải xa mẹ; gần mẹ thì phải xa cha. Xóm làng không hòa thì hay sinh ra rầy rà, kiện cáo, chém giết lẫn nhau. Quốc gia không hòa thì sanh ra giặc giã loạn lạc, dân chúng khổ sở. Nhân loại bất hòa, thì chiến tranh tiếp diễn, nhân sinh điêu đứng, suy tàn.

2. Sự quan trọng của nhu hòa:

Ðã thấy sự bất hòa như thế nào, tất nhiên cũng phải thấy đức tánh nhu hòa là cần thiết như thế nào cho đời sống tập thể.
Chúng ta thường nghe nói: "Dỉ hòa vi qúi" (lấy hòa làm quý). Bốn chữ giản dị ấy có một công dụng ích lợi vô cùng. Những ai lấy nó làm phương châm, thì bất luận việc lớn việc nhỏ đều thành tựu dễ dàng. Trái lại, những ai khinh thường nó, thì công việc chung không bao giờ có kết quả. Sách Nho cũng có nói: "Thời thế thuận, không bằng địa thế lợi; địa thế lợi, không bằng nhân tâm hòa" (thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hòa). Xem thế thì đủ biết: yếu tố hòa là quan trọng hơn hết trong mọi việc, mọi tổ chức. Gia đình hòa thì gia đình có hạnh phúc; nước nhà hòa thì nước nhà được thạnh trị; nhơn loại hòa thì thế giới an lạc. Hiểu biết hơn ai hết sự quan trọng của đức tánh nhu hòa trong đời sống tập thể, đức Phật đã chế ra pháp "Lục hòa" cho hàng Phật tử.


B. Chánh Ðề

I. Ðịnh Nghĩa: Lục hòa là sáu phương pháp cư xử với nhau cho hòa hợp từ vật chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm. Hòa ở đây là hòa với mục đích tiến tới sự cao đẹp, đến con đường giải thoát, toàn thiện toàn mỹ, chứ không phải hòa một cách nhu nhược, thụ động, ai nói quấy cũng ừ, ai nói phải cũng gật. Hòa ở ở đây cũng không phải là phương tiện trong giai đoạn để rút thắng lợi về mình, rồi lại chiến. Hòa ở đây nhằm mục đích làm lợi cho tất cả, gây hạnh phúc cho tất cả, trong ấy có bóng dáng "tự và tha" không có so đo "ta và người".

II. Lục Hòa Là Những Gì Lục hòa gồm có sáu điểm sau đây: 1. Thân hòa cùng ở (Thân hòa đống trú): Nghĩa là cùng nhau ở dưới một mái nhà, trong một phạm vi, một tổ chức, hôm sớm có nhau, cùng ăn cùng ngủ, cùng học cùng hành. Khi đã sống chung đụng hằng ngày như thế, thì phải hòa thuận với nhau, không dùng sức mạnh, võ lực để lấn hiếp, đánh đạp nhau. Nếu là anh em, vợ chồng, con cái trong một gia đình, thì phải trên thuận dưới hòa, anh ra anh, em ra em, chồng ra chồng, vợ ra vợ, chứ không được lộn xộn vô trật tự, hiếp đáp, sát phạt nhau. Nếu là những Phật tử, cùng ở với nhau học tập dưới một mái chùa, thì tuy là không phải ruột thịt, nhưng cũng là những người con chung của đức Phật, cùng một lý tưởng mục đích, thì cũng phải lấy cái hòa khí làm đầu, không được chia phe phái, ỷ mạnh hiếp yếu, ỷ thế hiếp cô, mạnh ai nấy được. Nếu là đồng bào, cùng chung sống trong một quốc gia xã hội, thì phải lấy sự đoàn kết làm đầu, không được gây cảnh nồi da xáo thịt, chia năm xẻ bảy, làm thành giặc chòm, giặc xóm; sát phạt nhau, chém giết nhau. Người nước ta có câu ca dao rất có ý nghĩa: "Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn". Khác giống, mà sống chung trên một giàn, còn phải hòa thuận, thương yêu nhau; huống chi là cùng một dân tộc, một giống nòi ! Cũng thế, đã là nhân loại, cùng chung sống trên quả địa cầu nầy, thì dù là da trắng, da đen, da vàng hay da đỏ cũng là "Tứ hải giai huynh đệ" cả. Ðã là giống người như nhau mà lại đem nhau ra chiến trường bắn giết nhau, tàn sát nhau, làm mồi cho súng đạn vô tri, thì thật là vô cùng phi lý. Tóm lại, đã cùng chung sống với nhau trong một địa vị, một giới hạn, một hoàn cảnh, thì bao giờ cũng phải hòa hảo với nhau. 2. Lời nói hòa hiệp, không tranh cãi nhau: Muốn thân không đánh đạp nhau, không đối chọi nhau, khi ở bên cạnh nhau, thì lời nói phải giữ gìn cho được ôn hòa nhã nhặn; trong mọi trường hợp, nhất thiết không được rầy rà, cãi cọ nhau. Có người thân hòa mà khẩu không hòa, ăn thua nhau từng câu nói, tìm cách mỉa mai, châm thọc nhau, hạch hỏi nhau từng tiếng một, cuối cùng sanh ra ấu đả nhau. Trong một gia đình, cũng vì một lời nói không hòa, mà nhiều khi anh em xa lìa nhau, vợ chồng ly tán nhau, cha con không thấy mặt nhau, trở thành những kẻ xa lạ, thù hằn nhau. Trong xã hội, cũng vì một lời nói không hòa, mà nhiều khi quốc gia phải lâm nạn chiến tranh, nhân loại phải bị đẩy vào lò sát sanh thảm khốc. Bởi thế, nên thân thể hòa chưa phải là đủ, mà Phật dạy phải hòa cả miệng nữa. Nghĩa là người Phật tử phải nói lời dịu dàng, hòa nhã với nhau, nhất thiết không được cãi lẫy, gây gỗ nhau. Nếu có gì thắc mắc, cần phải bàn cãi cho ra lẽ, thì tuyệt đối phải dùng lời nói ôn tồn, hòa nhã mà bàn luận. 3. Ý hòa cùng vui (Ý hòa đồng duyệt): Duy thức học có nói: Ý là hệ trọng hơn hết, nó là động cơ thúc đẩy miệng và thân. Kể công thì nó đứng đầu, mà kết tội, nó cũng đứng trước (công vi thủ, tội vi khôi). Bởi thế cho nên, trong một gia đình, một đoàn thể, mỗi người cần giữ gìn ý tứ, tâm địa của mình. Nếu ý tưởng hiền hòa, vui vẻ thì thân và lời nói dễ giữ được hòa khí. Trái lại nếu ý tứ bất hòa, thường trái ngược nhau, ganh ghét nhau, thì thân và khẩu khó mà giữ cho được hòa hảo. Dù có cố gắng bao nhiêu, để thân và khẩu được hòa khí, hay vì sợ một uy quyền gì trên, mà phải ăn ở hòa thuận với nhau, thì sự hòa thận này cũng chẳng khác gì một lớp sơn đẹp đẽ, tô lên một tấm gỗ đã mục. Một khi sự xung đột bên trong đã đến một mức độ không thể chịu đựng được nữa, tất nó sẽ nổ tung ra trong lời nói hay trong những cái đấm đá; cũng như tấm gỗ khi đã mục quá rồi thì thế nào lớp sơn bên ngoài cũng rạn nứt, đổ bể. Ðức Phật đã thấu rõ như thế, nên Ngài dạy phải có tâm ý vui vẻ hòa hiệp trong khi chung sống với nhau. Muốn được tâm ý hòa hiệp, phải tu hạnh Hỷ Xà. Hỷ xả nghĩa là bỏ ra ngoài những sự buồn phiền, hờn giận, không chấp chặt trong lòng những lỗi lầm của kẻ khác. Có như thế, tâm hồn mới thư thái, vui vẻ được, và ý nghĩ mới trong sáng, thanh tịnh được. Vậy Phật tử chúng ta hãy cố gắng tu hạnh hỷ xả mới được. 4. Giới hòa cùng tu (Giới hòa đồng tu): Trong một tổ chức, một đoàn thể nào có trật tự, tất đều có kỷ luật qui củ hẳn hoi. Trong đạo Phật, mỗi Phật tử, tùy theo địa vị cấp bậc tu hành của mình, mà thọ lãnh ít hay nhiều giới luật. Người tại gia thì thọ Ngũ Giới; người xuất gia thì thọ 10 giới nếu là Sa Di, thọ 250 giới nếu là Tỳ kheo, thọ 348 giới nếu là Tỳ kheo Ni v.v... Khi Phật tử hội họp lại, hay khi cùng chung sống để tu học, mỗi ngày tùy theo cấp bậc của mình mà giữ giới. Ðã cùng một cấp bực với nhau, thì tất phải thọ giới và giữ giới như nhau, chứ không được lộn xộn, giữ giới nầy, bỏ giới kia, giữ giới kia, bỏ giới nọ, mỗi người mỗi thứ. Nếu có sự vô kỷ luật nầy thì lẽ tất nhiên tổ chức ấy sẽ tan rã. Vì thế, đức Phật dạy: khi Phật tử đã chung sống với nhau, thì triệt để phải cùng nhau tu những giới luật như nhau, giữ đúng những giới luật của cấp bực mình. Nói rộng ra, trong một trường học, một gia đình Phật tử, một hội chẳng hạn, bao giờ cũng lấy kỷ luật làm đầu. Trong trường, nếu học sinh không giữ kỷ luật của trường, ai muốn ra cứ ra, ai muốn vào cứ vào, ai muốn học cứ học, ai muốn chơi cứ chơi, thì trường ấy ắt phải sập. Trong gia đình Phật tử, đoàn sinh mỗi người mỗi làm theo mỗi ý riêng mình, không tuân năm điều luật của gia đình, không làm theo huấn lệnh của Huynh trường, thì gia đình Phật tử ấy sẽ tan rã. Một hội viên không tôn trọng điều lệ của hội, phân chia giai cấp, tự cho mình sang không cần giữ giới như người hèn, tự cho mình giàu, không giữ giới như người nghèo, tự cho mình có học thức không giữ giới như người vô học; nếu có tình trạng như thế tất hội ấy sẽ tan rã. Nói tóm lại, trong một đoàn thể, đạo hay đời, nếu không cùng nhau gìn giữ giới điều, kỷ luật, quy tắc, thì chúng ta không bao giờ sống chung với nhau được. Vật Phật tử, muốn hòa hợp cùng nhau để tu tập, thì mỗi người cần phải gìn giữ giới luật như nhau. 5. Thấy biết giải bày cho nhau hiểu: (Kiến hòa đồng giải): Trong sự sống chung, mỗi người hiểu biết được điều gì, khám phá được điểu gì, phải giải bày, chỉ bảo cho người khác hiểu. Như thế trình độ hiểu biết mới không chênh lệch, sự tu học mới tiến đều về tinh thần bình đẳng, mới dễ giữ vững giữa những người cùng ở một đoàn thể. Khi ta khám phá ra được một điều gì mới lạ, hay có một ý kiến gì hay ho, nếu ta không giải bày cho người chung quanh, thì không những ta là một kẻ ích kỷ, mà còn tạo ra một sự tắc nghẽn giữa sự thông cảm với những người khác. Lòng ích kỷ và sự tắc nghẹn ấy là mối dây của sự chia rẽ, bất hòa, xung đột. Trước một vấn đề, mỗi người sẽ nghĩ, sẽ thấy mỗi cách, và do đó, sẽ gây nghi ngờ, hoang mang trong đoàn thể, vì phần đông không biết tin vào ai. Nhất là trong kinh sách Phật, vừa nhiều, vừa cao siêu, vừa đủ loại, mỗi Phật tử có thể khám phá ra một khía cạnh khác nhau, tìm ra một ý nghĩa có thể đúng, mà cũng có thể sai. Trong những trường hợp ấy, mà không gấp rút giải bày quan điểm, ý kiến của mình cho mọi người trong đoàn thể hiểu biết, thì khó mà có thể sống hòa hiệp với nhau. 6. Lợi hòa cùng chia cân nhau (Lợi hòa đồng quân): Về tài lợi, vật thực, đồ dùng phải phân chia cho cân nhau hay cùng nhau thọ dụng, không được chiếm làm của riêng, hay giành phần nhiều về mình. Trong khi sống chung, nếu có người đem cho vật thực, y phục, mền chiếu, thuốc thang v.v...thì phải đem quân phân tất cả, nghĩa là chia cho đều nhau, không vì tình riêng, kẻ ít người nhiều, kẻ tốt người xấu, nhưng phải lấy công bằng làm trọng. Giữ được như thế, thì dù ở chung nghìn người cũng vẫn hòa vui. Trái lại, nếu vì tính tư, ý riêng tham tài ham lợi thì dù chỉ có vài ba người chung sống với nhau, cũng không thể hòa được. Trong xã hội sở dĩ có sự xung đột dữ dội, phân chia giai cấp, cũng do vì thiếu sự "Lợi hòa đồng quân" cả. Người giàu thì giàu quá, kẻ nghèo thì nghèo xơ, kẻ dinh thự nguy nga ruộng đất cò bay thẳng cánh, có kẻ không có một chòi tranh vách đất. Do đó, không thể có hòa bình được: người vô sản xung đột với kẻ hữu sản, nước nghèo đói sanh sự với nước phú cường. Nếu nhân loại thâm hiểu rằng: cuộc giàu sang phú quý trong nhân gian, như hạt sương đọng trên cành hoa, công danh vinh hiển trên đời như bọt nước nổi trên mặt biển, thì chắc sự chênh lệch giữa giàu và nghèo sẽ bớt đi nhiều lắm, và nhân loại sẽ bớt xung đột nhau hơn. Với một tinh thấn bình đẳng lợi tha, từ bi cứu khổ, với một trí huệ soi thấu rõ sự vô thường, giả tạm của cuộc đời, Ðức Phật đã dạy: "Có tài lợi, nên tùy phận chia sớt cho nhau", hay triệt để hơn nữa: "Lợi hòa đồng quân". Bây chúng ta đã là Phật tử, phải nên cố gắng thực hành cho được lời dạy ấy. C. Kết Luận Ðể có một ý niệm tổng quát về Lục hòa chúng ta hãy ôn lại một lần nữa, những ý chính trong 6 điều chỉ bảo của đức Phật:

1) Hãy chung sống với nhau một cách hòa hợp, hãy chung lưng đấu cật, đùm bọc nhau, chứ không nên dùng võ lực để đàn áp nhau.
2) Hãy nói năng với nhau một cách dịu dàng, hòa nhã; nếu có điều gì thắc mắc cần bàn cãi, thì cũng phải bàn cãi trong ôn hòa, lễ độ.
3) Hãy nuôi dưỡng ý tốt đẹp đối với nhau, hãy trau dồi đức hỷ xả; đừng bao giờ thù hiềm, ganh tỵ nhau.
4) Hãy giữ đúng giới luật như nhau, hãy lấy kỷ luật làm đầu. Vô kỷ luật thì không một đoàn thể nào có thể tồn tại được.
5) Hãy giải bày những sự hiểu biết, những ý kiến của mình cho người chung quanh. Người thông hiểu nhiều, phải có bổn phận chỉ bày cho người hậu tiến và dắt họ đi kịp mình.
6) Hãy chia đồng đều tài lợi thu thập được cho những người cùng sống chung với mình, để mọi người đều được thỏa mãn, vui vầy. Sáu điều dạy trên đây, nếu chúng ta thực hiện một cách triệt để thì trong gia đình, cha mẹ vợ chồng, anh em, đều được hòa thuận yên vui, gia nghiệp mỗi ngày một thịnh đạt; quốc gia được hùng cường thịnh trị, thế giới hòa bình an lạc. Riêng về trong giới Phật tử chúng ta, nếu áp dụng đúng đắn pháp "Lục hòa", thì sự tu học của chúng ta mau được tiến bộ, con đường giải thoát được gần hơn, và cảnh giới Cực lạc không phải chỉ là một ước vọng. Vậy xin khuyên các Phật tử mỗi người sau khi học hiểu rõ Lục hòa, phải thật hành cho được và khuyên mọi người thật hành theo, để cùng hưởng hạnh phúc chung.


Cố HT Thích Thiện Hoa(Trích trong Phật Học Phổ Thông)

Buoi noi chuyen Tang Ni lop giang su

Sunday, December 20, 2009

Khen và Chê

Buổi sinh hoạt hôm nay, chúng tôi sẽ nói về tinh thần khen chê trong đạo Phật. Trong đời sống thường nhật ít ai vượt qua được sự khen chê hoặc không bị khen chê làm bận lòng. Cho nên người tu Phật nhất định không để mất thì giờ vì việc tầm thường này.Thường khi được khen người ta vui, khi bị chê người ta buồn. Chính cái vui buồn ấy làm trở ngại việc tu của chúng ta. Người thật tu phải tỉnh, phải khắc tiến, phải vươn lên, vượt qua tất cả những việc tầm thường ấy để thực hiện cho được chí nguyện cao thượng của mình. Dù Phật tử tại gia hay hàng xuất gia, chúng ta đều là con Phật, tu Phật, có duyên với Phật nên cùng học Phật, theo đúng chánh pháp của Như Lai mà tu hành.Xưa nay đâu có người nào bị chê hoàn toàn hay được khen trọn vẹn. Cho nên khen chê chẳng qua chỉ là những đánh giá bên ngoài, không có giá trị cố định, nó tùy thuộc vào cái nhìn cái nghĩ của mỗi người. Hiểu như thế chúng ta sẽ bình thản vượt qua tất cả khen chê. Người làm chủ được mình không bị khen chê suy suyễn, làm chùng bước tu tập. Công phu này đòi hỏi ở chúng ta một sức tỉnh mạnh mẽ. Nếu không thế chúng ta rất dễ bị ngã gục bởi những lời nói, hành động khen chê bên ngoài.Trong sinh hoạt hằng ngày, ít khi nào chúng ta được bình yên với những sự kiện chung quanh. Trong đó, những điều bất như ý lại nhiều nhất. Như một trăm điều mong ước chưa chắc được đôi ba điều. Mong ước thì quá nhiều, nhưng đạt được như nguyện thì chẳng bao nhiêu. Ví dụ chúng ta cầu nguyện lúc nào mình cũng được khỏe mạnh, nhưng cứ đau yếu hoài. Trời nắng gắt là nhức đầu, vài hột mưa rớt xuống là sổ mũi, thật không bao giờ toại nguyện trăm phần trăm.Nếu tỉnh giác, lúc nào cũng biết cuộc sống vốn là bất như ý, thì ngay hiện đời ta giảm thiểu được nhiều sự mong muốn. Mong muốn không có thì khổ cũng không còn, rõ ràng như vậy. Chúng ta sáng suốt kiểm soát những hành động, ngôn ngữ, ý nghĩ của mình, đừng để nó phóng ra ngoài, chạy theo ham thích này, mong muốn nọ, nhất định chúng ta sẽ có đời sống ổn định. Không ai có thể mang phước báu đến cho mình khi ta vẫn si mê lầm lạc, tạo tác các nghiệp không tốt. Ngay cả mong cầu khấn nguyện với trời Phật cũng phí công vô ích. Ta không tỉnh, để cho ba nghiệp thân miệng ý lẫy lừng thì chuốc quả khổ là điều đương nhiên, Phật cũng không thể cứu được.Người tu không bao giờ để những ý nghĩ xấu, những ngôn ngữ không đúng, những hành động sai trái xảy ra. Vì sao? Trước nhất những ý nghĩ, những hành động đó phát tiết ra ngoài làm mất đi tư cách của người tu Phật. Càng tu càng hiểu đạo, càng gìn giữ tư cách, càng hành trì lời Phật dạy. Chúng ta càng được an lạc trong chánh pháp chừng nào thì càng thận trọng giám sát lời nói hành động của mình. Nhờ thế mà tâm được yên. Dù tu pháp môn nào, trong công phu cũng phải giữ điều này, nhất định sẽ bớt phiền não, tu tiến và có lợi lạc thiết thực. Ngược lại, chúng ta không tỉnh, không làm chủ được ba nghiệp của mình, cứ hành động bừa bãi, nói năng tùy tiện, suy nghĩ lung tung, nhất định sẽ chuốc hậu quả xấu thôi. Người Phật tử phải ý thức tự gầy dựng sự an lạc cho chính mình, chứ không mong cầu ở ai khác.Có khi một lời nói hoặc hành động sơ suất, thiếu tỉnh giác, chúng ta phạm phải sai lầm có thể tha thứ, thậm chí làm mất đi tình bằng hữu thâm giao. Do đó người tu Phật phải kiểm soát từng ý nghĩ lời nói hành động thật vi tế. Phàm làm người, không ai hoàn bị, được cái này thì thiếu cái kia, do đó chúng ta phải có cái nhìn cảm thông tha thứ. Nhìn như thế gọi là chánh kiến, thấy đúng như thật. Mình không bắt buộc người ta phải như vầy như kia, mà mình có sự hiểu biết, cảm thông, tha thứ. Từ đó ta sống bình yên vui vẻ.Những kẻ xấu xa thì được hạng người xấu xa khen ngợi, tán đồng. Do vậy có những việc không nên xảy ra trong xã hội mà vẫn cứ xảy ra đầy tràn như cướp bốc, xì ke ma túyv.v… Khi thủ lãnh cướp được của, đem về chia cho đàn em thì họ cũng được sự tán tụng hoan hô rầm rộ chứ. Rồi nhóm người khác không đồng ý những việc làm của nhóm này nên cực lực chống đối đã kích… nên mới có tổ chức luật pháp trừng trị, giáo dục vạch bày những lỗi lầm nguy hại của nhóm trước. Đó là sự kiện cho chúng ta thấy xấu tốt không có lẽ thật.Ví dụ chúng ta là người tu hành, làm những việc tốt. Đối với huynh đệ trong tông môn thì đó là tốt, nhưng chưa chắc người đời đã đồng ý. Như trường hợp chú thanh niên, con của một gia đình khá giả nọ, không biết lý do gì chú chạy lên thưa với tôi: - Thưa thầy, bây giờ con muốn tu, xin thầy cho con xuất gia.Tôi hỏi: - Năm nay con bao nhiêu tuổi? - Dạ mười sáu tuổi. - Học tới đâu rồi? - Dạ tới lớp mười một. Tôi bảo:- Không được, con phải về học hết lớp mười hai. Muốn tu ít ra bố mẹ hoặc anh chị con phải đến đây, đồng ý thì thầy mới dám nhận. - Thưa thầy con muốn tu, con nhất định ở đây thôi, về nhà con không sống nổi. - Sao vậy? - Con chán lắm. - Chán gì? - Thưa thầy, thầy đừng hỏi chuyện đó, con chán lắm. Chỉ xin thầy cho con ở đây, cho về là con chết tức thì. Nghe thế, tôi cũng cho ở tạm. Ít ngày sau cha mẹ chú tới khóc lóc: - Thầy ơi, con không thể nào xa con của con được. Tôi nói: - Con của quí vị, quí vị cứ đem về chứ tôi đâu có giữ. Tại nó tới lạy tôi xin tu, tôi sợ nó đi bậy nên cho ở tạm vậy thôi. Chú về nhà đâu vài hôm lại vọt lên, xin tu nữa. Tôi bảo: - Cha mẹ con không đồng ý, thầy không dám nhận. Chú thưa:- Thưa thầy, việc đi tu có phải là việc tốt không? Đi tu có phải là phúc thiện không? Quí thầy lập đạo tràng hướng dẫn mọi người đi con đường sáng, thành Phật thành tổ, tại sao thầy không cho con đi tu? Tôi giải thích:- Không phải thầy không cho, nhưng cần phải có sự đồng ý của cha mẹ con. Trong lúc tuổi con chưa trưởng hành, sự quyết định còn ở nơi cha mẹ. Con muốn ở đây tu không khó khăn gì, nhưng cha mẹ con nói không thể xa con được, nhất là không thể cho con đi tu nên thầy không thể làm khác hơn. Vài hôm sau, cha mẹ chú lại tìm lên thưa với tôi:- Thú thật với thầy chúng con là Phật tử sao lại không muốn cho con nó tu. Nhưng đường tu lâu dài, nhiều thử thách mà con của con chay lạt không nổi. Thầy cho nó tu, vài hôm nó cũng sẽ chán và đòi đi nơi khác nữa. Chúng con là cha mẹ nên biết ý con, thật tình vì nó chưa thể tu được, chứ không phải chúng con khó khăn gì.Tôi kể câu chuyện này để thấy một đường hướng tốt còn phải tùy đối tượng, tùy hoàn cảnh, không phải ta cho tốt là nó tốt với tất cả mọi người trong mọi thời mọi lúc. Ví dụ trong đạo tràng này tổ chức tu hành, mà có người không chịu nổi, không kham gìn giữ bảo vệ qui chế ở đây, người đó làm sao tu hành được.Với tinh thần người con Phật, chúng ta không mong cầu được khen hoàn toàn và cũng không sợ bị chê hoàn toàn. Bởi vì giữa cuộc đời này sự khen chê chỉ có giá trị tạm thời, không chân thật. Khen đó rồi chê đó, hôm nay đồng ý thì khen, ngày mai có điều bất như ý thì chê, đó là chuyện thường. Người tu chúng ta là người vượt lên trên những khen chê, không bận lòng ở việc tầm thường như thế. Có gan dạ, có vượt qua, có chấp nhận, có sống thực được như vậy chúng ta mới vững vàng tu tiến.Những sự khen chê đối với cá nhân, đối với pháp môn, đối với tôn giáo của mình, nhiều thứ lắm. Như ai đó chê vị thầy mà mình hoàn toàn cung kính, mình nương tựa để tu hành, chúng ta nghĩ sao? Có bỏ qua được không, hay mình cảm thấy bị xúc phạm, cần phải lên tiếng này nọ. Nghĩ như vậy là đã mắc mứu rồi, đã thua cuộc rồi đấy. Chúng ta có nhiều lý lẽ để chạy theo thị phi ở đời. Đôi khi ta cho rằng ai khen chê mình cũng được, nhưng đừng đụng đến thầy tổ mình, đừng đụng đến cha mẹ mình. Tưởng nghĩ thế là không nhớ đến mình, nhưng thật ra nếu không có “cái ta” thì thầy tổ cha mẹ đâu còn của mình nữa. Cho nên không khéo, chúng ta chỉ tự lừa dối và đưa mình vào cái bẫy khen chê như thế nhân vậy thôi.Có câu chuyện thế này. Một Thiền sư muốn kiểm nghiệm lại trong môn đệ xem người nào thật sự thâm hiểu Ngài, có thể tu hành đến nơi đến chốn. Sáng sớm Ngài gọi thầy tri sự đến bảo: “Sắm cho tôi một mâm rượu thịt, bữa nay đám giỗ ông già tôi”. Thầy tri sự y lời sắm rượu thịt đem về. Hòa thượng dọn lên cúng kiến xong, Ngài bảo thị giả xuống mời mấy thầy lớn lên hết, chung mâm với Ngài một bữa. Ông thị giả hoảng vía, thầy mình chắc không ổn rồi, nhưng vì Hòa thượng rất nghiêm nên không dám cãi. Sau khi các vị đệ tử lớn đã có mặt đầy đủ, Hòa thượng nói: “Bữa nay tôi sắm được một mâm rượu thịt cúng ông già tôi, mời quí thầy cùng ăn một bữa cho vui”. Chư đại đệ tử đều chưng hửng, nhiều người tự động rút lui. Về liêu các thầy tự nghĩ: Thầy mình bất ổn rồi, bây giờ ở đây không xong, thôi mỗi người mỗi gói mà đi. Thế là hàng môn đệ kéo nhau đi gần hết. Sau sự vụ đó, Hòa thượng nói: “Ta chỉ cần một mâm rượu thịt mà tống cổ được một số người không ra gì”.Quả là chỉ có những bậc siêu xuất mới dám làm việc ấy. Qua đó để thấy chúng ta không thể đặt khen chê ở hình thức bên ngoài. Nếu thấy biết của mình chưa tới nơi, chưa chính xác mà đặt vấn đề khen chê là hỏng tất cả. Cho nên đối với khen chê ta cứ giữ tâm bình thường. Nếu chê đúng ta sửa, khắc phục để tu tiến, nếu chê chưa đúng thì ta cám ơn, rồi cho qua vì điều ấy không cần thiết. Khen cũng như thế. Nói tới đây tôi nhớ một bài kinh trong A Hàm kể lại. Có hai thầy trò ngoại đạo nọ đi theo Phật, người đệ tử thì khen từ tướng đi dáng đứng của đức Phật, còn ông thầy thì chê từ đầu tới chân, quái lạ như vậy. Thấy các thầy Tỳ-kheo ngạc nhiên, Phật nói: Khen cũng chưa tới, mà chê cũng chưa tới. Như Lai đối với những lời khen chê ấy không động, không dính dáng gì cả.Chúng ta nếu hiểu biết và sống được tinh thần như vậy thì việc học đạo tu đạo chắc chắn sẽ thành tựu không khó. Nên biết việc khen chê giữa cuộc đời này không đáng để ta bận lòng mà hãy sống hợp với đạo, thì tự nhiên tâm không vướng mắc việc khen chê. Nhớ được công phu tu hành nghĩa là chúng ta làm chủ, an nhiên giải thoát ngay giữa cuộc đời này.Giải thoát của nhà thiền nói không có nghĩa là bay lên hư không, mà giải thoát là bình thản an nhiên không vướng mắc không lệ thuộc bất cứ sự kiện gì. Chúng ta làm chủ mình từ cái ăn cái mặc… mọi thứ, làm chủ để được giải thoát. Giải thoát về ăn, giải thoát về ngủ, giải thoát về mặc, giải thoát về tiền tài, giải thoát về danh vị… Hành công phu liên tục để phát huy, làm chủ tinh thần giải thoát của mình. Muốn được như vậy, bản thân chúng ta phải dám nhìn, dám thấy, dám làm chủ, không sợ sệt rụt rè bất cứ chướng duyên hoặc trở ngại nào. Không có việc gì để sợ, không có gì để rụt rè, không có việc gì khiến ta phải bỏ cuộc rút lui. Đó là tinh thần của người có công phu tu Phật, đặc biệt là tu thiền.Tại sao chúng ta phải làm chủ mình? Vì có những sự việc nếu thiếu đức tự chủ, chúng ta sẽ mất mình, sẽ chao đảo. Mất mình chao đảo thì bị phiền não lôi đi, tu không được. Có rất nhiều người ham tu mà không tiến được, vì thiếu đức tự chủ. Thành ra tôi nhấn mạnh việc làm chủ lấy mình để trí tuệ tỉnh sáng, sống hợp với đạo lý thì công phu tu hành mới tăng tiến được. Người tu thì phải đầy đủ ý chí, phát huy cho được trí tuệ tỉnh táo sáng suốt mới là thật lòng tu hành.Trong Chứng Đạo Ca ngài Huyền Giác cũng nói: Mặc tình cho người hủy báng, biếm nhẻ. Khen lời Phật dạy cũng không tới nơi tới chốn, mà chê lời Phật dạy cũng không dính dáng gì. Tất cả những việc làm đó chẳng khác đem lửa đốt trời, hoặc phun nước miếng lên hư không, kết quả kẻ ấy tự chuốc mà thôi. Đó là những việc làm của người không có trí tuệ. Chúng ta tu hành không làm những việc như thế.Ở đây, công phu hằng ngày của chúng ta, dù việc lớn nhỏ gì cũng phải tập trung trong chánh niệm, không bận lòng đến việc khen chê, được mất, thành bại… Được vậy, dù không muốn chúng ta cũng vẫn tự tại giữa cuộc đời như thường. Như tôi đã nói cuộc đời này những chuyện bất như ý nhiều hơn như ý, chúng ta tu đúng chánh pháp thì ngay nơi những sự việc ấy mà tỉnh thức, để nhận ra niềm an vui có sẵn nơi mình, không lệ thuộc bên ngoài. Trong kinh, Phật Tổ nói rất nhiều về điều này để chúng ta nhận được chỗ bình ổn đó, sống an vui giữa mọi trở lực trước mắt. Hiểu và hành như vậy thì công phu tu hành mau tiến. Công phu tiến được, ta có lợi lạc thiết thực, đó chính là phần thưởng lớn nhất cho mình rồi, đâu phải đợi chờ trông ngóng ai ban cho.Điểm thứ hai tôi muốn nói về cảm nhận của chúng ta trước sự đổi thay vô thường. Ở trên là khen chê không bận lòng, thì đến vấn đề cảm nhận cũng cần phải biết. Từ sự cảm nhận, chúng ta có thể tu tiến được, nhưng cũng có thể lui sụt. Cổ đức xưa có lời răn nhắc thế này: Ngày nay đã qua, Mạng sống giảm dần, Như cá cạn nước, Nào có vui gì.Đại chúng hãy siêng năng tu hành Như cứu lửa cháy đầu,Cẩn thận chớ có buông lung.Đó là lời dạy mà hầu hết người con Phật chúng ta nghe qua, cảm nhận đến cuộc đời và đến công phu tu hành hằng ngày của mình. Sự đổi thay nhanh chóng giữa cuộc đời, ngày nay còn ngày mai mất, danh từ nhà Phật gọi là vô thường. Hình ảnh mạng người như cá cạn nước và gấp tu như cứu lửa cháy đầu nói lên tính trung thực và khẩn cấp đối với mạng sống và sự nỗ lực tu tập của chúng ta. Chư Tổ quả thật đã có những phương tiện rất khéo để đánh thức sự mê lầm sâu nặng như chúng ta.Với người tu chúng ta, những sự kiện đó nếu có một cái nhìn cảm nhận được lý vô thường thì chúng ta tu rất tiến. Bởi vì mình không còn đắm luyến thân này nữa, mà lo gầy dựng một sự nghiệp khác, đó là sự nghiệp giác ngộ giải thoát cho chính mình. Thân dù đẹp, dù giàu sang, nhà cửa rộng lớn, quyến thuộc đông vầy… tất cả rồi cũng bỏ lại, không có gì đem theo được ngoài nghiệp mình đã gây tạo trong sinh hoạt hằng ngày. Biết rõ như thế, tự nhiên chúng ta không còn muốn bám víu cái gì nữa, chỉ nỗ lực tu tập để làm chủ được mình trước giờ ra đi.Một hôm nói về mạng sống dài ngắn, Phật hỏi một vị Tỳ-kheo: - Mạng sống của con người trong bao lâu? - Bạch Thế Tôn, mạng sống con người trong vài mươi năm. Phật nói: - Ông chưa thấy đạo. Phật gọi một thầy Tỳ-kheo khác, thầy đó đáp: - Bạch Thế Tôn, mạng sống con người trong khoảng vài năm. Phật bảo: - Ông cũng chưa thấy đạo. Rồi các Thầy lần lượt đứng lên thưa mạng sống con người trong khoảng vài tháng, vài ngày, vài bữa cho đến một bữa. Tất cả đều bị Phật quở: “Cũng chưa thấy đạo”. Cuối cùng có một vị đứng lên thưa: - Bạch Thế Tôn, mạng sống con người chỉ trong hơi thở. Phật gật đầu: - Ông mới là người thấy đạo. Chúng ta ai dám thấy mạng sống của mình trong hơi thở. Nếu thấy được như thế thì đâu có cất nhà lầu mua xe hơi làm chi. Sự sống đổi thay nhanh chóng một cách thần tốc khốc liệt đến nổi trở thành bản án đối với con người thì có gì để ta ham thích đuổi theo nữa. Cho nên thấy được thực chất của vô thường là thấy được thực chất lẽ sống chết của con người. Từ đó chúng ta có tinh thần chuẩn bị, để khi ra đi không cảm thấy hoảng sợ, lo âu trước một sự việc tất yếu như vậy.Ngay bây giờ ai làm chủ được, bình thản đối với sự được mất hơn thua, không vướng mắc bất cứ thứ gì giữa cuộc đời này, người đó có thể gọi là Thiền sư, là Bồ-tát, là Phật. Cái nhìn của người tu hành là cái nhìn như thật, thấy ngay bản chất của sự vật. Nó thành như thế nào, trụ như thế nào, hoại như thế nào, không như thế nào. Cho nên không còn chạy theo các pháp bại hoại nữa. Tất cả đều được thành tựu trong sự kết hợp của nhân duyên, riêng nó không có chủ. Duyên hợp tạm có, duyên hết hoàn không. Nhận định thấy rõ như vậy với tâm tỉnh sáng thì công phu tu hành chúng ta vững.Có nhiều huynh đệ nói tu thì tu chứ sao không thấy vững. Tại sao? Vì thấy đẹp còn thích, thấy ngon còn ưa, thấy hay còn khen, thấy dở còn chê… thì làm sao tu vững được. Phải công phu như thế nào để trị được cái thích, cái ưa, cái khen, cái chê, không vướng mắc, không chạy theo nó thì mới mong nói đến chuyện tu hành. Người con Phật đối với tất cả sự kiện trước mắt, chung quanh luôn thấy rõ nó đổi thay từng phút từng giây. Ngay thân của mình cũng vậy, không lúc nào đứng yên một chỗ. Thấy thế để thức tỉnh, không ỷ lại ta còn trẻ, tuổi đang mạnh khỏe, gấp gì việc tu hành. Một sáng nào, anh hay chị thấy được như vậy sẽ toát mồ hôi hạn. Vì rằng tất cả sự đổi thay nhanh chóng ấy luôn đem đến cho ta những bất ngờ không trở tay kịp. Nếu không có sự chuẩn bị thường xuyên, chắc chắn ta sẽ không đủ lực để tự chủ, và bị nghiệp dẫn là chuyện đương nhiên thôi.Nói tóm lại, người con Phật thứ nhất không nên buông lung. Buông lung là mặc tình phóng ý, chạy theo, thả trôi đối với tất cả những sự việc bên ngoài. Thứ hai phải tỉnh để thấy thật chính chắn bản chất không thật của tất cả các pháp. Có được hai điều kiện này thì công phu chúng ta vững, trên đường tu không còn bị lầm nữa. Vì thế có thể nói rằng không có thứ gì kéo lôi chúng ta được. Đã thế chúng ta dễ nỗ lực, dễ tha thứ, dễ tạo được sự đoàn kết, an vui để tu tập. Vì ta không có tâm cố chấp, khó khăn hoặc tâm muốn ôm giữ cho mình. Ta không đủ thời giờ để tu hành có đâu chạy theo những chuyện không thật ấy.Chư Tổ nói chớ để một đời trôi suông, cần phải cố gắng. Cố gắng như thế nào? Ví dụ trong số các Phật tử đây, tháng này đi học đạo nghe Hòa thượng giảng dạy như vậy, nếu thấy bản thân hoặc trong huynh đệ có gì yếu kém, mình tự nhắc hoặc cùng động viên nhau khắc phục những điểm yếu ấy, để tháng sau ta không còn cảm thấy hổ thẹn vì những khuyết tật của mình nữa. Hướng đến một con đường tu tập như thế thì rất tốt.Điều quan trọng là chúng ta làm chủ được, chứ không phải chối bỏ hiện cảnh. Nghe nói cố gắng, buông bỏ tất cả Phật tử đòi bán nhà lầu, cất nhà lá cũng không được. Hiểu như vậy không được, nằm trong rừng mà bị đắm trước, bị mắc mứu ở những chuyện xung quanh cuộc sống, cũng không phải là người giải thoát. Có người ở trong nhung lụa, nhà lầu xe hơi mà tinh thần không vướng mắc các thứ đó cũng có thể gọi là giải thoát. Đó là pháp học chúng ta phải học, đó là pháp tu chúng ta phải tu. Có tu có học như thế mới thấy được giá trị thiết thực của lời Phật dạy.Phật tử có duyên nên mới gặp Phật pháp để tu hành thì đừng bỏ lỡ cơ hội. Có người nói con nghèo quá tu không được, có người nói con bận rộn quá tu không được v.v… Về điểm này chúng ta phải hiểu tại mình chưa thực sự muốn tu thôi, chứ nghèo tu cũng được, mà giàu ráng tu cũng được. Nghèo giàu đâu có dính gì tới chân tánh của chúng ta. Sống trong hoàn cảnh nào cũng vậy, hễ mê là mất mạng, tỉnh là qua sông lên bờ thảnh thơi. Việc mê tỉnh chủ yếu nơi định lực, nơi trí tuệ, nơi ý chí tu hành bên trong của mình, có liên hệ gì tới hoàn cảnh chung quanh. Cho nên mượn lý do này lý do nọ để không tu được là một sai lầm lớn.Chúng ta có Phật pháp giữa đời thường bận rộn là có được kim chỉ nam để thành công rồi đó. Bởi không thần linh nào có thể đưa chúng ta qua được dòng sông sanh tử, chỉ chính chúng ta tự lội qua thôi. Phật dạy phải tu trong mọi lúc mọi thời, chứ không phải chỉ có tụng kinh, ngồi thiền, niệm Phật mới gọi là tu. Làm sao chuyển hóa được phiền não, khen chê thành an vui hạnh phúc là ta tu được, là giải thoát ngay trong suộc sống hiện tại của mình. Là Phật tử mà không hiểu về điều này thì thật là hiểu quá ít về Phật pháp.Thật ra Phật pháp thì ta có hiểu mà hành thì chưa tới nơi tới chốn. Bây giờ hãy xem những gì ta đã học hiểu như là một chiếc phao cuối cùng. Nếu chưa qua sông được mà vội buông phao thì chết chìm thôi. Quí vị hiểu nhiều hiểu ít, hiểu về Phật pháp như thế nào đó tùy, quan trọng là hiểu đúng và hành đúng là quý nhất. Lời Phật dạy giống như chiếc phao là phương tiện giúp ta qua sông. Qua được rồi mới được bỏ phương tiện, lên bờ thảnh thơi tự tại. Chừng ấy ngay cả pháp Phật cũng không cần thiết, nói gì đến các thứ khác.Học pháp mà không hành, Phật nói giống như kẻ đếm của báu cho người, mình không được một đồng xu. Cho nên đối với pháp Phật, tu pháp nào cũng được miễn có tu và tu đúng mới đạt được lợi ích thiết thực. Chúng ta không cố chấp, không bài bác nhau, chỉ chuyên tâm thực hành pháp nào ra pháp ấy cho tới nơi tới chốn, nhất định ta sẽ thành công. Chớ chỉ hiểu và nói suông thôi thì không khác kẻ đếm của báu cho người, mình chẳng có chút lợi lạc gì. Một điểm nữa là trong đời sống tu hành, chúng ta phải ngay thẳng chân thật. Có những việc nhỏ nhưng nếu không cẩn thận sẽ tạo thành nghiệp. Đã có nhân thì có quả. Trong một ngày, chúng ta kiểm lại xem mình gây bao nhiêu nhân. Không tỉnh thì không sao kiểm nổi. Cho nên thành thật thẳng thắng đối với bản thân, để không tạo những nghiệp nhân xấu, cản trở bước tu tập của mình. Bắt đầu công việc trong một ngày, ta phải luôn xét nét từ ý nghĩ cho tới lời nói, hành động của mình, cái nào không tốt, cái nào vì bản ngã của mình mà làm thì loại nó đi. Thường xuyên tu tập như vậy là người hiểu được Phật pháp và biết tu Phật.Chúng ta phải nghiêm chỉnh với bản thân mới có thể làm chủ ba nghiệp của mình. Đây là pháp tu hết sức bình thường mà có kết quả cụ thể, ai cũng tu được. Chúng ta tỉnh táo tu hành, thấy rõ thành quả của mình như thế, nhất định có đầy đủ niềm tin nơi mình và niềm tin với mọi người. Từ đó ta không còn hoảng sợ trước mọi thứ, kể cả sống chết. Càng tu càng thấy đúng hiểu đúng, chúng ta càng nỗ lực, càng có niềm vui chân thật.Lời chư vị thiện hữu tri thức đã nhắc, địa ngục là nơi khổ sở của chúng sanh bị tội, nhưng nếu chúng ta không là người tiên phong phát nguyện vào địa ngục để nhắc nhở, để cảnh giác cho anh em huynh đệ bị khổ trong đó thì ai làm việc này? Người tu Phật là người tiên phong vào những chỗ thống khổ với lời nguyện thế này: Nguyện thay tất cả chúng sanh chịu những khổ sở đó, chỉ mong sao mọi người thức tỉnh đừng gây nhân xấu, hãy hướng về con đường thiện lành tu tập để nhận ra ông Phật của chính mình. Đó là lời nguyện của những người hành Bồ-tát đạo. Muốn thế những vị ấy phải có đầy đủ trí tuệ và từ bi, phải xong việc của mình trước khi độ người. Chúng ta là con Phật thì phải ý thức điều này, tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn là công hạnh, là sở nguyện của tất cả các đức Như Lai, trong đó không loại trừ chúng ta.Buổi nói chuyện hôm nay chúng tôi muốn nhắc người con Phật, tu theo Phật chớ để lòng mình bị vướng bận bởi những việc khen chê. Chúng ta tỉnh sáng làm đúng theo pháp học, được như vậy thành quả, giá trị công phu tu hành của chúng ta nhất định sẽ thành tựu. Ta được như thế rồi thì động viên các bạn đồng tu cùng hướng về con đường ấy, mới gọi là thực hiện trọn vẹn chân tinh thần Phật dạy.
Hòa Thượng Thích Nhật Quang

Saturday, December 19, 2009

Trồng hoa trên đá

November 16 2009

Chúng ta có bao giờ nghe nói “Trồng hoa trên đá”? Trên đá mà trồng được hoa mới là chuyện lạ, nhưng không lạ vì ta có thể thực hiện được ngay trên mảnh đất tâm của mình. Trồng hoa trên đá là mấy từ mượn trong hai câu thơ của Thiền sư Đạo Giai Phù Dung.
Gặp sắc gặp thinh như trồng hoa trên đá,Thấy lợi thấy danh như bụi rơi trong mắt.Quanh quẩn qua lại trong đời sống của chúng ta không có gì ngoài sắc thinh danh lợi. Chúng ta đã từng chạy theo và đã từng khổ đau với những thứ này. Khổ đau chỗ nào thì phải gỡ chỗ đó, té ở đâu thì đứng lên ở đó. Người chết nơi sắc, danh thì phải đứng lên từ sắc, danh, kẻ chết nơi âm thinh, hương vị, sắc đẹp… thì phải từ đó mà thoát ra.Nói về trồng hoa trên đá, chúng ta chưa nghe qua bao giờ. Vì hoa chỉ có thể trồng trên đất, chớ trồng trên đá làm sao sống được. Thế nhưng thiền sư bảo gặp sắc gặp thinh như trồng hoa trên đá. Hoa cắm vào đá thì không thể dính rồi. Cũng thế, khi mắt thấy sắc, ta không dính nghĩa là không khởi yêu thích chạy theo hay ghét bỏ ruồng rẫy. Do không khởi nên không dao động, không tạo nghiệp, không khổ. Con mắt là một cơ quan, chức năng của nó là để chúng ta nhìn thấy. Có người nhìn thấy sanh chuyện, có người nhìn thấy không sanh chuyện, khác nhau ở chỗ tâm phan duyên. Cũng một cành hoa, cũng một chiếc vòng vàng mà có người nhìn nó, tâm không yên. Như bên nam thấy xe cộ máy móc thì kẹt ở đó, bên nữ thấy vòng vàng hay rau cải, thóc lúa thì kẹt ở đó. Như vậy tùy theo nghiệp của chúng sanh mà vướng mắc vào các duyên trần. Do vướng mắc nên bị nó xiết chân và hơn thế nữa là xiết luôn cả cái tâm.Tâm là tiếng Tàu, dịch qua tiếng Việt là tim. Vì là tim nên nó quyết định mạng sống của mình. Chỉ cần tim ngừng đập là chúng ta chết. Thế nên chúng ta rất kinh nghiệm trong việc đứng tim khi chạy theo tài, sắc, danh, thực, thùy. Càng theo đuổi nó càng trắng tay, càng mệt mỏi. Dù được hay không được, cuối cùng cũng mất hết mà thôi, bởi vì bản chất của nó vô thường. Nắm được ngũ dục trong tay cũng chưa chắc là có hạnh phúc đâu. Đôi khi còn khổ hơn chưa nắm. Thử tưởng tượng ta nắm một cục nước đá trong tay, khi nó còn mình lạnh buốt, khi nó tan mình trở lại trắng tay. Thế thôi. Có gì để thích thú? Hợp tan là luật của duyên sinh vô thường, không phải là chuyện cho ta nắm giữ đeo mang.Thế nhưng con người vẫn mong muốn còn mãi cái mà nhất định phải mất. Mất mát của cải, danh vọng, người thân… là luật. Chúng ta thấy có ai không mất cha mẹ, anh chị em… đâu? Mỗi lần mất như vậy là đau khổ. Đâu chỉ có khổ mất nhau vì chết, mà còn có cả nỗi khổ mất nhau khi đang sống. Thương càng nhiều khổ càng lắm. Nếu mình thương nhiều người nữa thì nỗi khổ được nhân lên nhiều lần. Như vậy thế gian được để mà khổ, chớ không phải được để mà vui. Mỗi lần được cái gì thì chắc chắn sẽ có mất. Hiểu điều này rồi chúng ta đừng ham muốn được nữa thì hết khổ. Nói thì nói vậy, chớ ai cũng muốn làm sao có tiền, quý vị trẻ thì muốn có công danh sự nghiệp với đời, muốn có gia đình hạnh phúc… Tất cả đều nuôi dưỡng mong muốn. Mong muốn mà được thì phải có mất. Một lần được là một lần mất, khi mất đau hơn khi được, được vui có một mà mất đau tới mười. Tại sao? Tại được rồi thì nắm giữ, nuôi dưỡng, chấp thủ của mình. Thời gian nắm giữ càng lâu chấp thủ càng lớn, nên lúc mất đi thật là đau. Có nhiều vị than khóc “Con không nghĩ tới giờ này con khổ như vậy?”. Nhất là những vị có gia đình, “không ngờ ở với nhau bao nhiêu năm mà bây giờ lại đổ vỡ?”, bắt đầu ngồi đó mà nhớ. Lẽ ra mất rồi khỏi giữ khỏe quá, nhưng ngược lại đau gấp mấy lần?Phật nói cái đau này chỉ là ảo giác, không trường tồn, không thật có. May thay nó là ảo giác, nếu nó là cái đau thật sự, cửu trụ nơi đời thì chúng ta không thể sống nổi. Chỉ là ảo giác thôi mà nhân loại khổ ngất ngư, nếu nó cố định thì không cách nào chúng sanh tu được. Ngẫm mà xem, cái ảo mà mình đau mới thật cay đắng, thật vô lý. Chuyện còn mất theo duyên mà có, tâm là cái biết về sự còn mất ấy, chớ không phải là cái còn mất. Nhưng chúng ta đồng hóa mình với sự còn mất nên luôn khổ vui biến đổi. Người tu không như thế, còn thì biết và sống theo duyên còn, mất thì biết và sống theo duyên mất, không bận lòng nên không xao động bất an. Thật ra các pháp tựu tán không làm cho chúng ta khổ, mà tâm tham ái chấp trước làm mình khổ. Tất cả các pháp trên thế gian là vô thường mà ta muốn nó còn hoài là ta đi ngược với luật vô thường. Chống lại một quy luật không thể chống là tự đưa mình vào con đường cùng, vào nỗi khổ lớn. Chúng ta biết thực tướng của các pháp, sự sinh khởi của nó, nắm vững quy luật nhân quả, bao nhiêu đó cũng đủ dứt trừ các thứ tập nghiệp nhiều đời. Trong kinh Kim Cang, Phật dạy: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Nghĩa là không nên trụ sắc sanh tâm, không nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia. Tôi tạm diễn nghĩa câu này gần gũi với đời sống của người Phật tử tu tại gia như sau: không nên trụ nhà lầu, xe hơi, vợ đẹp, con ngoan, công danh, sự nghiệp mà sanh tâm, nên không có chỗ trụ mà sanh tâm. Nếu sống được như vậy là chúng ta đã trồng hoa trên đá. Thực tập chỗ này không phải đổ mồ hôi sôi nước mắt, nhưng đôi khi lại quá sức đối với chúng ta? Tại sao lạ vậy? Tại nghiệp lôi mạnh quá. Chúng sanh quen chạy theo những thứ ấy rồi, bây giờ bảo đừng chạy theo không phải chuyện dễ. Cần rất nhiều công phu, chịu khó sửa lại thói quen, dĩ nhiên là cực hơn chạy theo thói quen. Không nên trụ tức là không nên kẹt. Không nên trụ sắc sanh tâm, là không nên mê thích sắc rồi sanh tâm muốn nó thuộc về mình. Người thế gian khi thấy sắc đẹp liền thích, muốn sắc đó thuộc về mình. Muốn không được thì đau khổ, thất vọng. Muốn được lại càng khổ hơn vì phải gìn giữ. Nếu nó mất đi nỗi khổ cứ thế nhân thêm lên. Đang thanh thản an nhiên, bỗng dưng chuốc khổ vào thân vì một chút sắc bên ngoài, rồi đổ thừa ngũ dục lôi. Hỏi kỹ lại, ta lôi ngũ dục hay ngũ dục lôi ta? Ta lôi ngũ dục. Vậy thì khổ do mình chuốc lấy, chớ đâu phải tại ngũ dục. Phật dạy nếu muốn hết khổ thì không nên trụ sắc, thanh, hương… sanh tâm.Việc tu sửa thật ra không phải quá sức chúng ta, nhưng vì mình ít làm, hoặc không quyết tâm làm, thành ra thấy khó. Con người khi đã muốn rồi, không có việc gì làm không được. Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ này nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở. Mình thương ai mình biết, ghét ai mình biết, như vậy ta biết rất rõ mấu chốt nằm ở chỗ nào nên ta là người tháo gỡ gọn nhất.Trong vận mệnh này chúng ta toàn quyền quyết định, tự hạ lệnh cho mình và tự hành lệnh một cách nghiêm chỉnh. Nếu không nghiêm chỉnh thì tự nhận phạt bằng cách thọ khổ. Có thế thôi. Ngày nào chúng ta chưa hết khổ là ngày đó chưa hành chánh lệnh quyết liệt, không nên đổ thừa cho ai, cũng không nên kêu cứu ai, mà phải tự mình cứu mình. Có một Phật tử hỏi tôi: “Thưa cô, con khổ quá chừng. Con bất hạnh trong đời sống gia đình, có chồng nhưng không hạnh phúc, tụi con đã chia tay. Bây giờ có người cũng gãy gánh như con, muốn cùng con xây dựng gia đình mới. Cô thấy có nên không?” Tôi thật vô cùng lấy làm lạ, đã khổ muốn chết rồi mà còn hỏi có nên không. Vã lại, với một nhà tu mà hỏi câu đó thì không cần phải tham khảo kinh điển nào, nhắm mắt cũng có thể nói “không”. Nhưng làm được hay không lại là chuyện của Phật tử. Thật ra khi hỏi câu đó, quí vị cũng muốn phiêu lưu một lần nữa, chứ nếu dứt khoát không thì chẳng cần phải hỏi ai cả. Tuy đã rất khổ về việc này, nhưng ái nghiệp không thắng nổi, nên đương sự mới lưỡng lự như vậy. Chuyện ân oán duyên nợ của chúng sanh thật không mối mang, con người cứ phải gặp gỡ để trả nợ cho nhau, nên cuộc đời là bể khổ. Chúng sanh khóc hết nước mắt vì sự bất hạnh này chồng chất lên bất hạnh khác, mà họ chưa đủ sức thoát ra. Vì vậy Phật mới dùng câu “thật đáng thương xót lắm thay!” Về đời sống thế gian với những nỗi khổ trần ai, chúng tôi chỉ thấy nghe qua hoàn cảnh của người khác, còn bản thân mình không có những trải nghiệm ấy nên không biết rõ. Riêng về đời sống của một người xuất gia không có gia đình, tôi thấy ít khổ hơn, ít rắc rối hơn người đời. Chúng tôi tuy không có gia đình mà chưa bao giờ cảm thấy cô đơn, cảm thấy buồn vì không có những thú vui thế gian. Ngược lại còn thấy hạnh phúc, an lạc khi được sống một mình, sống yên tỉnh. Mỗi người có phước nghiệp riêng nên phù hợp với những cuộc sống riêng. Nhiều vị sợ đối mặt với chính mình, sợ sống trong chùa, sợ cảnh vắng vẻ yên tịnh, sợ thiếu vắng người thân bên cạnh… Với quí vị này nếu bắt tu, người ta sẽ không chịu, sẽ thấy khổ. Cũng có người muốn được sống cảnh nhàn tịnh nơi chùa chiền nhưng lỡ đeo mang gia duyên, muốn rứt rứt không được. Có một cụ bà kể: “Con sống mấy mươi năm, từ ngày có chồng đến giờ, chưa có một ngày hạnh phúc, khổ lắm cô ơi. Con ráng chờ gả xong con Út rồi đi tu”. Đã biết con đường ấy khổ, nhưng cũng ráng gả cho xong con Út. Thật là lối cũ vòng quanh, không thoát ra được. Nhiều vị con có chồng thì vui vẻ, con đi tu thì khóc hết nước mắt. Đi tu cũng xa, có chồng cũng xa, tại sao có chồng lại chịu, đi tu lại không chịu? Có lẽ họ nghĩ có chồng sẽ hạnh phúc, còn đi tu sống đời kham khổ. Nhưng cuối cùng đứa con nào sướng? Thực tế cho thấy đi tu sướng về tinh thần và sau này còn lo trả hiếu cho cha mẹ nhiều hơn người không tu. Nhưng với điều kiện người đi tu phải tu cho đàng hoàng, tu đúng chánh pháp. Người đời mê khổ đã đành, còn Phật tử chúng ta học đạo, hiểu đạo, biết hết mọi lẽ đúng sai mà vẫn khổ mới lạ. Thế gian không biết con đường khổ nên đi theo, mình biết rất rõ tại sao lại không tránh, không nhắc nhở người thân cùng tránh. Mỗi lần ta phiền não là tạo nghiệp, gặp cảnh tham, sân, si là tạo nghiệp. Tạo nghiệp thì chuốc quả khổ, biết chắc chắn như vậy, tại sao không tự khắc phục mình, không tự ra lệnh cho mình đừng dính với cảnh. Nếu không dính thì mình không khổ, biết như vậy mà làm không được, mới tức mình. Chúng ta khổ là do vướng vào, gá tâm vào các duyên rồi chấp kẹt nơi đó. Bây giờ đừng gá nữa, hoặc lỡ gá thì gỡ từ từ, đằng này chúng ta không gỡ mà còn cố cột thêm. Như vậy biết bao giờ mới hết khổ. Muốn càng nhiều thì khổ càng lắm. Bốn đại quay cuồng không điều hòa là khổ về thân. Tâm vọng tưởng lung tung, niệm niệm không dừng khiến ta luôn bất an là khổ về tâm. Năm ấm sắc, thọ, tưởng, hành và thức, lừng lẫy nhấp nhô như từng cơn sóng trào làm chúng sanh đảo điên, ăn không được ngủ không được, gọi là năm ấm xí thạnh khổ. Bây giờ chúng ta hiểu được nguyên nhân gây khổ từ sự mê lầm chấp chặt của mình, thì phải tháo gỡ, không nên trói cột nữa. Hồi chưa học Phật, chưa là Phật tử, chúng ta khổ mười, bây giờ giảm bớt còn tám, sáu, năm, ba, hai, một, chứ không thể hồi trước khổ một bây giờ khổ hai ba. Như vậy không được, không phải là người Phật tử. Việc tu không phải gắng sức như đưa gánh nặng ngàn cân lên vai hay bươn chải kiếm sống. Người tu cốt dùng trí tuệ và ý chí nghị lực bên trong. Trí tuệ là căn bản, tại sao phải có thêm ý chí nghị lực?Chúng ta học hiểu biết ứng dụng, nhưng việc thực hành không phải ba bữa là xong. Như mình biết sân là nghiệp xấu, là nhân đọa vào địa ngục, nên gặp điều bất như ý thay vì la toáng lên mình dằn bớt. Đó là tu sửa, tuy nhiên chuyện này không phải làm một thời gian ngắn là thành tựu mà phải tu sửa suốt đời. Không phải khi gặp chuyện mới tu, khi không gặp chuyện vẫn tự nhắc mình tỉnh.Phải có thói quen tự nhắc mình tỉnh thức trong mọi sinh hoạt. Nhờ có độ tỉnh trước, nên khi gặp cảnh chúng ta đang ở tâm tỉnh, thành thử phiền não không đột nhập được. Tỉnh nghĩa là sáng. Sáng thì không si, không si nên cũng không tham, sân. Như vậy cách tu cụ thể là thường xuyên nhắc nhở mình tỉnh giác. Tuy nhiên chỗ này hành giả phải khéo. Bởi ta đang sống tự nhiên mà nhắc “tỉnh, tỉnh” sẽ trở thành mất tự nhiên, dẫn đến tình trạng nặng nề, căng thẳng. Vì vậy khi khởi niệm nhắc, nhắc xong liền buông niệm nhắc. Thời gian tỉnh kéo dài bao lâu tùy mỗi người, sau đó sẽ quên. Quên ta lại nhắc, vừa nhắc liền buông. Cứ thế thực tập, khéo léo nhẹ nhàng, công phu miên mật nhưng không làm mình mệt mới đúng.Ngược lại là sai. Chỗ cứu kính không lời và cũng không nhọc nhằn như vậy, nhưng trên bước thực tập bắt buộc phải thế thôi, không có cách nào khác. Bao giờ chúng ta quen, dụng công nhẹ mà tỉnh lực nhiều, tự nhiên không cần nhắc, ta vẫn tỉnh. Đó là công phu đã khá rồi. Cho nên muốn tỉnh liên tục, bên cạnh trí tuệ đòi hỏi phải có ý chí. Như người nghiện rượu, muốn bỏ rượu đâu phải dùng trí tuệ không, mà còn dùng ý chí nữa. Có thể nói ý chí đóng vai trò quyết định. Nhận ra được đúng sai là phần của trí tuệ, nhưng vấn đề chuyển đổi tập khí phải dùng tới ý chí. Đây là đi vào lãnh vực thực tập, chớ không phải vấn đề lý thuyết, cho nên phải nắm vững thủ thuật. Trên căn bản lấy trí tuệ làm sự nghiệp, trên công phu lấy ý chí làm chỗ tiến thủ để đi đến thành công. Ngoài ra cũng cần đến yếu tố tinh tấn. Có tinh tấn làm bạn đồng hành với ý chí, bền bĩ liên tục, nhất định sẽ thành tựu đạo nghiệp. Chúng ta tu thấy khó quá không phải vì thiếu trí tuệ mà là thiếu ý chí và sự bền bĩ liên tục. Khi gặp buồn khổ la trời, chừng đó mới nhớ tới Phật, mới tu. Bình thường hí hửng dạo phố, mặc tình thả lỏng sáu căn, khi gặp trở ngại khó khăn liền sanh phiền não. Phiền não quá chịu không nổi mới cầu cứu Phật, mới chịu tỉnh. Lúc không đụng chuyện, ta thấy như bình an, nhưng đó là sự bình an trong cái không tỉnh, bình an mà trôi theo cảnh. Vì vậy gặp việc cũng trôi luôn. Nếu bình thường không tỉnh, gặp duyên sân tới chúng ta sân, gặp duyên tham tới chúng ta tham. Tùy theo tập khí mỗi người tham nhiều hay sân nhiều mà tương ưng với ngoại duyên. Ở đây Tổ dạy “Trồng hoa trên đá” là làm tất cả việc mà không dính, tức là làm trong tâm tỉnh giác. Muốn thế phải có đạo lực rất mạnh. Nếu tâm không tỉnh chúng ta sẽ tạo nghiệp, trước tiên là tạo nghiệp trên tư tưởng. Trong ba nghiệp, một khi ý đã dấy rồi mà không có sự tỉnh giác, thì sẽ dẫn tới cái miệng, miệng nói chưa đủ sẽ dẫn tới tay chân. Thế là tam giới mở ra, ba cõi sáu đường đồng hiện trước mắt. Chuyện này ai tạo? Mình tạo. Tại sao tạo? Tại bất giác. Nếu chúng ta tỉnh giác, an ổn trong cái thấy nghe của mình thì đâu có việc gì. Người đẹp đi ngang cứ đi, ta vẫn ngồi tịnh lặng thấy biết vậy thôi. Hay quá chừng! Tại sao đứng ngồi nhấp nhổm, động đậy con mắt, rọ rạy cái tâm, làm mất hết cái hay của mình. Thật đáng tiếc. Người ta đẹp, mình ngồi yên nhìn, mình cũng đẹp. Nhưng nếu mình đứng dậy đi theo là hết đẹp, tự nhiên kỳ liền. Ai cũng muốn đẹp chớ đâu muốn xấu, nhưng ta quên khi tác ý rồi thì trở thành xấu, cho nên nhà Phật nói “tâm ư trung xuất hình ư ngoại”. Ý đã xấu thì hiện tướng cũng xấu theo. Thế nên một người con Phật phải biết bảo dưỡng, nuôi nấng chủng tử Phật. Chủng tử Phật thì phải được nuôi bằng Phật chất, không thể nuôi bằng chúng sanh chất. Chủng tử Phật là thanh tịnh thì không thể nào lấy ô nhiễm nuôi nó. Cho nên từng giờ từng phút từng giây chúng ta phải lấy Phật chất để trưởng dưỡng Phật tâm, như thế mới có thể thành Phật, mới sống thanh tịnh được. Niềm vui chân thật rất sâu sắc, rất vắng lặng, không có gì thương tổn, xâm phạm được. Niềm vui này khiến cho mình sống rất đẹp rất hay. Nó nằm sẵn nơi chúng ta, chỉ cần mình nhớ và nhận lại là vui ngay. Ai cũng muốn sống vui thì tại sao chúng ta không chọn niềm vui vĩnh cửu, mà lại chọn niềm vui ngắn ngủi mong manh? Nhiều vị nghĩ ngồi yên sẽ buồn, không vui. Đó là vì chúng ta ngồi yên chưa đúng mức, chỉ ngồi chớ không phải yên. Ngồi mà tư tưởng không yên thì dĩ nhiên là buồn rồi, giống như ai cột trói mình vậy. Ngồi yên đúng mức sẽ rất thích, khi tâm lắng lặng mới thấy không có niệm lăng xăng nào sánh nổi với cái bất động. Bất động mà hằng sáng, năng lực chiếu soi của tâm là vô tận, không thể nói buồn hay vui ở đây được. Phật tử còn vướng víu việc mưu sinh, đời sống gia đình nhiều bận rộn, không có điều kiện công phu như các thầy cô. Tuy nhiên khi chúng ta đã có tâm niệm tu hành, đã hướng về Phật pháp là trong lòng đã có khuynh hướng. Khuynh hướng này nhất định sẽ được thực hiện một cách triệt để tùy theo duyên của mỗi vị. Song không cần thiết phải đợi đến một thời gian nào, ta mới bắt đầu tu, mà có thể tập tu ngay trong hoàn cảnh riêng của mình. Chúng ta tập buông bớt duyên, Phật tử biết được các pháp duyên sinh nên không phải khổ vì sự hợp tan của nó, đừng để nó làm chủ mình mà mình phải làm chủ nó. Để cho duyên sai sử là ta bị lệ thuộc vào nó, lệ thuộc vào ngũ dục, lệ thuộc vào nghiệp. Phật tử muốn tu hành, không đợi già mới tu, tu như thế sẽ không kịp, mà ngay bây giờ tập từ từ. Tập buông việc bớt, đừng sợ. Buông sẽ tốt hơn chớ không xấu hơn đâu mà sợ. Tại vì quí vị già rồi, không có khả năng nắm việc như hồi còn trẻ. Đã không nắm được mà muốn nắm, nhất định sẽ tuột mất. Nếu sáng suốt giao cho con cái nắm, trước khi mình làm tuột mất, có phải hay hơn không? Trong nhà thiền có câu chuyện ăn trộm dạy con rất hay. Một tên ăn trộm con nói với ăn trộm cha: “Tía à, tía già rồi mà không truyền nghề cho con, mai mốt tía không đi ăn trộm nổi, làm sao con ăn trộm được”. Ăn trộm cha nghe có lý nên quyết định truyền nghề cho con. Một hôm ông rủ thằng con “Bữa nay hai cha con mình sẽ đục vách nhà này”. Vì là ăn trộm chuyên gia nên ông đục vách rất thành công, chủ nhà không phát hiện được. Trộm cha khoét vách tới đâu, trộm con đứng nhìn tới đó. Các công đoạn đã được thực hiện gọn gàng, hai cha con chui vô tới kho mà chủ nhà vẫn không hay. Vào được kho, ông khoét rương đựng vàng. Rương này rất to, mở ra thấy vàng bạc loé mắt, trộm con mừng quá nhào vô hốt, không ngờ trộm cha đẩy một cái mạnh, trộm con lọt tỏm vào rương. Trộm cha nhanh tay đóng nấp khóa lại, rồi vừa chạy vừa tri hô lên có trộm. Bấy giờ người trong nhà xông ra, thấy vách tường bị khoét, họ dò dẫm khắp nơi và chạy vào trong kho. Trộm con điếng hồn, nằm chết cứng trong rương, lúc này nó chỉ tính đường thoát thân nên cũng không hơi sức đâu nghĩ đến chuyện tại sao cha nó lại làm như vậy? Chủ nhà nhìn thấy mọi vật còn nguyên, kể cả cái rương cũng được khoá kín, nên an tâm là trộm chưa vào tới đây. Trộm con nghĩ, nếu người ta phát hiện mình nằm trong rương cũng chết, mà không phát hiện ra mình cũng chết. Trong lúc cái chết chỉ còn trong đường tơ kẻ tóc, trộm con bỗng nảy sinh ý tưởng, phải làm sao cho họ mở rương, may ra mình còn con đường sống. Thế là nó giả tiếng chuột kêu. Chủ nhà ngạc nhiên, cho mở nắp rương. Nắp rương vừa bật lên, nó cầm ngọc ngà châu báu ném vào mặt chủ nhà, rồi chạy thật nhanh. Dĩ nhiên người ta rượt theo. Nó chạy bán mạng, lúc đó không nghĩ gì hết ngoài cái mạng của mình thôi. Tiếng la hét rượt đuổi gấp ở phía sau, càng khiến nó chạy nhanh hơn. Đến gần một cái giếng, nó mừng quá ôm nguyên tảng đá liệng xuống cái rầm, rồi bò vô lùm cây trốn. Trong đêm tối, nghe tiếng đá rơi xuống giếng, mọi người không nhận dạng rõ nên tưởng tên trộm đã rơi xuống đó. Họ xúm quanh miệng giếng xỉ vả một hồi, ngó quanh ngó quẩn không thấy tên trộm đâu, mọi người đinh ninh thằng nhỏ đã tiêu đời, nên kéo nhau về. Nhờ thế nó thoát thân về nhà. Chạy về tới nhà, người đầu tiên trộm con tìm chính là cha nó. Trận này định bụng dứt tình cha con luôn, nên nó đùng đùng tống cửa xông vô, thấy cha ngồi thư thả uống trà, còn nói: mừng con đã về. Nó tức lên ruột lên gan, chẳng còn lễ độ: - Ông thấy hả dạ lắm sao? Trộm cha đáp: - Hả dạ lắm chứ. Trộm con chưa kịp nói thêm câu nói, trộm cha chậm rãi từng lời:- Chỉ có cách này con mới rành nghề nhanh nhất và tự tin ở khả năng ăn trộm của mình, còn hơn cả cha nữa. Trộm con từ từ hiểu ra thủ thuật dạy con táo bạo và thần kỳ của trộm cha. Từ đó trộm cha trao hết tay nghề cho con, gác kiếm giang hồ, sống đời thảnh thơi.Trong nhà thiền thường lấy câu chuyện này để dụ cho khả năng tự ngộ, tự tu, tự chứng của hành giả tham thiền. Mỗi người đều có một con đường riêng để xuất cách, để kinh nghiệm và để viên mãn công phu. Phương tiện truyền đạt chỉ có giá trị giới hạn, đi đến chỗ cứu cánh viên mãn phải là tự thân của chúng ta phát minh sáng tạo. Cái đó mới thật của mình. Quý Phật tử không có cái gan nhả ra, vì sợ con hư, sợ sự nghiệp tiêu tan thì mãi mãi bị trói chặt trong đó. Đồng ý chúng ta có giáo dục, tinh thần trách nhiệm, nhưng đến lúc nghỉ là nghỉ, đừng nắm níu làm gì. Để cho con cái có cơ hội phát tiết tinh hoa chứ! Gò ép trong khuôn khổ của mình hoài, làm sao nó phát huy được cái riêng của nó. Không chừng thả con ra, lặng lẽ cố vấn cho nó, quí vị sẽ rất thú vị khi phát hiện ra con còn giỏi hơn mình. Quí vị lo quá thì không còn chỗ đâu cho con nó lo. Quí vị không thèm lo nữa, tự động nó biết lo. Con người có bản năng sinh tồn mà. Con hư thì đã hư trong tầm tay của quý vị rồi. Chúng ta thấy có nhiều đứa con hư từ lúc còn nhỏ, tuy cha mẹ cưng chiều, thương yêu vô cùng mà nó vẫn hư. Ngược lại, có những đứa bất hạnh, bỏ cù bơ cù bấc mà nó không hư, về sau lại rất hữu dụng cho đời. Cho nên muốn tu thì chúng ta phải gan, sắp xếp cho gọn, để còn nhẹ tay nhẹ chân mà tu chứ.Trong kinh Kim Cang, Tôn giả Tu Bồ Đề hỏi Phật: Làm sao hàng phục tâm và an trụ tâm? Phật dạy: Muốn hàng phục tâm thì ở trong không có vọng tưởng, tức là đưa tất cả chúng sanh vào tịch diệt mà không thấy có chúng sanh nào được diệt độ. Bên ngoài mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị đừng chạy theo, đừng mê đắm, đó là an trụ tâm. Lục Tổ cũng dạy: Ở trong không loạn là định, ở ngoài không động là thiền, đây gọi là thiền định. Sơ Tổ Trần Nhân Tông đi theo tông chỉ này, có làm bốn câu kệ: Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,Đói đến thì ăn mệt ngủ liền, Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.Căn cảnh không dính nhau, đó là thiền, cũng là trồng hoa trên đá. Việc này không chỉ dành riêng cho Tăng Ni, Phật tử tu thiền, mà dành cho tất cả mọi người có Phật tánh, sống trong cuộc đời này.
Hạnh Chiếu

http://thienviendaidang.net/news.php?readmore=72