Thursday, June 3, 2010

Tại sao phải tụng kinh ,trì chú,niệm Phật - MP3

Wednesday, June 2, 2010

Làm việc và nghỉ ngơi

TVĐĐ - ngày 16 tháng 12 năm 2009 21-Nếp Sống

Ngày nay, áp lực công việc luôn đè nặng lên con người hiện đại. Dù là việc làm trí óc, con người phải xử lý một lượng thông tin lớn hơn ngày xưa rất nhiều. Trái với sự tin tưởng của nhiều bộ óc lỗi lạc vào thời kỳ bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp ở thế kỷ XVIII, rằng khoa học kỹ thuật sẽ làm cho con người được nhàn rỗi hơn (vì đã có máy móc làm thay) và con người sẽ có nhiều thời giờ rảnh rỗi để thưởng thức văn hoá nghệ thuật, vui chơi…

Nhưng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế, sự cạnh tranh khốc liệt, con người càng bận rộn hơn, làm việc với cường độ cao hơn. Bằng chứng là stress, một sự căng thẳng tinh thần đến mức trở thành bệnh, và chứng bệnh này chỉ có ở những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX. Do đó, nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn càng trở thành cấp thiết.


Làm việc và nghỉ ngơi, ban ngày hoạt động và ban đêm ngủ nghỉ là một quy luật của đời sống mà người xưa cũng như người hiện đại đều phải tuân thủ.

“Tạp chí Fortune liệt kê mười gương mặt lãnh đạo tiêu biểu của nhiều lãnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá:

Alan Lafley, Chủ tịch Tập đoàn Proctor & Jamble làm việc căng trong 1 giờ, sau đó là 15 phút nghỉ ngơi, rảo vòng quanh nơi làm việc. Ông có cách giữ thăng bằng cho trí óc và giữ gìn sức khoẻ là 30 phút thiền mỗi ngày. Bill Cjross, Trưởng bộ phận đầu tư của PIMCO, tập yoga đến 90 phút mỗi ngày. Carlos Jhosn, Giám đốc điều hành hai hãng xe hơi hàng đầu là Renault và Nissan chưa bao giờ đem công việc về nhà làm. Jane Friedman, Giám đốc nhà sản xuất Harper Collins cũng có suy nghĩ tương tự. Bà luôn luôn biết cách điều tiết công việc hợp lý và cho rằng để cho công việc dồn ép sẽ không có khả năng ra quyết định sáng suốt…”

Người ta có thể thư giãn bằng giải trí, du lịch hay ngủ nghỉ. Nhưng sự nghỉ ngơi hiệu quả nhất là thiền định, vì thiền định chiếm thời gian ít nhầ và khi đó trí óc được nghỉ ngơi nhiều nhất, nếu không nói đó là sự nghỉ ngơi hoàn toàn, bởi ngay cả khi ngủ, trí óc vẫn hoạt động và tạo thành giấc mơ. Sau một sự nghỉ ngơi tích cực như thế, trí óc sẽ phục hồi sáng suốt hơn, tươi mới hơn. Thiền định làm cho ta đạt đến “sự sáng suốt của buổi ban mai” (chữ của Trang Tử). Nói theo Phật giáo, chính bằng cách khám phá chiều sâu không đáy và bất động của tâm hồn, cái bầu trời rỗng rang vô hạn của tâm thức mà người ta biết ở nơi mình có cái không biến đổi (như hư không), và chính từ đó, người ta có thể ứng xử với sự biến đổi của cuộc đời. Bởi sống và làm việc là một nghệ thuật, một cách sáng tạo và là một cách đem lại hạnh phúc tinh thần.

Không chỉ biết cân bằng giữa làm việc và thiền định nghỉ ngơi, mà dần dần người ta biết cách đưa thiền định, đưa sự nghỉ ngơi sâu xa vào trong đời sống, ngay trong lúc làm việc. Lý tưởng sống của nhiều triết gia Đông cũng như Tây là làm việc như thể giải trí và chơi đùa. Bởi vì, nếu không như thế thì dù không còn bị ai bóc lột, người làm việc vẫn bị công việc bóc lột, vẫn thấy công việc của mình là một hoạt động nhọc nhằn. Khi đưa một trạng thái bình an, một khoảng không gian của tâm hồn làm nền tảng cho hoạt động của thân thể và trí óc, chúng ta sẽ hòa nhập được giữa làm việc và nghỉ ngơi. Với năng lực và niềm hạnh phúc của khoảng không gian đó, làm việc và giải trí, là vui chơi, là sáng tạo.

Mọi đỉnh cao triết học đều đưa đến quan niệm cuộc đời con người và cuộc đời vũ trụ như một trò chơi. Triết gia Ấn Độ Lila nhìn vũ trụ như một trò chơi đùa. Héraclite cho rằng: thời gian là một đứa trẻ chơi cờ trên bãi biển. Trang Tử nói: đời sống là một cuộc tiêu dao. Khổng Tử cho rằng: “Ta không muốn nói gì cả… Bốn mùa vận hành, vạn vật sinh sôi, trời có nói gì đâu?”. Phật giáo thì quan niệm Bồ tát sống như một trò chơi đùa “du hý tam muội”. Kinh Kim Cương nói về việc “làm mà không làm gì cả”.

Nhìn tới bình diện triết học, bình diện lý tưởng thì có vẻ rắc rối, nhưng trong đời thường vẫn có người đã sống như vậy. Họ làm việc hết mình mà vẫn rảnh rang, nhất là không cố thủ, bám chấp vào thành quả của công việc. Đó không phải là chuyện viễn tưởng hay lý tưởng mơ hồ của người xưa. Chúng ta hãy lấy thí dụ về người giàu nhất thế giới với ngành công nghệ thông tin, kinh tế tri thức và cũng là người đã cống hiến cho nhân loại gần một nửa số gia tài của mình qua những việc công ích trên toàn thế giới là Bill Gates. Mới cách đây mấy hôm, khi nói chuyện với sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội, khi được hỏi về những điều quan trọng nhất trong cuộc đời ông, ông trả lời: “Tôi có ba điều may mắn, đó là: gia đình tôi với ba đứa con tuyệt vời. Tiếp theo là công nghệ ở Microsoft, nơi tôi có những công việc thú vị với những con người rất thông minh mà tôi có thể học được những điều mới mẻ. Điều quan trọng thứ ba là số tiền mà tôi kiếm được. Trong tương lai, số tiền đó sẽ quay lại với thế giới theo những cách có ý nghĩa nhất và hiệu quả nhất”.

Hạnh phúc, phải chăng là thái độ không cố chấp vào kết quả của công việc (tiền bạc, danh vọng, quyền lực…) và xem cuộc đời mình như một trò chơi cao cả nhất của phận người?

Nguyễn Thế Đăng


http://thienviendaidang.net/news.php?readmore=238








CHƯƠNG 12: ĐIÊN ĐẢO VÀ CHÂN THẬT

THÍCH THANH TỪ

Không thể nghĩ bàn là diệt đế vượt quá cảnh giới sở duyên của tâm thức tất cả chúng sanh, và cũng vượt quá cảnh giới trí tuệ của tất cả A la hán, Bích chi Phật.

Ví như trẻ mới sanh đã bị mù mắt không thấy được các màu sắc. Như trẻ mới sanh bảy ngày không thấy vừng mặt trời. Chân lý diệt khổ cũng vậy, không phải cảnh giới sở duyên của tâm thức tất cả phàm phu, cũng không phải cảnh giới trí tuệ của nhị thừa.

Tâm thức của phàm phu có hai kiến chấp điên đảo. Trí huệ của tất cả A la hán, Bích chi Phật thì thanh tịnh.

Biên kiến nghĩa là phàm phu đối với năm thụ ấm thì chấp ngã, vọng tưởng trói buộc mà sinh ra hai kiến chấp gọi là biên kiến. Đó là thường kiến và đoạn kiến.

Thấy các pháp vô thường là đoạn kiến không phải chánh kiến. Thấy Niết bàn thường là thường kiến, không phải chánh kiến.Vì do vọng tưởng thấy thế nên có kiến chấp như vậy.

Đối với các căn của thân, phân biệt tư duy hiện pháp thấy có hư hoại còn cái liên tục không dứt thì không thấy, nên sinh đoạn kiến. Đó là do vọng tưởng nên thấy vậy.

Đối với tâm thức nối nhau liên tục thì ngu tối không rõ, không biết đó là cảnh giới của ý và thức trong từng sát na, nên sinh thường kiến. Đó là do vọng tưởng nên thấy như vậy.

Cái kiến chấp vọng tưởng này, đối với nghĩa kia, khi thái quá khi bất cập mà nảy sinh ý tưởng phân biệt khác đi, hoặc đoạn hoặc thường, chúng sanh điên đảo đối với năm thụ ấm vô thường tưởng thường, khổ tưởng có vui, vô ngã tưởng ngã, bất tịnh tưởng tịnh.

Đối với tịnh trí của tất cả A la hán, Bích chi Phật thì vốn không biết đến cảnh giới nhất thiết trí và Như Lai pháp thân, nhưng nếu có chúng sanh vì tin lời Phật nói mà sanh ý tưởng về thường lạc ngã tịnh thì đó không phải kiến chấp điên đảo, đó là chánh kiến.

Bởi vì sao ? Vì Như Lai pháp thân là thường Ba la mật, lạc Ba la mật, ngã Ba la mật, tịnh Ba la mật. Có kiến giải về pháp thân Phật là chánh kiến.

Người có chánh kiến là thật sự Phật tử, từ miệng Phật sanh, từ chánh pháp sanh, từ pháp Phật hóa sanh, được của cải giáo pháp thặng dư.

- Thưa Thế Tôn, tịnh trí này là trí Ba la mật của tất cả A la hán, Bích chi Phật. Tịnh trí này tuy nói là tịnh trí vẫn không phải cảnh giới của hai thức diệt đế kia, huống nữa là trí bốn y.

Bởi vì sao ? Vì tam thừa sơ nghiệp nếu không ngu pháp, sẽ giác ngộ chứng đắc lý kia. Thế Tôn nói bốn y chính vì họ. Thưa Thế Tôn bốn y này là pháp thế gian.

Thưa Thế Tôn ! Một sở y là nơi y. Chỉ trên tất cả sở y xuất thế gian đệ nhất nghĩa cao tột chính là diệt đế.

MẬT TRUYỀN THAM THIỀN YẾU PHÁP

Hạ thủ công phu tu thiền, điều cốt yếu thứ nhất phải lập chí vững chắc. Bởi vì chí là vị nguyên soái của khí lực. Nếu người lập chí vững chắc, như thống lãnh trăm vạn quân, uy thế dậy trời, còn việc gì chẳng thành. Người hay sợ khó là tại lập chí không vững. Người chạy theo cảnh cũng tại lập chí không vững. Người nghe chê khen bèn dời đổi, giữa đường tự lùi, trước siêng sau lười, đều là chí không vững. Tôi thường tuyển đọc sách Tâm pháp, mở đầu sách đã thấy nói : “Lập chí nếu vững đổi khó thành dễ”. Nay đối với công phu tu thiền cũng như thế.

Chí vững thì sự ắt thành, tôi mượn việc đời để bàn điều này, ví như vua Việt phục thù vua Ngô, Trương Lương trả hận nước Hàn, Địch Nhân Kiệt tái hưng nhà Đường, thảy đều do chí quyết định mà việc được thành công đúng sở nguyện. Phật Pháp cũng như thế.

Ngạn ngữ nói : “Người nam không chí như sắt lụt không cứng, người nữ không chí như cỏ thối không tươi”. Công phu tu thiền chí này rất là tối yếu.

Đại sư Trung Phong ca rằng :

Cũng không khó cũng không dễ,

Chỉ quý nam nhi có thật chí,

Thật chí sức đạo mới vững mạnh,

Sức mạnh tiến đạo như trò chơi.

Đây là phương pháp ứng nghiệm vậy.

*

Hạ thủ công phu tu thiền hoàn toàn ở chỗ giác ngộ. Cần biết, phàm phu một niệm giác, tức một niệm là Phật. Phật một niệm chẳng giác, tức một niệm là phàm phu. Bởi vì giác tức là Phật, Phật tức là giác. Phật với phàm phu chỉ tại giác cùng chẳng giác mà thôi.

Tâm người có giác tức là có Phật. Giác hay mở cửa lục độ, hay vượt qua kiếp hải ba a-tăng-kỳ, khắp làm lợi ích như cát bụi, khuếch trương phước tuệ, được sáu thứ thần thông, tròn đầy quả Phật trong một đời. Cảnh khổ trong địa ngục, nào vạc dầu sôi, sông băng, nghe đến giác liền biến thành hương lâm (rừng hương); uống nước đồng sôi, nuốt hoàn sắt nóng, nghe đến giác thảy đều sanh Tịnh độ.

*

Hạ thủ công phu tu thiền, tôi có một câu diệu quyết, chỉ bốn chữ Kiên Trì Chánh Giác. Cốt biết tín lực là kiên, nghĩa là kiên cố không biến đổi. Niệm lực là Trì, nghĩa là nắm giữ lâu mấy cũng không chán. Chánh giác là tròn sáng soi khắp, không lệch chẳng thiếu. Người hay phát Chánh giác thì bản tánh tự nhiên hiển lộ, tất cả vọng tâm chẳng đợi đuổi dẹp mà tự hàng phục. Ví như ánh sáng mặt trời vừa soi thì tối tăm hết sạch. Đây tuy bốn chữ, kỳ thật chỉ một chữ Giác. Một chữ Giác này đều do Định Tuệ mà được.

Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm. Niệm khởi liền giác, giác nó liền không. Diệu pháp tu hành chỉ tại nơi đó. Ví như biết là giấc mộng thì không còn mê.

Người biết được cái giác này, cần yếu chấn khởi tinh thần như vị tướng quân đang ở trong trận, như vị quan tòa tại pháp đình, không được dính một mảy hôn trầm.

*

Hạ thủ công phu tu thiền cần phải lập chí cho vững, lại cần “thường hằng”. Nếu không thường hằng phần nhiều đến giữa đường bỏ cuộc, hoặc được chút ít rồi tự dừng, đều là tự bỏ. Thật đáng tiếc !

*

Hạ thủ công phu tu thiền rất sợ gián đoạn. Nếu siêng tu một tháng đã lên bậc Thượng thừa, chỉ có gián đoạn năm, mười ngày thì bậc Thượng thừa kia chẳng biết ở đâu ? Lại chẳng được vịn vào sự siêng năng của tháng trước mà sanh ỷ lại.

*

Hạ thủ công phu tu thiền rất sợ hôn trầm tán loạn. Cái hôn trầm tán loạn này đều do chính mình lập chí không vững, lòng tin đạo không thiết tha mà đến như thế. Thật là đáng tiếc !

Hạ thủ công phu tu thiền hoàn toàn tại “tự tham tự ngộ”. Dù cho thân thiết như cha con thầy bạn đều không thể thay thế được, cũng không phải như kỹ nghệ ở thế gian có thể truyền trao cho được. Ví như người khác ăn cơm thì chỉ người ấy bụng được no, chớ bụng mình vẫn đói. Đại sư Huệ Tư nói : “Nguồn đạo chẳng xa, tánh biển chẳng cách, chỉ chính mình cầu, chớ từ nơi người mà tìm, tìm cũng chẳng được, dù được cũng chẳng chân”. Đây có thể gọi là cầu người chẳng bằng cầu nơi mình vậy.

*

Hạ thủ công phu tu thiền ngày đêm hai mươi bốn giờ đều là giờ dụng công phu. Nếu canh năm ngủ thức dậy, hoặc gần sáng dậy sớm, áp dụng công phu, thì công phu này kết quả gia bội. Cần biết, lúc trời rựng sáng là khí trời đất thanh sảng, cần phải nắm lấy, không nên thả trôi qua ngày.

*

Hạ thủ công phu tu thiền chẳng cần canh năm ngủ, canh ba dậy, chỉ sợ một ngày nóng mà mười ngày lạnh thôi.

*

Hạ thủ công phu tu thiền cần biết, ở trần thế có rất nhiều cảnh ác, như sanh già bệnh chết, lo buồn khốn khổ, dàm danh khóa lợi, gió sợ sóng hoảng, dù có chút ít vui vẻ cũng chỉ là hoa đốm giữa hư không chẳng thật, tạm thời không lâu. Cốt phải khán cho thấu triệt, mới biết Phật pháp là việc cứu ta ra khỏi biển khổ, mới là mừng rỡ vui vẻ.

*

Hạ thủ công phu tu thiền, nếu được mừng rỡ vui vẻ thì tự nhiên thay đổi dụng công, tự nhiên tinh tấn chẳng lười. Được mừng rỡ vui vẻ rồi, cần phải xem các việc khổ sở sanh già bệnh chết của người đời đều là cái gương ta chẳng dụng công, vậy tại sao dám lơ là ?

*

Hạ thủ công phu tu thiền, rất sợ nói lời vô ích, chăm nom việc vô ích. Nói lời vô ích, chăm nom việc vô ích đều khiến tâm người tán loạn, tinh thần dao động, không có lợi lại có hại. Lại đem thời giờ quý báu thả trôi sông. Thật là đáng tiếc !

*

Hạ thủ công phu tu thiền, nếu khi dụng công nhiều thì khó khỏi nhọc nhằn, cần phải đi bách bộ thong thả, đi thong thả để nuôi dưỡng tinh thần, đợi tinh thần thơ thới rồi lại khởi dụng công thì tự nhiên sáng suốt giác ngộ. Nếu tinh tấn đến khổ nhọc lừ đừ, đã lừ đừ lại khổ nhọc dụng công, thì không những tánh mờ tối chẳng lanh sáng, mà lại thân thể yếu đuối, bệnh tật phát sanh. Khi bệnh tật phát sanh thì công phu hết, thế là muốn mau mà trở thành chậm.

*

Hạ thủ công phu tu thiền, một ngày qua phải thấy là một ngày tinh tấn. Nếu là lơ thơ lững thững, dù trải qua trăm kiếp ngàn đời cũng không có ngày được thành công. Người xưa khi dụng công, đốt một cây hương, thấy cây hương tàn rồi, liền tự nhắc rằng : “Công phu như trước không có thêm bớt, một ngày bao nhiêu cây hương, một năm bao nhiêu cây hương ? Năm tháng dễ qua, ngày giờ không đợi người, việc lớn chưa sáng, ngày nào mới xong ?” Do đó, đau xót hối tiếc, lại thêm phần cố gắng. Nhà nho Châu Văn Công nói : “Chớ bảo ngày nay chẳng học còn có ngày mai, chớ bảo năm nay chẳng học còn có năm tới, ngày tháng trôi qua, năm chẳng đợi người. Than ôi ! Già rồi, lỗi bởi tại ai ?” Công phu tu tập Phật pháp cũng như Nho học này, chỉ hai chữ Thời Tập là thành tựu một đời, chỉ bốn chữ “Hãy đợi ngày mai” là sai lầm một đời.

*

Hạ thủ công phu tu thiền tuy không thể dừng chậm, mà cũng không thể quá gấp. Ví như người đi bộ giỏi, mỗi ngày có thể đi bộ được một trăm dặm, mà chỉ đi bộ bảy tám mươi dặm, thì khí lực còn thừa, gân cốt không mỏi; nếu ỷ vào sức mạnh đi hơn trăm dặm tự nhiên phải gắng đi thật nhanh, ắt sanh mỏi mệt, thì ngày mai không thể đi nổi. Người hạ thủ công phu thường thường sanh bệnh hoạn đều do như thế.

*

Hạ thủ công phu tu thiền nếu thân thể nhọc nhằn, cần phải dùng sức chuyển động hai vai đến trước lại sau, lên xuống vài chục lần thì thân thể điều hòa, huyết mạch lưu thông, tinh thần sảng khoái, chẳng sanh các bệnh. Đây là phương pháp Lộc Lô Song Quan của nhà tu dưỡng, nó cũng hay đuổi được khí lạnh.

*

Hạ thủ công phu tu thiền, hoặc có người hỏi : “Chỉ lấy tham ngộ làm chủ, đâu cần bảo dưỡng thân thể ?”. Tôi sẽ đáp : Đây là mượn giả để tu thật. Ví như nấu trà, nếu không có lò lửa thì trà đâu thể tự chín, vả lại lò hư lửa tắt thì sức lạnh càng thêm. Việc nhỏ chẳng tốn bao nhiêu công, mà e việc lớn không nhất định thành, trái lại đến phí thời giờ, không kết quả. Người sáng tự hiểu đó.

*

Hạ thủ công phu tu thiền, ban ngày tinh tấn không biếng trễ, chẳng cần phải nói, phàm mỗi tối dụng công chỉ hơn một canh, không cần quá lâu. Nếu người quá nửa đêm không ngủ thì máu không trở về gan, hôm khác sanh bệnh là do tại đó. Lại có một hạng người hay mài luyện không nằm, đâu không biết công phu tu hành Phật pháp chẳng phải tại ngủ cùng không ngủ.

*

Hạ thủ công phu tu thiền, đi đứng nằm ngồi đều có thể dụng công. Hoặc ngồi lâu rồi cần phải đi đứng, hoặc đi lâu rồi cần phải ngồi lại, chẳng chuyên ngồi. Có người học ngồi luôn không nằm, Lục Tổ dạy : “Sống đây ngồi chẳng nằm, chết đi nằm chẳng ngồi, chỉ một đầu xương thúi, sao lấy làm công khóa ?” Đây thật rõ ràng về lẽ ngồi nằm vậy.

*

Hạ thủ công phu tu thiền tối yếu phải phá tâm sanh tử cứng chắc, xem xét thế giới thân tâm đều là giả duyên không thật. Nếu không phát minh được đại sự sẵn đủ của mình, thì tâm sanh tử không thể phá. Tâm sanh tử đã không phá được, thì con quỉ vô thường niệm niệm chẳng dừng làm sao đuổi được. Phải lấy một niệm này làm hòn gạch gõ cửa. Ví như đang ngồi trong đống lửa lớn cố tìm lối thoát ra, chạy quanh một bước cũng không được, dừng lại một bước cũng không được, sanh một niệm khác cũng không được, trông người khác cứu cũng không được. Chính khi ấy, cần phải chẳng ngại lửa mạnh, chẳng kể thân mạng, chẳng trông người cứu, chẳng sanh niệm khác, chẳng chịu tạm dừng, nhắm trước chạy thẳng, chạy ra rồi mới là người giỏi.

*

Hạ thủ công phu tu thiền cần lấy một chữ Tử dán ở trên trán, xem thân thể máu thịt này như đã chết đi, chỉ cốt thấu rõ một niệm. Một niệm hiện tiền, như được cây Ỷ Thiên trường kiếm, nếu chạm mũi nhọn của nó không thể được, nếu cà nhám cọ lụt thì kiếm ấy bỏ đi vậy.

*

Hạ thủ công phu tu thiền rất sợ say mê cảnh tịnh, nó khiến người chìm chỗ khô lặng mà không biết. Cốt hiểu rằng cảnh động nhiều người chán, cảnh tịnh đa số không sanh chán. Bởi vì người đời một bề ở chỗ ồn náo, nên thích hợp với cảnh tịnh, như ăn kẹo ăn đường, như người mệt lâu thích ngủ, tự nhiên tham trước mà không tự biết, cần phải mau mau phá dẹp.

Ngoại đạo dạy người khiến thân tâm đoạn diệt hóa thành cây khô tro lạnh, cũng từ nơi tịnh cảnh mà vào. Nếu lâu năm chầy tháng, khô lại càng khô, lặng lại càng lặng, sa vào chỗ không biết, thì cùng cây khô tro lạnh khác gì ? Người hạ thủ công phu ở chỗ cảnh tịnh, cốt để phát minh một đoạn đại sự ở trong y áo của mình mà lâu rồi không biết, nay nhờ ở cảnh tịnh mới được. Cái đại sự đó tìm nơi tướng tịnh trọn không thể được, thế mới là được vậy.

*

Hạ thủ công phu tu thiền, thiết yếu tại định tuệ. Cần biết, định với tuệ như đồng một vật bên trong và bên ngoài, là hai mà không phải hai, chia rời không được. Khi định sanh thì hôn trầm cũng theo đó mà sanh, nếu hôn trầm sanh thì định mất. Khi tuệ sanh thì tán loạn cũng theo đó mà sanh, nếu tán loạn sanh thì tuệ mất. Ta có diệu pháp điều trị, cần phải định lóng sáng thì định với tuệ mới thành công. Cần phải tuệ an tường, thì tuệ với định mới thành công. Hai cái này lìa nó không được, hợp cũng không được, lẫn nhau thành một mới thật là diệu pháp. Khéo biết pháp này thì thành đạo không khó.

Người cầu minh tâm kiến tánh, thành Phật thành Tổ, chỉ ở trên định tuệ dụng công. Biết được cái diệu của định tuệ thì dễ như trở bàn tay, bằng không biết cái diệu của định tuệ thì khó như lên trời. Khó hay dễ đều tại chính mình đảm đang lấy.

Định là thể của tuệ, tuệ là dụng của định. Ví như ngọn đèn với ánh sáng, ngọn đèn là thể của ánh sáng, ánh sáng là dụng của ngọn đèn. Hai cái đều lẫn nhau hiển bày, không nên thiên trọng một cái.

Chính khi tuệ thì định ở trong tuệ, chính khi định thì tuệ ở trong định. Tên tuy có hai, thể vốn không khác. Chỉ có định mà không tuệ liền theo đó bị hôn trầm, chỉ có tuệ mà không định liền theo đó bị tán loạn. Cần phải gồm hai, không thể chia rời.

Ở đoạn trên, tôi nói phương pháp điều trị định tuệ đã xong, vẫn còn ngại có người chưa rõ. Giờ đây, tôi giải lại cho rõ. Tôi gọi hôn trầm tức người đời gọi là vô ký. Tôi gọi tán loạn tức người đời gọi là vọng tưởng. Cần biết định thì phần nhiều hay sanh vô ký, tuệ thì phần nhiều hay sanh vọng tưởng. Định tuy hay trị vọng tưởng mà trở lại sanh vô ký. Tuệ tuy hay trị vô ký mà trở lại sanh vọng tưởng. Ngày nay thực tập công phu, chỉ cần định có tuệ, cốt đừng nhập cái định hôn trầm vô ký; chỉ cần tuệ có định, cốt đừng nhập cái tuệ tán loạn vọng tưởng. Là hai mà chẳng hai, định tuệ dung hòa, thì công phu mới tăng trưởng.

Đại sư Trí Giả ở núi Thiên Thai truyền diệu pháp Chỉ Quán. Nghĩa là chỉ mà quán đó, tịnh mà minh đó, khiến động mà được tịnh, tịnh mà được sáng. Sáng thì chiếu, chiếu thì một vậy. Đây thật là chỉ đường giác cho quần sanh. Cốt nên biết, tôi nói pháp định tuệ là Đại sư nói pháp Chỉ Quán, đâu cần gì cầu Phật pháp khác.

Người khi rời bỏ cuộc đời, nếu có công phu định tuệ, ắt được lên thế giới Cực Lạc. Diệu pháp này lúc bình nhật cần phải tập cho thuần thục. Bậc minh triết nói : “Người đời trọn ngày hôn tán, khi sắp chết làm sao được định tuệ. Người học đạo trọn ngày định tuệ, khi sắp chết đâu thể hôn tán”. Nếu đợi khát nước mới đào giếng thì đâu cứu được !

*

Hạ thủ công phu tu thiền rất khẩn yếu ở một chữ Thiết. Chữ Thiết rất có sức mạnh. Nếu chẳng Thiết thì lười biếng sanh. Lười biếng sanh thì buông lung phóng ý không chỗ nào chẳng đến. Nếu thật dụng tâm chân thiết thì buông lung lười biếng do đâu được sanh. Nên biết, một chữ Thiết nếu hay dán dính trên thân thì khỏi lo tâm sanh tử chẳng phá, khỏi lo chẳng đến địa vị Phật Tổ. Bỏ chữ Thiết này riêng cầu Phật pháp, đều là si cuồng ngoại đạo.

Một chữ Thiết là lời rất thân thiết, như dụng tâm thân thiết thì không kẽ hở, do đó các thứ tà ma không thể xâm nhập. Như dụng tâm thân thiết tự nhiên không sanh suy tính, có niệm không gián cách thì chẳng rơi vào ngoại đạo.

Một chữ Thiết đâu những lìa lỗi, liền đó vượt khỏi ba tánh thiện, ác, vô ký. Một câu thoại đầu dụng tâm thậm thiết thì không nghĩ thiện, dụng tâm thậm thiết thì không nghĩ ác, dụng tâm thậm thiết thì không rơi vào vô ký. Thoại đầu thiết thì không trạo cử, thoại đầu thiết thì không hôn trầm. Chỉ cốt chánh giác hiện tiền thì các ma tự lui, chánh giác phi thiết chẳng sanh.

*

Hạ thủ công phu tu thiền chẳng sợ chết không được sống, chỉ sợ sống không được chết. Nếu thật nghi tình kết tụ ở một chỗ, cảnh động chẳng đợi đuổi mà tự đi, vọng tâm chẳng đợi tịnh mà tự tịnh, sáu căn ở ngoài cửa tự nhiên rỗng suốt hết, ra dấu liền đến, gọi lên liền đáp, lo gì chẳng sống?

*

Hạ thủ công phu tu thiền cốt phải ngay thẳng cao vót, chẳng gần nhân tình. Nếu đáp ứng theo tình cảm thì thực hành công phu chẳng tiến. Không những chẳng tiến mà lâu ngày chầy tháng sẽ trôi theo thế tục, rất là đáng tiếc ! Ví như chính mình bận việc thì đâu thể có công coi sóc việc người. Ngay thẳng cao vót chính là Chánh đẳng Chánh giác.

*

Hạ thủ công phu tu thiền điều thứ nhất là Chánh giác. Chánh giác là phút giây nào cũng chiếu soi lại cái linh minh của chính mình, không thể buông nó chạy đi. Nếu cái linh minh đi rồi, thì thân này chỉ là cái thây chết có hơi thở. Lại là hôn trầm không niệm, rơi vào ngoan không khô lặng. Tuy là vận dụng công phu khổ nhọc mà không có mảy may lợi ích.

Hạ thủ công phu tu thiền tu tập được tiến lên, như người gánh nặng ngàn cân, buông cũng chẳng rớt, giống như người tìm một vật quan trọng bị rơi mất, nếu tìm không được thề chẳng thôi nghỉ. Trong đó chỉ không nên sanh chấp trước tính toán. Nếu chấp thì thành bệnh, trước thì thành ma, tính toán thì thành ngoại đạo. Thật được nhất tâm nhất ý, giống hệt người tìm vật đã mất thì ba thứ (chấp, trước và tính toán) vỡ tan không còn dính mắc. Nên nói, sanh tâm động niệm đều trái với pháp thể.

*

Hạ thủ công phu tu thiền khi đề khởi thoại đầu cốt phải rõ ràng sáng sủa, giống in như con mèo rình chụp chuột. Người xưa nói : “Chẳng chém được đứa mọi thề không thôi”. Nếu chẳng vậy, là ngồi trong nhà quỉ, mờ mờ mịt mịt, qua rồi một đời, có chỗ nào lợi ích ?

Mèo rình chuột mở tròn đôi mắt, bốn chân chực sẵn, chỉ cốt chụp chuột đến miệng mới được, dù có gà chó ở bên cạnh đều không để mắt ngó. Người tham thiền cũng như thế, chỉ là chăm chú cốt suốt lý này, dù có tám cảnh xen lẫn ở trước cũng không để mắt nhìn, vừa có niệm khác, chẳng những không bắt được chuột, mà mèo cũng chạy mất.

*

Hạ thủ công phu tu thiền không nên ở trên công án của tiền nhân mà suy nghĩ, thêm sự giải thích. Dù mỗi mỗi hiểu qua cùng với chính mình cũng không dính dáng gì. Cần yếu biết mỗi câu mỗi lời của tiền nhân như đống lửa lớn, gần nó không được, xúc chạm cũng không được, huống là ngồi nằm trong ấy, lại ở trong đó phân lớn phân nhỏ, nói trên nói dưới, thì có chỗ nào lợi ích ?

Việc ấy không cùng giáo lý hợp, do đó những vị tu tập Đại thừa đã lâu, vẫn không hiểu không biết, huống là các hàng Tiểu thừa Thanh văn Duyên giác? Bậc Tam hiền Thập thánh đâu không thông giáo lý, mà nghe nói một việc này, Tam thừa còn tan mật, Thập thánh phải kinh hồn. Bậc Bồ-tát Đẳng giác thuyết pháp như mây như mưa, độ chúng sanh không thể nghĩ bàn vào vô sanh pháp nhẫn, vẫn gọi là sở tri ngu, cùng đạo còn trái, huống là những bậc khác ? Bởi vì việc này từ chỗ phàm phu chóng đồng Phật thể, người thật khó tin. Người tin được là hàng pháp khí, người không tin chẳng phải pháp khí. Những người tu hành muốn vào Tông thừa này ắt từ tin mà vào.

Một chữ Tin có cạn có sâu, có tà có chánh, không thể không biện biệt. Phàm vào pháp môn có ai mà nói chẳng tin. Nhưng, chỉ tin pháp môn mà không tin tâm mình là tin cạn. Các hạng Bồ-tát Đại thừa còn chẳng đủ lòng tin, như kinh Hoa Nghiêm sớ nói : “Thấy có người hay nói pháp, có chúng nghe pháp, còn chưa vào cửa tin”. Như nói tức tâm tức Phật thì ai bảo là chẳng tin. Song, nếu có người hỏi : “Ông là Phật chăng ?” liền bị phá dẹp không thể thừa đương. Kinh Pháp Hoa nói : “Tột nghĩ chung suy xét, không thể lường trí Phật”. Sở dĩ có tâm tột nghĩ xét, là do lòng tin chẳng đủ vậy. Có đủ lòng tin này là tin sâu.

Tin tâm mình tức là Phật, gọi là tin chánh. Ngoài tâm chấp pháp, gọi là tin tà. Tin tức tâm là Phật, cốt phải thấu rõ tâm mình, bước đi trên đất thật ấy đến chỗ chẳng nghi, mới gọi là tin chánh. Mù mờ ngờ vực bướng nói tâm tức là Phật mà thật không biết tự tâm, tức là tin tà.

Người xưa hái rau gánh củi vẫn định, cuốc đất cày ruộng vẫn định, khi làm công kia việc nọ vẫn định, đâu phải ngồi lâu kềm vững khiến tâm chẳng khởi, nhiên hậu mới là định. Nếu như thế, gọi là định tà, không phải chánh ý của Phật pháp.

Lục Tổ bảo : “Na-già thường tại định, không lúc nào chẳng định”. Phải thấy tột bản thể mới tương ưng với định này. Đức Thích-ca từ Đâu Suất hạ sanh, giáng thần trong hoàng cung, vào núi tuyết, thấy sao mai mọc, mở đường dạy chúng, chưa từng ra khỏi định này. Nếu chẳng vậy, đã bị cảnh động lôi cuốn, đâu gọi là định. Trong cảnh động tìm chỗ khởi không có, trong cảnh tịnh tìm chỗ khởi cũng chẳng có. Cảnh động đã không chỗ khởi thì lấy cái gì làm cảnh ? Hội được ý này thảy đều là một thể định, đầy dẫy tràn trề, không dư không che đậy.

*

Hạ thủ công phu tu thiền không nên dính mắc thế pháp. Trong Phật pháp còn không dính một điểm, huống là thế pháp. Nếu thoại đầu hiện tiền chân chánh thì dẫm xuống nước chẳng thấy lạnh, chạm vào lửa chẳng biết nóng, trong rừng gai chông nằm ngang đi thẳng chẳng thấy chướng ngại. Được vậy, mới có thể ở trong thế pháp đi ngang chạy dọc. Bằng không, hoàn toàn bị cảnh duyên lôi cuốn, dù muốn được công phu thành một khối, trải nhiều năm cũng không thể được.

*

Hạ thủ công phu tu thiền không nên tầm văn trục cú ghi lời nhớ câu, không những vô ích mà còn làm chướng ngại công phu. Nắm công phu chân thật mà trở thành duyên lự.

Hạ thủ công phu tu thiền rất sợ so sánh, đem tâm tính toán, cùng đạo trái xa, dù thực hành đến Phật Di Lặc ra đời vẫn không dính dáng. Nếu là người nguyện phát nghi tình, dù sự vật đầy bít hư không vẫn không biết có danh tự hư không, như ngồi trong núi bạc vách sắt, chỉ cầu được con đường sống. Nếu không được con đường sống, thì làm sao được an ổn. Chỉ thực hành công phu như thế, thời tiết đến tự nhiên có thành.

Gần đây, có một số tà sư dạy người, không do cố gắng dụng công. Lại nói : “Cổ nhân chưa từng dụng công phu”. Lời nói này rất độc, làm mê lầm kẻ hậu học, sẽ vào địa ngục vậy.

Thiền sư Đại Nghĩa làm bài minh tọa thiền nói :

Chớ tin rằng đạo chẳng cần tham,

Thánh trước chăm chăm làm chỉ nam.

Dù rằng gác cũ nhàn điền địa,

Một phen gầy dựng thật gian nan.

Nếu chẳng cần tham cứu mà bảo được lý, đây là Di Lặc trời sanh, Thích-ca tự nhiên. Bọn này thật là đáng thương xót vậy. Bởi vì tự họ chẳng hiểu tham cứu, hoặc thấy người xưa một hỏi một đáp liền lãnh ngộ, bèn đem cái hiểu biết của tình thức để giải thích, là dối gạt người. Hoặc bị cơn bệnh ngặt, liền kêu la om sòm, những cái hiểu lúc đương thời đem dùng không được. Hoặc đến lúc sắp chết, như con cua bỏ vào chảo nước sôi, tay chân rối loạn, bấây giờ hối hận chẳng kịp.

Thiền sư Hoàng Bá nói :

Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường,

Đầu dây nắm chặt giữ lập trường.

Chẳng phải một phen xương lạnh buốt,

Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.

Lời này thật rất thân thiết. Nếu đem bài kệ này luôn luôn cảnh sách công phu thì tự nhiên thực hành được tiến bộ. Như người đi con đường trăm dặm, đi một bước là gần một bước, không đi thì đứng nguyên chỗ cũ. Dù người ấy nói được sự nghiệp ở quê hương rõ ràng rành rẽ, trọn không đến nhà, làm sao được việc lớn ấy.

*

Hạ thủ công phu tu thiền rất sợ suy nghĩ làm thơ, làm kệ, làm văn phú v.v… Nếu làm thành thi kệ thì gọi thi nhân, làm văn phú giỏi thì gọi văn nhân, cùng với tham thiền toàn không dính líu.

*

Hạ thủ công phu tu thiền, gặp phải cảnh duyên thuận nghịch, chỗ làm người động niệm, liền phải biết để phá. Chỉ đề khởi thoại đầu không cho cảnh duyên xoay chuyển. Có người mới vừa được thành, liền nói: “Chẳng cần chống”. Ba chữ này làm lầm người, học giả không thể không xét.

*

Hạ thủ công phu tu thiền, nghi tình chưa phá như đến hố sâu, như đi trên băng, mảy may mất niệm là tan thân mất mạng. Vì nghi tình chưa phá thì đại lý không sáng, một hơi thở không trở lại thì đời này còn bị thân trung ấm lôi kéo, chưa khỏi theo nghiệp thức mà đi, sửa đầu đổi mặt chẳng hiểu chẳng biết. Bởi thế, nên trên nghi lại thêm nghi, đề khởi thoại đầu, chưa sáng quyết định phải sáng, chưa phá quyết định phải phá. Ví như bắt kẻ trộm, cần phải thấy nó.

*

Hạ thủ công phu tu thiền cần phải Khẩn, cần phải Chánh, cần phải Miên Mật, cần phải Dung Hoát. Thế nào là Khẩn ? Mạng người tại hơi thở, đại sự chưa sáng, một hơi thở không trở lại, đường trước mờ mờ chưa biết về đâu, thì không thể chẳng Khẩn. Cổ Đức nói : “Như dây gai thấm nước, một bước gấp một bước”. Thế nào là Chánh ? Người học phải đủ con mắt lựa pháp, một ngàn bảy trăm Tổ sư đều là mô phạm, nếu sai một hào ly thì vào đường tà. Kinh nói : “Chỉ đây một việc thật, còn hai thì chẳng chân”. Thế nào là Miên Mật ? Lông mày cùng hư không kết chặt, mũi kim găm chẳng lủng, nước rưới chẳng ướt, chẳng cho một tí kẽ hở. Nếu có một tí kẽ hở thì ma cảnh theo kẽ hở chui vào. Cổ Đức nói : “Một phút chẳng hiện có, giống như người chết”. Thế nào là Dung Hoát ? Thế giới rộng một trượng thì gương xưa (cổ kính) rộng một trượng, gương xưa rộng một trượng thì lò lửa rộng một trượng, quyết định không cố chấp ở một chỗ. Nắm chặt đầu rắn chết, cũng không kẹt ở hai đầu, mênh mông lênh láng. Cổ đức nói : “Tròn đồng thái hư, không thiếu không dư ”. Thật đến chỗ Dung Hoát thì trong không thấy có thân tâm, ngoài không thấy có thế giới, mới được lối vào. Bốn thứ này chẳng phải có thứ lớp trước sau, cần phải đồng hành.

Khẩn mà không chánh thì uổng dụng công. Chánh mà không Khẩn thì không thể vào. Đã vào cần phải Miên Mật mới được tương ưng. Đã tương ưng phải Dung Hoát mới làm hóa cảnh.

*

Hạ thủ công phu tu thiền không được có một mảy niệm khác. Đi đứng ngồi nằm luôn luôn đề khởi câu thoại đầu đã tham. Phát khởi nghi tình, hẳn phải giải quyết cái ấy cho xong xuôi. Nếu có một mảy may niệm khác, người xưa gọi đó là tạp độc nhập tâm, đâu những hại thân mạng, mà nó hại cả tuệ mạng. Người học không thể không cẩn thận.

Tôi nói niệm khác không phải chỉ pháp thế gian, trừ ngoài câu thoại đầu tâm đang tham cứu, tất cả việc tốt trong Phật pháp đều gọi là niệm khác. Lại, không những việc trong Phật pháp, mà ở trên tâm thể sanh thủ, xả, chấp, buông đều là niệm khác.

*

Hạ thủ công phu tu thiền đối với tất cả sự vật trên đời, nào là đáng yêu đáng ghét đáng mừng đáng buồn, các thứ tình cảm suy nghĩ thảy đều dẹp hết. Chỉ còn cái chánh giác của ta, chẳng đoái hoài những việc khác. Lại, cốt yếu làm một người vô dụng, mặc tình người đến bắt bẻ ta, ta chỉ làm kẻ vô tri vô lý; mặc tình người đến cười chê ta, ta cũng chỉ làm kẻ vô tri vô lý. Ta cốt soi xét cái chánh giác chính mình, không dám biếng trễ để qua thời giờ.

*

Hạ thủ công phu tu thiền, khi thực hành đa số người nói : “Thực hành không tiến”. Chính chỗ thực hành không tiến này, lại gắng thực hành. Như người không biết đường phải cố gắng tìm đường. Không thể nói : “Tìm đường không được, nên bỏ việc tìm đường”. Nếu tìm đường đã được, quý ở chỗ phải đi, đi thẳng đến nhà mới thôi. Không nên ở trên đường dừng nghỉ không đi, thì trọn không có ngày đến nhà.

*

Hạ thủ công phu tu thiền rất sợ cái tâm lanh lợi, tâm lanh lợi là thứ thuốc kỵ. Người phạm chút ít thuốc kỵ này, thì dù có chân dược hiện tiền cũng không thể cứu được. Nếu thật là người tham thiền thì có mắt như mù, có tai như điếc, khi tâm niệm vừa khởi in như vin vào núi bạc vách sắt. Người được vậy thì công phu mới được tương ưng.

*

Hạ thủ công phu tu thiền chẳng sợ sai lầm, mà chỉ sợ không biết sai lầm. Mặc dù hành ở chỗ sai lầm, nếu có một niệm biết sai lầm, bèn là nền tảng thành Phật thành Tổ, là con đường ra khỏi sanh tử, là món đồ sắc bén phá lưới ma. Phật Thích-ca trong pháp ngoại đạo mỗi mỗi đều chứng qua, chỉ không chịu ngồi trong hang ổ ấy. Dùng bốn chữ biết sai liền bỏ là từ phàm phu tiến đến quả vị Phật. Ý này đâu riêng trong pháp xuất thế, ở trong pháp thế gian nếu có chỗ sai lầm, chỉ cần dùng một câu biết sai liền bỏ là được thành người tốt đẹp ở thế gian. Nếu kẻ cố ôm cứng chỗ sai lầm cho là phải, không chịu biết sai, dù có Phật sống hiện ở trước, cũng không thể nào cứu được người ấy.

Hạ thủ công phu tu thiền không nên tránh chỗ ồn tìm chỗ vắng, lim dim nhắm mắt, ngồi trong hang quỉ cho là kế sanh sống. Người xưa nói : “Ngồi dưới núi tối, chìm trong nước chết thì cứu được việc gì ?” Chỉ cần ngay trong cảnh duyên thực hành kỳ được, mới là chỗ đắc lực. Một câu thoại đầu để trên trán, đi đứng nằm ngồi, mặc y, ăn cơm, tiếp người đợi khách cần yếu thấu suốt được chỗ tột cùng của một câu thoại đầu. Một sáng, khi rửa mặt rờ được chót mũi, mới biết lâu nay nó rất gần, thế là được tỉnh lực. Thật được thế rồi, mới hoàn toàn không uổng phí công phu.

*

Hạ thủ công phu tu thiền rất sợ nhận thức thần làm Phật sự. Hoặc nhướng mày nheo mắt, lắc đầu xoay mặt cho là có ít nhiều kỳ đặc. Nếu bám vào thức thần để làm việc, chắc chắn sẽ rơi vào ngoại đạo không nghi. Quả là chạy trên đường lạc lầm, rất đáng tiếc vậy !

*

Hạ thủ công phu tu thiền chỉ tại dụng tâm trên một công án, không nên trên tất cả công án giải hội. Nếu giải được, trọn là giải hội, không phải là ngộ. Kinh Pháp Hoa nói : “Pháp ấy không phải chỗ suy nghĩ phân biệt hay đến được”. Kinh Viên Giác nói : “Lấy suy nghĩ làm tâm, xét lường cảnh giới Viên giác của Như Lai, như đem lửa đom đóm đốt núi Tu Di, trọn không thể được”. Ngài Động Sơn nói : “Nghĩ đem tâm ý học huyền tông (Thiền tông), giống hệt đi hướng tây mà mặt hướng đông”. Phàm người đào bới công án, cần phải dưới da có máu, biết hổ thẹn mới được.

Hạ thủ công phu tu thiền rất sợ rơi vào Không. Song thoại đầu hiện tiền làm sao Không được ? Đây chỉ sợ rơi vào Không, mà chẳng được Không, huống là được thoại đầu hiện tiền ?

http://thientongvietnam.net/kinhsach-thike/dirs/thientongtrucchi/unicode/a.html

?