Friday, November 20, 2009

Khổng tiên sinh bói số mạng

Lúc ta (1) còn nhỏ, thân phụ mất sớm. Thân mẫu bảo ta «Nên bỏ con đường thi cử (2) làm quan mà nên chọn nghề thầy thuốc, vì nghề này vừa có thể sinh sống, vừa có thể giúp người. Hơn nữa, nếu hành nghề giỏi sẽ có tiếng tăm. Đó cũng là ước muốn của cha con vậy. »
Sau ta gặp một cụ già tại chùa Từ Vân, cụ râu dài oai nghi, phơi phới như tiên. Ta do đó cung kính chào hỏi. Cụ thấy ta bèn nói: « Tướng ngươi có mạng làm quan, năm tới sẽ đậu Tú Tài, sao giờ này còn lang thang ở đây không lo học ? » Ta trình bày nguyên do và đồng thời xin cụ cho biết tên họ và quê quán. Cụ nói: « Ta họ Khổng, người Vân Nam . Ta được chân truyền quyển Hoàng-Cực-Số (3) của ông Thiệu. Ta biết môn này sau này sẽ truyền lại cho ngươi. » Ta mời cụ về nhà và kể lại cho mẹ. Mẹ dặn phải tiếp đãi tử tế và xem cụ đoán số ra sao. Cụ bói cho ta từ việc lớn đến việc nhỏ đều chính xác vô cùng. Làm ta ước mơ trở lại học văn và bàn với ông anh họ Thẩm Xứng. Ông anh nói : « Thầy Úc Hải Cốc đang mở lớp học tại nhà ông Thẩm Hữu Phu, anh sẽ gởi em đến đó học không thành vấn đề. » Ta bèn bái lạy thầy Úc làm thầy.
Cụ Khổng lấy số cho ta như sau : Lúc còn là đồng sinh (4), sẽ thi ở Huyện đậu hạng 14, thi ở Phủ hạng 71 và thi ở Đề Đốc (5) hạng 9. Năm tới đi thi, quả thật cả ba nơi đều đậu hạng đúng y như tiên đoán của cụ.
Cụ Khổng lấy thêm số tốt xấu suốt cuộc đời cho ta. Tiên đoán rằng, năm nào sẽ thi đậu hạng mấy, năm nào sẽ thi vào dự bị lẫm sinh (6), năm nào sẽ lên cống sinh. Sau khi lên cống sinh, đến năm nào sẽ được bổ nhiệm làm huyện trưởng trong tỉnh Tứ-Xuyên, nhưng chỉ làm được ba năm rưỡi rồi sẽ xin về hưu. Năm 53 tuổi, ngày 14 tháng 8, giờ Sửu, sẽ mất tại nhà. Tiếc rằng không con nối dõi. Ta cẩn thận ghi lại tất cả.
Từ đó về sau, mỗi lần thi cử đều đậu hạng không ngoài sự tiên đoán của cụ Khổng. Chỉ có một lần, cụ tiên đoán chừng nào phụ cấp lẫm sinh ta lên đến 91,5 thạch (7) gạo mới được lên cống sinh. Nhưng đến khi phụ cấp ta lên đến 70 thạch, quan Tông-Sư họ Đồ trong Đề-đốc-học-viện đã xin cho ta lên dự bị cống sinh. Ta thầm nghi trong bụng rằng cách bói của cụ Khổng chưa chắc chính xác hoàn toàn.
Nhưng sau đó quả thật vì cấp trên vắng mặt, quan thay thế tạm thời lúc đó là ông Dương, bác bỏ đơn xin này. Mãi cho đến năm Đinh Mão (1627), quan Tông-Sư Ân Thu Minh tình cờ xem lại những bài thi tuyển (8) còn xót lai nơi trường thi, thấy bài thi của ta xuất sắc mà tiếc rằng : « Năm bài thi vấn đáp này đâu có thua những bài tấu nghị (9) trong triều đình. Ta nỡ nào để những học trò tài giỏi như thế mà chôn vùi mãi trong phòng học. » Bèn chiếu theo đơn xin cũ, phê chuẩn cho ta lên dự bị cống sinh. Nếu tính luôn những trợ cấp từ trước đến giờ, vừa đúng 91,5 thạch.
Kể từ đó ta càng tin theo số mạng an bài; mọi việc thăng quan tiến chức, giàu sang phú quý đều có thời có lúc của nó. Vì vậy ta an phận mặc đời đẩy đưa, chẳng mong cầu gì cả.

(1) Liễu Phàm : họ Viên, hiệu Liễu Phàm, tên Huỳnh, tự Khôn Nghị. Người Giang Nam sông Ngô, đời Minh. Sanh năm 1535, mất năm 1609, hưởng 74 tuổi. Sống tại quê vợ ở tỉnh Triết Giang, huyện Gia Thiện. Lúc 16 tuổi đậu Tú tài, 33 tuổi đậu Cử nhân và 52 tuổi đậu Tiến sĩ. Ông viết lại 4 bài để dạy con của ông là Thiên Khải, sau này cũng đậu tiến sĩ.
(2) Thi cử : Ngày xưa Trung Quốc lập chế độ thi cử để tuyển lựa người tài giỏi làm quan.
(3) Hoàng Cực số : Sách Hoàng Cực Kinh Thế Thư , tác giả là Thiệu Khang Thiết. Sách này căn cứ trên Kinh Dịch và số học để bói về thời thế đất nước cũng như vận mệnh của con người.
(4) Đồng sinh : học sinh chưa thi đậu lần nào. Đồng sinh theo học ở tư thục (tiểu học tư nhân do một người thầy tổ chức tại địa phương). Sau đó đồng sinh sẽ thi tú tài. Tú tài phải thi ba nơi; huyện, phủ và Đề đốc (tỉnh). Cả 3 nơi đều đậu mới được gọi là đậu tú tài.
(5) Đề đốc học viện : là bộ giáo dục cấp tỉnh. Các kỳ thi cử tú tài và cử nhân đều tổ chức tại đó.
(6) Lẫm sinh : Học sinh sau khi đậu tú tài sẽ học ở Học-Cung (trường trung học công lập địa phương) gọi là tiến học. Trong vòng 3 năm đầu phải trải qua 2 kỳ thi : Tuế khảo và Khoa khảo. Nếu thi đậu sẽ được liệt vào danh sách dự bị lẫm sinh gọi là bổ lẫm. Đợi cho đến khi nào có chỗ trống sẽ được đôn lên làm lẫm sinh. Kể từ lẫm sinh trở đi có thể hưởng phụ cấp gạo theo tiêu chuẩn. Lẫm sinh phải thi nhiều lần để lên cõng sinh. Các kỳ thi đều tổ chức tại Đề đốc học viện. Thi đậu cống sinh sẽ coi như mãn khoá Học-Cung, gọi là xuất học hay xuất cõng. Rồi lại phải lên thủ đô Quốc Tử Giám để học tiếp và thi lên tiến sĩ.
(7) 1 thạch = 100 lit (gao)
(8) Bài thi tuyển : Những giám khảo trong Đề đốc học viện đều do triều đình bổ nhiệm xuống. Trong đó có một chánh chủ khảo, một phó chủ khảo và nhiều giám khảo phòng thi. Mỗi phòng thi có khoảng từ 8 đến 18 thí sinh. Lúc chấm bài, giám khảo phòng thi tuyển lựa những bài xuất sắc cho chủ khảo chấm. Ngoài những bài chủ khảo đã chấm đậu, phần còn lại gọi là bài thi tuyển, trong đó có bài của ông Liễu Phàm.
(9) Tấu nghị : Các quan trong triều đình mỗi khi muốn đề nghị chính sàch đều phải viết trên giấy để trình lên vua xét duyệt gọi là tấu nghị.

Thuyết đổi mạng của thiền sư Vân-Cốc
Sau khi xuất cống, ta lên Yến-Đô (1) học tiếp. Ở đó một năm, suốt ngày ngồi yên không học chữ nào. Đến năm sau Kỷ Tỵ (1629), ta trở về Nam-Ung (2). Nhân dịp Quốc-Tử-Giám(3) còn chưa khai giảng, ta lên núi Thê Hà thăm thiền sư Vân-Cốc Pháp-Hội (4). Ngồi trong phong đối diện với thiền sư suốt ba ngày đêm không chợp mắt.
Sau sư hỏi : « Sở dĩ con người không thể trở thành thánh nhân chỉ vì bị những vọng niệm lăng xăng trong lòng không ngừng trồi sụt quấy rầy mà thôi. Ngươi ngồi ba ngày mà không thấy khởi lên một vọng niệm nào, làm sao mà làm được như vậy » ? Ta trả lời rằng : « Vì sau khi Khổng tiên sinh bói số mạng con, con đã thấy cuộc đời sống chết vinh nhục đều do trời đã sắp đặt sẵn. Dù muốn dù không cũng chẳng thay đổi được gì. Suy nghĩ thêm cũng vậy thôi! »

(1) Yến Đô : Nay tên là Bắc Kinh.
(2) Nam Ung = Nam Kinh Bích Ung, nay gọi là Nam Kinh.
(3) Quốc Tử Giám : Trường đại học công lập. Đặc biệt trong thời Minh, vì Nam kinh từng là kinh đô nhà Minh, nhưng sau đó dời lên Bắc kinh cho nên thời đó có 2 kinh đô và 2 Quốc Tử Giám.
(4) Thiền sứ Pháp Hội : biệt hiệu Vân Cốc. Người Triết Giang. Người ta xưng ngài là tổ thiền tông Trung Hưng. Năm đó thiền sư 69 tuổi, Liễu Phàm 35 tuổi.
 

Thiện, Ác Không Rời Một Niệm Ở Tâm Ta

Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng vào Mùa đông 1980, tại Vạn Phật Thánh Thành

Một ý niệm làm lành, trời đất thêm chính khí.Một ý niệm làm ác, trời đất thêm trược khí.
"Không làm việc ác, Làm mọi việc lành, Tự thanh tịnh tâm mình, Là điều Phật dạy."
Đây là chân-đế cuả đạo Phật. Ai cũng hiểu đạo lý ấy, song chẳng ai thực hành được cả, nên thiên hạ đại loạn.
Đả Thiền-thất tức là cơ hội tốt nhất để chúng ta "sửa ác hướng thiện, sửa lỗi đổi mới." Với một ý niệm ác độc, thiên địa có thể sinh ra cuồng phong, bão táp, tạo đủ tai ương. Nếu nhân loại khắp toàn cầu ai ai cũng biết thọ giữ Năm Giới, thực hành Mười Thiện, thì trời đất sẽ mưa thuận gió hòa, thế giới nơi nơi an lạc. Nói tóm lại, nếu trên từ bậc nguyên thủ xuống tới nhân dân trăm họ, ai cũng giữ Năm Giới, làm Mười Thiện, thì quốc gia ấy hẳn được cơm ăn áo mặc sung túc, người người an cư lạc nghiệp. Nếu mọi người phạm Năm Giới, tạo Mười Ác, thì chẳng phải nghi ngờ gì nữa, tại quốc gia ấy, gia đình sẽ không hòa thuận, xã hội không an ninh, đất nước chẳng giàu mạnh, nhân dân phải sống cuộc đời lầm than, vất vả.
Tham Thiền chính là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu. Tại Thiền-đường, bạn hãy chuyên tâm tham Thiền, đề khởi thoại đầu, buông bỏ mọi chuyện, chuyên tâm vào chữ "Ai." Lúc nào cũng chiếu tìm, khiến tất cả mọi vọng tưởng khác đều ngừng lại hết, đó chính là trì giữ Năm Giới, cũng là thực hành Mười Thiện. Do vậy, tọa Thiền ở Thiền-đường thì đầy đủ Năm Giới, Mười Thiện vậy. Vì thế, chớ nên lãng phí thời giờ, nghĩ chuyện vớ vẩn vô ích, mà phải nắm lấy thời cơ tham cứu "Niệm Phật là ai?"
Lúc tham Thiền, chúng ta cần phải nỗ lực dụng công, dũng mãnh tinh tấn. Chúng ta phải "hồi quang phản chiều" (thâu nhiếp tâm trí, chiếu ngược nội tâm), tự vấn lòng mình, hỏi xem mình đã sinh bao nhiêu niệm thiện, dấy bao nhiêu niệm ác, khởi bao nhiêu vọng tưởng. Hãy thống kê xem.
"Chưa sinh niệm thiện, khiến sinh thiện niệmĐã sinh niệm thiện, khiến nó tăng trưởngChưa sinh niệm ác, khiến nó chẳng sinhĐã sinh niệm ác, khiến nó diệt mất."Đó là bước đầu căn bản của việc tu hành.
Vì sao thế giới bị hủy diệt? Vì người ta khởi "ít niệm thiện, nhiều niệm ác." Với một niệm thiện, trời đất tăng thêm chính khí. Chỉ một niệm ác, trời đất chất thêm trược khí. Vì thế chúng ta phải làm sao để biến khí ác-trược thành khí an-lành. Trược-khí chính là độc-khí, mà hễ chúng ta sinh một niệm tham lam thì độc-khí trong vũ trụ sẽ tăng lên một chút, nảy một niệm sân hận thì độc-khí trong vũ trụ cũng tăng lên một ít, khởi một niệm si mê thì độc-khí trong vũ trụ lại thêm hơn một tí. Nếu chúng ta dùng tham, sân, si để xử lý mọi việc thì trời đất sẽ u ám đen tối, tai nạn sẽ nảy sinh; nhưng nếu dùng Giới Định Huệ để giải quyết mọi sự thì trời trong đất lặng, nơi nơi an bình. Do đó nói rằng, nơi kẻ ác ở đông, chỗ đó tai nạn dẫy đầy; nơi đông người tốt cư ngụ, điều lành tăng gia. Nói tóm lại, tại ương hay điềm lành đều do con người tạo ra cả.
Cổ nhân nói: "Thiện ác hai con đường, ai tu thì tu, ai tạo (nghiệp) thì tạo." Kẻ tu thiện thì sẽ thoát khỏi Tam Giới, kẻ tạo ác thì sẽ đọa Tam Ác Đạo. Thiện, ác chỉ ở trong một ý niệm cách biệt. Có trí huệ tức là thiện niệm, có ngu si tức là ác niệm.
Mọi sự trên đời đều nói pháp (hiển bày chân lý). Có thứ nói pháp lành, có thứ nói pháp ác. Có thứ nói pháp bàng môn tả đạo, quan điểm sai lầm. Có thứ nói pháp trung đạo liễu nghĩa, quan niệm đúng đắn. Nói cách khác, nói pháp lành tức là dạy người ta nhìn thông suốt mọi hiện tượng, buông bỏ mọi chấp trước, đạt được tự tại; còn nói pháp ác tức là dạy người ta đừng nhìn thủng, đừng buông bỏ chấp trước, chẳng đắc được tự tại. Vì sao con người điên đảo? Bởi vì chấp trước, không chịu buông bỏ. Câu thơ xưa nói rằng:
Cổ lai đa thiểu anh hùng hán,Nam Bắc sơn đầu ngọa thổ nê.
Nghĩa là:
Xưa nay bao kẻ anh hùng hảo hán,Nằm dưới đất bùn khắp núi đầy non.
Các bạn hãy nghĩ xem: bao nhiêu người ở trần gian, ai có thể nhảy thoát qua cửa sinh tử? Lúc sống, mưu đồ cái hư danh, chết rồi, danh nào còn? Ham chức quan lớn, chết rồi, quan cũng hết luôn! Mọi thứ đều hóa thành không. Trung Quốc có Tần Thủy Hoàng vì muốn bảo vệ con cháu, khiến muôn đời sau sẽ mãi làm hoàng đế, nên cho xây Vạn Lý Trường Thành. Nào ngờ chỉ truyền tới đời thứ hai, con là Hồ Hải (Tần Nhị Thế) nối ngôi chưa được ba năm thì bị Thừa-tướng Triệu Cao giết chết. Thế chẳng phải là đã hao phí tâm cơ sao?
Xưa nay, từ trong đến ngoài nước, những kẻ cực kỳ giàu sang, kẻ làm quan to chức lớn, đều sống một đời mê muội tranh danh đoạt lợi, tạo ra biết bao nghiệp chướng tội lỗi; tới lúc chết thì với hai tay không đi gặp Diêm Vương. Xem đấy, khi tham Thiền chúng ta phải quyết chí dụng công, không thể giải đãi, không thể buông lung, chớ để lỡ cơ hội rồi sau này hối hận không kịp. Rằng:
"Một chút thời gian, một chút mạng sống."
Có người nói: "Chờ tôi thành danh rồi, tôi sẽ buông bỏ mọi thứ, chuyên tâm tu Đạo." Song le, thời gian không chờ đợi ai, chờ tới lúc đó thì đã quá muộn rồi.
Tham Thiền hay niệm Phật đều tốt cả. Chỉ cần chân thật tu hành thì có thể thoát khỏi vòng sinh tử, tới lúc lâm chung tất sẽ "thân không bịnh khổ, tâm chẳng tham luyến, như nhập Thiền-định, vui cười vãng sinh." Đó mới là nắm chắc được việc sinh tử trong tay mình vậy!
(Thiền thất 12/1980)

Thông Suốt Mọi Pháp--Niệm Quán Âm

Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta cứ sanh ra rồi chết đi, chết đi rồi lại sanh ra. Trải qua quãng thời gian dài có tới trăm ngàn vạn kiếp, chúng ta vẫn chưa từng gặp được Pháp-hội Quán-Âm. Chính vì thế nên các thói hư tật xấu của chúng ta chẳng giảm bớt một mảy may, trong khi vô minh, phiền não thì lại mỗi ngày một gia tăng! Nay được gặp Pháp-hội Quán Thế Âm Bồ-tát, có thể nói rằng nhờ những thiện căn chúng ta gieo trồng trong vô lượng kiếp về trước đã chín muồi cho nên chúng ta mới được tham gia một Pháp-hội vi diệu và bất khả tư nghị như thế này. Nếu không có thiện căn, không có đức hạnh, thì chẳng thể có được cơ hội tham gia Quán-Âm Thất. Do đó, quý vị phải biết quý bảy ngày quý báu này mà đừng khởi vọng tưởng, đừng phí thời giờ. Nếu quý vị cứ khởi vọng tưởng, thì có tham gia Pháp-hội cũng như không, bởi vì quý vị sẽ không đạt được một sự lợi ích nào cả!
Mặc dù Pháp-hội này chỉ mới bắt đầu được hai hôm nay, tôi biết rằng có người đã thấy Bồ-tát, hào quang, hoặc những cảnh giới bất khả tư nghị hiện ra; và cũng có người sắp được mở Ngũ nhãn nữa. Do đó, những người chưa đạt được sự lợi ích phải biết hổ thẹn, và chớ cho rằng bản thân mình không đạt được sự lợi ích thì người khác cũng giống như thế--không phải vậy đâu!
Có thể nói rằng Chùa Kim Sơn là nơi “đãi cát tìm vàng”--những ai muốn tu hành thật sự thì không thể rời khỏi Chùa Kim Sơn bởi vì tìm được một nơi để chân chánh tu hành thì không phải dễ. Những người ở Chùa Kim Sơn đều là những hành-giả có Đạo-tâm, dù lâm vào hoàn cảnh hết sức gian khổ, khó khăn, họ vẫn tinh tấn dụng công tu hành.
Pháp-môn tu Đạo thì có tới tám vạn bốn ngàn thứ và thứ nào quý vị cũng nên hiểu biết đôi chút, chứ đừng chỉ biết độc nhất có mỗi một thứ mà thôi. Nếu về pháp-môn nào quý vị cũng có được chút ít khái niệm thì dần dần quý vị sẽ hiểu được mọi các pháp-môn. Nếu chỉ hiểu một pháp-môn thì khó mà thể hội được cảnh giới “thâm sâu như biển cả” của Phật Pháp; và như thế, quý vị cũng chẳng khác gì “kẻ khờ nhìn trời qua ống tre,” cứ đinh ninh rằng bầu trời chỉ lớn bằng miệng ống tre mà thôi! Nếu không dùng ống tre để nhìn thì quý vị sẽ thấy bầu trời rộng lớn vô cùng. Do đó, quý vị học Phật Pháp thì chớ nên chỉ biết về một pháp-môn duy nhất, mà cần phải thông suốt mọi pháp, hiểu rõ mọi pháp.
Hiện tại chúng ta niệm danh hiệu Quán-Âm Bồ-tát, đó chính là một phần của Phật Pháp vậy. Nếu quý vị chưa từng tu tập pháp-môn này thì nhất định phải đến tham gia thử một phen; đừng nên chưa thử mà đã không chịu tu! Nếu có thể tham gia trọn vẹn bảy ngày niệm danh hiệu Quán-Âm Bồ-tát này, thì chắc chắn quý vị sẽ thâu hoạch được nhiều điều lợi ích cho cả thân lẫn tâm. Do đó, quý vị chớ nên để lỡ dịp may, đừng bỏ qua cơ hội hiếm có trước mắt!
Bậc Bồ-tát thì tu Lục độ Vạn hạnh. Lục độ chính là:
1) Bố thí. Bố thí tức là tự chúng ta bố thí cho người khác, chứ không phải là muốn người ta bố thí cho mình.
2) Nhẫn nhục. Qua khóa Quán-Âm Thất này quý vị có thể biết được mình có khả năng nhẫn chịu hay không. Người có khả năng nhẫn chịu tất sẽ hoàn tất khóa Quán-Âm Thất này một cách mỹ mãn. Người không có khả năng nhẫn chịu thì suốt ngày chỉ toàn là khởi vọng tưởng, như: “Lát nữa mình phải đến nhà hàng nọ ăn một bữa cho thật no nê mới được,” hoặc là: “Mình cứ ở đây niệm danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-tát thì có lợi gì đâu? Thật là vô ích! Thôi, mau mau đi về cho rồi!”
Không có khả năng nhẫn nhịn, chịu đựng, thì không thể tu Đạo! Quý vị muốn tu phép ngồi Thiền, phép niệm danh hiệu Phật hoặc niệm danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-tát đều được cả--bởi các pháp môn ấy là như nhau, hoàn toàn không có gì khác biệt. Bất luận tu theo pháp môn nào, chỉ cần có lòng nhẫn nại thì quý vị sẽ có được sự thành tựu. Nếu không có lòng nhẫn nại thì pháp môn nào quý vị cũng chẳng thể tu tập được! Người thiếu lòng nhẫn nại thì luôn luôn cảm thấy thế này là không đúng, thế kia là không phải, việc gì cũng không vừa ý; như vậy thì còn tu gì được nữa chứ?
Đạo vốn không có ngã-kiến, không có sự chấp trước về cái “ngã”; do đó, người nào có chấp trước thì vĩnh viễn chẳng thể nào tu Đạo được! Có người nói: “Tôi muốn tham Thiền!” Quý vị muốn tham Thiền ư? Thế thì quý vị càng cần phải có lòng nhẫn nhục hơn nữa!
3) Trì giới. Trì giới tức là: “Chư ác mạc tác, Chúng thiện phụng hành.” (Không làm điều ác, Chỉ làm việc lành.)
4) Tinh tấn. Tinh tấn có nghĩa là siêng năng, không lười biếng, giải đãi.
5) Thiền-định. Hiện tại chúng ta niệm danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-tát là cầu nguyện Đức Quán-Thế-Âm Bồ-tát giúp chúng ta có được Thiền-định.
6) Trí huệ. Một khi đã có Thiền-định, thì trí huệ sẽ nảy sanh. Do đó, sáu công hạnh này đều có quan hệ liên đới với nhau.
Có người nói: “Tôi thích chuyên về tu Thiền-định.” Vậy bây giờ tôi sẽ nói cho quý vị biết về cách tu Thiền-định. Một khi đã đặt chân vào Thiền-đường thì bất luận thế nào, quý vị cũng không được rời khỏi Thiền-đường nửa bước! Có người thắc mắc: “Nếu bị bệnh thì phải làm sao?” Bị bệnh thì cứ việc bệnh thôi! Có bệnh cũng vẫn phải tham Thiền như thường!
“Thế rủi chết thì làm sao?” Chết rồi thì xác cũng không được mang ra khỏi Thiền-đường! Nếu có Thiền-sinh bị chết, thi hài của y sẽ được nhét vào dưới một bục ngồi còn trống, và dù có sình thối cũng vẫn phải để ở đó chứ không được đem ra ngoài. Người chết cũng không được rời Thiền-đường!Có người nói: “Như thế thì có khác gì bị cầm tù đâu?” Quý vị tưởng rằng hiện tại quý vị không phải ở tù sao? Mọi người đều đang bị giam hãm trong nhà tù của chính họ, chẳng qua là họ không tự ý thức được điều đó mà thôi! Tự-tánh của quý vị muốn thoát ra mà ra không được, muốn trở về cũng không về được. Hễ đi ra rồi thì không về lại được, mà hễ về rồi thì lại không thể thoát ra được nữa--như thế mà gọi là “tự do” sao? Thân thể của mỗi người chính là một cái nhà tù; song, quý vị chưa hiểu được điều ấy!
Trong khóa Thiền-thất, một khi đã vào Thiền-đường rồi thì không được bước chân ra khỏi cửa Thiền-đựờng nữa. Người nào đi ra thì sẽ bị ăn đòn--cây hương-bản sẽ vun vút trên đầu, trên lưng. Đó là trong khóa Thiền-thất. Trong khóa Quán-Âm Thất cũng thế--không ai được phép rời Phật-điện! Người nào bất tuân thì sẽ bị ăn đòn, bởi vì, ai bảo quý vị đến đây làm gì!?
Có người nói: “Tôi đọc được thông báo nên mới đến tham gia.” Thế nhưng trong bản thông báo không nói rằng hễ đến đây rồi là có thể tự ý bỏ đi kia mà! Muốn đi thì cũng được, tuy nhiên quý vị phải thanh toán chi phí ăn uống của mọi người rồi mới được đi; bằng không, quý vị không thể đi được. Tại sao vậy? Bởi vì nếu quý vị bỏ đi, những người khác thấy thế cũng bắt chước quý vị mà bỏ đi. Quý vị bỏ đi, người nọ bỏ đi, người kia cũng bỏ đi, rồi mọi người đều bỏ đi hết--như thế là quý vị “phá hoại đạo-tràng.” Do đó, để khỏi mang tội “phá hoại đạo-tràng,” quý vị phải trả tiền ăn của mọi người. Nếu quý vị trả không nổi thì tốt nhất là đừng bỏ đi!
Quý vị đều có thiện duyên với nhau nên mới cùng đến Chùa Kim-Sơn. Nếu không có thiện duyên thì không cách gì đặt chân tới ngưỡng cửa Chùa Kim-Sơn được. Đã có thiện duyên thì mọi người chớ ngần ngại mà không kết bạn với nhau trong Pháp-hội Quán-Âm này. Quý vị hãy nâng đỡ lẫn nhau và cùng nhau tiến tới phía trước. Tới đâu? Tới nơi mà thâm tâm mọi người muốn tới. Mỗi chúng ta đều nên giúp đỡ người khác. Vì sao tôi nói như thế? Vì tôi e rằng quý vị sẽ bị lầm đường lạc lối!
(Quán-Âm Thất, ngày 15 tháng 3 năm 1976)

Mười Phương Pháp Tu Hành

HT Tuyên Hóa

Đây là mười phương-pháp dạy trong kinh Hoa-Nghiêm, nơi phần Trị-Địa-Trụ ở phẩm Thập Trụ. Thật sự ra phương-pháp này không hạn cuộc nơi chư Tăng Ni, mà dành cho mọi người tu Bồ-Tát Hạnh, tại gia và xuất gia. Song nói rằng dành cho chư Tăng Ni là bởi chư Tăng Ni có điều kiện, nhân duyên thù thắng để thực hiện phương-pháp này. Đồng thời, sinh-hoạt của tăng chúng là sinh-hoạt hướng về sự giác-ngộ, phù-hợp hoàn-toàn với mười phương-pháp của kinh nêu ra. Phương-pháp ấy như sau:

1. Tụng tập đa văn

Tức là học hỏi sâu rộng Phật-Pháp. Học để biết rõ Phật-lý, chân lý. Học để tài bồi đức-hạnh. Do đó đối tượng của việc học là chân lý, đưa tới sự giải-thoát phiền-não, phá tan sự mê hoặc của bản ngã.

2. Hư nhàn tịch tịnh

Đây là thái-độ tự tại với đời. Nếu "đa văn" có nghĩa là chất chứa những tri-kiến, chuyện thị-phi của thế-gian, thì mình chắc chắn chiêu-cảm lấy đủ chuyện thị-phi, phiền-não ở đời; do đó mình sẽ kẹt trong vòng luẩn quẩn của "việc đời". Nếu "đa văn" có nghĩa là huân-tập chân lý trong kinh-điển, tiêu-hóa (internalize) đạo lý giải-thoát, thì mình sẽ trở nên tự tại. Bởi thế, hư nhàn tịch-tịnh là thái-độ vứt bỏ chuyện đời, chuyện hơn thua, tranh chấp, chuyện lợi lộc cho mình. Mọi thứ tính toán cho mình đều không phải là nhàn, là tịch.

3. Cận thiện tri thức

Nghĩa là gần gũi những bậc thầy có kiến-địa, giác-ngộ hay giải-thoát. Hoặc gần gũi những bậc thầy có trí-huệ và đạo-đức để dắt dẫn mình tu hành. Bậc thiện-tri-thức phải là bậc đi trước mình nhiều bước trên đường tu, do đó có thể khiến mình phát bồ-đề tâm, dạy mình trương dưỡng và thành-thục bồ-đề tâm; cứu giúp lúc mình gặp bế-tắc; chỉ bảo lúc mình còn đầy khuyết điểm. Do gần gũi thiện-tri-thức mình mới thành-tựu được đa văn, tức là nghe nhiều những lời chỉ dạy của bậc thầy.

4. Pháp ngôn hòa duyệt

Nghĩa là nói năng ôn-hoà vui-vẻ. Lời nói chỉ có thể ôn-hoà, duyệt-lạc khi mà tâm mình thật sự ôn-hoà. Do đó mình phải tập thái-độ không tranh: không tranh-chấp với ai; bất kỳ việc gì, hãy sẵn sàng nhận lỗi, chịu thua. Không đấu lý, không tự bào chửa. Khi tâm mình không thấy ai là kẻ thù, không có thành-kiến về ai cả, cũng không cho rằng mình hay mình giỏi, cách mình làm việc là độc nhất đúng đắn thì mình rất dễ tự tại, ôn-hoà. Nếu chú ý kỹ mình sẽ thấy có những lúc nhất định nào đó, mình hay thích lên giọng, cộc cằn. Những lúc ấy, trí-huệ hay tâm mình không còn khống-chế làm chủ lời nói nữa, bấy giờ thói quen hư xấu khống chế cái lưỡi mình. Bởi vậy, phải tập lắng nghe lời mình nói, quán-sát và chú ý từng lời, khiến lời không ngược lại với tinh-thần "Bất tranh".

5. Ngữ tất tri thời

Tức là nói cho đúng lúc. Cổ-nhân dạy rằng khi nói chuyện, hãy xem mặt đối phương. Nếu người ta tỏ thái-độ khó chịu, không muốn nghe, buồn-bực thì chớ nói nữa. Gặp lúc đối phương không chú ý, đang bận rộn, đang nói, thì chớ ngắt lời, chớ nói. Biết đối phương không thích, không muốn nghe một đề tài gì đó thì chớ đem nó ra nói, bàn luận. Biết đối phương không có thì giờ đàm luận, thì chớ giông dài. Việc vô-ích, vô nghiã, việc thế-tục thì người tu không nên nói. Người xuất gia nếu thích đàm luận chuyện thế-tục, chuyện tranh-chấp, lợi lộc riêng tư thì chỉ khiến người tại gia khinh thường và chỉ-trích. Chỉ nên nói những việc khiến người nghe phát khởi lòng tin, phát bồ-đề-tâm, hoặc giải-trừ được bế-tắc và phiền-não trong đời sống. Nên tập quán-sát thời-cơ, nhân-duyên rồi hãy phát biểu.

6. Tâm vô khiếp bố

Tức là tâm không sợ hãi , bố-úy. Không sợ hãi rằng pháp quá thâm sâu, mình không thể thọ nhận. Không bố-úy rằng pháp quá khó tu, mình không thể thực-hành. Khi tâm có hy-vọng, có mong cầu thì tâm ấy lúc nào cũng có bố-úy sợ hãi. Bởi vậy tập luyện tâm thái không khiếp-bố là tập luyện tính không cầu. Hễ được dạy pháp nào thì tu pháp ấy, không mong cầu quả báo, không nghĩ tới mình sẽ được lợi-ích gì.

7. Liễu đạt ư nghĩa

Tức là dùng trí-huệ tư-duy, giải đạt thâm nghiã. Đây không phải là hiểu bề ngoài, hay học thuộc làu. Liễu đạt nghiã-lý tức là thấy được sự thể hiện của nghiã-lý ấy trong cuộc sống. Ví như khi nghiên-cứu đoạn: "Thế-gian vô-thường, quốc độ nguy thuý..." mình cần phải thấy sự vô-thường ấy, không phải chỉ qua mặt chữ, lời văn, mà là qua trực-giác và sự cảm nhận thực tại cảnh vô-thường ở trần-gian.

8. Như pháp tu hành

Trong quá trình liễu đạt thâm nghiã, sẽ có những lúc mình không dùng suy nghĩ để hiểu rõ, cũng không thể dùng cảnh-giới bên ngoài để minh chứng, những lúc ấy, đòi hỏi mình phải dùng cảnh-giới thiền-định để giải đáp. Bởi vậy người tu cần phải "Như pháp tu hành" để phát triển năng-lực thấu hiểu chân-lý bén nhạy hơn khả-năng của đầu óc suy tư này. Như pháp có nghiã là làm đúng theo sự chỉ dẫn, đúng với chân-lý, đúng với giới-luật, hợp với đạo đức nhân nghiã. Khi tu không như pháp thì tức là tu không đúng theo lời thiện-tri-thức chỉ dạy, hoặc giả không phù hợp với tinh thần của kinh Phật, hoặc là tự mình sáng tác ra phương-pháp cách thức hoàn-toàn không theo một tiền-đề, hệ-thống hay quy củ, giới-luật nào cả. Có kẻ ở trong chúng nhưng tự mình làm ra vẽ khác biệt, lập dị; Khi không cùng tu, không hoà-đồng với đại-chúng, mình phải quan-sát, xem mình có tu như pháp hay chăng. Hễ như pháp tu hành thì không bao giờ có "cái mình", "cái tôi" đặc biệt "nổi" hơn kẻ khác cả.

9. Viễn ly ngu mê

Gốc ngu mê là ở lòng dục-vọng, phiền-não, chấp-trước. Khi tu mình hãy nhớ mục tiêu là dứt trừ những thứ ấy. Càng tu phải càng bớt phiền-não, bớt nóng giận, bớt cống cao, bớt dục-vọng. Do đó sẽ thêm sáng-suốt, nên Phật dạy phải "siêng tu giới, định, huệ để dứt trừ tham, sân. si". Phải để ý năm thứ mà dục-vọng thèm khát nhất: 1/ Tiền tài, vật chất, tivi, video. 2/ Sắc đẹp trai gái: cửa sắc dục mà không thoát được thì tu pháp môn cao siêu tới đâu cũng vô-ích, không thể giải-thoát. Kinh Lăng-Nghiêm dạy: "Dâm tâm không trừ, không thể thoát trần". 3/ Danh vọng, địa vị, tên tuổi: Mong được kẻ khác cung kính, trọng vọng cũng là hình-thức mê-muội vô cùng. 4/ Ăn uống: Thích ăn ngon, ăn sang cũng là một dục vọng đáng sợ; bởi vì thực dục chỉ là biến hoá từ sắc dục mà ra. 5/ Ngủ nghỉ: Hay nói đúng hơn là lòng ưa thích hưởng thụ, sung-sướng, làm biếng, ngồi không cho qua ngày. Khi lòng ưa thích này biến thành nghiện thì càng nguy hại hơn nữa, ví dụ như ngày nay nhiều người nghiền thuốc, rượu, bài bạc, chơi computer hay xem phim bộ, v.v.. Năm thứ trên đều cần phải lánh xa.

Nói về duyên của sự ngu mê thì có lẻ nên nói thêm về những thứ khiến mình nẩy sinh tà-kiến: 1/ Tivi, video với những chương-trình đầy dẫy bạo lực, dâm-dục, ô-nhiễm. 3/ Bạn xấu hay kẻ thiếu tri-kiến về chân-lý; Nếu người bạn có quá nhiều thói hư tật xấu thì khó thể giúp đở, gây ảnh hưởng tốt cho mình, mà mình nếu không đủ trí huệ và phương tiện, cũng không giúp đở gì y được.

10. An trụ bất động

Tâm chỉ bất động khi nào tâm an-trụ hay thấy được sự thật, chân-lý bất biến. Bởi vậy trong mọi chuyện, mọi việc, mình phải phát-triển con mắt biết thẩm-thấu sự thật hay chân-lý, gọi là Trạch-Pháp-Nhãn. Phải biết nhìn xuyên thủng hiện-tượng hay hình-tướng để biết đặng chân-lý. Khi ấy tâm mình lúc nào cũng an-định, dù ở bất cứ hoàn-cảnh trắc-trở, xáo-động nào đi chăng nữa. Khi tâm không còn bị tình-dục, phiền-não, vọng tưởng quấy nhiểu, thì lúc ấy tâm mới thật sự an-trụ bất động. Mười phương-pháp trên, đa số đều dùng trí-huệ để dẫn dắt, từ đó khởi thêm lòng đại bi thì mới tới được chỗ viên mãn. Song những phương-pháp trên, có thể nói, vô cùng thực tiển cho những ai sống trong tùng lâm: cứ tu tập theo chúng thì đường đạo ắt phải tiến-bộ.


(From: Bo De Hai Online, January 1997, http://saturne.info.uqam.ca/~nguyent/)