Saturday, December 5, 2009

HT.Thích Trí Tịnh: Một đời tu Tịnh Độ

Đại lão Hòa thượng thượng Trí hạ Tịnh - Đệ nhất Phó Pháp chủ, Chủ tịch HĐTS GHPGVN - là bậc Tòng lâm thạch trụ và là một trong những đại dịch giả của Phật giáo Việt Nam. Mặc dù tinh thông cả Thiền lẫn Giáo, song Hòa thượng một đời chuyên tâm hành trì pháp môn Tịnh độ và luôn luôn khuyến tấn Tăng Ni, Phật tử ăn chay, giữ giới, niệm Phật...
Nhân dịp thực hiện chuyên đề về pháp tu Tịnh độ tại Việt Nam, đại diện Ban Biên tập và bộ phận biên tập Nguyệt san Giác Ngộ đã có cuộc thỉnh vấn, đảnh lễ Hòa thượng. Bài viết sau đây là lời kể về cuộc đời tu và lời dạy của Ngài về pháp môn Tịnh độ. Xin hân hạnh giới thiệu cùng quý độc giả.NSGN
Niệm Phật từ thuở thiếu thời
“Thuở nhỏ ở nhà, lúc đó khoảng 12-13 tuổi, tôi đã tự mình niệm Phật”, Hòa thượng kể. “Tôi đọc trong Tây phương trực chỉ, thấy có nói hễ niệm được 300 ngàn câu Phật thì được vãng sanh Cực Lạc. Tôi tin mà làm. Nhưng vì sao tin thì tôi không biết!”“Tôi lấy quyển sách quảng cáo thuốc của ông anh (anh tôi làm chủ tiệm thuốc Bắc) đem về đặt trên gối ở đầu giường, cứ mở sách ra rồi... niệm Phật! Cứ tính niệm được 100 câu Phật thì lật một tờ. Mọi người tưởng tôi đọc truyện, bởi người ta có in kèm truyện trong sách. Tôi ở nhà mà niệm Phật lén vậy, không ai hay biết”.
Sinh năm 1917 trong một gia đình nhà nông chân chất tại Sa Đéc (Đồng Tháp), thân phụ của Hòa thượng qua đời từ lúc ngài lên ba, đến năm lên bảy thì thân mẫu cũng tạ thế, Hòa thượng sống với người anh thứ ba.“Lúc tôi biết mến đạo là vào khoảng năm 1928, thời điểm người ta bắt đầu xây dựng Thánh thất Cao Đài ở Tây Ninh. Một số người bà con của tôi cũng ở gần đó, theo Cao Đài, để tóc bới và ăn chay trường. Tôi cũng ăn chay trường một mình ở nhà, thường ăn với nước cơm, nước muối. Bởi hễ thấy thịt cá là tôi nhớ ngay đến cảnh người ta đánh vảy, cắt cổ, làm thịt nên không ăn được”.
Hòa thượng không theo Cao Đài vì cảm thấy “không hạp”, dù ngài vẫn thường mượn các sách Thông thiên học của mấy thầy cô giáo để đọc.“Tôi tin pháp môn niệm Phật, không lúc nào quên đạo Phật, nhưng lại vô chùa không được, vì chùa lúc nào cũng tối om om, tượng thì ông nào cũng đội khăn đỏ trên đầu, chỉ có một đốm sáng nơi lỗ mũi, về nhà thấy muốn nóng lạnh. Ngoài đường thì có một ông thầy đi trước, thằng nhỏ theo sau, đầu đội cái thúng, trong để chuông mõ, tượng Phật và đồ minh khí để đốt. Tôi nghĩ tu hành gì kỳ vậy nên không mến được!”
Đại diện Ban biên tập và bộ phận Biên tập NSGN đảnh lễ và thỉnh vấn Hòa thượng
Năm 15, 16 tuổi, Hòa thượng hết tuổi học trường Pháp Việt, qua cấp khác thì không đủ điều kiện, nên quyết định học nghề - từ học sửa xe đạp đến học sửa đồng hồ rồi theo người anh làm không công để học thuốc. Nhờ đọc sách thuốc mà Hòa thượng dần dần thông chữ Hán. Trong khi đó, gia đình người anh thường xảy ra cảnh lục đục nên Hòa thượng có ý xuất trần.
“Tôi muốn đi lắm, nhưng cha mẹ không có, tôi đang ở với anh chị nên cũng khó. Tôi lại còn người chị thứ sáu - bây giờ chị vẫn còn sống - hai chị em hủ hỉ có nhau, vui buồn chia sớt, nếu đi thì bỏ chị lại. Tôi học nghề, nghĩ rằng nếu chị ở vậy thì hai chị em có thể nuôi nhau”.
“Đến năm tôi 20 tuổi, chị lập gia đình. Tôi bắt đầu tính chuyện giải thoát thế gian. Nghe người ta nói ở Thất Sơn - Tà Lơn có nhiều người tu theo đạo Phật, có chùa, am, cốc, nên tôi bèn dò la, biết được chùa am chủ yếu tập trung ở Núi Cấm. Đầu năm 21 tuổi, tôi bỏ nhà lên núi, để lại lá thơ chớ không cho ai biết. Lúc đó nhằm ngày 14-2-Đinh Sửu. Khoảng hơn 2 giờ chiều thì tới chân núi, tôi quăng guốc chạy chân không, cảm thấy lòng nhẹ nhõm như không còn gì dính líu. Chạy rát chân thì đứng lại, leo lên gộp đá bên đường ngó bốn phía, tôi khấn vái rằng mình là người phàm mắt thịt, không biết đâu thánh phàm, nguyện ơn trên chỉ dẫn, cứ một mặt phía truớc mà bước đi, gặp chỗ nào thì ở đó chớ không chọn lựa”.
“Khoảng hơn 5 giờ thì tôi tới Vạn Linh, nghe nói thầy đang ở ngoài cốc, đến tối mới gặp được. Sau thời Tịnh độ, thầy vào ngồi bên bàn, bóng đèn leo lét. Tôi đứng một bên; năm, bảy huynh đệ đứng bên kia thưa chuyện. Thầy chỉ tôi mà mắt nhìn mấy huynh đệ, nói: "Mấy đứa bây đừng coi thường cái thằng nay nghe. Đời trước nó là Hòa thượng, bây giờ nó cũng sẽ là Hòa thượng đó!". Thầy nói thêm một mình: "Làm Hòa thượng nhưng nó cũng thích nhìn con gái lắm, nên sẽ bị tật con mắt suốt đời không hết". Mấy tiếng này thầy nói chậm lắm. "Này, coi sửa soạn mai rằm cho nó tu!". Tôi nghe vậy thì mừng lắm, không nghĩ đến việc bịnh tật hay Hòa thượng gì cả, mà cũng không biết Hòa thượng là gì, được chấp nhận cho ở chùa tu là mừng lắm rồi!”
“Chỉ trong vòng 2 tháng, mấy thời công phu trong chùa tôi thuộc không thua ai khác, trong đó phẩm Phổ Môn tôi thuộc đầu tiên. Nguyên do là tôi không có áo dài mặc lễ Phật. Chùa có mấy cái dành cho Phật tử, tôi mượn để tụng kinh. Sau có một Phật tử phát tâm cúng bốn thước vải đà, yêu cầu tụng 60 biến Phổ Môn. Mấy huynh đệ thấy tôi không có áo dài mặc nên bảo tôi tụng. Do đó mà tôi thuộc lòng phẩm Phổ Môn, rồi mến luôn kinh Pháp Hoa”.Hòa thượng được phân công viết sớ, được cho ở trong một cái cốc nhỏ nơi vườn chùa. Nhờ vậy mà ngoài việc tụng kinh, Hòa thượng còn tranh thủ tụng thêm bốn thời nữa, rất tinh cần. Nghe mấy huynh đệ nói đến việc tu khổ hạnh, Hòa thượng cũng quyết thực hiện.
“Tôi bỏ ngủ, không nằm nữa, đến độ lên quả đường cầm chén cơm ngồi sững mà ngủ, rớt hồi nào cũng không hay, vậy mà cũng không thành gì, nên thôi. Rồi tôi lại tuyệt cốc, chỉ ăn rau, ăn riết rồi đi lên dốc cũng không nổi, yếu quá mà cũng không thành ông gì, lại bỏ!”.
Do được đọc tạp chí Từ Bi Âm mà Hòa thượng phát khởi ý nguyện cầu học Phật pháp, vì ngoài các thời trống phách kinh kệ, ngài không được học gì thêm. Cuối năm 1939, Hòa thượng xin phép Bổn sư xuống núi về Sài Gòn rồi ra Trung cầu học. Đoạn đường hết sức gian nan, không ai giúp đỡ, không có phương tiện, ngài chỉ ôm gói quần áo mà đi, từ Sài Gòn ra Phan Thiết, tới Bình Định rồi đến Huế. Ban đầu Hòa thượng ở chùa Tây Thiên, sau nhờ thầy Giác Tâm (người Bến Tre) giới thiệu đến chùa Báo Quốc theo học Phật học. Bấy giờ là năm 1940, trường chỉ có duy nhất một lớp, đang học đến năm thứ 6 Sơ đẳng, còn vài tháng nữa thì lên Trung đẳng, song Hòa thượng cũng được nhận vào học, lại được cấp học bổng và cho nội trú. Năm 1941, ngài thọ Sa di giới rồi tiếp tục học lên Trung đẳng và tốt nghiệp vào năm 1942, đến năm 1945 thì tốt nghiệp Cao đẳng. Tiếp theo là thời kỳ Hòa thượng ra làm việc, phụng sự Đạo Pháp...Năm 1955, Hòa thượng thành lập Cực Lạc Liên hữu tại chùa Vạn Đức (Thủ Đức), khuyến tấn mọi người niệm Phật, cầu vãng sanh Tịnh độ. Ngài là vị thầy đương thời chấn hưng Tịnh độ trong tòa nhà Phật giáo Việt Nam. Tịnh độ Liên hữu do ngài sáng lập được duy trì trong suốt mười năm - cho đến năm 1964, khi GHPHVNTN thành lập - khơi dậy một phong trào tu tập mạnh mẽ, giúp cho rất nhiêu hành giả quy hướng Tịnh độ.
Những lời dạy của Hòa thượng về pháp tu Tịnh độ
“Pháp môn trì danh niệm Phật đơn giản lắm”, HT nói. “Trước hết, luôn luôn phải có lòng tin. Tin ở nơi lời giới thiệu của Đức Phật Thích Ca về Cực Lạc thế giới của Đức Phật Di Đà là chơn thật; tin vào y báo, chánh báo của cảnh giới ấy, vì đó là chỗ mà tất cả chúng sanh và các bậc Thánh đều phải nên về. Do là y báo, chánh báo của cảnh giới Cực Lạc có thể đưa mình đến nơi bậc thánh, thành Phật chứ không ngưng trệ hay do duyên gì mà thối lui. Tiếp theo là tin nơi Pháp mà Phật Thích Ca đã dạy, phải như thế nào thì mới có thể về cảnh giới Cực Lạc”.“Có nhiều cách để vãng sanh Cưc Lạc, song cách trì danh là đơn giản nhất. Bởi theo danh tự mà niệm thì dễ, còn quán tưởng thì trí lực của người rất khó đến. Muốn ở nơi sự quán tưởng đúng theo kinh nói thì các bậc hiền thánh mới có thể thực hiện được. Trong khi trì danh thì dẫu kẻ phàm phu, tục tử vẫn có thể niệm, cứ đúng theo Nam mô A Đi Đà Phật mà hành trì”. “Quý huynh đệ thấy, nếu quán về 32 tướng tốt của Phật, ngay chỉ tướng lông trắng giữa chặn mày của Phật A Di Đà thôi cũng đã lớn bằng năm hòn núi Tu Di, như vậy thì làm sao nghĩ tới? Ở đây, ánh sáng lại tỏa ra khắp mười phương. Còn cặp mắt của ngài thì bằng bốn đại hải - đại hải đó không phải như ở biển ta, biển ở ta so ra thì chỉ là một cái cù lao - tưởng tượng sao nổi?”
“Cái tướng lông trắng đó của bất kỳ vị Phật nào, nếu kéo thẳng ra thì cũng đều đụng tới gót. Mà theo kinh, bề cao của thân Phật Di Đà là 60 muôn ức Na do tha số các sông Hằng (theo luận Câu xá thì một Na do tha bằng khoảng 100.000 tỷ - GN) - một hột cát được tính là một do tuần (khoảng 15-20 km), cộng lại là ra chiều cao thân Phật. Thử nghĩ, một sông Hằng có bao nhiêu hột cát, bao nhiêu do tuần? Mà thân ngài cao đến 60 muôn ức na do tha số cát sông Hằng! Do đó, tướng lông trắng đó cũng dài tương đương như vậy, xoắn tròn lại to bằng năm hòn núi Tu Di”.
“Đó không phải là cách nói tượng trưng đâu, mà Phật Thích Ca nói đúng thiệt như vậy. Nếu chỉ quán tưởng thân ngài cao như tượng mình thờ thì không chính xác. Còn nếu quán thật tướng chân như lại càng khó hơn nữa. Dù cũng có người làm được, nhưng chỉ là những bậc hiền thánh hiện thân. Do vậy, trì danh được xem là thấp nhất và dễ nhất. Mình đang đi bộ hay đi trên xe niệm Phật cũng được. Mình đang đứng ngắm cảnh cũng niệm được. Mình đang ngồi làm việc cũng niệm được và khi mệt mỏi quá nằm niệm cũng được. Chỉ trừ lúc nói chuyện là không niệm được thôi!”
“Trì danh nói là thấp song hành trì không dễ. Phải tin thực sâu, nguyện thực thiết và công hạnh phải chuyên cần thì mới hiệu nghiệm, nếu không thì cảnh khác chen vô phá hết. Khi niệm thì tâm và tiếng phải hiệp khắn nhau. Nghĩa là tâm phải duyên theo tiếng, tiếng phải ở trong tâm, đừng để nó xao lãng theo một tiếng gì khác, hễ nó rời ra thì phải kéo nó lại. Muốn được vậy, tiếng niệm phải cho rõ ràng, rành rẽ. Niệm như vậy phải chuyên cần, phải nhiều thời gian, phải đều đặn, phải tinh tấn lắm mới đắc lực. Khi niệm đã đắc lực thì tự nhiên trong tâm mình nổi lên tiếng niệm Phật mà mình không cần đề khởi, không cần nghĩ đến nó vẫn tự niệm. Ban đầu thì lúc được lúc mất, được thì ít mà mất thì nhiều. Cố gắng thêm thì được nhiều mất ít, cho đến khi không còn gián đoạn nữa thì gọi là niệm lực tương tục. Và như vậy mới đúng nghĩa "chấp trì danh hiệu". Đó mới là nhơn của niệm Phật tam muội. Được vậy thì sự vãng sanh mới bảo đảm”.
“Tôi nói với mấy huynh đệ về chữ "chấp trì danh hiệu". Chấp nghĩa là cầm, còn trì là giữ lại. Giống như tôi nắm quyển sách không buông ra vậy, hễ bỏ ra là không trì. Khi mình xưng danh hiệu ‘Nam Mô A Di Đà Phật’, làm sao trong tâm mình chỉ có ‘Nam Mô A Di Đà Phật’ mà thôi. Đừng có cái gì khác, đừng cho một niệm gì xen vào hết. Trong lúc niệm Phật mà còn niệm những thứ khác nữa thì không phải niệm Phật. Nếu chấp trì được danh hiệu như Phật Thích Ca nói thì nhất định vãng sanh. Làm không đúng thì không có kết quả. Lời Phật nói không khi nào sai cả, chỉ tại mình hiểu chưa đúng, mà khi hiểu đúng thì cũng không hẳn đã làm đúng”.
“Cũng có nhiều người đến than thở với tôi là muốn giữ cái tâm lại, nhiếp tâm để chấp trì danh Phật mà làm hoài nó vẫn cứ chạy. Vì cái chạy đó nó quen lâu năm rồi. Không phải lâu năm trong đời này, mà nó đã lâu năm trong nhiều đời trước nữa. Cho nên, mình phải cột, phải nắm lại, rồi lần lần ‘cột nắm’ cũng dần quen. Khi đứng lại thì nó cũng quen đứng luôn. Vậy nên, phải thật chịu khó để đạt nhất tâm bất loạn, tức niệm Phật tam muội. Trong Quán kinh nói, lúc Phật Di Đà hiện tiền thì các Phật khác cũng hiện tiền. Hiện tiền là hiện ra trước mắt chứ không phải chiêm bao”.
Hòa thượng nói thêm: “Khi dịch các kinh điển Đại thừa khác, tôi thấy trong các kinh đó đều có nói đến cảnh giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. Như trong kinh Hoa Nghiêm, ngay cả các vị Đại Bồ tát nhập Bất khả tư nghì Giải thoát cảnh giới, khi các vị ngồi kề bên Phật còn khuyên với nhau xả bỏ thân này để về Cực Lạc, bởi duyên Cực Lạc khó có nước nào bằng. Vậy nên, chúng ta hãy chuyên tâm niệm Phật”.
CHÚC PHÚ - Q.KIẾN ghi
Theo giacngo.vn

Công Đức Niệm Phật

Đại sư Liên Trì nói:
- Chuyên trì danh hiệu Phật A-di-đà, thù thắng hơn trì chú vãng sinh, cũng hay hơn trì những chú khác, cũng vượt hơn tất cả các công đức khác.
- Thù thắng hơn trì chú vãng sinh là: Trì chú 30 nghìn biến mới thấy được Đức Phật A-di-đà, còn trì danh hiệu Phật thì một ngày một đêm liền thấy Phật.
Bài chú Vãng sinh ghi: Ngày đêm sáu thời, mỗi thời tụng chú 37 biến, có thể diệt được tội ngũ nghịch[36]; trì danh hiệu Phật thì chí tâm niệm một tiếng Phật liền diệt được 80 ức kiếp tội nặng trong sinh tử.
- Thù thắng hơn các chú khác nghĩa là: Chuyên trì danh hiệu, tức là đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú. Nhờ 10 niệm được vãng sinh, vãng sinh tức không còn thoái chuyển, oai linh chẳng lường được, đó là đại thần chú.
- Nhất tâm không loạn, đoạn vô minh, thấy tự tính, là đại minh chú.
- Chứng Vô sinh nhẫn, trở lại Ta bà, độ hết chúng sinh, là vô đẳng đẳng chú.
- Niệm Phật thù thắng hơn công đức khác, nghĩa là: Lục độ vạn hạnh, vô lượng pháp môn, chuyên trì danh hiệu, gồm thâu hết thảy, vì các pháp không ngoài một tâm.
Nguyện cho đệ tử Tịnh Độ, chuyên giữ Tín Nguyện, luôn được nhất tâm.
Bậc Cổ đức, nhiều vị chuyên tu pháp môn khác, thường chuyển sang tu niệm Phật. Huống gì người chuyên tu niệm Phật, lẽ nào thay đổi những điều mình đã gìn giữ mà bỏ theo pháp môn khác ư!
Nam mô A-di-đà Phật!

Yếu quyết niệm Phật là thu nhiếp cả sáu căn.

Đại sư Ấn Quang khai thị: “Thu nhiếp sáu căn là bí quyết của niệm Phật”. Khi niệm Phật cần phải nhiếp tai lắng nghe, từng chữ từng câu rõ ràng, chớ để đi qua phí uổng. Danh hiệu Phật từ tâm sinh, tiếng từ miệng ra, lại vào từ lỗ tai, tiếp nối nhau không gián đoạn. Vừa khởi vọng niệm, liền thu tâm về niệm Phật, nhiếp tai lắng nghe, không cho vọng niệm tiếp nối. Như thế, tất cả tạp niệm dần dần tiêu diệt, công phu tự nhiên thành tựu.
Pháp sư Tịnh Không nêu rõ: Vọng niệm quá nhiều thật phiền não, xưa nay rất khó mà ổn định được một niệm. Căn bệnh lớn của chúng ta là tâm không ổn định, tâm luôn tán loạn, loạn tưởng hồ đồ không thể an định, hễ tưởng bệnh liền thành bệnh, tưởng già liền biến thành già. Mục đích của niệm Phật chính là phải nhiếp phục được những vọng tưởng phiền não này.
Pháp sư còn nhiều lần khuyến khích các bạn đồng tu: Công đức của danh hiệu Phật không thể nghĩ bàn. Trong tám mươi bốn nghìn pháp môn tu thì pháp môn niệm Phật thích hợp nhất với căn cơ chúng sinh thời mạt pháp. Pháp môn niệm Phật còn xem “Trì danh hiệu Phật” là thù thắng nhất. Chúng ta cần phải vận dụng tâm “chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chính giác, từ bi” để niệm Phật thì một câu danh hiệu Phật này mới có thể tương ưng, mới có thể được uy thần bản nguyện của Đức Phật A-di-đà gia hộ, mới là niệm chân thành đúng đắn!
Lại nói: Biết rõ là hiểu lý, là học vấn, buông bỏ mới là công phu chân thật; chỉ cần thật sự chịu buông bỏ; vứt bỏ vọng niệm, chính niệm tự nhiên có mặt. Điều đó Cổ đức gọi là: “Chỉ cầu trừ vọng, cần gì tìm chân”. Nên biết, niệm Phật tức là dùng một chính niệm dừng vô số vọng niệm, dùng một niệm thanh tịnh công phu thay đổi vô số vọng niệm. Nếu thật sự có thể thực hành được niệm chân thành, trong tất cả thời khắc danh hiệu Phật A-di-đà thường ở trong tâm thì tự nhiên quên đi cái Ngã. Vì quên Ngã nên khắp nơi đều được không ngăn ngại. Vì Đức Phật A-di-đà thường ở trong tâm, nên công phu thành tựu, đạt đến sự trong sáng tự tại.
Trong Tâm Thanh Lục của cư sĩ Hoàng Niệm Tổ cũng đã nêu rõ: “Chí tâm xưng niệm một câu Thánh hiệu A-di-đà này giống như luyện quặng sắt thành vàng; nghĩa là phải đào thải hết tất cả những tạp chất vốn có, loại bỏ sạch toàn bộ tất cả vọng tưởng phiền não. Nếu có thể như thế thì vàng đã luyện thành, không còn là quặng nữa”.

Người phụ nữ ở gia đình làm cách nào để tu Bồ-tát đạo trong đời sống hằng ngày

Hằng ngày làm công việc giống như nhau, nhất định sẽ cảm thấy rất chán, nhất là người phụ nữ chính trong gia đình, dường như mãi mãi không có một ngày rảnh rỗi, vì thế rất nhiều người đều cảm thấy khổ sở. Nếu như có thể thay đổi quan niệm sống thì sẽ thấy rất an vui. Trong quan niệm bình thường, mọi người luôn chấp có “ngã”. Có cái ta đang làm, ta rất khổ nhọc, vì sao ta phải làm thay cho họ? Càng nghĩ thì phiền não càng nhiều. Nếu người muốn học Bồ-tát đạo, phát đại thệ nguyện, phổ độ chúng sinh thì cách nghĩ, cách nhìn của họ sẽ không như thế.
Tu hành Bồ-tát đạo, thứ nhất phải Bố thí Ba-la-mật. Nữ tu Bồ-tát là một người nội trợ phục vụ trong gia đình, chính là tu Bố thí Ba-la-mật.
Bố thí có ba loại: Tài thí, pháp thí, vô úy thí.
Tài thí có nội tài và ngoại tài. Ngoại tài chỉ cho tiền bạc ở bên ngoài, cung cấp cho sinh hoạt của mọi người. Nội tài là dùng thể lực trí huệ của mình phục vụ cho mọi người. Người phụ nữ nội trợ trong gia đình có thể ngay trong công việc nhà mà hoàn thành trọn vẹn sáu Ba-la-mật. Bạn sẽ sắp xếp việc nhà gọn gàng ngăn nắp, sạch sẽ, khiến cho cuộc sống của mọi người thoải mái, làm cho láng giềng hâm mộ, đây là Trì giới Ba-la-mật. Trì giới chính là giữ phép tắc. Bạn có thể làm việc với tâm nhẫn nại, không mệt mỏi, không chán nản, tức là Nhẫn nhục Ba-la-mật. Mỗi ngày còn phải đổi mới, hy vọng ngày mai làm việc tốt hơn ngày hôm nay, chính là Tinh tấn Ba-la-mật. Dù cho, hằng ngày làm rất nhiều công việc nhà nhưng cõi lòng vẫn thanh tịnh, mảy trần không nhiễm, tức là Thiền định Ba-la-mật. Trong tâm thanh tịnh thường sinh trí huệ, pháp hỷ sung mãn, đó là Bát-nhã Ba-la-mật. Thế là đã rõ: Hóa ra sáu Ba-la-mật của Bồ-tát chính là thành tựu viên mãn ở những việc lau ghế, quét nhà, giặt áo, nấu cơm.
Đây chính là học hạnh Bồ-tát, tu đạo Bồ-tát đã được Thiện Tài đồng tử biểu đạt trong kinh Hoa Nghiêm.
Bạn làm tốt việc nhà, tức là làm tấm gương cho tất cả những người phụ nữ nội trợ trên thế gian, làm tấm gương cho tất cả những gia đình. Điều này có thể độ láng giềng, mở rộng hơn thì có thể ảnh hưởng đến xã hội, quốc gia và thế giới, cho đến tận cùng hư không, khắp cả pháp giới. Như thế mới biết nữ nội trợ Bồ-tát ở trong nhà làm các việc: quét nhà, lau bàn, nấu cơm, giặt áo chính là thực hành đại nguyện, đại hạnh độ tất cả chúng sinh trong tận cùng hư không, khắp cả pháp giới. Đây là học Phật, là chính niệm, là thật tướng của các pháp, nếu có thể quán sát như thế thì pháp hỷ sung mãn, làm sao còn có thể phát khởi lên phiền não? Dùng cách làm việc này áp dụng ở công ty, cũng là tu sáu Ba-la-mật.
Tu học Phật pháp nhất định phải thực hành ngay trong đời sống, nếu không thực hành ngay trong đời sống thì không có chỗ hữu dụng. Nếu có thể hiểu rõ điểm này ngay trong mỗi ngành nghề, Bồ-tát thị hiện các loại thân hình nam, nữ, già, trẻ không giống nhau. Tu học tức là ngay ở bổn phận trong cuộc sống, bình đẳng không có hai, tất cả đều là thứ nhất, không có thứ hai. Nếu sống được như thế thì có thể viên mãn, khắp nơi đều tự tại.