Tuesday, January 11, 2011

Lời Cảnh Giác Và Khích Lệ Của Thiền Sư Quy Sơn (thơ của HT Thích Nhất Hạnh)

Thân huyễn, nhà mộng,
hư hao bóng sắc
quá khứ không cùng
tương lai không chắc
hiện đây ẩn kia
ra vào cực nhọc
chưa khỏi ba vòng
chừng nào chấm dứt?
Tham luyến thế gian
ấm, duyên là chất
từ sinh tới chết
có gì nắm bắt?
Chỉ vì vô minh
nên bị mê hoặc
hãy quý tháng ngày
vô thường bất trắc
đời này luống qua
đời sau bế tắc
từ mê sang mê
cũng vì sáu giặc
qua lại sáu đường
ba cõi lăn lóc.
Sớm tìm minh sư
gần bậc cao đức
quán chiếu thân tâm
diệt trừ gai góc
Thế gian hư huyễn
trần lao áp bức
quán chiếu các pháp
vượt lên cho được
tâm cảnh đều quên
chẳng còn thao thức
Sáu căn an nhiên
nằm ngồi tĩnh mặc
tâm đã không sinh
muôn pháp đều dứt!

Nhận diện các tâm hành( HT Thích Nhất Hạnh giảng )

Cảm thọ chỉ là một trong số 51 loại tâm hành, tức là những hiện tượng tâm lý (mental formations). Tâm hành (citta samskara) có khi được gọi là tâm sở. Giận là một tâm hành, lo là một tâm hành, buồn là một tâm hành, thương, ghét và chán nản là những tâm hành. Tất cả những tâm hành ấy đều có hạt giống và có gốc rễ trong chiều sâu tâm thức ta. Những tâm hành nhẹ nhàng có tác dụng giải phóng, chuyển hóa và đưa chúng ta lên cao là những tâm sở thiện. Có những tâm hành có tác dụng gây đổ vỡ, gọi là tâm sở bất thiện. Có những tâm hành có tính cách phổ biến, gọi là tâm sở biến hành và những tâm hành phát hiện trong những trường hợp riêng lẻ, gọi là tâm sở biệt cảnh. Lại có những tâm hành bất định, có khi thiện, có khi bất thiện, gọi là tâm sở bất định. Ví dụ như tâm hành miên (buồn ngủ) có khi là tốt, có khi không tốt. Tâm hành hối cũng có khi tốt và có khi không tốt. Nếu chúng ta đã làm một hành động gây đổ vỡ, buồn đau cho người khác mà chúng ta biết hối hận thì tâm hành hối là một tâm hành thiện. Ta tự dặn lòng từ rày về sau sẽ không nói và không làm như vậy nữa. Nhưng nếu niềm hối hận đó biến thành một Đm ảnh, gây ra mặc cảm tội lỗi, khiến cho ta tê liệt không tiến thêm được nữa trên đường đạo nghiệp, thì tâm hành đó trở nên bất thiện. Hối trong trường hợp này được coi là một tâm hành bất định.
Một tâm hành bất định khác tên là tầm. Tầm có nghĩa là tư duy. Khi tư duy có thể giúp mình thấy được rõ ràng hơn thì tâm hành tầm là một tâm hành thiện. Nhưng nếu đầu ta cứ miên man nghĩ hết chuyện này sang chuyện khác, ta cứ tự để phiêu lưu trong thế giới tư tưởng suông, không thiền tập, không thiền hành được thì tầm trở thành một tâm hành bất thiện. Từ cũng vậy. Từ là so sánh, quyết trạch, tư lượng. Từ có khi có ích lợi, có khi lại là chướng ngại. Từ nhị thiền trở đi các tâm hành ‘‘tầm’’ và ‘‘từ’’ có thể làm cho ta không đi sâu được vào thiền quán. Vì thiền quán là tiếp xúc sâu sắc để chuyển hóa, để nhìn rõ, mà tư duy có thể kéo những sợi tơ dài làm cho đầu ta trở thành một cuộn chỉ rối. Lúc đó tầm và từ là một tâm sở bất thiện.
Có nhiều tâm sở thiện nằm trong chiều sâu tâm thức ta và có thể đã do các thế hệ cha ông và thầy tổ trao truyền lại. Ví dụ như tâm hành bất hại (ahimsa, non-harming). Không muốn gây ra một đổ vỡ và hư hại nào trong sự sống, dù một cành cây nhỏ cũng không muốn làm gẫy, đó là bất hại. Bất hại là từ bi. Một tâm hành khác là tàm. Tàm tức là hổ thẹn, mắc cở, biết hổ, biết thẹn nhờ có chánh kiến. Thấy mình không đáp ứng được sự trông đợi của thầy, của tổ, của cha mẹ, anh em và bằng hữu thì trong lòng hổ thẹn, đó là tàm. Ví dụ khác là tâm hành vô sân. Vô sân tức là sự vắng mặt của giận hờn. Ai nói gì cũng cười hề hề không giận, đó là tâm hành vô sân, đó là sự hoan hỉ nguyên chất. Người học tâm lý học Phật giáo thuộc lòng những tâm hành thiện: tín, tàm, quý, vô tham, vô sân, vô si, cần, khinh an, bất phóng dật, hành xả, bất hại.
Có những tâm hành được gọi là bất thiện, chúng làm cho tâm ta rối lên, mê mờ, đen tối đi, và trói buộc ta lại. Tâm hành bất thiện cũng gọi là phiền não, có khi gọi là hoặc, chữ Phạn là klesa. Hoặc là những phiền não, những mê mờ. Mê hoặc là đưa ta đi lầm đường lạc lối. Thơ Vũ Hoàng Chương có câu trông ra bến hoặc bờ mê.
Hoặc có khi gọi là lậu (astrava). Lđau là ngược đầu trở lại, là đi vòng trở lại, là quanh quẩn. Lđau có nghĩa là nứt rạn, như nước ở trong bình nứt rỉ ra gọi là lậu. Những tâm hành có tác dụng đi xuống, làm cho mình sa xuống thấp, và quanh quẩn trong buồn giận, sầu đau, v.v.. đều gọi là lậu. Khi được chuyển hóa rồi tình trạng được gọi là vô lậu. Vô lậu là không còn nứt rạn nữa.
Có những phiền não căn bản, và có những phiền não thứ yếu. Những phiền não căn bản là tham, sân, si, mạn, nghi, kiến. Những phiền não nhẹ hơn như vô tàm, vô quý, trạo cử, hôn trầm, thất niệm, phóng dật, bất chánh tri. Ngoài các tâm hành thiện và bất thiện, chúng ta phải biết tên năm tâm hành phổ quát gồm có tác ý, xúc, thọ, tưởng và tư. Những tâm hành đặc biệt là dục, thắng giải, niệm, định và tuệ. Các vị đã học Duy Biểu Học, xưa gọi là Duy Thức, thì đã biết được tên gọi cũng như là bản chất của từng tâm hành đó.
Vậy thì trong lĩnh vực tâm thức, có 51 loại hiện tượng tâm lý có thể phát hiện trong ta. Mỗi khi một tâm hành phát hiện, ta phải dùng ánh sáng chánh niệm để nhận diện nó. Trước hết là sự nhận diện đơn thuần. Buồn thì biết mình đang buồn. Chỉ cần tự biết là mình đang buồn, dùng ánh sáng ý thức để soi rõ và nhận diện nỗi buồn.
Hôm nay trời nhẹ lên cao,
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn.
Ban đầu thì tôi không hiểu vì sao tôi buồn. Nhưng nếu là thực tập chánh niệm và phát khởi được niệm, định và tuệ, thì ta sẽ biết tại sao ta buồn. Rồi chỉ cần mỉm một nụ cười thì nỗi buồn đó sẽ tan. Quán chiếu tâm hành bắt đầu bằng việc nhận diện đơn thuần, nhận biết sự có mặt của tâm hành. Nhận diện tâm hành trên ý thức không phải dễ. Nỗi buồn có thể lôi kéo ta từ bên này sang bên kia, từ suy tư này tới hoài niệm khác. Tâm hành buồn lại kéo những tâm hành khác tới, như các diễn viên qua lại trên một sân khấu vắng người. Người tu tập phải có mặt để nhận diện những tâm hành nào đang xuất hiện, đừng bao giờ để sân khấu tâm ý bị bỏ trống vô chủ. Cho nên học đi, đứng, nằm, ngồi trong chánh niệm để biết cái gì đang xảy ra là một thực tập cần thiết. Phương pháp đơn giản là mỗi khi buồn, ta dùng hơi thở, dùng bước chân, v.v.. để phát khởi chánh niệm và nhận diện sự có mặt của tâm trạng buồn. ‘‘Tôi đang buồn và tôi biết rằng tôi đang buồn’’. Tình trạng có thể đổi khác lập tức. Thay vì để cho tâm hành buồn độc diễn, ta đưa vào thêm một tâm hành khác, gọi là niệm. Tâm hành niệm là một trong năm loại tâm hành biệt cảnh. (biệt cảnh là particular, còn biến hành là universal. ) Đối tượng của chánh niệm bây giờ là nỗi buồn: ‘‘Tôi đang thở vào và tôi biết rằng tôi đang buồn, tôi đang thở ra và tôi mỉm cười với nỗi buồn của tôi’’. Buồn ơi chào mi !
Tu tập là như vậy. Thay vì tìm cách đàn áp và triệt tiêu cái buồn, ta phát khởi nhận thức về sự có mặt của cái buồn. Chánh niệm là một vùng năng lượng bao bọc lấy nỗi buồn và rọi ánh sáng vào đó. Nhà có chủ, chùa không phải là chùa Bà Đanh. Biết chăm sóc các tâm hành ta sẽ chuyển hóa được những tâm hành bất thiện và nuôi dưỡng được những tâm hành thiện.
Ý thức là sân khấu, trên đó những tâm hành được phát khởi. Phần dưới của tâm, cái phần vô thức, tiềm thức, chúng ta gọi là tâm địa, đạo Bụt gọi là tàng thức. Tàng có nghĩa là cất giữ. Mọi tâm hành đều ở sẵn trong tàng thức với tính cách những hạt giống, gọi là chủng tử (bija). Cái buồn, trước khi phát hiện, đã nằm sẵn trong tàng thức rồi. Nghe đọc một câu thơ: ‘‘trời nổi gió heo may’’ chẳng hạn, thì tự nhiên cái hạt giống buồn được tưới tẩm, và tâm hành buồn phát hiện.
Tâm địa tức là đất tâm có chức năng gìn giữ tất cả những hạt giống. Có những hạt giống hạnh phúc bị chôn vùi từ lâu trong đất. Một buổi sáng hạt giống của niềm vui nẩy mầm. Sự phát hiện của niềm vui này do công trình thực tập, tưới tẩm của chính ta, của tăng thân, bây giờ mới gặp hoàn cảnh thuận lợi. Mưa xuân nhẹ hạt đất tâm ướt, hạt đậu năm xưa hé miệng cười.
Quán niệm tâm hành trước hết là ý thức, nhận diện, và săn sóc tâm hành đó. Chánh niệm cho chúng ta thấy được sự có mặt của tâm hành không những trên sân khấu của ý thức, mà cả sau hậu trường của tàng thức nữa. Tàng thức là phần thâm sâu của ý thức, nói nó là một cũng được, là hai cũng được. Khi nhìn một em bé nói, cười, đi, đứng hoặc nhảy nhót, ta nhìn vào phần hiện tượng. Quán sát kỹ cách em nói, cười, đi và nhảy, ta đi sâu được vào những cội nguồn và gốc rễ, và thấy được những hạt giống mà ban đầu ta chưa thấy. Ta thấy được xã hội em bé đó sống, thấy được cha mẹ, ông bà, chủng tộc của em bé. Nhìn vào hoa trái ta thấy được gốc rễ.
Nghe một bà mẹ hát câu ru con, ban đầu ta chỉ cảm thấy man mác buồn thôi, nhưng khi tiếp xúc được với chiều sâu của tiếng ru rầu rầu đó, ta có thể thấy, trong âm hưởng của nó, những thế kỷ giặc giã, hàng ngàn năm sống trong áp bức, nô lệ và đói khổ. Ta thử nghe hai câu của Hoàng Cầm:
Tiếng bà ru cháu buổi trưa,
chan chan nắng hạ võng đưa rầu rầu.
Chánh niệm, thiền quán cho chúng ta thấy và tiếp xúc được với chiều sâu của các tâm hành. Một nỗi buồn vô cớ, nhẹ nhàng, có thể là dấu hiệu của một nỗi sầu vạn cổ đã được nhiều thế hệ tổ tiên trao truyền lại.
Quán chiếu về tưởng để vượt thoát mê lầm
Tưởng là một tâm hành rất quan trọng, đã được tách riêng ra một yếu tố của năm uẩn. Chúng ta hãy nhớ lại năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Sắc là hình hài ta. Thọ gồm những cảm thọ dễ chịu, khó chịu và trung tính. Tưởng là tri giác. Thọ là một tâm hành, tưởng là một tâm hành khác. Hành ở đây là tất cả 49 tâm hành còn lại, còn thức là phần tàng thức, là tâm địa, chỗ chôn giữ hạt giống của tất cả 51 loại tâm hành.
Tưởng là một tâm hành, cũng có hạt giống ở sâu trong tàng thức. Nghe tiếng bà ru cháu, mười người nghe có mười cái tưởng khác nhau. Người nghe có thể từ thành phố lại, từ thôn quê tới, hoặc từ ngoại quốc về thăm. Nếu dùng máy thâu âm, ta có thể xác định được tính cách khách quan của âm điệu những câu hát ru. Nhưng những người cùng nghe câu hát ru đó có thể có những nhận thức khác nhau. Có người từng nghiên cứu về nhạc dân tộc ở Phi châu, từng nghe những tiếng ru của các bà mẹ Phi châu, bây giờ trong cái tưởng của họ có sự so sánh những điệu hát ru. Chúng ta chỉ nghe với kinh nghiệm của một người đã từng được mẹ ru. Hoặc ta đã từng nghe tiếng ru em của một bà mẹ miền Nam, và bây giờ đây ta đang nghe tiếng ru miền Bắc hay miền Trung. Vậy cái tưởng, cái tri giác của ta về tiếng ru đó, có tính cách chủ quan. Còn nếu đang nghe lời hát ru mà lòng còn mải lo lắng thì nghe tiếng ru đó, ta không để ý tới, ta không thấy thấm thía, ta chỉ thấy những âm thanh thoảng qua.
Tri giác của ta có thể chứa đựng nhiều sai lầm. Hành động, lời nói và tâm trạng, tất cả đều căn cứ trên tưởng. Tri giác mang nhiều tính chủ quan, trong đó có những chất liệu phiền não như thèm muốn, giận dữ, si mê và tà kiến. Căn cứ trên tri giác ấy, ta buồn, vui, khổ đau hoặc hạnh phúc. Cho nên quán chiếu về tưởng rất quan trọng.
Nếu chúng ta có một ý niệm về hạnh phúc, thì ý niệm hạnh phúc cũng là một cái tưởng. Trong đầu ta và cả trong tiềm thức của ta, có một ý niệm là hạnh phúc chỉ có thể có khi ta đạt được cái này hay cái kia. Trong hầu hết các trường hợp, quan niệm có sẵn của ta về hạnh phúc chướng ngại đầu cho chính hạnh phúc. Có một anh chàng tin chắc nếu không cưới được cô gái ấy thì đời anh không còn đáng sống nữa. Anh tin chắc đến nỗi không ai có quyền nói khác. Mấy năm sau anh có thể sẽ tìm ra sự thật là người đàn bà kia chỉ có thể làm cho anh đau khổ không ngừng trong quá trình yêu thương.
Khi vướng vào một quan niệm về hạnh phúc rồi, ta có thể khổ đau vì quan niệm đó. Nếu không chiếm được cái này, không thực hiện được cái kia, thì đời ta không có nghĩa gì nữa! Trong khi có cả hàng ngàn hoặc hàng vạn điều kiện của hạnh phúc ở ngay đây mà ta không tiếp xúc được, mà ta tiếp tục dẫm đạp lên. Thành ra cái ý niệm về hạnh phúc, cái tưởng về hạnh phúc của ta, là chướng ngại chặn đường hạnh phúc của ta.
Tri giác trước hết là tri giác sai lầm, là vọng tưởng. Trong Phật học, kiến hoặc tà kiến là tiếng dùng để chỉ cho tri giác sai lầm. Vì vậy tưởng thường được đồng nhất với vọng tưởng, cũng như kiến thường được đồng nhất với tà kiến. Khi nhìn thấu được bản chất của tri giác rồi, ta thoát khỏi tri giác, bấy giờ nhận thức ta được gọi là trí, cái thấy đạt đạo. Trạng thái đó không gọi là tưởng - cũng không phải là phi tưởng. Chánh niệm soi chiếu để ta nhận diện được cái tưởng của ta. Tiếp tục quán chiếu các tâm hành, đến một ngày đó ta sẽ thấy được gốc rễ sâu xa của các tâm hành. Và quá trình tu tập để nhận diện và quán chiếu là đi thiền, ngồi thiền, ăn cơm im lặng; là công phu, là mỗi bước chân, mỗi hơi thở, từng giây phút đều được sống trong chánh niệm, trong tỉnh thức. Và điều đó chính ta phải tự mình làm lấy, người khác không ai làm hộ cho ta được.
Chúng ta hãy tưởng tượng hai người hàng ngày sống bên nhau, mỗi người có tri giác (tưởng), những nỗi vui và buồn riêng của mình. Nằm sâu trong tàng thức mỗi người là những hạt giống nhận thức về hạnh phúc và về khổ đau. Tiếp xúc với hoàn cảnh và với người kia tạo thành những cái tưởng, và căn cứ trên những cái tưởng ấy mỗi người đoán định và hành xử đối với người kia. Người kia cũng có những vui, buồn, và những nhận thức riêng đưa tới những cái tưởng có thể là rất khác và những cái tưởng ấy của hai người có thể chống đối nhau. Những đau khổ của chúng ta trong đời sống chung thường được phát sinh ra từ những cái tưởng của ta, từ những hình ảnh và ý niệm mà mỗi người có về chính mình và về người kia, trong đó có đầy dẫy sai lầm.
Công phu tu học bắt đầu bằng việc quán chiếu cái tưởng của mình. Cũng như phải buông bỏ quan niệm sẵn có của mình về hạnh phúc mới có thể đạt được hạnh phúc chân thật. Sự thật là chúng ta có thể đang có đủ mọi điều kiện để sống hạnh phúc. Nhưng chính vì cái tưởng cho rằng muốn có hạnh phúc thì phải được thế này, được thế kia, cho nên ta bị kẹt và không có hạnh phúc. Tất cả nỗ lực tu học của chúng ta đều nhắm tới phá tan cái tưởng đó. Đối tượng của sự tu học là phá vọng tưởng, vọng tưởng về sanh và diệt, về có và không, về đến và đi, về nhiều và một; đó là những vọng tưởng căn bản. Phải dùng nguồn năng lượng chánh niệm của ta trong đời sống tu tập hàng ngày để phá vỡ những cái tưởng ấy. Đó là giải thoát. Đi thiền, ngồi thiền, ăn cơm im lặng, học kinh, thực tập hơi thở đều để làm chuyện đó. Tri giác về mình đầy dẫy sai lầm và tri giác về người đầy dẫy sai lầm. Nếu những tri giác đó vẫn còn nguyên vẹn không thay đổi gì, thì đó có nghĩa là ta chưa thực tập quán chiếu về tưởng.

Quán chiếu cảm thọ

Hôm nay là ngày mùng 9 tháng giêng năm 1994, chúng ta ở tại Xóm Hạ và học tiếp về chánh niệm. Chúng ta đang chiêm nghiệm về Kinh Quán Niệm Hơi Thở và Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm, tức là thân, thọ, tâm, và pháp.
Lĩnh vực quán chiếu thứ hai cảm thọ. Chúng ta phải tập quán chiếu cảm thọ trong những lúc bình thường, khi cường độ cảm thọ chưa mạnh quá. Có như vậy, lúc gặp cảm xúc mạnh, ta mới có khả năng quán chiếu thành công. Nếu không, khi những cảm thọ có cường độ mạnh nổi lên, ta sẽ không đủ sức và có thể bị tràn ngập, áp đảo và tê liệt.
Quán chiếu cảm thọ phải biết dùng hơi thở. Quán niệm bằng hơi thở phải trở thành một thói quen. Muốn thuần thục, ta phải thực tập ngày này sang ngày khác, tháng này sang tháng khác. Cho nên không thể đợi khi có một cảm xúc mạnh ta mới bắt đầu sử dụng phép quán niệm. Nhờ thực tập, phép quán niệm hơi thở trở thành một vốn liếng có sẵn, nhờ kinh nghiệm tu tập mà thành.
Biết áp dụng hơi thở chánh niệm chưa đủ. Ngoài ra ta còn phải biết cách quán niệm tư thế của thân thể. Trong đời sống hàng ngày, ta luyện cách đi, cách đứng, cách nằm, cách ngồi. Thân thể là một đối tượng để quán chiếu, nhờ đó ta có thể chăm sóc và điều phục được các cảm thọ. Hơn nữa, ngoài cơ thể mà ta gọi là nhục thân, ta còn có một thân khác cần phải chăm sóc và quán chiếu, đó là tăng thân, nghĩa là đoàn thể tu học của ta. Đó cũng là thân ta.
Nhưng tăng thân không phải tự nhiên mà có, tăng thân là do chúng ta xây dựng nên. Trong đời sống hàng ngày, ta phải bồi dưỡng tăng thân ta. Mỗi lời nói, mỗi hành động ta, mỗi cái nhìn và mỗi nụ cười của ta đều có thể được sử dụng để xây dựng tăng thân. Xây dựng tăng thân tức là xây dựng bản thân. Người nào cũng có những lúc gặp khó khăn. Tăng thân là một cái lưới cứu ta khỏi chết đuối trong những lúc khó khăn nhất. Cho nên ‘‘Con về nương tựa Tăng’’ là một phép thực tập quan trọng. Không cần đó là một thánh Tăng; tăng thân ta nếu chỉ là phàm Tăng thì cũng đủ quý giá rồi. Nhờ có sự thực tập chánh niệm, nên Bụt và Pháp có mặt trong Tăng, để Tăng có thể được xứng đáng gọi là Tăng bảo.
Quán chiếu hơi thở, quán chiếu thân thể, sử dụng những phương pháp như đi thiền, ngồi thiền, nằm thiền (total relaxation), tất cả đều có tác dụng đối trị các cảm thọ mạnh. Và nhất là phải biết sống với tăng thân. Nếu ta sống trong tăng thân mà không hòa hợp được, nếu ta hành xử như một giọt dầu trong một bát nước, thì tăng thân không có nghĩa gì. Do đó Kinh và Luật luôn luôn nói tới hình ảnh tăng thân như nước với sơưa hòa hợp. Nước với sơưa chứ không phải là nước với dầu. Hòa hợp tăng có nghĩa là một tăng thân đích thực mà bản chất là sự hòa hợp.
http://www.thuvien-thichnhathanh.org/index.php/sach/76-trai-tim-ca-bt/430-ttcb-14-quan-chiu-cm-th

Trước Phá Ngã Chấp - Sau Phá Pháp Chấp(HT Tuyên Hoá giảng )

Sao gọi là ngã chấp? Tức là chấp cái “Tôi” đó. Như nói: đây là thân thể “của tôi,” kia là vật sở hữu “của tôi” đấy. Nói tóm lại, tất cả cũng đều vì cái ngã, mà chúng ta phô bày cái tôi ra phía trước. Bởi vì có tôi, không có người, không hết “ba tâm” quá khứ, hiện tại và vị lai và chưa không “bốn tướng” ngã, nhân, chúng sanh và thọ giả.
Làm sao để biết chúng ta đã phá được “ngã chấp” hay chưa? Tức là phải xem xét mỗi ngày, từ lúc chúng ta thức dậy, ăn uống, cũng như các sinh hoạt thường ngày, đi đứng nằm ngồi thì sẽ biết. Trong tất cả mọi thứ cử động đó, có phải chúng ta nghĩ đến mình hay là nghĩ đến người khác? Hoặc chúng ta nghĩ đến đạo tràng? Nếu quả là chỉ nghĩ cho chính mình, lo cho mình, thì đó là người có tư tưởng Tiểu thừa - lợi cho mình mà không lợi cho người. Phật đã từng nói rằng, có loại tư tưởng như thế là “mầm khô giống héo.” Tại sao vậy? Bởi người có tư tưởng như thế thì lòng dạ rất nhỏ hẹp, ngã chấp quá nặng nề. Họ chỉ nghĩ, miễn sao cái của mình tốt là được, chứ chẳng màng gì đến cái xấu tốt của kẻ khác.
Cho nên nói: “Ma Ha Tát chẳng màng đến người, Di Đà Phật tự ai nấy lo.” Đó là tông chỉ của kẻ Tiểu thừa. Và họ xem tam giới như nhà lửa, sanh tử như oan gia nên tự lo cho mình thoát sanh tử, chứ không hề quan tâm đến sự sanh tử của chúng sanh.
Nếu chúng ta lo nghĩ đến người khác, vậy là tư tưởng lợi ích cho kẻ khác. Tự mình muốn được giải thoát và cũng muốn làm cho tất cả chúng sanh đều được giải thoát. Đó là tư tưởng của Bồ Tát. Nói theo cách khác, là quên mình mà làm lợi cho kẻ khác, tức là hành đạo Bồ Tát. Cho nên nói: “Phật quang phổ chiếu, Pháp vũ quân triêm.” Thực hành đạo Bồ Tát là nên dựa theo tinh thần “Vô duyên đại từ, đồng thể đại bi.”
Nếu chúng ta thật lòng nghĩ đến đạo tràng thì nên ủng hộ đạo tràng về mọi phương diện. Chúng ta không nên vì danh, vì lợi hay có bất kỳ một ý đồ nào. Như thế mới đúng thật là ủng hộ đạo tràng. Mỗi ngày chúng ta nên phản tỉnh, tự xem xét lại đi, thời gian mà mình tính toán cho chính mình nhiều hay tính toán cho người khác nhiều, hoặc lo tính cho đạo tràng nhiều. Qua sự hồi quang phản chiếu như thế, chúng ta sẽ biết là mình đã phá được ngã chấp hay chưa. Đây chỉ là một cách nói đơn giản. Nếu nói một cách sâu sắc hơn, tức là hỏi: Có phải ngày nào chúng ta cũng sợ mình bị thiệt thòi? Phải chăng ngày nào cũng lo sợ là mình không được lợi ích gì? Nếu có những ý nghĩ đó thì nên sửa đổi, nếu không thì ráng mà tránh.
Chúng ta cũng nên phản tỉnh và tự xét xem mình có công phu nhẫn nhục hay không. Ví như có người vô duyên, vô cớ mắng mình, hoặc đánh mình, vậy mình có nhẫn nhịn được không? Mình có nổi giận không? Trong lòng mình có ý báo thù không? Nếu có tức là chưa phá được ngã chấp. Nếu không tức là đã phá được ngã chấp rồi. Quý vị hãy nghĩ cho thật kỹ đi: Tất cả các vấn đề và phiền não là từ đâu đến? Thì cũng đều do ngã chấp tác quái đấy thôi. Nếu chúng ta không phá ngã chấp, vậy thì pháp chấp lại sẽ càng không phá nổi. Bậc Tiểu thừa phá được ngã chấp, nhưng chưa phá được pháp chấp. Chỉ có Bồ Tát mới có thể phá trừ cả hai ngã chấp và pháp chấp.
Sau khi phá được ngã chấp rồi, chúng ta phải phá pháp chấp. Sao gọi là pháp chấp? Tức là chúng ta không hiểu rõ pháp ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) do nhân duyên sanh, thành thử chúng ta chấp đó là thật có. Nếu dứt được hết các pháp chấp, tức chúng ta sẽ được viên dung vô ngại và đến cảnh giới nào cũng được tự tại. Khi cả hai ngã chấp và pháp chấp không còn nữa, như thế mới thật là người tu hành chân chánh. Người tu hành chân chánh, bất luận lúc nào, hoàn cảnh nào, tuyệt đối cũng không tính toán cho chính mình. Ngược lại, bao giờ cũng xả mình vì người và hăng hái làm việc nghĩa. Những hành vi của họ đều mang tính chất đại công vô tư, chánh trực và không thiên lệch.
Phật thuyết Tam Tạng và Mười Hai Bộ kinh điển, không đâu là không dạy người phá chấp. Nhưng chúng ta vẫn không nghe theo lời Phật giáo huấn, mà lại muốn làm kẻ phản đồ trong Phật giáo, là vẫn cứ chấp vào cái “Ngã” của mình. Tướng ngã chưa không, tướng nhân chưa không, tướng chúng sanh cũng chưa không, tướng thọ giả lại càng chưa không luôn, mà cứ chấp chặt vào bốn tướng nầy, cho nên chúng ta không thể bỏ được. Đối với đạo lý của ba tâm, chúng ta không thể hiểu, cũng không biết được rõ ràng. Tâm quá khứ vốn không thể có được, tâm hiện tại không thể có được, tâm tương lai cũng không có được luôn. Vì sao? Bởi tâm “quá khứ” đã qua rồi, quý vị đi đâu tìm lại cái tâm ấy đây? Hiện tại vốn không bao giờ dừng, quý vị nói đây là “hiện tại” nhưng “hiện tại” nầy lại đã qua rồi. Hiện tại đã không tồn tại, cho nên nói tâm hiện tại không thể có được. Tâm vị lai cũng không có được, bởi “vị lai” tức là chưa đến, mà chưa đến thì nói đến nó làm gì?
Như Kinh Kim Cang nói:
“Vô ngã tướng, vô nhân tướng,
Vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng.”
Lại nói:
“Quá khứ tâm bất khả đắc,
Hiện tại tâm bất khả đắc,
Vị lai tâm bất khả đắc.”
Mấy câu kinh văn nầy, ai ai cũng đều đọc được, nhưng cũng không ai nhớ làm. Tôi hy vọng quý vị sẽ dựa vào mấy câu kinh trên mà dụng công. Một khi “bốn tướng” không còn, “ba tâm” dứt sạch, đó tức là người tu đạo chân chánh.
Giảng ngày 15 tháng hai năm 1984

http://www.chuavanphat.org/