Friday, April 8, 2011

Người biết dụng công thì niệm Phật hiệu theo cách nào?

Namo A Di Đà Phật __()__


Có một số đồng tu hỏi:

- Một mặt niệm Phật, một mặt vẫn khởi vọng tưởng, một mặt đọc kinh, một mặt vẫn là vọng tưởng, hỏi tôi làm cách nào đây?

- Công phu chưa đắc lực. Cũng có thể là do quý vị chẳng dụng công nên công phu chẳng khởi tác dụng.

- Người biết dụng công thì niệm Phật hiệu theo cách nào?



Tu học các pháp môn khác, nói trên phương diện lý luận thì chẳng lầm bởi pháp môn bình đẳng chẳng có cao, thấp; nhưng vì chúng sanh căn tánh bất đồng, phiền não tập khí sai khác, học những pháp môn khác, chưa chắc đoạn được phiền não.



Pháp môn Niệm Phật này chẳng cần phải đoạn phiền não, thật rất thuận tiện, chỉ cần một câu Phật hiệu, niệm cho đạt công phu, chế phục được phiền não, như vậy sẽ có thể vãng sanh.



Có một số đồng tu đến hỏi tôi: Một mặt niệm Phật, một mặt vẫn khởi vọng tưởng, một mặt đọc kinh, một mặt vẫn là vọng tưởng, hỏi tôi làm cách nào đây? Tôi nói:



- Quý vị học lâu chưa?



- Hai ba năm rồi, là do nguyên nhân nào?



- Công phu chưa đắc lực. Cũng có thể là do quý vị chẳng dụng công nên công phu chẳng khởi tác dụng.



Người biết dụng công thì niệm Phật hiệu theo cách nào?


Quý vị chẳng nhất định mỗi ngày phải niệm mấy vạn tiếng. Ý niệm vừa khởi lên bèn A Di Đà Phật. Cổ đức nói: “Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ biết chậm”.

Có phiền não tập khí, đương nhiên quý vị phải khởi niệm. Quý vị chẳng khởi niệm đâu còn là phàm phu nữa, mà là Bồ Tát rồi! Lục đạo phàm phu nhất định phải khởi ý niệm, bởi thế, chẳng sợ ý niệm khởi, chỉ sợ quý vị nhận biết quá chậm.



Trong pháp môn chúng ta, thế nào là giác?

A Di Đà Phật là giác.

Một niệm khởi lên, chẳng cần biết đó là thiện niệm hay ác niệm; ác niệm là vọng niệm, mà thiện niệm cũng là vọng niệm, vô niệm cũng chẳng được. Có niệm là vọng tưởng, vô niệm là vô minh, đều chẳng đúng cả!



Bởi thế một niệm khởi lên, A Di Đà Phật! Chuyển biến ý niệm ngay lập tức thì gọi là “biết niệm Phật”.



Quý vị chú ý điều này, dụng công ngay tại đó, ắt hai, ba năm vọng niệm tự nhiên giảm thiểu, có lúc công phu đắc lực.



---------



Đương nhiên, trong đây có một nguyên tắc rất trọng yếu, tức là như phần trên đã nói, phải phá mê, khai ngộ!



Ngộ điều gì?
Ngộ các thứ trong nhân gian đều là giả, chẳng phải thật.

Nếu quý vị thật sự giác ngộ minh bạch, ắt sẽ buông xuống.

Những lo buồn, vướng víu trong tâm đều buông xuống hết, điều này giúp cho công phu đắc lực rất nhiều.



Bởi thế, nhất định phải hiểu thân tâm, thế giới đều là chẳng thể được.



Kinh Kim Cang dạy như “mộng, huyễn, bọt nước, ảnh” chính là dạy quý vị thấy thấu suốt.


Đó là chân tướng của sự thật: “Chẳng có gì là thật hết!”


“Vạn pháp đều bỏ hết, chỉ mỗi nghiệp tùy thân”.

Lẽ nào đành vì vọng niệm, phiền não mà tạo tác ác nghiệp ư? Như thế là thật ngu si, thật chẳng đáng vậy.



Bởi thế, nhất định phải thấy thấu suốt, phải buông xuống, sẽ dùng được Phật hiệu đắc lực.



Có được công phu như thế là tốt, hai ba năm bèn vãng sanh là chuyện cầm chắc, thật sự muốn đi lúc nào sẽ đi lúc ấy là chuyện cầm chắc.



(Hòa Thượng Tịnh Không


Trích từ 'Lược giảng kinh Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo, phần 4'

Nguồn:

http://www.niemphat.net/Lu

an/phatkhoibotat/phatkhoib

otat4.htm)

Thursday, April 7, 2011

Hiệp ước sống chung

Sau đây là tám điều mà những ai muốn sống chung hạnh phúc nên hứa thực hiện với nhau:




1/ Truyền thông



Sống chung mà mạnh ai nấy sống, không ai nói chuyện với ai thì sớm muộn gì cũng tan rã. Mục đích của truyền thông là làm sao cho hai bên hiểu nhau. Muốn hiểu nhau thì phải biết nói và biết nghe. Nhưng nói là nói những gì ? Và nghe làm sao ? Nhiều người nói suốt ngày nhưng nói toàn những chuyện vô ích, chuyện trên trời dưới đất, chuyện thị phi, tốt xấu của người khác, còn chuyện quan trọng tình cảm thì không biết nói. Nghe thì suốt ngày nghe nhạc, coi ti vi, nghe tiếng ồn ào náo động chung quanh nhưng không biết lắng nghe người thương của mình bày tỏ tâm sự. Sống chung ta phải biết diễn tả ý kiến, ý nghĩ, tình cảm, nội kết của mình cho người kia hiểu và cũng biết lắng nghe phần của người kia.



Điều lầm lỗi mà chúng ta hay phạm phải là "suy bụng ta ra bụng người", cứ tưởng là mình hiểu biết người kia và đinh ninh người kia cũng phải biết ý ta muốn gì. Nhưng thật ra ta không bao giờ biết được bụng của người kia nghĩ gì hay muốn gì, và người kia cũng không thể biết được ta thực sự muốn gì vì mỗi người có một thế giới nội tâm riêng. Có rất nhiều điều mà ta không bao giờ nói hay tiết lộ cho người thương của mình biết vì ngại (sợ) không muốn hay không biết nói. Những điều "không nói thầm kín" lâu ngày trở thành một hố thẳm ngăn cách, gây ra dè dặt thiếu tin tưởng lẫn nhau.



Muốn tránh sự "suy bụng ta ra bụng người" ta phải tập để ý quan sát và nói thẳng chứ không nên vòng vo tam quốc hay nói bóng bói gió. Đa số những chuyện buồn giận đều do hiểu lầm không nói hoặc nói không rõ. Khi thương cũng như khi buồn giận đều cần nói ra không nên để bụng, khi nói thì tập nói ái ngữ và chánh ngữ.



2/Tương trợ



Biết những ưu điểm và khuyết điểm của nhau để bổ sung và giúp đỡ nhau. Khi mới yêu ai cũng phô trương cái hay cái đẹp của mình ra còn cái xấu dở thì dấu đi không muốn người kia biết. Sau một thời gian chung sống, những cái xấu kia mới lòi ra và lúc đó bất mãn buồn bực nhau. Nhân vô thập toàn, ai cũng có ưu điểm và khuyết điểm, điều quan trọng là biết chấp nhận và bổ túc cho nhau. Thí dụ chồng có sức khỏe làm việc nặng nhọc nhưng không có tài giao thiệp, còn vợ thì đảm đang khéo ăn khéo nói, mỗi khi cần giao thiệp với người ngoài thì vợ nên thay thế chồng. Bồng em thì khỏi nấu cơm, nấu cơm thì khỏi bồng em.



3/ Trung thành



Cam kết trung thành với nhau, không lừa dối, ngoại tình, v.v... Đây chính là giới thứ ba trong năm giới căn bản của người phật tử, giới không tà dâm.



4/ Thương yêu



Thế nào là thương yêu ? Chữ thương yêu ở ngoài đời thường có nghĩa là ái dục, ái luyến. Một người đàn ông thấy đàn bà đẹp thì sinh lòng yêu mến muốn chiếm hữu, một người đàn bà được người đàn ông o bế nuông chiều thì ưa thích không muốn rời. Phần đông đàn ông yêu vì sắc, đàn bà yêu vì lợi. Đây là thứ tình yêu ích kỷ, yêu người vì lợi cho mình.



Thương yêu thực sự là mong muốn người kia được an vui hạnh phúc, biết chấp nhận người kia như họ là. Tình thương thực sự phải giống như lòng mẹ thương con, dù con đẹp hay xấu, khôn hay dại, ngoan hay hư, người mẹ đều thương, chấp nhận và không bao giờ bỏ con. Đây là tình thương vô điều kiện (unconditional love).



5/ Tôn trọng



Tôn trọng tự do, không gian và nhân tính của người thương. Không nên kiểm soát điều khiển, biến người kia thành nô lệ của mình. Bạn có muốn được thương như một con chim nhốt trong lồng vàng hay tự do bay nhảy ngoài trời ?



6/ Biết hỏi và chấp nhận



Mỗi khi cần gì thì phải biết bày tỏ như hỏi, xin, yêu cầu và cùng lúc phải biết tôn trọng, chấp chận sự trả lời của người kia. Thí dụ chồng muốn đi xi nê nhưng không biết vợ có thích không ? Tốt nhất là bày tỏ ý muốn của mình, nếu vợ cũng thích thì cùng đi, còn vợ không thích vì một lý do gì đó thì chồng không nên nài ép hoặc giận dỗi.



7/ Chia xẻ



Chia xẻ với nhau về ý kiến, tình cảm, vật chất, không thủ lợi ích kỷ. Cho phép người kia đi vào cuộc đời của mình, tìm hiểu mình, không giấu diếm.



8/ Cởi mở, làm mới



Sống chung một thời gian, không ai tránh khỏi nhàm chán buồn tẻ vì bận làm ăn, lo cho con cái, không có thì giờ vui chơi giải trí như hồi mới quen nhau. Do đó cần phải biết cởi mở, làm mới và sống lại những tánh hồn nhiên, thương yêu, dễ thương, thông cảm của thuở ban đầu.



Mỗi người hãy thành thật viết ra những khía cạnh đáng yêu và đáng ghét của bao năm sống chung rồi trao đổi với nhau. Kế đó cùng bàn luận và ghi ra những giải pháp có thể thỏa mãn những ước muốn chung của hai người.



Việc quan trọng không phải lúc nào cũng làm đẹp lòng nhau mà là khả năng giải tỏa sự bất hòa. Có những cặp vợ chồng không bao giờ gây sự cãi cọ với nhau, bề ngoài có vẻ hạnh phúc nhưng bên trong rất lạnh lùng tẻ nhạt, họ không làm to chuyện bởi vì mỗi người chỉ muốn yên thân qua ngày. Ngược lại có những cặp vợ chồng tuy trải qua nhiều cơn sóng gió nhưng họ hiểu nhau và thương nhau nhiều hơn.



Trích sách "Ý Tình Thân", Thích Trí Siêu





--------------------------------------------------------------------------------


http://trisieu.free.fr/phatphap/Hiep_uoc_song.htm

Kinh Vô Ngã Tướng

(Anattalakkhana-sutta)




Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Ðức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ Thế Tôn nói với năm vị Tỳ Kheo:

"Này các thầy, sắc không phải là ta, là tự ngã. Nếu sắc là ta thì sắc sẽ không gây đau khổ (bệnh tật) và đối với thân thể ta có thể ra lệnh: " Thân tôi phải như thế này hay như thế kia theo ý tôi". Thế nhưng, bởi vì thân thể không phải là ta, nên nó không tránh khỏi bệnh tật và không ai có thể ra lệnh cho thân thể: "Thân tôi phải như thế này hay như thế kia theo ý tôi".

Này các thầy, cảm thọ không phải là ta, là tự ngã. Nếu cảm thọ là ta thì cảm thọ sẽ không gây đau khổ phiền não và đối với sự cảm thọ ta có thể ra lệnh: "Cảm thọ của tôi phải như thế này hay như thế kia theo ý tôi". Thế nhưng, bởi vì cảm thọ không phải là ta, nên nó không tránh khỏi đau khổ phiền não và không ai có thể ra lệnh cho cảm thọ : "Cảm thọ của tôi phải như thế này hay như thế kia theo ý tôi".

Này các thầy, tri giác không phải là ta, là tự ngã. Nếu tri giác là ta thì tri giác sẽ không gây đau khổ phiền não và đối với tri giác ta có thể ra lệnh: "Tri giác của tôi phải như thế này hay như thế kia theo ý tôi". Thế nhưng, bởi vì tri giác không phải là ta, nên nó không tránh khỏi khổ đau phiền não và không ai có thể ra lệnh cho tri giác: "Tri giác của tôi phải như thế này hay như thế kia theo ý tôi".

Này các thầy, tâm tư không phải là ta, là tự ngã. Nếu tâm tư là ta thì tâm tư sẽ không gây đau khổ phiền não và đối với tâm tư ta có thể ra lệnh: "Tâm tư của tôi phải như thế này hay như thế kia theo ý tôi". Thế nhưng, bởi vì tâm tư không phải là ta, nên nó không tránh khỏi khổ đau phiền não và không ai có thể ra lệnh cho tâm tư: "Tâm tư của tôi phải như thế này hay như thế kia theo ý tôi".

Này các thầy, ý thức không phải là ta, là tự ngã. Nếu ý thức là ta thì ý thức sẽ không gây đau khổ phiền não và đối với ý thức ta có thể ra lệnh: "Ý thức của tôi phải như thế này hay như thế kia theo ý tôi". Thế nhưng, bởi vì ý thức không phải là ta, nên nó không tránh khỏi khổ đau phiền não và không ai có thể ra lệnh cho ý thức: "Ý thức của tôi phải như thế này hay như thế kia theo ý tôi".

Này các thầy, các thầy nghĩ sao? Sắc là thường hay vô thường?

- Sắc là vô thường, thưa Thế Tôn.

- Cái gì vô thường là khổ hay sướng ?

- Là khổ, thưa Thế Tôn.

- Như vậy, đối với cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, người ta có thể nói: "Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta" được chăng?

- Không thể được, thưa Thế Tôn.

Các thÀy nghĩ sao? Cảm th là thường hay vô thường?

- Cảm th là vô thường, thưa Thế Tôn.

- Cái gì vô thường là khổ hay sướng?

- Là khổ, thưa Thế Tôn.

- Như vậy, đối với cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, người ta có thể nói: "Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta" được chăng?

- Không thể được, thưa Thế Tôn.

Các thầy nghĩ sao? Tri giác là thường hay vô thường?

- Tri giác là vô thường, thưa Thế Tôn.

- Cái gì vô thường là khổ hay sướng?

- Là khổ, thưa ThếTôn.

- Như vậy, đối với cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, người ta có thể nói: "Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta" được chăng?

- Không thể được, thưa Thế Tôn.

Các thầy nghĩ sao? Tâm tư là thường hay vô thường?

- Tâm tư là vô thường, thưa Thế Tôn.

- Cái gì vô thường là khổ hay sướng?

- Là khổ, thưa Thế Tôn.

- Như vậy, đối với cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, người ta có thể nói: "Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta" được chăng?

- Không thể được, thưa Thế Tôn.

Các thầy nghĩ sao? Ý thức là thường hay vô thường?

- Ý thức là vô thường, thưa ThếTôn.

- Cái gì vô thường là khổ hay sướng?

- Là khổ, thưa Thế Tôn.

- Như vậy, đối với cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, người ta có thể nói: "Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta" được chăng?

- Không thể được, thưa Thế Tôn.

Này các thầy, như thế thì tất cả những gì thuộc sắc thân quá khứ, vị lai hay hiện tại, ở trong hay ở ngoài, thô hay tế, xấu hay tốt, xa hay gần, tất cả những gì là sắc thân cần phải được nhận định theo chánh trí huệ, đúng như thật: "Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải là tự ngã của ta".

Cũng thế, tất cả những gì thuộc cảm thọ , tri giác, tâm tư và ý thức quá khứ, vị lai hay hiện tại, ở trong hay ở ngoài, thô hay tế, xấu hay tốt, xa hay gần, tất cả những gì là sắc thân cần phải được nhận định theo chánh trí huệ, đúng như thật: "Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải là tự ngã của ta".

Khi nhận định sự vật như thế, này các thầy, người hành giả thông minh xa lià và nhàm chán sắc thân, xa lià và nhàm chán cảm thọ , tri giác, tâm tư và ý thức. Do nhàm lià nên vị ấy không còn ham muốn. Do hết ham muốn nên được giải thoát. Khi được giải thoát, trí huệ khởi lên: "Ðây là sự giải thoát" và vị ấy biết: "Tái sinh chấm dứt, phạm hạnh đã thành, điều nên làm đã làm, không còn trở lại thế gian này nữa".

Khi Ðức Thế Tôn nói xong, năm vị Tỳ Kheo đều hoan hỷ: Trong lúc đang nghe giảng, tâm của năm vị được hoàn toàn giải thoát khỏi ái luyến và ô nhiễm.



Thích Trí Siêu dịch từ "Sermons du Bouddha"

de Mohan Wijayaratna

Edition du Cerf

http://trisieu.free.fr/phatphap/kvongatuong.html



Wednesday, April 6, 2011

Bệnh phiền não