Nguyên Lý Cơ Bản là những nguyên lý sơ đẳng nhất, đơn giản nhất mà từ đó
tất cả sự việc và hiện tượng khác dựa vào, và được xây dựng lên. Ở đây
ta muốn nói đến Nguyên Lý Cơ Bản của Ta-bà, chúng sẽ góp phần vào việc
giải thích các định luật Ta-bà, nhờ đó ta tránh được vấn đề dài dòng.
Ngoài ra, chỉ cần đôi chút kiến thức này cũng đủ gạt bỏ được một số thắc
mắc vô bổ và mang lại phần nào an lạc cho Tâm.
A.
ĐỐI ĐÃI
[Duality]
Bất cứ một hiện tượng nào trên thế gian,
vật lý hoặc tâm lý, cũng đều có một hiện tượng đối lập với nó. Hai đối
cực này luôn luông đi đôi với nhau, không thể nào có một cái đứng đơn
độc, hoặc có thể tách riêng biệt một cái ra ngoài được. Khi nói đến
sống ta biết là có cái chết đi kèm theo bên cạnh. Tương tự,
nếu có cao thì phải có thấp, có ngày là vì có
đêm, phải-trái, sạch- dơ, sáng – tối, nóng – lạnh v.v…thêm vài ví dụ
điển hình:
Lành
Dữ
Thịnh Suy
Động
Tĩnh
Thông Bế
Nam
Nữ
Hòa
bình Chiến tranh
Hạnh
phúc Đau khổ
Vật
lý Tâm lý
Khí
Huyết
Hạt
cơ bản Phản hạt
Không gian Thời gian
Chủ
Khách
Thiện Ác
v.v…
Ngay
cả việc đang suy tưởng về vấn đề này ta cũng có cặp Chủ thể (người nghi
và Đối tượng (sự vật nghĩ đến). Có thể ví chúng như hai mặt của đồng
tiền, từ ngữ nhà Phật dùng để chỉ hiện tượng cặp đôi này là đối đãi, như
vậy cõi Ta-bà này là cõi đối-đãi. Thông thường còn được hiểu là cõi Nhị
Nguyên hoặc cõi Âm Dương.
Những khác biệt tiêu
biểu giữa Đông và Tây trên tư tưởng và lối nhìn
Tây
Đông
Bề ngoài
Bên trong
Vật chất
Tinh thần
Lý luận
[logic]
Trực giác [intuition]
Suy diễn [deduction]
Quy nạp [induction]
Cụ thể [concrete]
Trừu tượng [abstract]
Thành phần [part]
Tổng thể [whole]
Sáng tạo [creative]
Bảo thủ [conservative]
v.v…
Sau đây là hai đặc
điểm của nguyên lý đối đãi:
Tương đối: Giá trị của một vật sẽ thay đổi khi đem so sánh với những
vật khác. Một tảng đá có thể lớn hơn đối với hạt cát nhưng nó lại nhỏ
khi so với hòn núi, hoặc nó có thể cứng đối với tảng đá này nhưng lại
không cứng bằng tảng đá khác. Tâm lý con người cũng khác biệt vì sự định
giá của mỗi người một khác, một người có thể yêu thích cảnh rừng núi
tĩnh mịch nhưng kẽ khác lại sợ vẻ thâm u của rừng núi. Bởi vậy không có
gì có giá trị nhất định, tất cả mọi thứ chỉ có giá trị tương đối. Ngoài
ra, không có to thì không có nhỏ, hoặc ngược lại; hai đối cực dựa vào
nhau mà hiện hựu.
Vận
chuyển: Vì đối-đãi nên có sự mất quân bình, cao thấp, nóng lạnh, v.v…Nhưng
vạn vật có khuynh hướng tự đi tìm sự quân bình cho chính nó, thí dụ như
những gì nóng thì sẽ dần nguội bớt, trong khi những gì lạnh sẽ phải ấm
lên. Việc tự quân bình này gây nên sự trồi sụt chuyển hóa, và vì thế mới
có sự vận chuyển. Nhờ có ngày đêm, mưa nắng nên động vật cũng như thực
vật mới sinh trưởng, mới có sự sống. Hai luồng điện Âm Dương làm bóng
đèn cháy sáng, chuyển máy móc chạy v.v…Hoặc do tâm Sân (không hài lòng
với hoàn cảnh hiện tại) và tâm Tham (muốn được tốt đẹp hơn) thúc đẩy con
người thay đổi hoàn cảnh của họ, bởi thế xã hội mới tiến hóa, văn minh
phát triển. Tóm lại, đối đãi (Âm Dương) là động lực thúc đẩy, vận chuyển
mọi vật.
B.
TUẦN HOÀN [Cyclicity]
Quan
sát các hiện tượng trên thế gian ta sẽ thấy cấu trúc và sự vận hành của
mọi thứ đều đi theo chiều vòng tròn. Hết ngày rồi đến đêm, hết đêm lại
đến ngày. Trứng nở ra gà rồi gà lại sinh trứng. Quả đất xoay quanh mặt
trời trong khi mặt trăng xoay quanh quả đất, chúng không chay ra ngoài
quỹ đạo cố định của chúng. Xuân Hạ Thu Đông rồi lại tiếp tục Xuân Hạ Thu
Đông, trời mưa xuống nước chảy ra biển rồi bốc hơi lên thành mây bay
vào đất liền rồi lại mưa. Khí lực trong cơ thể chạy từ đường kinh này
qua đường kinh nọ, và khi đi qua hết mười hai đường kinh nó lại tiếp tục
chu trình đã được định sẵn. Tính cách tuần hoàn hoặc sự vận chuyển theo
chu trình kín nay, ở đây sẽ được tạm gọi là vòng tròn . Và khuynh
hướng lập đi lập lại cũng được người Tây phương ghi nhận : “lịch sử chỉ
là sự tái diễn [history
repeats itself].”
Ta
đã biết Âm Dương là động lực vận chuyển vạn vật, và qua nhận xét về các
hiện tượng điễn hình trên, tất cả mọi thứ - kể cả sự vận hành của tâm [sẽ
được bàn trong chương bốn] – đều chuyển động
theo quỹ đạo đã được định sẵn của chúng, đường vòng tròn. Nghiệm xét
nguyên lý Vòng tròn ta thấy nó có hai đặc điểm là Chu Kỳ và Vô thủy Vô
chung.
Chu
Kỳ: Một sự vật sinh khởi, trải qua tiến trình tăng trưởng, rồi tàn hoại
và chấm dứt – được gọi là một chu kỳ, trước khi nó lại sinh khởi trở lại.
Thí dụ; trăng tròn, khuyết, không trăng, rồi tròn lại. Bốn mùa Xuân Hạ
Thu Đông trải qua rồi lại nối tiếp chu kỳ Xuân Hạ Thu Đông mới. Một
triều đại / chính thể nảy sinh, hưng thịnh, suy mạt, rồi chấm dứt. Hoặc
nói một cách khác tổng quát hơn, mô thức Thành – Trụ - Hoại – Không có
thể áp dụng cho tất cả sự vật.
Vô
chung Vô thủy: Nghĩa là không có điểm khởi đầu và điểm chấm dứt. Trên
một vòng tròn ta không thể xác định được những chỗ nào là điểm khởi đầu
và điểm cuối cùng. Có thể suy diễn được điều này qua các hiện tượng như
ta không thể biết được lúc khai thiên lập địa là lúc nào, ngày bắt đầu
trước hay đêm bắt đầu trước, trứng có trước hay gà có trước, mùa nào bắt
đầu trước trong bốn mùa, v.v…cõi Ta-bà là cõi vòng tròn nên nó vô thủy
và vô chung.
C.
BẢO TỒN NĂNG
LƯỢNG (và VẬT CHẤT) [Conservation of Energy
(and Matter)]
Theo như thí dụ nêu
ở trên – mưa xuống, nước chảy ra biển, bốc hơi lên thành mây, rồi lại
mưa – khi xét lại số lượng nước thì không một giọt nào thất thoát, nó
chỉ biến dạng chứ số lượng không tăng mà cũng không giảm. Đó là do
nguyên lý Bảo Tồn Năng Lượng.
Nguyên lý Bảo Tồn Năng Lượng được đinh nghĩa là một vật thể hoặc một
năng lực chỉ có thể chuyển hóa sang thể dạng khác chứ không thể tự tan
biến không còn một dấu vết gì. Thí dụ như một khúc gỗ sau khi đem đốt,
tuy khúc gỗ không còn nữa nhưng không phải là nó biến mất mà nó đã
chuyển sang dạng tro và nhiệt. Ta có thể thấy trong phòng thí nghiệm,
các hóa chất được cho phản ứng với nhau tạo ra một hóa chất khác, và
tổng số các nguyên tử và điện tử của hóa chất mới này sẽ không dư không
thiếu so với các hóa chất tạo ra nó.
Liên
hệ với Bảo Tồn Năng Lượng là nguyên lý Lực và Phản Lực : mỗi động lực
đều có một phản lực tương đương và đối nghịch. Nghĩa là một vật sẽ
phải nhận lãnh ngược trở lại một lực với cường độ tương đương với lực mà
nó phát ra. Thí dụ như khi ném trái banh vào tường, ném nhẹ thì nó dội
lại nhẹ, ném mạnh thì nó dội lại mạnh.
D.
ĐỐNG THANH
ĐỒNG KHÍ [Attraction]
Chỉ
cần để ý ta sẽ thấy những vật cùng loại, cùng tính chất thường tìm đến
nhau; những người cùng tâm tính, cùng chí hướng hay tụ họp với nhau. Khi
dùng radio hay máy truyền hình ta phải vặn đúng làn sóng thì mới bắt
được đài ta muốn xem, và ta cũng thường hay nghe nói những người giao du
với nhau thì thường ở cùng một trình độ và cùng một tần số.
Qua
những nhận xét tương tự như những hiện tượng kể trên, người xưa đã nêu
lên nguyên lý: “Đồng Thanh Tương Ứng, Đồng Khí Tương Cầu” – cùng thanh
âm thì cùng ứng với nhau, cùng khí chất thì tìm cầu đến nhau. Ngoài ra
còn có câu châm ngôn nói lên sự thu hút của những vật cùng loại, “Ngưu
tầm ngưu, mã tầm mã.” Người Tây phương cũng có những câu như, “Bird of
the same feather flock together”, “Like attracts like” hoặc “Dislike
attracts dislike”.
Tại
sao đàn ông và đàn bà khác nhau nhưng lại hấp dẫn nhau?
Khi
để hai thanh nam châm gần nhau thì ta cũng thấy vậy, đáng lẽ cùng cực (cộng
và cộng hoặc trừ và trừ) thì chúng phải thu hút nhau, nhưng ngược lại,
chúng lại đẩy nhau ra; trong khi khác cực (cộng và trừ) thì chúng lại
thu hút nhau. Lý do là vì từ trường của nam châm luôn luôn chạy từ đầu
trừ sang đầu cộng, khi ráp hai đầu cùng cực với nhau thì từ trường của
hai thanh chạy ngược chiều, do đó chúng phải đẩy nhau ra. Trái lại,
chúng hút nhau khi hai đầu khác cực ráp lại khiến từ trường của cả hai
thanh nam châm chạy xuôi cùng một chiều, từ đuôi của thanh này (trừ)
sang đầu của thanh kia (cộng) giống như là chỉ có một thanh vậy.
Bởi
thế ta không xét đến các cực khác nhau của thanh nam châm, cũng như sự
khác biệt nam / nữ hay nam / nam hay nữ / nữ, mà chỉ cần dùng loại hoặc
cùng tính chất, như hai thanh nam châm phải cùng chiều từ trường và nam
/ nữ hay nam / nam hay nữ / nữ phải cùng tâm ái dục, thì họ sẽ thu hút
nhau. Hoặc thu hút nhau vì cùng ý thích, chí hướng như nam / nam hợp
nhau trên phương diện thể thao, cờ tướng, ăn nhậu, v.v…hoặc nữ / nữ
thích nói chuyện về chồng con, mua sắm đồ đạc, v.v… hoặc một hội thiện
nguyện có thể có đủ cả già, trẻ, nam, nữ, giàu nghèo.
E.
TA-BÀ
Ta-bà [Phạn: Samsara] được định nghĩa là cõi sinh tử
tái tục bất tận [the
realm of endless rounds of births and deaths].
Và dựa theo các nguyên lý trên ta cỏ thể dễ dàng hiểu
được lý do tại sao. Ta-bà là cõi đối-đãi nên có sinh có tử; mọi
thứ mang tính cách tuần hoàn, chúng đi theo chiều vòng tròn nên
sinh tử lập đi lập lại và nối tiếp nhau không bao giờ tận. [‘Không bao
giờ tận’ vì bị thêm một luật nữa chi phối là bảo- tồn- năng- lượng
(sẽ bàn rõ hơn trong chương nhân-quả).] Ta-bà còn được hiểu là lang
thang bất định; và cõi Ta-bà là cõi luân hồi.
Đặc
tính của cõi Ta-bà là Tham (Âm) và Sân (Dương). Tất cả chúng sinh, từ
cây cỏ, sâu kiến, thú vật dến con người, không ai là không ham sống,
mong cầu hạnh phúc (Tham) và sợ chết, muốn lánh xa khổ đau (Sân). Bởi
thế Ta-bà là cõi Khổ. Ngoài ra, nếu nói Tham và Sân là hai mặt của đồng
tiền thì Si chính là đồng tiền, cả ba nối kết chặt với nhau thành một,
không thể tách rời một cái nào khỏi hai cái kia được [sẽ
bàn rõ thêm trong các chương sau.]. Nhìn theo
khía cạnh này, danh gọi Ta-bà có thể được thay thế bằng Tham-Sân-Si-cõi
Ta-bà là cõi Tham-Sân-Si, bản chất của Ta-bà là Tham-Sân-Si, Ta-bà rung
động ở tần số Tham-Sân-Si.
Các dẫn chứng kể
trên có thể giải đáp sơ lược cho các vấn đề sau đây.
F.
VẤN ĐÁP
Tại sao ta lại hiện diện ở cõi Ta-bà?
Từ lúc nào?
Ta-bà
nằm ở băng tần Tham-Sân-Si và theo nguyên lý
đồng-thanh-đồng-khí, nếu không rung cùng một làn sóng với nó thì ta
không thể ở đây được. Vậy sự có mặt của ta ở đây là vì tâm Tham-Sân-Si.
Ta-bà
là cõi vòng tròn nên không thể biết được sự có mặt của ta bắt đầu từ lúc
nào, chỉ có thể tạm nói là từ vô thủy. Tuy vậy chuỗi sinh tử có thể sẽ
có lúc chấm dứt một khi ta chuyển tâm qua băng tần khác bằng cách tu
hành.
Đời
sống đầy rẫy bất công, tràn ngập tội ác, loạn lạc nhiễu nhương: Làm cách
nào mang lại an lạc, hạnh phúc vĩnh cữu cho thế gian?
Đức
Phật không hề đả động đến việc thiết lập cho thế gian một nền hòa bình
hạnh phúc có tính cách vĩnh cữu. Ngài chỉ giảng dạy về Khổ và thoát Khổ.
Lý do là vì thế gian là cõi đối đãi, có hòa bình hạnh phúc tất
phải có loạn lạc khổ đau; hai đối cực này sẽ mãi mãi thay phiên nhau
hoán chuyển, bởi vậy tìm cách loại bỏ chiến tranh để đi tìm hạnh phúc
hoặc tìm cách tạo dựng hạnh phúc vĩnh cữu ở thế gian là điều mộng tưởng
không bao giờ có thể xảy ra được. Nếu có thì nó cũng chỉ là hạnh phúc
nhất thời chứ không thể nào là chân hạnh phúc (vì luật vô-thường) [sẽ
bàn sau]).
“Tu”
nghĩa là gì? Tu ra làm sao? Làm sao để thoát khỏi cõi Ta-bà?
Một
cách vắn tắt. Ta đã biết Ta-bà là cõi Tham-Sân-Si bởi vậy chính tâm
Tham-Sân-Si của chúng sinh trói buộc giam giữ họ ở đó và do đó, họ bị
trôi lăn triền miên trong vòng sinh tử. “Tu” là sửa. Tu tâm nghĩa là,
bằng bất kể phương cách nào, sửa cái tâm lại không cho nó phản ứng và đi
theo con đường Tham-Sân-Si. Khi tâm không còn ở “băng tần” Tham-Sân-Si
nữa thì không có lý do gì ta phải tiếp tục sinh tử ở cõi Ta-bà.
Làm
sao biết được thế nào là đúng thế nào là sai? Dựa vào đâu?
Khi
có sự tranh chấp phải đem ra xét xử thì cứ xét theo luật pháp, kẻ nào
trái luật sẽ là kẽ có lỗi. Nói về vấn đề tu hành thì ta xét phải / trái
dựa theo định luật Ta-bà, những kẻ phản ứng và hành động theo
Tham-Sân-Si là kẻ phạm luật, kẻ phàm và ngược lại, những người hành động
không do Tham-Sân-Si sai khiến là bậc Hiền, bậc Thánh.
Hết
Chương 1