Thursday, November 8, 2012

KHỔ !


Chương Hai 
VẤN ĐỀ: KHỔ
            Sau khi khảo sát sơ qua các nguyên lý cơ bản, tạm thời  ta nắm được ít nhiều khái niệm về tình huống của ta cũng như môi trường, nơi chốn ta đang cư trú: ta hiện đang có mặt ở cõi Ta-bà, nơi hoàn toàn không có sự bình đẳng, đầy rẩy những bất công, thiện lẫn ác [đối-đãi]; nó là cõi Tham-Sân-Si mà tính chất tâm ta lại tương đồng với nó nên ta mới sinh ra ở đây [đồng-thanh-đồng-khí]; tất cả những gì ta tạo tác qua thân-khẩu-ý, dù nhỏ đến mấy cũng sẽ không mất mát đi đâu[ bảo-tồn-năng-lượng ], và chắc chắn ở một thời điểm nào đó trong tương lai chúng sẽ tác động ngược trở lại ta [lực và phản lực ], mang lại phước lành nếu ta đã từng làm việc thiện, và khổ đau nếu ta đã từng làm việc ác [đồng-thanh-đồng-khí]; vì tâm Tham-Sân-Si nên ta cứ tiếp tục gây tạo những việc thiện-ác để rồi phải nhận lãnh hậu quả, và cứ thế ta lẩn quẩn trong vòng sinh tử, trôi lăn bất định và bất tận trong cõi Ta-bà[tuần hoàn].
            Vấn đề của ta là KHỔ.
A.   KHỔ [Suffering, Unsatisfactoriness]
          Đời sống con người lẫn thú vật, hai cõi giới mà chúng ta nhận biết được, đều tràn ngập bất hạnh, bất mãn, và bất trắc. Những rắt rối đều tùy thời tùy nơi mà sinh khởi, nhiều khi tưởng đã giải quyết xong nhưng nó lại trồi lên ở một dạng khác, hoặc sau khi trừ được một vấn đề thì bao nhiêu vấn đề khác sẽ kéo đến, và cứ thế suốt đời ta phải đối phó hết vấn đề này đến vấn đề khác, lịch sử và kinh nghiệm cho thấy không có cách gì diệt trừ cho hết được. Sống ở đời không ai tránh được khổ đau, nếu không khổ lúc này thì cũng khổ lúc khác dưới một hình thức nào đó, nếu may mắn thì tình trạng bất ổn của cá nhân nói riêng và xã hội nói chung sẽ chỉ tạm thời vắng mặt trong một lúc nào đó mà thôi.
            Chỉ vì mong cầu hạnh phúc, chúng ta lao tâm lao lực để cho được của cải, danh vọng, tình yêu v.v…Tuy nhiên lúc thành đạt rồi chưa phải là lúc hết chuyện, ta lại phải khổ tâm lo bảo vệ hạnh phúc qua những gì đã đạt được; lo sợ mất mát và nỗi đau khổ khi bị mất sẽ chuyển biến những gì gọi là hạnh phúc thành những nguồn gây ra lo lắng và sợ hãi.
            Hạnh phúc bắt buộc phải dựa vào nhân duyên hoặc tùy thuộc vào điều kiện mới phát sinh được. Tất cả điều kiện dẫn đến hạnh phúc, điều kiện nội tâm hoặc ngoại cảnh, đều không cố định và chúng sẽ thay đổi vào một lúc nào đó trong tương lai. Sự bấp bênh và không bảo đảm của điều kiện tùy thuộc cho thấy sự đến và đi của hạnh phúc nằm ngoài tầm kiểm soát của ta, và kết quả là khổ đau khi ta bám víu vào những gì mang tính chất vô-thường.
            Có những người may mắn sinh ra và sống trong hoàn cảnh thuận lợi với mọi việc diễn tiến tốt đẹp theo ý muốn, nên thường không thấy hoặc cảm nhận được sự có mặt của khổ đau. Thật ra, cái khổ nó chưa đến chứ không phải không đến. Nhưng nếu chỉ suy xét cải khổ của riêng ta hoặc không nhìn thấy khổ đau đầy rẫy xung quanh thì đó là lòng ích kỷ; ta không ý thức sự kiện là đa số mọi người khác đều đang ở trong cảnh ngộ chật vật, khốn khổ không lối thoát. Bởi vậy, an hưởng hạnh phúc trong khi mọi người xung quanh đang rên siết trong thống khổ thì đó không phải là chân hạnh phúc. Mà sự khổ đau và hạnh phúc của kẻ khác, do luật duyên-khởi [xem chương Duyên Khởi], sớm muộn gì rồi cũng sẽ ảnh hưởng đến ta và mọi người khác.
            Lại có những người không tham vọng, không mong cầu, biết “yên phận thủ thường’ và chỉ muốn được yên thân. Song đây vẫn là hình thức vi tế của khổ. Ý muốn được yên thân và lo thủ thường là tâm Tham và Sân, chỉ vì lo duy trì cái hạnh phúc đơn sơ nào đó nên sợ sự thay đổi, khác thường. Thế nhưng thế gian này vô-thường, sớm muộn gì rồi cũng sẽ phải đối diện với khổ đau.
            Dĩ nhiên ta không chối bỏ hạnh phúc thế gian như hạnh phúc gia đình, những thú vui của thể xác lẫn tinh thần, ngay cả hạnh phúc của người xuất gia, v.v…Thế nhưng được bao lâu? Như ta đã biết ở cõi Ta-bà không có gì bảo đảm cho hạnh phúc, chúng thật mỏng manh, do đó chúng không phải là chân hạnh phúc hoặc hạnh phúc trường tồn, vĩnh cữu. Vả lại hạnh phúc luôn luôn đi đôi với khổ đau [đối-đãi], thế nên tìm cầu hạnh phúc ở thế gian chắc chắn chỉ mang lại khổ đau. Có thể nói, hạnh phúc là những gì xây dựng trên khổ đau, và ngay trong lòng hạnh phúc đã chứa sẵn những nhân khổ đau mà có thể phát tác bất cứ lúc nào.
            Vậy ta nên lưu ý là ngoài ý nghĩa đau đớn thân tâm, sự trái ý, không hài lòng bất mãn, KHỔ còn mang những ý nghĩa vô-thường, không toàn hảo, không thực chất.
            Tóm lại, KHỔ đau là bản chất của Ta-bà, nó được lồng trong tất cả mọi tầng lớp và mọi sinh hoạt của đời sống.

B.   CÁC LOẠI KHỔ
            Khổ có hai loại, khổ thân và khổ tâm:
1.     Khổ thân
a)                    Sinh
b)                    Lão
c)                    Bệnh
d)                    Tử
2.     Khổ tâm
a)                    Ái biệt ly khổ - phải xa lìa những người, vật, hoàn cảnh mà ta yêu thích.
b)                    Oán Tắng hội khổ - phải ở lại với những người, vật, nơi chốn mà ta thù ghét.
c)                    Cầu bất đắc khổ - mong cầu mà không được.
Khổ còn được chia ra làm ba loại:
a.      Khổ Khổ [misery of suffering] – bao gồm hai loại khổ thân và khổ tâm kể trên.
b.     Hoại khổ [misery of change] – tất cả các loại hạnh phúc sớm muộn gì cũng sẽ thay đổi, bởi vậy khổ.
c.      Hành khổ [pervasive misery] – khổ vì sự việc diễn tiến theo điều kiện [condition] nên nằm ngoài sự kiểm soát của ta. Khối thân tâm nay được sinh tạo bởi Nghiệp và Tham-Sân-Si (phiền não) và chính nó lại là điều kiện để gây tạo thêm Nghiệp và Tham-Sân-Si. Cũng gọi là Ngũ Uẩn Thủ Khổ, tức là bám víu vào ngũ uẩn, chấp chúng là ta, của ta; còn được hiểu là toàn bộ mọi khổ não.
C.   KHỔ Ở CÁC CÕI TRONG TA-BÀ
     Như đã bàn, cõi Ta-bà nói chung la cõi khổ vì các lý do sau: bất trắc (vô - thường, không định trước được), bất mãn (không bao giờ cảm thấy đủ, không thể thỏa mãn), sinh tử  bất tận (loanh quanh trong sáu cõi mà không thoát ra đươc. Ta-bà đươc phân ra làm sáu cảnh giới [xem chương Tái Sinh], tính chất của mỗi cãnh giới một khác nên chúng đều có cái khổ riêng biệt. Sáu cõi được xếp theo thứ tự từ khổ nhất (địa ngục) đến sướng nhất (cõi thiên),
// Ta biết hai cõi, ngưỡi và súc sinh (thú vật), nhưng có một số người có khả năng thấy được các cõi khác, phẩn lớn là cõi ngạ quỷ (ma). Mấy trăm năm trước chắc chắn chẳng ai sẽ tin là có thể giới vi trùng. Nếu đã cò cõi này thì sự có mặt của những cõi (băng tần) khác không phải là điều phi lý.//
1)     Địa Ngục: [Hell]: Cõi chỉ có sự đau khổ cùng cực, không thể tả xiết được, chúng sinh phải chịu sự thiêu đốt, lữa cháy, hoặc sự lạnh buốt thấu xương, nứt da nứt thịt. Mức độ lạnh nóng ở đây lớn hơn gấp ngàn lần cái lạnh nóng của thế gian.
2)     Ngạ Quỷ: [Hungry ghosts]: Cõi các loại ma quỷ vất vưởng, lang thang tìm cách thỏa mãn ham muốn, có những loại lúc nào cũng đói khát và luôn luôn tìm kiếm thức ăn uống.
3)     Súc Sinh: [Animals]: Cõi phi nhân (không phải người, như thú vật, côn trùng v.v…) bị săn bắn, giết thịt, hành hạ, đánh đập, không có tự do, bị loài người bắt lao động, đói khát, luôn luôn rình rập ăn thịt lẫn nhau.
4)     Người [Humans]: Cõi người, sướng khổ vừa phải. Có các loại khổ sau đây: sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc.
5)     Atula [demi-gods] Cõi quỹ thần, có đủ các loại tốt xấu. Nói chung, cái khổ ở cõi này là thường xuyên tranh giành xung đột với nhau, và luôn luôn bị đại bại thê thảm trong các trận chiến với chư thiên (các vị trời)
6)     Thiên [gods]: Có nhiều tầng trời, các vị trời, nhờ có phước nên được hưởng hạnh phúc, trẽ trung đẹp đẽ, tuổi thọ dài lâu. Tuy nhiên, họ vẫn phải chịu các thứ khổ sau đây: Khổ tâm cùng cực khi đến lúc sắp chết vì biết trước sẽ phải rơi xuống cõi nào; nhục nhã đau khổ vì thua kém các vị trời khác; có thể bị thương tích, què quặt hoặc tử vong khi đánh nhau với Atula.
D.   HIỂU KHỔ
          Thoáng nghe qua, phần nhiều chúng ta có thể hiểu ngay được thế nào là Khổ, Vô-thường, Nhân-quả v.v…thế nhưng tại sao phiền não vẫn không suy giảm, Tham-Sân-Si vẫn sai khiến, dẫn dắt ta theo nó? Tại sao vẫn còn tìm kiếm thú vui, toan tính những chuyện ăn chơi, mất thì giờ vào những chuyện thế gian? Điều này cho thấy ta chưa thấm nhuần, chưa thông hiểu Khổ và định luật Ta-bà, ta chỉ mới hiểu chúng trên mặt ngôn từ.
            Chỉ cần một lần chạm mặt với Khổ-Sinh-Lão-Bệnh-Tử, thái tử Tất Đạt Đa đã từ bỏ ngai vàng, vợ con để đi tìm con đường giải thoát cho chính mình và chúng sinh. Còn chúng ta tuy cũng từng trải qua và chứng kiến biết bao cảnh khổ, nhưng vẫn không thấy được sự nghiêm trọng của cái Khổ. Có thể vì hoàn cảnh không cho phép chúng ta rũ bỏ mọi thứ được ngay lập tức như Ngài, nhưng nếu thấu hiểu về Khổ thì ít ra sức hấp dẫn của lạc thú thế gian phải suy giảm, đồng thời ta phải cảm thấy sự khẩn trương thúc đẩy ta mau tìm đường giải thoát, cũng như trường hợp khẩn cấp trong việc thoát thân ra khỏi căn nhà đang cháy.
            Sinh-Lão-Bệnh-Tử là bốn cái khổ căn bản mà chính đức Phật nhờ quán sát chúng mà đã bỏ đi tu.
            Sinh:  Ta sinh ra torng một thân thể, gia đình, nơi chốn mà ta không có khả năng lựa chọn theo ý muốn. Thân và tâm được sinh ra sẽ là môi trường hứa hẹn cho phiền não, đau khổ sinh khởi. Nếu thân tâm khỏe mạnh đẹp đẽ thông minh thì sinh ra kiêu mạn tham ái; nếu chúng bệnh hoạn xấu xí thì lại thành sân hận. Ngoài ra, qua thân-khẩu-ý ta sẽ tạo đủ thứ nghiệp bất chánh mà ta không thể kiểm xoát được. Đó là chưa kể đến nỗi khổ mang nặng đẻ đau của người mẹ và sự lao tâm lao lực của cả cha lẫn mẹ trong việc nuôi nấng con cái. Nhiều khi sự có mặt của ta lại còn mang sự phiền toái đến cho cả họ hàng và nhất là thời buổi bây giờ, vì nạn nhân mãn nên thêm một người là thêm một gánh nặng cho xả hội, và đe dọa cho thế giới môi sinh.
            Lại nữa, “sinh” ở đây còn nói lên điểm khởi đầu của một chu kỳ ‘sinh-lão-bệnh-tử’ mới, nghĩa là ta đang bị cuốn trôi trong vòng sinh tử tương tục bất tận mà không thể cưỡng chống lại được.
            Lão:  Ngay khi sinhr a ta đã bắt đầu ngay vào tiến trình lão hóa. Về già, các giác quan và cơ quan trong cơ thể suy yếu dần và có thể đi đến chỗ ngưng hoạt động, trong khi đầu óc, tinh thần cũng không còn minh mẫn như trước. Động tác đơn giản của việc đứng lên, ngồi xuống bây giờ trở thành cả một vấn đề to tát. Bởi vậy người già thường phải nhờ đến con cháu; không phải chỉ riêng mình khổ mà nhiều khi lại còn làm khổ cho cả gia đình. Chẳng những vậy, thân xác già nua xấu xí của ta còn làm cho người chung quanh mất thiện cảm và muốn lánh xa. Nhiều người già lại còn là gánh nặng cho xã hội.
            Bệnh: Không nặng thì nhẹ, không lúc này thì lúc khác, chẳng ai trong đời tránh khỏi bệnh tật. Nếu không bị bệnh thể xác thì cũng bị bệnh tâm thần, hoặc cả hai. Chỉ cần bị cảm cúm sơ sơ nhiều khi đã không muốn sống huống chi là bị những bệnh nan trị. Không phải bệnh chỉ làm riêng ta khổ mà nhiều khi lại làm khổ người thân phải lo lắng chăm sóc cho ta. Ngoài ra lại còn có những bệnh di truyền, truyền nhiễm đe dọa những người xung quanh.
            Tử: Đa số chúng ta đều thật đau khổ khi tử thần đến lấy đi mạng sống quý giá của ta hoặc của người thân. Sự ra đi của ta cũng là điều đau khổ, mất mát cho người thân, con cháu. Ta khổ vì sự tan rã của cơ thân và sự chấm dứt của đời sống mà ta chưa muốn buông bỏ. Thật hãi sợ khi chẳng biết cái chết nó như thế nào là lúc nào nó đến, già-trẻ-lớn-bé nó chẳng tha một ai. Nằm trên tử sàng ta đau buồn khi phải ra đi bỏ hết lại những gì thân yêu, ta hối tiếc không có cơ hội hoàn tất những việc còn đang dang dở, và ta lo sợ không biết sẽ đi về đâu. Sau khi ta chết rồi có thể vẩn chưa hết chuyện, như con cháu thù oán nhau chỉ vì bất đồng ý kiến trong việc phân chia tài sản, và còn nhiều chuyện khác nữa (t.d.: mồ mả) liên hệ đến hậu duệ sau này.
            Vậy nếu nghiền ngẫm sâu xa về Khổ đau nói chung:
-    Tâm Tham  sẽ phải giảm trừ, chẳng hạn như đang bệnh hoạn hoặc nằm trên tử sàng, hầu như chẳng ai còn tâm trí nào nghĩ đến thú vui, hưởng thụ.
-    Tâm Sân cũng phải suy giảm, nếu nhận biết rằng cái Khổ thúc đẩy con người tranh giành, hãm hại nhau.
-    Tham và Sân suy giảm thì Si cũng phải suy giảm vì hiểu biết về Khổ đau chính là Trí Tuệ  phá trừ tâm Si.
-    Tất cả chúng sinh, kể cả ta, đều nằm trong sự kiềm tỏa của các thứ Khổ và bị cuốn xoay trong vòng Sinh-Lão-Bệnh-Tử mà không tự chủ được. Suy ngẫm điều này sẽ suy giảm được tâm Kiêu Mạn
-    Quán sát Khổ sẽ phát sinh tâm tử bỏ Xã [renunciation, non-attachment], tâm muốn thoát ly sinh tử.
-    Thông cảm cái Khổ của kẻ khác, ta thấy có sự tương đồng giữa tất cả chúng sinh là ai cũng khổ, ai cũng muốn an hưởng hạnh phúc và xa lánh khổ đau- thấy được sự bình đẳng trên phương diện này tức là ta phát triển tâm Xả.
-    Thông cảm cái Khổ của kẻ khác, lòng thương xót [tâm từ Bi] sinh khởi. Mang lại sự an vui cho kẻ khác, đó là tâm Từ; không muốn thấy kẻ khác đau khổ cũng như tìm cách giải tỏa nỗi thống khổ của họ, đó là tâm Bi.
-    Có được tâm Từ, Bi và Xả, tâm Hỷ của ta cũng sẽ phát triển theo. Tâm Hỷ nghĩa là khi thấy kẻ khác an vui hạnh phúc thì ta cũng vui mừng hoan hỷ như chính đó là niềm an vui hạnh phúc của ta vậy.
            Đến đây ta thấy, nhờ quán sát cái Khổ  ta giảm trừ được các tâm Tham Sân Si  và Kiêu Mạn, và đồng thời các tâm Từ Bi Hỷ Xả được phát triển.
            Sự nhận biết tường tận  về cái Khổ đòi hỏi quá trình tu tập, quán chiếu lâu dài vì Khổ có nhiều mức độ, từ cực thô – đau đớn thân thể - đến cực tế - sự chấm dứt của cảm thọ sung sướng ở các tầng trời cũng như các tầng thiền định.
            Thêm mấy sự kiện nữa cho ta thấy tầm mức quan trọng của Khổ. Vô Minh thông thường được định nghĩa là không hiểu biết về Tứ Diệu Đế -
1)     Khổ
2)     Nguyên nhân gây ra Khổ
3)     Sự diệt nguyên nhân gây Khổ
4)     Con đường diệt nguyên nhân gây Khổ
            Như vậy hiểu biết sâu xa về Khổ sẽ giảm trừ Vô Minh, nguyên do chính giam giữ ta ở cõi Ta-bà. Ngoài ra, Khổ còn là mắt xích quan trọng – hậu quả - trong vòn g Thập Nhị Nhân Duyên [xem chương Thập Nhị Nhân Duyên] và nó còn là đầu mối cho mười một Nhân Duyên Siêu Thế [ xem phần Phụ Lục].
            Dưới nhãn quan nhà Phật, không riêng gì khổ đau mà cả hạnh phúc thế gian cũng mang tính chất KHỔ. Song vì lối nhìn này mà nhà Phật bị lên án là có chiều hướng yếm thế, bi quan. Để đánh tan sự hiểu lầm này ta hãy suy xét về sự kiện nhà Phật chỉ trình bày thực tại như nó là chứ không mang tính cách bi quan hoặc lạc quan. Và kèm theo đó là phương cách thoát Khổ. Bi quan làm sao được khi mà cái Khổ của ta sẽ tự lùi sụt đi vì ta sẽ thấy nó chẳng thấm vào đâu so với biết bao kẻ bất hạnh khốn khổ khác, lại nữa, nhờ chiêm nghiệm sâu xa về khổ đau mà các tâm bất thiện dần lui đi và thay vào đó là các tâm Từ-Bi-Hỷ-Xả như vừa bàn ở trên. Và khi học hỏi thêm về các định luật, ta sẽ thấy rằng khổ đau không thật có – thiết tưởng không có thuyết nào lạc quan hơn.
            Nói tóm lại, KHỔ là vấn đề trọng đại mà đa số chúng ta không ý thức hoặc chỉ hiểu biết hời hợt về nó. Ở bước đầu ta cần phải thấy Khổ ở khắp mọi nơi, nhìn trước nhìn sau nhìn trong nhìn ngoài, ở đâu cũng thấy Khổ, sự việc gì cũng thấy Khổ, không có gì thoát khỏi Khổ. Sau đó ta có thể tự kiểm điểm: nếu tâm Tham-Sân-Si không giảm, tâm Từ-Bi-Hỷ-Xả không tăng, tâm Kiêu Mạn vẫn vậy, nếu vẫn còn thấy hạnh phúc ở cõi Ta-bà, vẫn còn an nhiên lo hưởng thụ mà chưa thấy sự cấp bách của việc thoát Khổ - tức là ta vẫn chưa hiểu KHỔ.


0 comments:

Post a Comment