Saturday, July 3, 2010

PHIỀN NÃO LÀM SAO TRÁNH ?


Bạn sẽ làm gì khi cuộc sống trao cho bạn những phiền toái không thể ngờ? Khi những dự tính không theo ý muốn? Bạn có chấp nhận nó như là thực tế của cuộc sống và hiểu cuộc sống thỉnh thoảng là như vậy? Hay là, bạn sẽ bắt đầu phàn nàn về tất cả những bất công ấy? Có lẽ bạn sẽ giống một bác nông dân nọ trong quá trình gắng sức tìm cách tránh né những điều phiền não đã tìm thấy lời khuyên của Phật.

câu chuyện ấy nói về một bác nông dân luôn phàn nàn. Bác kể với Phật rằng cuộc sống của bác khó khăn làm sao.Nào là dường như thời tiết chẳng bao giờ thuận theo ý muốn của bác, khi thì hạn hán, khi thì lũ lụt, làm cho mùa màng thường thất bát. Bà vợ của bác cũng thế, dù là một phụ nữ tử tế, nhưng cứ càm ràm bác hoài, và gần đây thì lũ trẻ lại tỏ ra vô ơn với những gì bác đã làm cho chúng. Hơn nữa, những người hàng xóm thì cứ ngồi lê đôi mách và chọc mũi vào công việc của bác.

Bác nông dân kết thúc một loạt những phàn nàn, ngước nhìn Phật mong ngài giúp cho một giải pháp và thật ngạc nhiên khi thấy Phật nói không thể giúp gì cho bác. Theo ngài thì chúng sanh có 83 điều phiền não và cuộc sống diễn ra như thế. Trong khi mình đang gắng sức giải quyết những phiền não này, thì những phiền não khác lại nảy sinh. Nghe những điều này, bác nông dân càng khó chịu hơn, bác hỏi: “Vậy có điều gì hay ho trong những lời giáo huấn của ngài?” Phật đáp “Giáo pháp của ta không giúp ông giải quyết được 83 điều phiền não, nhưng có thể giải quyết điều phiền não thứ 84”. “Đó là gì thưa ngài?” Bác nông dân hỏi. Phật nói: “Điều phiền não thứ 84 là ông không muốn có bất kỳ một phiền não nào”

Điều này không lạ lùng gì phải không? Bạn có trải qua điều phiền não thứ 84 này và tự làm mình khốn đốn hơn là thực chất của những phiền não bạn đang có không? Nếu vậy thì tin vui cho bạn là phiền não này có thể giải quyết được đấy. Tất cả mọi điều bạn có thể làm là học cách chấp nhận cuộc sống như chính nó vốn có, khó khăn và tất thảy.

Chấp nhận cuộc sống có những phiền não không có nghĩa là buông trôi trong tuyệt vọng. Mà đơn giản hãy quán rằng đã là loài hữu tình thì không thể tránh được những nỗi khổ và đó là chuyện rất thường. Ngay thật sự chính những người “vinh hoa phú quí” mà chúng ta tưởng tượng cũng gặp đầy những phiền não mà cuộc sống trao cho, chúng ta nhận ra được điều đó khi có một bi kịch giáng xuống họ. Lúc đó chúng ta ngạc nhiên rằng sao mà họ giống chúng ta đến thế. Phiền não đó cảm hóa họ, và chúng ta thấy rằng mọi người đều giống nhau trong cuộc chơi này.

Một khi chúng ta chấp nhận tính tất yếu của phiền não, cái thách thức chính là cứ tiếp tục bận tâm đến những phiền não mà ta có. Sự tồn tại tất yếu của những phiền não không có nghĩa là có một số phiền não không thể giải quyết, và chúng không bao giờ buông tha.

Lần sau nếu bạn đang u buồn với những phiền não của cuộc sống, hãy nhớ đến điều phiền não thứ 84. Chấp nhận rằng cuộc sống luôn có những phiền não, bạn đã loại bỏ đi bớt một điều phiền não phải đương đầu rồi

http://my.opera.com/DANGLAM/blog/show.dml/4773601

HÃY NHÌN LẠI ......!

Phần lớn những khổ đau của ta phát sinh từ liên hệ giữa ta với người thân hoặc những người xung quanh. Người đó có thể là người bạn hôn phối của ta hay là con của ta, hoặc cha mẹ, anh, chị, em, thầy hay là huynh đệ của ta.... Nguyên nhân nào đã gây nên khó khăn trong những mối quan hệ ấy?

Mất chánh niệm. Do không giữ được niệm mà ta cứ sống nông nổi, không tiếp xúc sâu sắc với những gì xung quanh ta trong mỗi phút giây của đời sống. sống trong quên lãng, không duy trì được sự thực tập miên mật. Ta quên bẵng đi sự có mặt của những người thương, những người xung quanh ta. Sống với ta mà họ có cảm tưởng như đối diện với một bức tường, hoặc còn tệ hơn sống với người dưng nước lã. Hoặc ta có quan tâm, nhưng chỉ để lấy chiếu, lấy lệ, chưa được sâu sắc lắm. Quan tâm kiểu như vậy, chẳng thà đừng quan tâm. Càng quan tâm càng khiến người khác tổn thương. Thiếu nội dung của sự quan tâm, ta đâu thấy được những vết thương của những người bên cạnh. Ta cứ ngang nhiên chọc vào vết thương ấy bằng lời nói, hành động theo tập khí của mình. . Thử hỏi hạnh phúc và bình an làm sao có được nơi ta, nơi người. Chẳng những hạt giống tốt mỗi ngày mỗi lụi tàn, mà hạt giống xấu thì tha hồ mà “tươi tốt”. Nhưng vì thiếu chiều sâu của đời sống tâm linh, chẳng thấy được “công đóng góp phần lớn” vào đổ vỡ ấy là của mình. Ta tiếp tục lý luận theo thói quen để đổ lỗi cho người
kia. Dù vẫn biết lý luận có hay đến mấy cũng chẳng đem lại kết quả gì mà càng làm cho hố ngăn cách giữa ta với người thêm rộng, nhưng ta vẫn tiếp tục lý luận. Hiển nhiên là nội kết sẽ hình thành nơi ta và nơi người - Nội kết là những khổ đau do lâu ngày không chuyển hoá được, kết lại thành khối trong chiều sâu tâm thức; nó thầm điều khiển mọi hoạt động của chúng ta. Và ta không muốn nhìn mặt người, người cũng không muốn thấy mặt ta. Sự chán ghét thể hiện rõ rệt trên khuôn mặt của cả hai. Không hạnh phúc khi gặp nhau thì đâu muốn gặp nhau. Cũng như không biết sử dụng ái ngữ khi nói chuyện với nhau nên ta cảm thấy không có hạnh phúc. Không có hạnh phúc thì sẽ không có mong muốn, hứng thú lắm để nói chuyện với nhau.

Có đôi lúc chúng ta cũng biết nhìn lại những lỗi lầm của chính mình, nhưng lại để cho tâm mình rơi vào trạng thái dằn vặt bởi mặc cảm tội lỗi mà không phải là sự ăn năn. Dằn vặt là thứ hối hận không có lợi. Trong 51 tâm sở, có tâm sở gọi là hối. Đây là tâm sở bất định, vì nó có thể xấu hoặc tốt. Nó là tâm sở thiện khi nó có nghĩa là sám – là khả năng nhận diện được những lỗi lầm và quyết tâm không lập lại. Còn nếu chỉ là mặc cảm tội lỗi, luôn đeo sát mình thì nó là tâm sở bất thiện. Dằn vặt tạo ra sự khổ đau. Dằn vặt tạo ra sự dày vò. Cụ thể trước thực trạng khó khăn của bản thân và mối quan hệ với người khác ngày thêm xấu, ta nghĩ rằng, không còn cách để chuyển hoá, để vượt thoát lên được. Ta hết hy vọng. Tâm tư ta bị tràn ngập bởi cái buồn, cái chán và cái lo âu. Buồn vì không thấy được niềm vui trong cuộc sống, ta sinh ra chán nản không còn nghị lực để đi tới. Buồn và chán là năng lượng tiêu cực làm ta khổ đau và không còn muốn sống. Lo âu vì chưa biết cách chuyển hoá nghiệp cũ .Thế nên .



Người biết cười là người biết nghệ thuật sống vui. Hẳn nhiên không phải chỉ có nụ cười mới tạo nên nghệ thuật sống vui. Nhưng nó là công cụ rất đắc lực giúp cho đời sống mỗi người thêm đẹp. Một ánh mắt, cái nhìn kèm theo nụ cười dễ thương luôn tạo được thiện cảm. Ta đang mơ màng, phiêu lãng, nụ cười ý thức giúp ta quay về hiện tại, quay về với chính ta. Nụ cười ý thức là niềm vui, là tình thương, là hạnh phúc. Nếu nụ cười kết hợp với hơi thở ý thức thì nụ cười sẽ thật hơn, nhẹ nhàng hơn và bền bỉ hơn. Nụ cười như vậy làm ta vui lên lập tức. Những căng thẳng trên khuôn mặt được thư giãn, những nếp nhăn trên trán được xoa dịu. Những phiền muộn trong tâm được vơi bớt. Nếu ta thường xuyên đem tặng nụ cười ấy cho những người thương của mình, những người xung quanh mình thì chắc chắn khoảng cách giữa ta và người sẽ được rút ngắn lại.


http://my.opera.com/DANGLAM/blog/hay

NỔ LỰC CÔNG PHU

Thật cũng lạ. Có những người làm việc mà cũng chẳng rõ công việc của mình là gì. Giống như con buôn, những kẻ ngày đêm lăng xăng bận rộn lo cho chuyện buôn bán của mình đến nỗi đêm ngủ không yên giấc. Đó gọi là thức khuya dậy sớm lăng xăng vì đồng tiền. Cho đến những kẻ sĩ, nông, công, thương, bởi vì muốn thành công nên không còn tự chủ, phải thức khuya dậy sớm.

Là người tu Đạo, chúng ta cần phải thức khuya dậy sớm, không vì lợi mà bận rộn cũng chẳng vì danh mà lăng xăng. Mình phải vì Pháp mà bận rộn. Mình phải "Túc dạ phỉ giải, dĩ sự chư Phật" nghĩa là ngày đêm không mệt mỏi phụng sự chư Phật. Mình phải dậy sớm thức khuya ngày ngày lễ Phật, tụng kinh để biểu thị tâm trung thực, lòng chân thành của người con Phật. Đây không phải là lòng nghĩ một đằng mà miệng nói một nẻo, hoặc nói mà không làm.

Khi lạy Phật phải chuyên tâm thành ý, vì lạy Phật có thể tiêu trừ tội chướng. "Phật tiền đảnh lễ tội diệt hà sa," nghĩa là đảnh lễ trước mặt Phật tiêu tội nghiệp nhiều như cát sông Hằng. May rằng tội không có hình tướng, nếu như có thì sẽ nhiều như cát trên sông Hằng vậy. Do đó mình phải thức khuya dậy sớm lễ Phật, niệm Phật, cầu cho tội chướng của mình tiêu trừ; mình nên vì Pháp mà bận rộn.

Thật khó mà đo lường bản tính của chúng sanh. Ví như những kẻ thích ăn ngọt mà cho họ đồ chua thì họ không thích, không vui. Kẻ thích đồ chua mà cho đồ ngọt thì y lại chẳng vui mừng. Đối với hạng người như vậy, nếu không biết phẩm tánh của họ thì khó có thể độ họ được. Bởi vì Phật có trí huệ, Ngài biết được căn tánh của chúng sinh, nên tùy nghi ứng hóa, bôn ba không ngại lao khổ để độ chúng sinh. Song le, chúng sinh không những chẳng sinh lòng cảm động, lại còn chẳng chịu tiếp thọ sự dạy bảo của Phật Bồ-tát. Cho nên nói rằng: "Chúng sinh nan độ phả kham thương." Nghĩa rằng chúng sinh khó độ chẳng đáng thương sao? Chữ "thương" ở đây có nghĩa là bi thương. Vì chúng sinh ngu muội, điên đảo nên chư Phật Bồ-tát mới sinh lòng xót thương vậy.

Tại sao chúng sinh lại khó độ như vậy? Đó là bởi "mê chư trần lao tánh điên đảo." Nghĩa là bị trần lao làm cho mê hoặc, điên đảo. Đó là lời giải đáp. Bởi vì chúng sinh, trong vô lượng kiếp đã bị lục trần làm cho nhiễm ô sâu đậm. Lặn hụp trong biển khổ, triển chuyển trầm luân, điên đảo, ngược ngạo, lấy sự khổ làm niềm vui, lấy điều sai cho là đúng. Ví như ngày nay con người ưa thích ăn mặc theo thời trang, chẳng những không có chút trang nghiêm nào mà còn sinh ra nhiều hậu quả không tốt về sau. Người đời ai ai cũng biết nhưng đều phạm vào cái lỗi đó. Ai ai cũng tranh giành, ganh đua, không biết rằng biển khổ thì vô biên, nhưng quay đầu thì sẽ tới bến. Cũng giống như những võ khí chiến tranh bây giờ, loài người chẳng những không hủy bỏ chúng đi mà còn mỗi ngày tìm cách làm cho chúng thêm tinh xảo, nổ lực phát minh ra những thứ giết người cho thật tối tân, thật tinh vi. Quý-vị xem, đây không phải là chuyện điên đảo thì là gì?

Bởi vì sự điên đảo của chúng sinh cho nên tất cả các vị thánh nhân, thiện-tri-thức đều hết lòng khuyên dạy chúng sinh; giống như người lớn dạy đứa trẻ con, kéo tai mà huấn dụ. Dù vậy, chúng sinh cũng chẳng chịu nghe theo; thậm chí còn tìm trăm phương nghìn cách để che dấu tội lỗi của mình, không cho kẻ trên biết. Đây thật chính là "Nhĩ đề diện mệnh hóa vô phương." Nghĩa là kéo tai, chỉ vào mặt để dạy nhưng cũng không sao dạy được.

Ôi! Bản lĩnh phạm tội của chúng sinh thật vô song; ngay đến Phật Bồ-tát còn cảm thấy khó độ chúng sinh. Quý-vị thấy có thật đáng bi thương chăng?


http://my.opera.com/DANGLAM/blog/no-lu

HỌC PHẬT BẰNG CÁCH NÀO ?

Hỏi học Phật bằng cách nào, tức là hỏi đến phương pháp học Phật. Ở thế gian môn học nào cũng có phương pháp riêng của nó. Ví như môn toán học, người học trò trước phải biết số, kế học thuộc cửu chương, học cách cộng trừ nhân chia, lên nữa phải học công thức, phương trình v.v...


Môn văn chương, trước phải biết chữ cái, học ráp vần, viết chính tả, học văn phạm, tập cách làm văn v.v... Phương chi Phật pháp là môn học giác ngộ, mà không có phương pháp riêng của nó hay sao?

Phương pháp học Phật tức là ba môn tuệ học: Văn tuệ, Tư tuệ, và Tu tuệ. Bởi vì muốn vào cửa giác ngộ không phải anh tướng trí tuệ thì không sao vào được. Phật pháp là chân lý là những sự thật, nếu không có ngọn đuốc trí tuệ soi sáng, làm sao chúng ta thấy mọi sự thật ở chung quanh, không cần trí tuệ, chỉ dùng lòng tin đến với đạo Phật, để học Phật pháp, thật là sai lầm lớn lao.

Ðây là chứng bệnh trầm trọng của Phật tử hiện thời. Cần chữa lành bệnh này, chúng ta phải ứng dụng triệt để ba môn tuệ học vào công trình tu học Phật pháp.

Thế nào là Văn tuệ?

Văn là nghe, do nghe giáo lý Phật pháp trí tuệ mở sáng, gọi là Văn tuệ. Chúng ta nghe Phật pháp qua lời giảng dạy của chư tăng, của thiện hữu tri thức đã tu học trước ta. Những lời giảng dạy ấy xuất phát từ kinh điển của Phật, trong đó chứa toàn lời lẽ chân chính, chỉ bày mọi sự thật cho chúng sinh.

Càng nghe trí tuệ chúng ta càng sáng. Hoặc chúng ta trực tiếp đọc kinh sách Phật, khiến mở mang trí tuệ cũng thuộc Văn tuệ. Chịu khó nghe giảng dạy, ch?u khó nghiên cứu kinh sách Phật, đó là người biết từ cửa Văn tuệ tiến thẳng vào ngôi nhà Phật pháp.

Thế nào là Tư tuệ?

Tư là suy xét phán đoán, do suy xét phán đoán những lời dạy trong Phật pháp, trí tuệ càng tăng trưởng. Chúng ta được nghe lời chỉ dạy của thầy bạn, dẫn từ trong kinh Phật ra, song nghe rồi tin liền là chưa đủ tư cách học Phật. Buộc chúng ta phải dùng trí phán đoán xem đúng hay sai, nếu quả thật đúng, từ đó chúng ta mới tin. có thế mới thực hành đúng câu "các người phải tự thắp đuốc lên mà đi, thắp đuốc lên với chính pháp", trong kinh Pháp Cú. Chúng ta muốn mở mang trí tuệ, song tự mình làm sao mở được, phải mồi ngọn đuốc trí tuệ của mình với ngọn đuốc chính pháp của Phật, trí tuệ mới phát sáng.

Mồi bằng cách nào?

Ví như chúng ta nghe vị Sư giảng rằng: "Tất cả thế gian đều là vô thường." Sau đó phải dùng trí tuệ của mình phán đoán xem đúng hay không. Chúng ta tự đặt câu hỏi: tất cả thế gian đều là vô thường, có sự vật nào thoát ngoài luật lệ ấy chăng? Nếu có, câu nói này chưa phải chân lý. Bằng không, mới thật đúng chân lý, chúng ta sẽ hoàn toàn tin. Thế rồi, ta tự khảo sát :

Con người có phải vô thường không? Từ ông bà đến cha mẹ chúng ta đều có sinh ra, lớn lên, bệnh hoạn, già yếu rồi chết. Kể luôn cả ta, khi nào còn nhỏ bé, lớn lên, bệnh hoạn, già yếu, rồi cũng sẽ chết. Trong gia đình thân tộc chúng ta đã thế, ngoài xã hội cũng thế, cả nhân loại trên thế giới cũng thế; ngàn xưa là thế, mãi sau này cũng thế. Quả là con người vô thường.

Ðến những sự vật, nào nhà cửa, bàn ghế, xe cộ... có bị vô thường không? Chính cái nhà của mình, khi mới cất thì tốt đẹp lành lặn, qua vài ba năm thấy cũ dần, đến năm mười năm thì hư sập. Cái bàn viết cũng thế, khi mới đóng xem bóng loáng tốt đẹp, dùng mấy năm thấy đã cũ, tróc sơn khờn mặt, rồi đây sẽ mục nát hư hoại. Chiếc xe đạp khi mới mua đem về mới toanh, chạy được một năm vỏ đã rách, cổ lỏng, các con ốc lờn... vài năm nữa sẽ hư.

Thế là, nhà cửa, bàn ghế, xe cộ... những vật cần dùng bên cạnh chúng ta thảy bị vô thường chi phối. Cho đến trăm ngàn vật khác, nếu khảo sát đều thấy đồng một số phận như nhau.

Chúng ta có thể kết luận rằng: "tất cả thế gian là vô thường", quả thật là chân lý. Ta tin chắc lẽ này, dù có ai nói khác đi, cũng không làm lay động được lòng tin của ta. Bởi lòng tin này đã được gạn lọc qua sàng lý trí, nên nó vững chắc không dễ gì làm lung lay.

Lại một thí dụ, chúng ta nghe vị Sư giảng lý luân hồi, bảo rằng: "Muôn vật ở thế gian đều xoay quanh vòng luân hồi." Ta tự đặt câu hỏi: Tại sao muôn vật đều luân hồi? Có vật nào không luân hồi chăng? Chúng ta bắt đầu xét từ thực vật:

Cây cối thành hình bắt nguồn từ hạt, hạt nẩy mầm tăng trưởng thành cây, nở hoa, kết trái; trái sinh hạt, hạt lại nẩy mầm... lộn đi đảo lại không cùng. Song đó là sự lộn đi đảo lại từ cây này sang cây khác, ngay bản thân cây ấy có đảo lộn vậy không? Cũng lộn đi đảo lại như thế. Thân cây hiện sống đây, do châm rễ hút đất nước... nuôi dưỡng mới được sinh trưởng, dần dần thành đại thọ. Rễ hút đất nước nuôi dưỡng thân cành lá, lá rụng biến thành phân đất, cành gãy mục cũng thành phân đất, thân cây ngã mục cũng trở về đất nước. Thân cây nhờ đất nước sinh trưởng, khi ngã mục lại trở về đất nước.

Nước do ánh nắng bốc thành hơi, hơi lên cao gặp khí lạnh đọng lại, rơi xuống thành nước; nước lại bốc hơi... mãi mãi không cùng.

To như quả địa cầu vẫn quay tròn quanh cái trục, sáng rồi tối, tối lại sáng. Căn cứ vào sự quay tròn của nó, người ta chia ra ngày giờ tháng năm, thời tiết xuân hạ thu đông, xoay vần thế mãi không cùng.

Do sự khảo sát trên, chúng ta khẳng định rằng "muôn vật ở thế gian đều xoay quanh vòng luân hồi", là sự thật không còn gì phải nghi ngờ.

Trên đây tạm cử vài thí dụ làm căn bản cho công cuộc suy xét phán đoán Phật pháp. Căn cứ vào đây, chúng ta phán xét những lời Phật dạy, hoặc chư tăng dạy trong những trường hợp khác. Có thế, mới phân biệt được chính tà và mới đúng tinh thần người học Phật.

Thế nào là Tu Tuệ?

Sau khi phán xét lời Phật dạy là đúng, chúng ta đem áp dụng trong cuộc sống hằng ngày của mình, khiến chính lý càng bày hiện sáng tỏ, là tu tuệ. Ví như, đã biết rõ "tất cả thế gian là vô thường", chúng ta ứng dụng sự vô thường vào đời sống của mình, trong những trường hợp như sau:

Ðã biết rõ thế gian là vô thường, khi gặp vô thường đến với bản thân, với gia đình ta, ta vẫn giữ bình tĩnh không hốt hoảng hãi sợ. Vì biết chắc điều đó ở thế gian không ai tránh khỏi, sợ hãi kinh hoàng chỉ làm rối thêm vô ích. Bởi không sợ nên tâm ta bình tĩnh sáng suốt, giải quyết mọi việc một cách tốt đẹp. Chúng ta vẫn đủ sáng suốt để khuyên giải cho những người đồng cảnh ngộ bớt đau khổ.

Biết rõ thế gian là vô thường, mọi sự tranh giành danh lợi, tài sắc... lòng ta nguội lạnh. Tranh giành những thứ tạm bợ ấy làm gì, để rồi chuốc khổ về mình, gây đau khổ cho người, rốt cuộc chỉ thành việc mò trăng bắt bóng. Lòng tham lam giành giật dục lạc thế gian, do đây dứt sạch.

Do thấy rõ lẽ vô thường, chúng ta không thể ngồi yên chờ chết. Phải cố gắng làm mọi việc lành, nếu cơn vô thường đến, chúng ta có muốn làm cũng không sao làm được. Lại biết quí tiếc thời giờ, một ngày qua rồi không tìm lại được, phải cấp bách nỗ lực làm lợi mình lợi người, không thể chần chờ.

Ðó là ba trường hợp do biết "thế gian vô thường", chúng ta khéo ứng dụng tu hành trong cuộc sống hiện tại của mình. Bao nhiêu sự lợi ích tốt đẹp sẽ theo đó mà tăng trưởng. Sự tu hành ấy, đi đôi với tâm trí tỉnh táo sáng suốt, nên gọi là "Tu tuệ".

Ví dụ khác, chúng ta nhận rõ "muôn vật luân hồi", liền ứng dụng lý luân hồi vào cuộc sống của mình. Nếu phải luân hồi, chúng ta chọn cái luân hồi nào tốt đẹp an ổn hơn. Ví như, biết các loài thảo mộc từ hạt nẩy mầm, sinh trưởng thành cây, đơm hoa, kết quả; hạt lại nẩy mầm... Chúng ta nên chọn lựa hạt tốt giống ngon đem ương, để sau này kết quả ngon, cho ta và mọi người được thưởng thức vị ngon. Cũng thế, trong vòng luân hồi bản thân ta cũng không thoát khỏi, ta cần tạo những nhân tốt, nhân an vui, để mai kia có lăn lộn cũng lăn lộn trong chỗ tốt, chỗ an vui.

Ðã biết muôn vật luân hồi, chúng ta phải tìm xem nguyên nhân nào lôi cuốn vào trong ấy. Biết rõ nguyên nhân rồi, phải tìm cách thoát ra ngoài vòng luân hồi. Không đầu hàng khuất phục, để chịu lăn mãi trong luân hồi. Như các nhà khoa học nghiên cứu biết sức hút của quả đất, sau đó tìm cách chế phi thuyền đủ sức mạnh vượt ra ngoài vòng hút của quả đất, đi thẳng vào quĩ đạo v.v... Biết luân hồi để tìm cách thoát ra, chính là tinh thần "Tu tuệ".

Văn tuệ, Tư tuệ rất cần thiết, song Tu tuệ lại càng quan trọng hơn. Nếu có văn tuệ, tư tuệ mà thiếu tu tuệ thì chỉ là tuệ rỗng, không lợi ích thiết thực cho đời sống con người. Nhờ tu tuệ mới thẩm định được giá trị văn, tư ở trên và giúp cho văn, tư được kết quả viên mãn.

Vì thế, đức Phật dạy hàng Phật tử đi chùa là cốt gặp Sư tăng, Sư ni, gặp Tăng ni rồi cần phải thưa hỏi Phật pháp, thưa hỏi xong phải ghi nhớ, ghi nhớ rồi cần phán xét, phán xét rồi phải tiến tu. Ðược vậy mới đúng tinh thần Phật tử (Phỏng theo bài kinh Ma-ha-nam trong Tạp A-hàm). Bồ-tát Quán Thế Âm cũng trình với Phật, thuở quá khứ lâu xa Ngài gặp Phật dạy tu phương pháp văn, tư, tu được vào chính định và cho hiệu là Quán Thế Âm (Kinh Lăng Nghiêm).

Chính trong giới Bồ-tát, Phật cũng dạy "dù ở xa trăm ngàn dặm, nghe có người nói kinh luật, người mới thọ giới Bồ-tát cũng phải mang kinh luật đến đó học (Kinh Phạm Võng). Quả nhiên đức Phật không chấp nhận đệ tử tu hành tối dốt, phải đầy đủ ba môn Tuệ học, mới xứng là đệ tử của Ngài.

Ba môn Tuệ học này hoàn toàn thích hợp với tinh thần khoa học hiện nay. Bất luận môn học nào, trước tiên học lý thuyết, kế phê bình lý thuyết, sau thí nghiệm hay thực hành lý thuyết. Lý thuyết tức là văn tuệ, phê bình tức là tư tuệ, thí nghiệm tức là tu tuệ.

Có như vậy môn học mới tiến bộ và phát minh những điều mới lạ.

Tuy nhiên, về mục tiêu chính yếu Phật học vẫn khác khoa học. Khoa học cốt phát minh mọi sự thật của ngoại giới, chinh phục giành quyền làm chủ thiên nhiên, bắt thiên nhiên làm theo ý muốn con người, để tạo vật chất dồi dào sung túc cho nhân loại.

Phật học xoay lại ngự trị bản thân mình, gạn lọc đào thải những tâm thức nhơ xấu, kiến tạo một tâm hồn trong sáng an vui tự tại. Bởi khoa học gây tạo điều kiện vật chất dồi dào, nên con người dễ tranh đua giành giật kình chống lẫn nhau, Phật học cốt xây dựng tâm hồn trong sáng, nên người biết tu theo, lòng sẽ mở rộng thương yêu bảo bọc lẫn nhau.Vì thế, ba môn tuệ học đều đặt căn cứ trên nguyên tắc "xem lại chính mình".

Nắm vững nguyên tắc này, đọc kinh sách Phật, chúng ta nhận định phán xét không bị sai lẫn.

HT. Thích Thanh Từ

http://my.opera.com/DANGLAM/blog/2010/03/29/hoc-phat-b