Tu là giải tỏa bệnh tật, những cù cặn trong tâm sạch hết, đó mới là pháp lực từ công đức hành trì. Cho nên các con phải hành trì, có công đức mới hóa giải được phiền muộn trong đời này và những đời sau. Ni chúng cố gắng phát huy tâm Phật của chính mình, tin vào chất Phật trong ta để nỗ lực phấn phát trí tuệ nơi mỗi người. Chúng ta đã chọn pháp môn tu thiền, đi đúng tinh thần của Hòa thượng Trúc Lâm, được sự ủng hộ của đạo tràng Phật tử, có được phương tiện tu hành tối thắng như thế này, mong đại chúng cố gắng làm sao bước được những bước thật vững. Đây là giai đoạn ban đầu, nếu ai hơi chao đảo một chút thì các duyên khác xen vô sẽ thấy ngán, thối tâm. Do đó các con đừng bao giờ bỏ thêm thứ gì vào gánh của mình, bởi đã quá nặng lắm rồi.
Saturday, December 31, 2011
CÁCH TRỊ PHIỀN NÃO - HT Thích Nhật Quang
Tu là giải tỏa bệnh tật, những cù cặn trong tâm sạch hết, đó mới là pháp lực từ công đức hành trì. Cho nên các con phải hành trì, có công đức mới hóa giải được phiền muộn trong đời này và những đời sau. Ni chúng cố gắng phát huy tâm Phật của chính mình, tin vào chất Phật trong ta để nỗ lực phấn phát trí tuệ nơi mỗi người. Chúng ta đã chọn pháp môn tu thiền, đi đúng tinh thần của Hòa thượng Trúc Lâm, được sự ủng hộ của đạo tràng Phật tử, có được phương tiện tu hành tối thắng như thế này, mong đại chúng cố gắng làm sao bước được những bước thật vững. Đây là giai đoạn ban đầu, nếu ai hơi chao đảo một chút thì các duyên khác xen vô sẽ thấy ngán, thối tâm. Do đó các con đừng bao giờ bỏ thêm thứ gì vào gánh của mình, bởi đã quá nặng lắm rồi.
Ma vọng tưởng
Các cuồng vọng như thế, làm rối tâm động niệm, trái với chân thể thanh tịnh của mình. Vì thế, người sơ cơ học đạo phải biết mà ngừa dứt nó.
Hương quê thoảng trăng sao,
Tình quê miền bất nhị. Hư không trải gấm hoa,
Người quê một mình đi ! Gió ngát hương giải thoát,
Hoa đơm đóa từ bi.
Tuyết tuôn thành định lực,
Trăng soi bất tư nghì. Một tiếng quát !
Câu Chuyện Nhân Duyên
Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ,Vô duyên đối diện bất tương phùng. Âu đó cũng là sự thường, để mọi người đến được với nhau, để mọi sự đến được với mọi sự và người người hữu duyên với mọi sự. Giống như câu chuyện tôi sắp kể dưới đây,đều bắt đầu từ duyên.
Mỗi buổi sáng ngày Tết nguyên đán, có một vị khách viễn xứ về thăm quê nhà. Vị khách đã đến chùa Kim Liên (Nghi Tàm, Hà Nội) lễ Phật, vãn cảnh chùa. Trong sân chùa, một bé trai nhỏ đang ngồi trên chiếc xe bé xinh chơi cùng mẹ như để hưởng được phúc ấm đầu năm. Bỗng đâu, một bé gái cùng đi lễ với gia đình, bước vào cửa chùa. Thấy có em bé, cô bé chạy ùa tới rồi đẩy chiếc xe nôi chạy chơi quanh sân chùa. Trong sáng, hồn nhiên như những thiên thần, chúng vui đùa với nhau như thể đã thân từ nhiều năm trước. Đó chẳng là duyên sao? Vị khách thấy cảnh đó bất chợt thốt lên: “Hai đứa bé này thật có duyên với nhau. Không biết sau này chúng có gặp lại nhau không nhỉ?”.
Nghe thấy vậy, bỗng tôi nhớ về câu chuyện cách đây hơn 30 năm, khi tôi còn rất trẻ. Năm đó tôi mới chừng đôi mươi.
Phải nói thêm rằng, từ nhỏ tôi cũng đã có chút nhân duyên với Đạo Phật, thường xuyên được đi chùa với bà ngoại, theo bà đi làm những việc công đức nhà chùa, ngồi tụng kinh cùng bà….Về duyên, thì như vậy tôi cũng đã bắt đầu được tạo nhân đạo Phật trong tâm trí từ ngày ấy. Thế rồi, khi đã có chút nhận thức, có chút lý lẽ trong đầu, mọi chuyện đã không còn đơn giản. Cuộc sống thực tế khách quan đã tác động tới trực giác của tôi, khiến nhiều thắc mắc về Đạo phật nảy sinh.
Nếu chẳng phải duyên, thì sẽ chẳng có sự trở lại của người thứ hai để “dẫn dắt” tôi đến với Đạo Phật, điều mà cho đến hôm nay, sau 31 năm tôi mới nhận ra. Dạo đó, sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tôi cùng với bố vào TP.Hồ chí Minh (ngày ấy vẫn còn mang tên Sài gòn) thăm các bác (anh ruột của bố). Trong số các anh chị em, có một người anh họ, người mà tôi luôn yêu quí và kính trọng, đã khai tâm cho tôi ít nhiều về Đạo Phật. Ông đã nghiên cứu, thực hành Đạo Phật và Thiền nhiều năm, nên kiến thức thừa đủ để giải thích cho đứa em mới “nứt mắt” như tôi. Và câu chuyện của anh em tôi với Đạo Phật bắt đầu từ đó.
Bố tôi, xa gia đình bên nội đã lâu, còn tôi lần đầu tiên gặp họ, đáng lẽ có khối chuyện để nói với nhau, nhưng quả thực, tôi không biết từ đâu khiến câu chuyện lại dẫn anh em tôi đến Thiền và Đạo Phật. . . Anh tôi nói rằng, Đạo Phật là giúp cho con người ta thoát khỏi mọi nỗi khổ. Ông giải thích cho tôi mọi điều. Nào là nhân – quả, nào là duyên sinh, luân hồi… ông còn khuyên tôi, nếu có ai đó không tốt với mình, có thể mình không giao thiệp với họ nữa, mà lòng không thù hận gì, khi ấy mình sẽ thấy thanh thản vô cùng. . . Rồi anh tôi nói rằng, con người ta vì cảm nhận được cái ngon, cái đẹp mới đem lòng mê đắm và từ đó mới sinh lòng tham muốn chiếm hữu thành của mình, thế mới có giành giật, đánh giết lẫn nhau để mà chiếm hữu, mới sinh lòng căm ghét, thù hận… vân vân. Nếu bây giờ mình thấy đẹp nhưng chẳng màng, thấy ngon chẳng thèm. . . , thì đâu cần phải tranh giành làm chi. Khi đó làm gì có chiến tranh, như thế sẽ sống thoải mái, nhẹ nhàng sung sướng. Sống ở cuộc đời mà tựa Niết bàn đó. Thế nên Đức Thế Tôn mới dạy: Không tận diệt năm uẩn (là sắc, thụ, tưởng, hành, thức) sẽ không đoạn tận được khổ đau.
Tôi đã không cho là như vậy và thắc mắc: Đã không chơi với người ta, có nghĩa là mình thù hận rồi còn gì, làm sao lại nói là không. Và rằng người ta không tốt với mình, hà cớ gì mình cứ phải nhịn, phải tốt với họ; Hay như phàm đã là con người thì phải có cảm xúc; Phải có yêu, có ghét, có tham vọng và phấn đấu . . . Rất nhiều thắc mắc nảy sinh đối lập với những gì anh tôi đã giải thích. Ngày đó tôi đã khẳng khái nói với ông rằng: Em thấy đạo Phật không tích cực chỉ toàn khuyên con người ta sống thụ động mà thôi. Khi đó ông nói: chừng nào cô thấy không còn “thắc mắc nữa, và cô nhận ra, tin tưởng rằng đạo Phật hoàn toàn đúng. Ấy là cô đã theo được Đạo Phật rồi đó.
Nghe anh tôi nói vậy, nhưng tôi chẳng để tâm. Và dẫu vẫn năng đi chùa với bà,với mẹ, nhưng để nhất tâm đến với Phật thì quả là chưa thể.
Thời gian thấm thoắt quan đi. Khi mái tóc đã điểm sương, và cuộc đời đã cho tôi thấy nhiều điều hơn, giao du rộng hơn và đặc biệt thực tế khách quan cũng được đập vào trực giác tôi nhiều mầu sắc, nhiều hoàn cảnh hơn…thì tôi đã nhận ra rằng anh tôi nói đúng.
Cuộc đời thật khó dự đoán. Tôi chợt nhớ tới một câu hát của Jay Livingston and Ray Evans: “Que sera sera? Que’ sera’ sera’? What ever will be, will be. The futures not ours to see…” – ( lời dịch) Biết ra sao ngày sau? Đời luyến lưu vui cười, khổ đau…Vì sắc duyên là sóng bể dâu… Nào ai biết ngay sau”..
Tôi đã hiểu ra nhiều. Theo giáo pháp của Đức Phật, thì con người ta sống ở đời tất thảy đều là nhân duyên. Và như vậy, là trong mỗi chúng ta, ai ai cũng đều hội tụ 12 nhân duyên: Vô Minh, Hành, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thụ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão và cuối cùng là Tử. Chiêm nghiệm từ câu chuyện của mình, tôi đã cảm nhận được điều đó.
Ví như cái duyên đã dẫn tôi sớm đến với Đạo Phật. Song vì Vô minh, nên đã chẳng nhận ra cái đúng của Đạo là vị tha, là xả, mà chỉ thấy cái dở của đời là chấp ngã, nên trong lòng luôn thấy bức xúc, bực bội. Thấy người ta không công bằng với mình thì đem lòng oán hận; thấy mình không được may mắn như người ta thì lấy làm phiền não; Luôn tự phụ, cho mình là giỏi hơn người nên đem lòng khinh miệt…
Từ sự Vô minh ấy mà hành không thuận, tạo nên ác nghiệp cho mình. Bởi luôn cảm thấy bất bình, cộng với bản tính cương trực, nên lời ăn tiếng nói không biết dung hoà. Kết quả là suốt một thời gian dài làm việc trong một cơ quan, tôi đã không được xem là người tiến bộ và không được hưởng những gì đáng lẽ mình được hưởng. Nhưng rồi mọi chuyện đã qua đi. Một cơ may, và cũng lại là nhân duyên đưa tôi sang một bước ngoặt khác trong cuộc đời. Đó là thời điểm tôi chuyển nghề. Tôi đã tưởng mình nằm mơ khi sang làm công việc mới, công việc mà suốt một thời trẻ tôi ngưỡng vọng, ao ước. Đến bây giờ tôi mới lý giải được vì sao tôi gặp được cơ duyên đó, âu cũng là nhân – quả mà thôi. Thân thiện, cư xử tốt với mọi người, đến khi mình cần, sẽ có người giúp đỡ.
Ở công việc mới, tôi có nhiều điều kiện đi đây, đi đó, học hỏi nhiều, mắt thấy tai nghe cũng lắm. “Đi một ngày đàng học một sàng khôn” là thế. Thêm nữa, mỗi độ tuổi, con người ta cũng có những thay đổi, nhận thức cũng khác, và dần dần tôi đã bớt sân hận, bớt đòi hỏi và đã biết thoả hiệp với cuộc đời… Có thể, vì đã nhận thức được lẽ đó, mà cuộc sống của tôi thật vui vẻ, thoải mái và cảm thấy lòng mình nhẹ nhàng hơn.
Và rồi mỗi ngày, duyên đến với Đạo Phật như càng gần với tôi, được lân mẫn với các vị tăng, ni để trao đổi, học hỏi; gặp gỡ nhiều Phật tử, được giới thiệu, thậm chí có cư sỹ còn tặng những cuốn sách quí về Đạo Phật… Đọc, chiêm nghiệm đã giúp tôi nhìn nhận lại mình rõ ràng hơn.
Cuộc sống thật khó khăn. Chẳng thể ngày một ngày hai mà đến được với Đạo Phật, chẳng phải đã đến rồi mà theo được. Theo rồi chưa chắc đã giác ngộ được …Tất thảy còn phải do duyên nghiệp mà nên. Ấy mới cần phải tu hành, và quan trọng hơn cả phải nhất tâm tin tưởng con đường mình chọn là đúng đắn, tin tưởng rằng, con đường ấy dẫu “xa” hay “gần” thì kiên trì sẽ tới đích. Đó chính là điều tôi nhận ra sau 30 năm, kể từ ngày hai anh em tôi trò chuyện với nhau về Đạo Phật.
Giờ đây, dẫu tôi chưa hiểu Đạo Phật bao nhiêu, và càng chưa tu tập được gì nhiều, bởi cuộc sống còn quá nhiều gian truân buộc mình phải đối mặt. Song, có một điều tôi đã thấy rất rõ ràng, trong cuộc sống hàng ngày, càng xả được nhiều, mình càng thanh thản và thấy cuộc sống có nhiều ý nghĩa.
Thích Châu Triêm
(theo duongvecoitinh)
Xuân trong lòng người tu sĩ
-
Trời đất luôn luân chuyển trong sự vận động Sinh, Tến, Dị, Diệt; khí tiết thay đổi trong sự giao hòa Xuân, Hạ, Thu, Đông; con người cũng bị chi phối bởi những giai đoạn sinh, lão, bệnh, tử
-
Cuộc đời là sự nối tiếp những cảm xúc, sinh - diệt giữa những cung bậc thăng - trầm, vui - buồn, được - mất, hạnh phúc và đau khổ, …v.v…mà trong triết học gọi là “sự mâu thuẫn nội tại” là tác nhân làm cho loài người có thể đạt đến sự thăng hoa trong tư duy, đạt đến sự phát triển vượt bậc. Chính vì lẽ đó mà truyền thống chư Phật chỉ xuất hiện ở cõi trái đất (Nam – thiện - bội - châu) này, vì chỉ ở cõi nhân loại chúng sanh mới có thể tu tập để đạt đến cõi Phi Tưởng với tuổi thọ 84000 kiếp trái đất và ngược lại cũng chính nơi đây con người cũng có thể bị đọa vào cõi A – Tỳ địa ngục với số tuổi thọ tương đương với cõi Phi Tưởng. Trong kinh Đức Thế Tôn có dạy “Sabbe sankhara anicca” chư hành vô thường. Hành (sankhara) là những vật do nhân duyên kết hợp thành[1][1]. Và tất cả những vật đó đều vô thường (anicca) tức luôn luôn thay đổi, biến chuyển, sinh diệt.
Trong ý nghĩa của dòng duyên sinh tương tục ranh giới giữa sinh – diệt là không ranh giới, ranh giới của sự giao hòa cũng thế, theo tiến trình sinh diệt của tâm thức thì một khảy móng tay hàng triệu dòng tâm thức đã sanh diệt, còn nói theo khoa hoc phương Tây các tế bào sinh diệt và tái tạo trong từng giây, từng phút; có nghĩa là chúng ta đã từ sinh – diệt trong từng giây, từng phút.
Triết học Phật giáo dựa trên nền tảng của “lý duyên sinh” vì có cái này thế nên có cái kia và cũng vì cái này mất đi nên cái kia cũng mất đi, cho nên Xuân đến cũng không phải là một sự ngẫu nhiên, mà bởi vì đất trời đã trải qua thời kỳ đông chí, là duyên để cho một mùa xuân ấm áp hiện sinh, cây cối sinh tươi nẩy lộc. Cho nên kiếp người chỉ là một giai đoạn trong vô vàn kiếp sống của vòng luân hồi sinh – tử, hết sanh lại diệt, hết diệt lại sanh. Không có gì là vĩnh hằng và cũng không có gì mất đi. Đời người chỉ là quán trọ, là hạt cát trong cõi sa mạc luân hồi sinh tử, cho nên chúng sinh thường chấp cái huyễn cho là thật, vô thường cho là thường còn, như trong bản dịch của ngài Huyền Trang có câu “色不異 空, 空不異色,色卽是空, 空 卽是色, 受,想,行,識亦復如是”.“sắcbất dị Không, Không bất dị Sắc; Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc.Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị.”[2][2] Chỉ với vài từ ngắn gọn đã hàm chứa một triết lý thâm sâu của Phật đạo về nhận thức bản thể vật chất, siêu thế của vũ trụ “vật chất dang hiện hữu vốn dĩ là không, là sự khế hợp của đất, nước, lửa, gió; của ngũ uẩn”. Nên khi ta nhìn sự vật ở tình trạng bản thể thì tứ đại giai không, pháp hành vốn là huyễn, mà huyễn thì chẳng có gì trường tồn vĩnh cửu. Nên chúng ta, những người con Phật, mang trọng trách “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh” sống trong sự yêu thương – bình đẳng để xóa tan đi những oan trái, hận thù, những pháp bất thiện, là động lực để mùa Thu úa tàn nhân loại phải kết thúc, xua tan đi một mùa đông giá lạnh của những ích kỷ, bỏn xẻn, tật đố, san tham…v.v… là duyên khai ngộ cho một mùa xuân nhân loại, làm cho cánh hoa ưu đàm của một miền miên viễn giải thoát, trong cõi nhân sinh tạm bợ này, như một thi sĩ Tây Phương đã thốt lên:
"We are visistors of planet,
We are here for minety or one hundred years,
At the very most,
During that period, we must try to do some thing good,
Sometihng useful with our lifes,
If you contribute to other people's happiness,
You will find the true goad,
The true meaning of life.""Nhân sinh quán trọ bên đường,
Trăm nằm chỉ một đêm trường chiêm bao,
Chỉ mong góp nhặt trăng sao,
Vẽ cho kiếp sống thêm màu sáng tươi,
Trăm năm ngắn ngủi kiếp người,
Chỉ mong mang đến nụ cười thế nhân,
Để trong giấc mộng mong manh,
Tìm ra hạnh phúc trong lành nơi tâm.Dịch thơ: Nguyễn Hoàng Lai
-
Tác giả: Đại đức Phước Định
[1] Từ điển Pali-English; sankhara: essential condition; a thing conditioned, mental coefficients.
[2] Trích từ câu thứ nhì trong bài “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh” (bài Tâm Kinh, bản dịch của Ngài Huyền Trang, gồm 270 chữ).
-
- (theo phatgiaonguyenthuy)