Friday, March 26, 2010

Lá Thư Tịnh Độ

Ấn Quang Pháp Sư Hòa Thượng Thích Thiền Tâm Dịch


Mấy Lời Bày Tỏ

Trong các hành môn của đức Phật đã chỉ dạy, môn nào cũng có pháp nghi riêng biệt, từ cách thờ cúng, lễ bái, trì tụng, sám hối, phát nguyện v.v... Như Mật Tông lại còn sự lập đàn, kiết ấn nữa.Riêng về tông Tịnh Độ, tôi thấy có nhiều người không biết nghi thức hành trì cho đúng pháp. Lại có những vị không hiểu nghĩa chữ Hán, thành ra khi trì tụng chỉ đọc suông theo thông lệ, khó phát lòng thành khẩn, không thể chuyển hướng tâm niệm của mình y như lời văn. Nghĩ vì dòng đời cứ mãi trôi qua, người sau càng ngày lại càng ít am hiểu văn từ Hán Việt, nên theo lời yêu cầu của một số đông, tôi soạn dịch nghi thức tu Tịnh Độ ra Việt văn để giúp bạn đồng tu.Về pháp nghi Tịnh Độ, có ba bậc: thượng, trung, hạ. Để không quá đơn giản và khỏi phiền toái, tôi căn cứ theo pháp nghi của ngài Từ Vân trong Tịnh Độ Thập Yếu, soạn dịch nghi thức theo bậc trung. Về cách trì danh, vẫn có nhiều đường lối, theo chỗ kinh nghiệm và so với thời cơ, tôi chọn pháp Thập Niệm Ký Số.Về pháp nghi Tịnh Độ, thuở xưa chia làm năm môn, tôi ước kết lại thành ba môn: lễ bái, trì tụng và phát nguyện hồi hướng. Vả lại, pháp môn Tịnh Độ có chuyên tu và kiêm tu; có vị chuyên niệm Phật, có vị lại kiêm tụng kinh, trì chú, sám hối hoặc tham thiền. Theo Ấn Quang Pháp Sư, thì người tu tịnh nghiệp phải lấy sự niệm Phật làm phần chính, mấy món kia làm phần phụ, phần chính cố nhiên phải giữ cho nhiều hơn. Riêng về tụng kinh, trì chú, nếu dùng để giúp cho phần niệm Phật và chí tâm hồi hướng, cầu vãng sanh, cũng có thể gọi là chuyên tu. Trên pháp môn trì danh, sự hơn kém thật ra không phải ở nơi nghi thức, mà ở chỗ: âm thanh rành rõ hay lờ mờ, tâm niệm thành khẩn hay thờ ơ tán loạn, công trì tụng sâu nhiều hay cạn ít. Nếu người biết tu thì một lượt chiêm lễ, một câu xưng danh, công đức cũng hơn kẻ không biết tu rất nhiều. Tuy nhiên, nếu không có pháp nghi cho đúng, thì công đức hành trì thì cũng khó phát huy đến chỗ viên mãn. Và vì thế tôi mới soạn ra nghi thức nầy.Xưa và nay cách nhau, chúng sanh căn cơ sở thích đều sai khác, tôi không dám gọi việc làm nầy là hợp với mọi người, cũng không dám cho nghi thức đây là hơn những pháp nghi đã có, chỉ tùy chỗ mong cầu mà lạo thảo viết ra vậy thôi.Liên Du Thích Thiền Tâm

Lời Bạt

Trong quyển nầy, ta thấy Ấn Quang Pháp Sư, về cách khuyến hóa, chỉ dùng lời lẽ bình thường chân thật, mà điểm cốt yếu duy ở một chữ thành. Người học đạo biết đặt chân từ chỗ bình thật đi vào, thì không còn vọng cầu xa xôi; có chí thành khẩn thiết tất dễ cảm thông với Phật. Sự huyền diệu của đạo chính là ở chỗ đó. Cho nên thuở xưa, một vị Tổ Sư đã bảo: 'Tâm bình thường là đạo.' Nhưng, trên đường giải thoát, các tông khác tuy cũng dùng tâm bình thường thanh tịnh làm căn bản, song chỉ nương ở tự lực, riêng môn Tịnh Độ đã chuyên dùng tự lực lại kiêm chú trọng về tha lực. Như bên tông Thiền tuy tham cứu câu niệm Phật, nhưng chỉ dùng đó để ngăn làn sóng vọng tưởng, trở về tâm thanh tịnh; bên tông Mật như phái Lạt Ma giáo ở Tây Tạng, cũng có người chuyên trì danh hiệu của một đức Phật, một bậc Bồ Tát hay một vị thần, song họ chỉ xem đó là một câu chú, hoặc một đấng ủng hộ mà thôi. Tuy nhiên, nếu đem so sánh, ta thấy bên Mật có điểm thắng hơn bên Thiền, vì bên Mật trong khi tu niệm đã biết giữ ba nghiệp thanh tịnh (tam mật tương ưng) để tiêu trừ vọng tưởng đồng thời lại dùng công đức, năng lực của chân ngôn hay hiệu Phật, giúp sức phá tan hoặc nghiệp, để mau chứng quả Bồ Đề. Nhưng đó là những lối tu hành của bậc thượng căn, hơn nữa chúng sanh từ kiếp vô thỉ đến nay gây nên nghiệp chướng vô lượng vô biên, dù có tu được, cũng khó hy vọng trong một đời phá hết phiền hoặc, thoát đường sanh tử. Và một khi nghiệp hoặc còn chừng một mảy tơ, cũng bị luân hồi, mà đã luân hồi tất dễ quên mất túc căn, bị trần cảnh mê mờ lôi cuốn vào trong lục đạo! Khác hơn thế, môn Tịnh Độ bậc căn cơ thượng, trung, hạ đều có thể tu; cách tu chỉ dùng tâm thanh tịnh làm nền tảng, rồi từ nơi đó khởi công năng chí thành khẩn thiết niệm danh hiệu Phật cầu sanh Tịnh Độ. Nếu đủ lòng tín nguyện trì danh, không luận người đã dứt hết phiền não, dù cho kẻ nghiệp nặng như biển cả non cao, trong một đời cũng được Phật tiếp dẫn sanh về Tịnh Độ. Khi niệm Phật chí thành, trong ấy có ba năng lực: sức Phật, sức Pháp và sức công đức không thể nghĩ bàn của tự tâm. Sức Phật là được Phật phóng quang nhiếp thọ, thường thường hộ trì. Sức Pháp là hồng danh A Di Đà vẫn đầy đủ muôn đức, chí thành niệm một câu tất sẽ tiêu tội nặng sanh tử trong tám mươi ức kiếp, phước huệ tăng thêm. Sức công đức của tự tâm là tâm ta có đủ mười pháp giới, trong khi ta niệm Phật thành khẩn, thì pháp giới ác bị tiêu ngưng, pháp giới lành biến chuyển lớn mãi cho đến khi thành thục, kết quả lúc mạng chung sẽ hóa sanh trong liên bào nơi cõi Tây Phương. - đây, ta cần nên phân biệt có hai lối niệm Phật tương tợ như Tịnh Độ mà không phải thuộc về tông Tịnh Độ: 1/ Niệm Phật tương tục mong đàn áp vọng tưởng chứng ngộ bản tâm, không cầu vãng sanh, giống như tông Thiền. 2/ Niệm Phật như trì một câu thần chú, mong Phật ủng hộ cho xa lìa ma chướng, tiêu hoặc nghiệp, hiện đời phước huệ tăng thêm, mà không cầu vãng sanh, giống như tông Mật. Niệm Phật như thế là lạc với đường lối của Tịnh Tông, chỉ được kết quả nhỏ mà mất sự lợi ích lớn. Nếu người biết trì niệm hiệu như giữ gìn bổn mạng, chỉ tha thiết cầu sanh Tây Phương, thì tuy không cầu dứt phiền não mà phiền não tự tiêu, không cầu sanh phước huệ mà phước huệ tự nhiên thêm lớn, cho đến không cầu chứng ngộ mà hoặc sớm hoặc chầy cũng được chứng ngộ; kết quả trong một đời sẽ thoát vòng luân chuyển, lên vị Bất Thối nơi cõi bảo liên. Thế thì chỉ thành tâm niệm Phật cầu vãng sanh, trong ấy đã có đủ Thiền và Mật rồi. Cho nên „n Quang Đại Sư thường nói: 'Pháp môn Tịnh Độ thống nhiếp cả Thiền, Giáo, Luật, cao siêu hơn Thiền, Giáo, Luật.' Môn Niệm Phật xem giản dị mà có công năng rất huyền diệu như thế, nên một hạng người học Phật vì nhận thức không thấu đáo, sanh tâm tự cao, bài báng, khinh thường. Bởi thế, có kẻ dẫn câu niệm Phật đem về lý tánh, cho lời nói trong các kinh Tịnh Độ là tượng trưng. Lại có một hạng người nhiều chủng tử ngoại đạo, đem sáu chữ niệm Phật bố khắp chi thể, hoặc hợp câu niệm Phật với phép luyện khí cho đi tuần hoàn trong châu thân, hoặc dùng câu niệm Phật tụ hỏa nơi ấn đường. Họ lại lầm cho đó là quí báu, chỉ mật thọ nhau trong phòng kín không dám tuyên dương, sợ e lạm truyền. Sự lầm lạc ấy khiến cho nhiều người mang chứng lớn bụng, mờ mắt, đau đầu, kết cuộc chỉ có tổn hại không được lợi ích. Nên biết pháp môn Tịnh Độ chính do đức Thích Ca Mâu Ni nói ra, sáu phương chư Phật đều khen ngợi; các bậc Đại Bồ Tát, Đại Tổ Sư như đức Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ đều tuân giữ; các Kinh Đại Thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Đại Bảo Tích, Đại Bát Nhã đều tuyên dương. Kẻ ngoại đạo vì tà kiến, hủy báng môn Tịnh Độ, vẫn không đáng nói; hàng Phật tử nếu sanh tâm tự cao hủy báng, tức là vô tình hủy báng ngôi Tam Bảo, ngăn lấp con đường giác ngộ của mọi người. Tại sao thế? Vì môn Tịnh Độ là cửa mầu giải thoát duy nhất, yên ổn nhất của chúng sanh đời mạt pháp; chính đức Phật đã từng có lời huyền ký thuở xưa. Trên đây, không phải tôi cố ý phân biệt môn Tịnh Độ giữa các tông phái, hay thiếu mỹ cảm với những kẻ đã lầm lạc, mà chính vì tưởng niệm ân sâu của Phật, muốn cho mọi người đồng được lợi ích đó thôi. Tuy nhiên, trên đường đạo, sở thích của mỗi người có khác nhau, khúc nhạc hương quê chưa dễ cảm được lòng du khách! Xem quyển nầy, ai có mến Ấn Quang Pháp Sư, cũng nên theo Ngài mà đọc bài ca quy khứ: Phải nên phát nguyện, nguyện vãng sanh, Đất khách sơn khê mặc người luyến? Tự không muốn về, về sẽ được, Quê xưa trăng gió có ai tranh?

Người Bạn Sen,

Liên Du Thích Thiền Tâm

http://www.tangthuphathoc.com/tinhdo/lathutinhdo.htm

Thursday, March 25, 2010

Vô Nhất Ðại Sư Thích Thiền Tâm lược truyện

(1924 - 1992)
Bửu Quang tự đệ tử Liên Hương kính lục
Nam mô Hương Nghiêm Tịnh Viện, Hương Quang Tịnh Thất, Phương Liên Tịnh Xứ đường thượng Tam Tạng Pháp Sư Vô Nhất Thượng Nhân thượng Thiền hạ Tâm húy Trí Hiền Hòa Thượng giác linh tác đại chứng minh.
Thượng Nhân pháp danh Trí Hiền, pháp tự Thiền Tâm, biệt hiệu Vô Nhất, bút hiệu Liên Du, thế danh là Nguyễn Nhựt Thăng, sanh năm Ất Sửu (1926) tại làng Bình Xuân, quận Hòa Ðồng, tỉnh Gò Công. Là con thứ mười của cụ Nguyễn Văn Hương, một bậc túc nho, và cụ bà Giác Ân Trần Thị Dung. Trong khi mang thai Ðại Sư, cụ bà đột nhiên chăm lo làm công quả tại ngôi chùa nhỏ trong làng. Có lẽ đó là do phước nghiệp của Ðại Sư chiêu cảm nên điều này.

Từ thuở nhỏ, Ðại Sư đã không thích chạy giỡn, chơi đùa mà thường thích thắp hương, bái xá, và theo thân phụ học chữ Nho. Ðến năm lên chín tuổi, Ðại Sư đã có thể đọc trôi chảy các sách Nho học như Tứ Thư, các bộ truyện Tàu và viết chữ Hán khá lưu loát. Song song với việc học chữ Hán, Ðại Sư còn học tiếng Pháp và chữ Quốc Ngữ.

Từ năm lên bảy tuổi, nhân mục kích cái chết rất trẻ của một thiếu niên trong xóm, Ðại Sư đã bắt đầu có những ưu tư về lẽ sống chết. Vào khoảng năm 1935, lúc lên mười tuổi, trong lúc đang cắt cỏ ruộng với thân phụ, chợt Hòa Thượng Phật Ấn, trụ trì chùa Vĩnh Tràng (Mỹ Tho), đi ngang. Ðại Sư liền chạy tới ba lượt đảnh lễ Hòa Thượng. Hòa Thượng liền huyền ký về sau đứa trẻ kỳ lạ này sẽ xuất gia và nhắc nhở gia đình không nên ngăn cản.

Cuối năm 1937, sau khi hoàn tất bậc Tiểu Học, Ðại Sư xin phép cha lên Mỹ Tho, ngụ tại chùa Vĩnh Tràng để tiếp tục học chữ và Ðông Y. Chính trong thời gian này, Ðại Sư đã tận dụng thời gian rảnh rỗi để tự trau giồi nội điển cũng như tham học Phật pháp với Bổn Sư Hòa Thượng Phật Ấn. Hòa Thượng đặt cho pháp danh cho Ðại Sư là Trí Hiền. Do cơ duyên, Ðại Sư cũng được học theo nghề thuốc với một vị Ðông Y Sĩ nổi tiếng ở Mỹ Tho thời đó là thầy Tế An Ðường và các vị đại phu nổi tiếng khác.

Ðến năm 1943, Ðại Sư đã lấy được bằng Thành Chung (tương đương Trung Học Ðệ Nhất Cấp sau này). Trở về quê nhà, Ðại Sư vừa hốt thuốc cho thân mẫu đang lâm bịnh vừa giảng dạy Phật pháp cho song thân và người anh thứ năm. Dưới sự khuyến hóa của Ðại Sư, gia đình ngài đã biết thờ Phật và tu niệm.

Năm 1945, sau khi cầu thỉnh xin xuất gia không được song thân chấp nhận, ngài đã lén trốn đi, tìm đến chùa Sắc Tứ Linh Thứu ở Xoài Hột để xin xuất gia với Hòa Thượng thượng Thành hạ Ðạo. Ðại Sư được thọ Sa Di Giới với pháp tự là Thiền Tâm.

Nhận thấy sa di Thích Thiền Tâm sẽ là một bậc long tượng cho Phật Giáo Việt Nam sau này, Hòa Thượng Linh Thứu đã thuyết phục Ðại Sư lên Sài Gòn, tìm đến Hòa Thượng viện chủ Tổ Ðình Ấn Quang thượng Thiện hạ Hòa để xin gia nhập Phật Học Viện Liên Hải (chùa Sùng Ðức) hầu thụ học chương trình Trung Ðẳng Phật Học từ năm 1948 đến năm 1950.

Năm 1950, Ðại Sư thọ Cụ Túc Giới và cầu pháp nơi Viện Chủ Tổ Ðình Ấn Quang kiêm đốc giáo Phật Học Ðường Nam Việt là Hòa Thượng Thiện Hòa. Khi chương trình Cao Ðẳng Phật Học khóa 1 được khai giảng, do thành tích học tập xuất sắc, Ðại Sư được chọn vào lớp Tăng Sinh đầu tiên. Dù chỉ mới 24 tuổi, Ðại Sư đã được ban giáo thọ tin cậy, giao đảm nhiệm chức vị Tri Chúng (tức là trưởng tràng). Trong quá trình học tập, Ðại Sư luôn nổi bật về mọi phương diện học vấn, tài đức, khả năng, thiện chí.

Khi khóa học hoàn tất vào năm 1954, trong số hơn 100 học tăng, chỉ có 13 vị được tốt nghiệp, Ðại Sư được xếp hạng Tối Ưu. Sau khi tốt nghiệp, Ðại Sư được ban giảng sư Phật Học Ðường Nam Việt giao trách nhiệm hoằng dương Tịnh Ðộ. Ðại Sư đã khẩn nài các vị tôn túc cho ngài được nhập thất chuyên tu Tịnh Ðộ một thời gian để có thể hoàn thành trọng trách ấy; nhưng các vị tôn sư chỉ hứa khả cho ngài nhập thất trong một thời gian ngắn và phải xuất quan bất cứ khi nào giáo hội cần đến ngài.

Trở về Mỹ Tho, Ðại Sư lập cốc tại Cái Bè để chuyên tu Tịnh Nghiệp suốt năm năm (1955-1960). Trong thời gian ẩn cư này, dù gặp nhiều chướng duyên khảo đảo, Ðại Sư vẫn tinh cần tu tập, đồng thời biên dịch hai tác phẩm quan trọng làm tư lương cho Tịnh Ðộ học nhân Việt Nam:

* Trích tuyển những bài văn quan trọng trong cuốn Ấn Quang Văn Sao, soạn thành tác phẩm Lá Thư Tịnh Ðộ (hoàn tất năm 1956) nhằm phá nghi, hóa đạo chúng sanh tin tưởng, hành trì Tịnh nghiệp.

* Soạn thuật bộ Tịnh Ðộ Tân Lương, 2 quyển, dày 800 trang để chỉ dạy cặn kẽ sự lợi ích thiết thực của pháp môn Tịnh Ðộ cũng như cách thức tu hành sao cho xứng hợi với từ bi nguyện hải của đức Từ Phụ Di Ðà.

Từ năm 1960-1962, Thượng Nhân tiếp tục nhập thất tịnh tu tại Vang Quới (Bến Tre) và soạn thuật những tác phẩm quan trọng sau đây như Hương Quê Cực Lạc, Tịnh Ðộ Thập Nghi Luận, Tịnh Ðộ Pháp Nghi. Tiếp đó, trong thời gian nhập thất tịnh tu tại tịnh thất Giác Duyên (Chợ Gạo, Mỹ Tho), ngài đã phiên dịch kinh Phật Thuyết Thiện Ác Nhân Quả Báo Ứng theo thể văn vần và soạn thuật bộ Quán Vô Lượng Thọ Sớ Sao. Ðây là một công trình đặc sắc tổng hợp các ý kiến phán giáo và chú giải kinh Quán Vô Lượng Thọ của các vị Tổ Sư lỗi lạc như Thiên Thai Trí Giả, Linh Chi Nguyên Chiếu, Liên Tông Nhị Tổ Thiện Ðạo v.v…

Năm 1963, sau cơn Pháp Nạn, viện Trung Ðẳng Chuyên Biệt Phật Học được thành lập để đào tạo tăng tài tại chùa Huệ Nghiêm (Phú Lâm, Sài Gòn). Hòa Thượng Thiện Hoa đã triệu Ðại Sư về Sài Gòn giữ chức Viện Trưởng kiêm Ðốc Giáo với sự phụ tá của hai vị Thượng Tọa Bửu Huệ và Thanh Từ. Học Viện sau được đổi tên thành Viện Cao Ðẳng Phật Học Huệ Nghiêm. Ðể việc đào tạo được toàn diện, Ðại Sư đã quyết định mở thêm việc học ngoại điển theo chương trình văn hóa phổ thông theo quy định của Bộ Giáo Dục. Ngoài việc giảng dạy tại Huệ Nghiêm, Ðại Sư còn được cung thỉnh làm giảng sư giảng dạy môn Duy Thức cho Phân Khoa Phật Học của viện đại học Vạn Hạnh và làm giáo thọ cho các ni trường Dược Sư và Từ Nghiêm.

Tuy rất bận rộn, Hòa Thượng vận tiếp tục soạn thuật các tác phẩm quan trọng sau đây: Phật Học Tinh Yếu, Niệm Phật Thập Yếu, Duy Thức Học Cương Yếu, Ðại Bi Tâm Ðà Ra Ni (Ðại Chánh Tạng, quyển 20, kinh số 1060, bản Hán dịch của ngài Già Phạm Ðạt Mạ). Riêng cuốn Niệm Phật Thập Yếu là một tác phẩm cực quý cho hành giả Tịnh Nghiệp, luận về mọi phương diện sự lý của pháp Trì Danh Niệm Phật, cách thức tu tập, ngăn ngừa chướng duyên cho hành giả Tịnh Ðộ. Vì thế, tác phẩm này đã liên tục được tái bản, tục ấn. Ngay cả Tịnh Tông Học Hội Ðài Loan cũng đã trùng ấn tác phẩm này với số lượng lớn (10.000 cuốn).

Tiếc thay, Ðại Sư đảm nhận trách nhiệm đào tạo Tăng tài cho Giáo Hội nhằm ngay thời kỳ đấu tranh kiên cố của thời Mạt Pháp. Ngay trong số những học tăng đang theo học tại Huệ Nghiêm, không ít vị đã bị lôi cuốn vào những cuộc đấu đá, sách động nhằm tranh giành quyền lực vô bổ. Chủ trương chuyên tâm nghiên cứu Phật học, tuyệt đối không tham gia vào những cuộc tranh chấp thế tục khoác mỹ hiệu bảo vệ đạo pháp của Hòa Thượng bị chống đối và ngài bị chỉ trích là khiếp nhược, cầu an, thiếu tinh thần tương trợ để tăng thêm “sức mạnh” cho Phật Giáo Việt Nam!

Nhận thấy không thể làm gì khác hơn được để vãn hồi tình trạng hỗn loạn nay biểu tình, mai tuyệt thực chống đối chính phủ được cầm đầu bởi những tăng sĩ hoạt đầu đầy tham vọng thời ấy, Ðại Sư đành chọn con đường từ nhiệm để kết thất ẩn tu. Năm 1967, nhân một người tục gia đệ tử là Minh Thiện đến thăm và nhắc đến ấp địa danh Phú An, thấy địa danh này phù hợp với lời tiên triệu của Cố Bổn Sư mình trong giấc mộng nên vào tháng 12 năm đó, Hòa Thượng đã quyết chí tạ từ Hòa Thượng Phó Tăng Thống Thiện Hòa để xin về Ðại Ninh ẩn tu, giao Phật Học Viện Huệ Nghiêm lại cho Thượng Tọa Bửu Huệ quản trị. Tuy vậy, Ðại Sư vẫn phải lưu Học Viện một thời gian để giúp đỡ Thượng Tọa Bửu Huệ theo lời yêu cầu của Hòa Thượng Phó Tăng Thống. Mãi đến năm 1968, việc xây cất Hương Quang tịnh thất ở Phú An đã xong, Hòa Thượng liền chính thức ẩn tu vào năm 43 tuổi!

Ðại Ninh là một vùng hoang vu nằm cách quốc lộ 20 chừng ba cây số, cạnh sông Ðại Ninh thuộc khu vực thủy điện Ða Nhim. Hương Quang tịnh thất được dựng trên một vùng đất hoang vu toàn gò mối, rắn rết thuộc thôn Ðại Ninh, thôn Phú An, xã Phú Hội, quận Ðức Trọng, tỉnh Lâm Ðồng. Thôn Phú An chỉ có chừng 50 nhà và chỉ có 10 nhà là người Kinh. Hương Quang tịnh thất chỉ là một căn thất nhỏ lớn chừng 2 phòng ngủ gồm 2 tầng: tầng trên để thờ Phật, tầng dưới để ở và làm việc. Về đây, Ðại Sư chỉ lo chuyên tu trì niệm, rảnh rỗi thì làm vườn, dọn rẫy. Ðức hạnh của Sư đã cảm nhiều loài dị loại đến nghe kinh, hộ thất. Hòa Thượng đã thực hành pháp Du Già Thí Thực để hồi hướng công đức đến cho chúng. Theo các đệ tử của ngài, những loài linh xà thường hiện thân trong giấc mộng xin quy mạng, thọ giới. Hòa Thượng đều hoan hỷ lập đàn truyền giới cho họ.

Tuy đã quyết chí ẩn lánh thế tục, nhưng tứ chúng vẫn mến mộ đức hạnh của một bậc cao tăng đức hạnh nên lần lượt đổ dồn về Ðại Ninh lập thất tu học. Chỉ trong vòng một năm từ 1969 đến 1970, vùng Ðại Ninh hoang vắng đã trở thành một “làng tu” nổi tiếng ở Lâm Ðồng. Do tứ chúng vân tập quá đông đảo, chẳng đặng đừng, Ðại Sư phải xuất quan theo lời thỉnh cầu của mọi người để lãnh đạo công việc kiến thiết một tu viện cho tứ chúng có nơi an cư tu học. Nhờ phước lực của Hòa Thượng, một đại đội công binh chịu trách nhiệm tu bổ kiều lộ trong vùng đã hoan hỷ đứng ra góp phần xây cất tu viện.

Ðầu năm 1971, Hương Nghiêm tịnh viện được hoàn thành, trở thành đạo tràng Tịnh Ðộ đầu tiên trong vùng. Cuối năm 1971, Ðại Sư giao việc quản trị Hương Quang Tịnh Thất và Hương Nghiêm Tịnh Viện cho đại chúng quản trị để nhập thất vĩnh viễn tại Phương Liên tịnh xứ ở gần đó. Hòa Thượng dành trọn thời gian để tụng niệm, quán tưởng, lễ bái, dịch thuật. Trong thời gian này, Ðại Sư đã phiên dịch các tác phẩm quan trọng sau đây: Phật Ðảnh Tôn Thắng Ðà Ra Ni (Ðại Chánh Tạng quyển 19, kinh số 967), Ðại Nhựt Kinh Sớ (do ngài Nhất Hạnh trứ tác, Ðại Chánh Tạng quyển 39, kinh số 1796 gồm 20 quyển), Mấy Ðiệu Sen Thanh (lược dịch Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục), chú giải 100 bài kệ Niệm Phật của Tổ Triệt Ngộ, Liên Tông Thập Tam Tổ, Tam Bảo Cảm Ứng Yếu Lược Lục, Nhơn Quả Luân Hồi Tạp Lục Ký, Tây Phương Nhật Khóa và nhiều bản kinh Mật Tông quý giá khác.

Tháng Giêng năm 1989, nhận biết thân mẫu mình sắp mãn phần, Hòa Thượng đã cho người đón mẹ lên Phương Liên Tịnh Xứ để dùng phương tiện thiện xảo khuyến hóa mẹ nhất tâm niệm Phật. Ngày mồng 2 tháng 5, cụ bà đến chào từ biệt Hòa Thượng để đi xa. Biết mẹ đã biết trước ngày quy tịch, ngày hôm sau, Hòa Thượng đã nhóm chúng hộ niệm cho cụ. Ðến 12 giờ trưa ngày 3 tháng 5, cụ bà đã ngỏ lời chào vĩnh bệt và thoát hóa trong tiếng niệm Phật của đại chúng, thọ 98 tuổi.

Kể từ năm 1989, thân tứ đại của Ðại Sư đã không điều hòa, nhưng Ðại Sư cương quyết khước từ bao lượt thỉnh cầu về Sài Gòn chữa bịnh của các môn đồ. Dù thân bịnh trầm kha, Ðại Sư luôn tinh tấn và tùy cơ nhiếp hóa chúng sanh không mệt mỏi. Mồng Hai tháng Tám năm 1992, biết trước ngày vãng sanh, Hòa Thượng đã viết di chúc dặn dò hậu sự và chính thức chỉ định Ni Sư Thanh Nguyệt làm trưởng tử và là người chịu trách nhiệm chính lo liệu hậu sự cho Ðại Sư vào ngày 12 tháng 10 năm 1992 để tránh những tranh chấp có thể xảy ra sau khi Hòa Thượng viên tịch. Trong di chúc, Hòa Thượng dặn các môn nhân hoặc bỏ xác ngài trong rừng hoặc quăng xuống vực thẳm để thí cho các loài chim, thú, thủy tộc; hoặc bó chiếu chôn sâu, khỏa bằng, trên trồng thơm chuối. Cùng lắm là đóng sơ mấy tấm gỗ tạp, trong độn lá chuối, trên để tấm pháp y, xây ngôi mồ cỏ đơn sơ. Trên mộ, dựng tấm bia: “Bất huệ nạp tăng Thích Thiền Tâm hiệu Vô Nhất mai cốt xứ” (Chỗ vùi xương của ông sư thiếu trí huệ là Thích Thiền Tâm hiệu Vô Nhất).

Ðêm 20 rạng 21 tháng 11 năm Nhâm Thân 1992, Ðại Sư trì niệm suốt buổi trước bàn Phật. Ðến 3 giờ sáng, sư sai ni sư thị giả triệu đại chúng nhập thất hộ niệm. Ðại Sư thay y hậu tề chỉnh, an tọa ngồi niệm Phật giữa tiếng hộ niệm tha thiết của đại chúng. Ðại Sư an ủi:

- Hãy bình tâm lại, đừng có khóc nữa. Ta được về Tây là điều hân hạnh, các con hãy theo đó mà cố gắng niệm Phật chuyên cần. Nếu được như vậy, ắt một ngày kia sẽ cùng hội ngộ nhau nơi miền An Dưỡng.

Rồi ngài đọc kệ thị tịch:

Ðời ta chí gởi chốn Liên Trì

Trần thế vinh hư sá kể gì

Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm

Mừng nay được thấy đức A Di.

Nói xong, Ðại Sư yên lặng nhập định. Ðến 6 giờ 15 phút, Ðại Sư bỗng mở mắt, chắp tay nói:

- Ta đi đây! Ðại chúng nên bảo trọng.

Rồi tay vẫn kết ấn Di Ðà định, an nhiên tọa hóa quy Tây ngay trên bản tọa. Ðại Sư thọ 68 tuổi đời, 48 tuổi đạo, hạ lạp 42.

Lễ di quan, nhập tháp hoàn tất vào khoảng 8 giờ sáng ngày 25 tháng 11 năm Nhăm Thân (tức 18 tháng 12 năm 1992). Trong lễ khai mộ vào ngày 21 tháng 12, 1992, đại chúng thấy có một cặp rắn vàng óng bò đến nằm trước mộ một lúc lâu, rồi ngẩng đầu, gật đầu chào ni sư Thanh Nguyệt ba lần trước khi bò mất dạng. Theo các môn nhân, đó là cặp vợ chồng rắn đã từng quy y với Hòa Thượng trước kia. Ðại Sư có lưu lại một kim cang nha xỉ xá lợi (tức là một cái răng rất chắc chắn, sáng đẹp, không ai cưa cắt nổi).

Xét công hạnh, Ðại Sư không những chỉ giáo hóa bằng ngôn giáo mà còn bằng cả thân giáo. Bao nhiêu người nhờ vào những tác phẩm của ngài hay được gặp gỡ ngài mà được lợi lạc nơi pháp môn Tịnh Ðộ. Ðiểm qua những dịch phẩm và trước tác của ngài, điểm nổi bật là một trình độ Phật học uyên thâm, một mức độ hiểu biết sâu xa các nền triết học ngoài Phật giáo được trình bày bằng một văn pháp giản dị, chính xác, trong sáng, trau chuốt, nhẹ nhàng, thanh thoát, bóng bảy nhưng không hoa mỹ, cầu kỳ, ý tứ thâm trầm nhưng dễ hiểu. Có nhiều đoạn Ðại Sư chỉ dịch ý để cho hàng hậu học dễ lãnh hội được ý nghĩa của từng văn bản cổ thay vì bám chặt theo mạch văn khiến cho người đọc có cảm giác những tác phẩm ấy vừa được viết ngay trong thời đại này, thay vì đã được viết ra vào thời Ðường, thời Tống cách đây cả ngàn năm.

Có đọc những dịch phẩm ấy, ta mới thấy kiến văn của Ðại Sư vô cùng quảng bác, không những chỉ đọc hết những kinh điển Tịnh Ðộ trong Ðại Tạng và Tục Tạng, Ðại Sư còn đọc rất nhiều tác phẩm Tịnh Ðộ cận đại nữa. Tuy chuyên chú nơi Tịnh Ðộ, Ðại Sư vẫn bác lãm các kinh điển của chư Tông, mà điển hình nhất là Ðại Sư đã được cung thỉnh dạy môn Duy Thức cho học tăng và sinh viên ngành Phật Học tại Ðại Học Vạn Hạnh khi còn rất trẻ.

Không những là một vị tôn sư của Tịnh Ðộ, Vô Nhất Thượng Nhân còn là một hành giả thành tựu trong Kim Cang Thừa. Tuy chỉ dùng Mật chú làm trợ hạnh để hỗ trợ cho Tịnh nghiệp, Ðại Sư đã đạt những thành tựu lớn lao trong Mật tông. Rất nhiều hành giả Mật Tông được pháp ích khi đến cầu học với ngài. Qua những dẫn giải thi thoảng đây đó trong các tác phẩm giảng dạy về Tịnh Ðộ, ta thấy Vô Nhất Thượng Nhân là một trong số rất ít những đại sư thâm hiểu tột cùng giáo pháp phức tạp, vi diệu của Ðông Mật, nhất là hai hệ thống giáo nghĩa Kim Cang và Thai Tạng. Cùng với A Xà Lê thượng Viên hạ Ðức, Ðại Sư Thiền Tâm được xưng tụng là tối thượng Kim Cang A Xà Lê của Mật tông Việt Nam. Khi chọn các bản kinh Mật Tông để dịch, Hòa Thượng cũng thận trọng chọn lấy những bản hoàn chỉnh nhất để dịch và chú giải tỉ mỉ khiến cho dịch phẩm của ngài dễ hiểu, dễ thực hành, vượt xa các dịch phẩm của những vị hoằng truyền Mật tông khác.

Thị hiện chỉ 68 năm trên cõi trần gian này và thực sự hành hóa chỉ 42 năm nhưng Ðại Sư đã đóng góp rất lớn lao vào kho tàng văn hóa Phật Giáo Việt Nam. Chỉ bằng những tác phẩm của mình, Ðại Sư đã hóa độ bao nhiêu tứ chúng hữu duyên, huống hồ là những ai có cơ duyên gặp gỡ, đích thân lãnh thọ sự giáo hóa của ngài. Thế mà, Ðại Sư vẫn khiêm tốn chỉ xưng mình là Vô Nhất, lấy ý từ câu “Nhất sự vô thành, thân tiệm lão” (không có chuyện gì làm cho ra hồn hết mà thân đã già dần mất rồi). Ðức hạnh, phong thái khiêm tốn ấy càng làm cho tứ chúng ngưỡng mộ, khâm kính. Ngưỡng mong hàng Phật tử Việt Nam ta sẽ luôn được giác linh ngài thầm gia hộ, dìu dắt để cùng được hội ngộ chốn Lạc Bang.

(Tài liệu tham khảo chính: Vô Nhất Ðại Sư Thích Thiền Tâm, một cao tăng cận đại của Bảo Ðăng do chùa Pháp Hoa ấn hành)

Phụ lục:

Khuyến Tu


Hòa Thượng Thích Thiền Tâm soạn dịch

Xưa Nhan Bình, Như Như cư sĩ,

Dẫn luận kinh, ý ý khuyên cầu

Bút nhàn khuyên giữa canh thâu

Tình ai trần lụy, đổi sầu làm tươi

*

Thân bào ảnh lắm người yêu tiếc

Yêu quý thân cho lụy vì thân

Cuộc vui những ước vô ngần

Nào hay vui vẫn là nhân chác sầu!

Kiếp phù thế bóng câu cửa sổ (1),

Vóc huyễn hư giọt lộ lòng hoa (2)

Ðôi mươi trẻ, tám mươi già

Số người yểu thọ, khó qua vô thường

Dép dưới giường, trên giường bỗng biệt

Sống ngày nay dễ biết ngày mai

Mạng người hô hấp cho hay,

Nghĩ cơn vĩnh biệt, tuyền đài mà đau!

Xót duyên kiếp vì sao ngắn ngủi

Chấp thân chi để tủi cho thân,

Da bao những thịt, xương, gân

Xác người như thể đống phân sạch gì!

Tóc, răng, móng khác chi đất bợn

Mũi, dãi, đờm ghê tởm xiết bao

Bên ngoài rệp đút, muỗi đeo,

Bên trong sán, lải lẫn vào nhớp chưa?

Nỗi nóng bức, ngày trưa tiết Hạ

Cơn lạnh lùng, đêm giá trời Ðông

Xét thân nhơ khổ vô cùng,

Xả lòng tham luyến, khởi lòng thoát ly

*

Trách người thế mê chi lắm nhẽ!

Sánh phong lưu phô vẻ y quan!

Kẻ khờ cũng học đài trang

Ðể lòng điên đảo theo đàng sắc thanh

Ðầu xương sọ: cài trâm, thắt lụa

Ðãy da hôi: ướp xạ, xông hương

Khéo đòi nhung gấm phô trương

Chỉ tuồng che lớp vô thường hôi tanh

Những mảng tưởng ngày xanh muôn tuổi

Lắm cơ mưu theo đuổi yên hoa

Ngờ đâu tai điếc, mắt lòa,

Diêm Vương sắp rước đến tòa U Minh

Làn tóc bạc đưa tin quỷ sứ

Gốc răng long nhắn ý quy âm,

Càng tài, càng sắc, càng dâm

Càng cho đọa lạc, càng lầm mà thôi,

Cuộc hành lạc một đời tham tiếc

Nẻo luân hồi muôn kiếp đắng cay

Ðến khi sắp xuống Diêm Ðài

Thịt xương đau nhức, chân tay rụng rời,

Vợ lưu luyến đầy vơi giọt lệ

Con tiếc thương kể lể khóc than

Dầu cho quyến thuộc muôn ngàn

Có ai thay thế cho chàng được đâu!

*

Kẻ sống ở nặng oằn gánh tủi,

Người chết đi rong ruổi phách hồn

Ðường âm mờ tựa đêm hôm

Trông ra quạnh quẽ, bồn chồn chỉn ghê!

Nại Hà đến lạnh tê gió lốc,

Quỷ Môn Quan ghê gốc tiếng thương

Bảy ngày lìa quá cõi dương

Âm ty đã trải trăm đường khảo tra.

Tào quan xử thét la chẳng vị,

Ngục tốt hờn, xoa, chủy đâu tha.

Ðài gương Nghiệp Cảnh chói lòa

Soi tường thiện, ác chối qua được nào.

Người nhân đức đưa vào cõi phước

Kẻ hung hoang giải trước hình ty,

Ðọa đày thảm khổ xiết chi,

Mới hay nhân quả mấy khi sai lầm

Rừng đao kiếm bao năm hết tội

kiếp lông sừng nhiều nỗi đa mang,

Trả đền cho dứt nghiệp oan

Mới mong thoát khỏi con đàng long đong

Dù ai có to lòng, lớn mật

Mặc chàng hay báng Phật, khinh Tăng,

Chẳng qua đối trước Diêm quân

Cúi đầu, co gối chịu phần khảo tra

*

Hồn phách đã xa chơi âm giới

Thi hài còn nơi cõi dương gian

Có tiền mua lớp áo quan

Không tiền vùi chốn núi hoang lạnh lùng

Chất da thịt sẽ lần tan rã,

Tấm hình hài lần hóa tanh hôi

Chỉ trong hôm sớm mà thôi

Chầy năm bảy bữa, sớm thời ít hôm,

Nét kiều diễm chập chờn xuân mộng

Kiếp tài hoa hình bóng bạch vân

Khi xưa tài sắc mười phân,

Mà nay một nấm cô phần lạnh tanh,

Thời oanh liệt, anh hùng đâu tá?

Nỗi ái ân hư giả còn ghi!

Phất phơ cành liễu xanh rì

Giấy tiền treo đó dường ghi mối sầu

Bóng chiều rủ xuống màu cỏ biếc

Bia mồ trơ một chiếc vắng không

Nghĩ thôi rơi lệ chạnh lòng

Ðời người đến thế là xong cuộc đời

*

Ví chẳng biết tìm nơi giải thoát

Nương về ngôi Chánh Giác quy y

Luân hồi dứt hẳn có khi

Bên trời Bát Nhã còn chi lo phiền

Lối ma quỷ đừng riêng sinh sống

Ðất từ bi có giống hoa đàm

Giữ lòng thiện, dứt lòng tham,

Gái, trai, tăng, tục đều ham tu hành

Rõ cảnh mộng chớ quanh đường mộng,

Biết miền chơn hãy chóng tu chơn,

Dần dà tính thiệt, so hơn

Tuổi xuân qua mất để hờn về sau

Sáu chữ Phật cùng nhau gắng niệm

Chín phẩm đài sen chiếm ngôi vinh,

Chớ nên mình phụ lấy mình

Trách sao Diêm lão vô tình chẳng dung!

Bỏ điều ác xin cùng tu thiện,

Chừa lỗi xưa, cải tiến đường sau

Lại vì quyến thuộc bảo nhau

Cùng khuyên già trẻ sớm mau tu trì

Khiến mỗi kẻ đồng quy bến giác

Cho mọi người đều thoát sông mê.

Dù cho lao khổ dám nề,

Ðài sen đốt mảnh hương thề nguyền xin…

Xin dốc tưởng tin theo lời Thánh

Ðừng để cho rỗi rảnh, ưu du

Kiếp này nếu chẳng chuyên tu,

Chỉn e kiếp khác công phu lỡ làng []



(1) Lấy ý từ câu: “Nhân sinh như bạch câu quá khích” (Ðời người như bóng con ngựa trắng chạy vọt qua khe cửa hẹp).

(2) Giọt lộ lòng hoa: Giọt sương đọng trên cánh hoa, chốc lát tan mất.

http://www.tangthuphathoc.net/nvpg/htthichthientam.htm

Thiền định ăn chay rất quan trọng cho sự tiến bộ tâm linh

Hãy nghĩ thật sâu và chú tâm vào một hạt sồi. Quý vị đem chôn nó dưới lòng đất thì nó sẽ mọc lên cây sồi, còn nếu đem chôn một con cừu thì chẳng mọc lên được gì mà lại bị thúi rữa nữa.Kịch Tác Gia George Bernard ShawMột người có cảm xúc tâm linh mãnh liệt không ăn xác chết.Kịch Tác Gia George Bernard ShawTôi nghĩ rằng sự tiến bộ tâm linh đòi hỏi - ở một giai đoạn nào đó - chúng ta phải ngưng tàn sát những bạn bè của chúng ta để thỏa mãn cho thể xác.GhandhiHãy cố gắng sống một đời sống trong sạch, lễ độ và đạo đức vì thân thể chúng ta là ngôi đền của Thượng Đế. Hãy gắng dùng những thực phẩm tinh khiết, những thức ăn bổ dưỡng và tránh xa những độc dược. Tóm lại một người ăn chay sẽ mau tiến bộ về tâm linh.Shri Anandi MaThiền định ăn chay rất quan trọng nếu chúng ta muốn nâng ý thức của chúng ta lên tới một bình diện cao hơn. Chúng ta dùng tình thương và từ bi đối với muôn loài, đừng để trái tim chúng ta thành sắt đá, hãy chuyển mục đích này cao xa hơn tầm tay với.Wai LanaThức ăn là chất hóa học, và chất hóa học này sẽ ảnh hưởng đến ý thức của chúng ta; nếu chúng ta muốn đạt đến những tầng giới ý thức cao hơn thì chúng ta phải tiêu thụ chất hóa học nào giúp ích cho cơ thể và cho sự tiến hóa tâm linh của chúng ta.Daya-Arjava-MitaharaCác hàng thiện nam thiện nữ tu hành khổ nhọc chốn a lan nhã, hoặc trụ nơi từ tâm, hoặc trì chú thuật, hoặc cầu giải thoát, hoặc hướng về đại thừa, nhưng bởi vì còn ăn thịt nên bị nhiều sự chướng ngại, công hạnh không được thành tựu. Cho nên Bồ Tát nếu muốn được lợi ích cho mình và chúng sanh, quyết không nên ăn thịt.Phật giáoKhi ăn thịt cầm thú chẳng những khiến chúng ta lún sâu vào ác nghiệp mà còn làm cho tâm trí thô trược, không nhạy cảm đối với tâm linh. Nó kéo con người xuống bình diện cầm thú. Ăn thứ gì giống thứ ấy. Đó là điều không tránh khỏi.Đạo sư Hazur Maharaj Sawan SinghThân thể là ngôi đền của Thượng Đế. Chúng ta hãy cố gắng dùng những thức ăn bỗ dưỡng và tinh khiết… vì ăn chay tâm linh mau phát triển.Dhyan YogaSát sanh và ăn thịt động vật là hành vi sinh ra nghiệp chướng nặng nề làm cản trở sự giải thoát của linh hồn - và những nghiệp quả này phải trả bằng bệnh tật và đau khổ.Sant Thakar SinghLoại thiền định nào cho phép ăn thịt là không có mục đích tu hành cao thượng… Một bữa ăn chay cung cấp những điều kiện cần thiết cho sức khỏe, và thăng bằng thể xác vật chất để ý thức có thể thăng hoa lên trình độ cao hơn ở bên trong.Sant Thakar Singh
http://nauanchay.tkRead more: http://nmaddp2.blogspot.com/2009/12/thien-inh-chay-rat-quan-trong-cho-su.html?utm_source=feedburner&utm_medium=feed&utm_campaign=Feed%3A+TngKinhCc+%28T%C3%A0ng+Kinh+C%C3%A1c%29#ixzz0j9vBvoNn

SUỐI REO RỪNG TRÚC

H.T THÍCH NHẬT QUANG

ĐOẠN 6

Thanh nhàn vô sự,
Quét tước đài hoa;
Thờ phụng Bụt trời,
Đêm ngày hương hỏa.


Giảng:


Làm kẻ thanh nhàn vô sự, không bận bịu lo nghĩ điều gì, ngày đêm đốt đèn cúng Phật, quét tước đài hoa. Đó là những công việc hết sức bình thường của kẻ tu hành nhưng rất thiền vị. Chư huynh đệ ở Thiền viện quét dọn trước điện Phật cũng như làm vệ sinh trong đạo tràng… tất cả những việc này đều là việc tu hành. Công đức phát sinh từ những việc như thế, nếu tâm chúng ta thanh nhàn vô sự. Còn huynh đệ làm đâu kẹt đó, so đo nặng nhẹ từng chút, phiền não đầy bụng thì không còn ý nghĩa của việc tu hành nữa.
Ví dụ trước khi xuất gia có vị từng là ông Trưởng ty Điền địa. Bây giờ vào chùa tu, sáng ra làm theo mấy thầy trẻ thì làm không nổi, ngồi không coi không đặng, nên cũng cầm kẹp đi lượm rác. Công tác bình thường nhẹ nhàng thôi nhưng có khi nổi hứng lên tìm Trụ trì nói: “Thầy biết không ! Hồi xưa tôi làm Trưởng ty chớ bộ giỡn”. Hỏi: “Trưởng ty ở đâu?” Nói: “Trưởng ty Điền địa. Bây giờ hốt rác cũng chỉ phó hốt rác chớ không phải chánh nữa, lượm bọc nilon bậy bạ vậy thôi. Thưa thầy, thế mà vui.” Cho nên có bài kệ: “Tùng tảo già lam địa, thời thời phước huệ sanh, nhược vô tân khách chí, tức hữu thánh nhơn hành”. Làm việc quét dọn trong tùng lâm, tuy ban sớm chưa có người đi nhưng mà thánh nhơn đã dạo qua. Siêng năng làm việc như thế mỗi lúc mỗi tăng trưởng công đức phước huệ.
Trong hàng đại đệ tử của đức Phật, có một Tỳ-kheo học đâu quên đó, cuối cùng Phật dạy hai chữ “tảo tuệ” thôi. Tảo tuệ là gì ? Là chổi quét chớ không có gì lạ. Nhưng thầy nhớ chữ tảo lại quên chữ tuệ, nhớ chữ tuệ lại quên chữ tảo. Nhớ chổi quên quét, nhớ quét quên chổi. Một người lẩn quẩn đến mức độ như vậy, mà cuối cùng Phật cũng điểm hóa cho thầy chứng quả A La Hán. So với Tôn giả này chúng ta đâu đến nổi tệ, phần nhiều quí thầy tốt nghiệp cấp hai, cấp ba, cấp đại học… ai cũng hiểu biết, đầu óc tỉnh táo không đến nổi đảo lộn quên ăn quên ngủ. Các căn chúng ta đầy đủ sinh hoạt bình thường như mọi người, đó là một diễm phúc lớn.
Chúng ta không thiếu cái gì, nhất là cái sáng suốt thường nhiên luôn túc trực bên mình. Thế nhưng lắm khi chúng ta bực bội, tại sao mình cứ lầm mê, mãi miết chạy theo trần cảnh bên ngoài để rồi tu không được. Sao mình dại quá ? Nhưng thật ra, chính nhờ những thứ đó ta mới tu được. Không có vọng tưởng thì lấy gì mà tu, không có cái xấu dở, làm sao chúng ta thăng hoa được. Cũng như trong Thiền viện, một trăm ba mươi huynh đệ thì có một trăm ba mươi đường nét khác nhau. Tốt có xấu có, kẻ tâm lượng rộng rãi, người hẹp hòi nhỏ nhoi… nhưng chính những người có tật xấu là nghịch tri thức giúp chúng ta nhiều bài học xứng đáng, huynh đệ sẽ tăng tiến công phu từ trong cuộc sống bình thường ấy.
Tổ nói ngài sống thanh nhàn vô sự, tức không cần lo gì hết nên rất nhàn nhã. Còn chúng ta thì sao ? Lâu lâu đi bác sĩ siêu âm coi có u nhọt nào không? Bây giờ văn minh nên thêm chuyện thêm lo, chớ hồi xưa ông bà nội ngoại mình có siêu âm gì đâu, cũng có vị khỏe mạnh sống lâu vậy. Chừng nào bệnh thì uống thuốc, một hết hai chết chớ có gì phải lo. Bây giờ vài tháng đi siêu âm, nếu bác sĩ nói có cái u nhọt nào đó chỉ còn thở được một tháng, tháng rưỡi thì thôi bắt đầu lo. Có khi lo quá bệnh lại càng nặng hơn, không chữa được luôn. Càng sợ chết thì cái chết càng nhích tới gần hơn. Trong khi cái vinh dự nhất là sự sáng suốt của các giác quan, nghe thấy nếm ngửi mình có đủ, không bao giờ bị bệnh, không bao giờ mất lại không nhớ tới.
Phật dạy chúng ta tu tập, áp dụng công phu thế nào để không bị mắc mứu với các cảnh duyên bên ngoài, không đắm luyến thân tứ đại bên ngoài và tâm vọng tưởng bên trong. Đó là điều quan trọng trong công phu tu hành. Biết rõ cái nào thật cái nào giả rồi, chúng ta vui vẻ sống theo phúc duyên của mình. Chỉ bình tỉnh sáng suốt gan dạ trả hết nợ nần đã vay thì thân này còn mất không thành vấn đề đáng lo sợ nữa. Tỉnh táo sáng suốt chấp nhận trả chớ không có thái độ vừa trả nợ vừa lầm bầm. Trả nợ mà còn lầm bầm không vui vẻ là nợ thêm. Chư vị Bồ-tát trả nợ rất vui vẻ, rất sẵn sàng, vì biết rằng trả là sẽ hết. Hơn nữa thân tâm này không thật, có gì của mình mà chấp giữ. Chúng ta chưa được như thế nên sợ trả nợ, sợ mất thân… đủ thứ lo sợ. Vì vậy cuộc sống của mình khổ đau ràng buộc, chớ không thanh thản giải thoát như các Ngài.
Hồi xưa có hai thầy Tỳ-kheo trên đường trở về đảnh lễ đức Thế Tôn. Đi ngang vùng hạn hán không có nước, lương thực cũng hết, lúc ấy khát quá. Một thầy nhìn thấy chút nước trong lỗ chân trâu, tự nghĩ “Ta cần khỏe mạnh đi đến chỗ Phật đảnh lễ cầu pháp, được nghe giáo pháp tu hành sẽ thành Phật. Do vậy bây giờ phải phương tiện uống nước này, mặc dù phạm giới sát sanh vì trong nước có nhiều lăng quăng.” Còn thầy kia thì nói: “Ta thà mất mạng chớ không mất giới”. Sau đó thầy giữ giới vì quá thiếu nước nên chết dọc đường, còn thầy uống nước trong lỗ chân trâu đi đến được chỗ Phật. Tới nơi, thầy này đảnh lễ Thế Tôn rồi tường trình tự sự và xin được cầu pháp. Đức Phật nói: “Thầy Tỳ-kheo thà mất thân mạng chớ quyết không phạm giới, tuy không quỳ dưới chân ta nhưng chính thực là gần ta. Còn ngươi tuy ngồi cạnh ta nhưng thật ra cách xa ta ngàn dặm, không xứng đáng lãnh thọ giáo pháp của Như Lai”. Câu chuyện đã cho chúng ta một bài học về sự không tham đắm thân mạng này, mà thầy Tỳ-kheo giữ giới đã thành tựu được thâm ý của đức Phật.
Phật pháp rất bình thường, nhưng vì chúng ta không giữ gìn được tâm cầu đạo, không giữ gìn được giới hạnh nên Phật pháp trở thành phi thường làm không nổi. Bây giờ chư huynh đệ chưa ở núi, trong điều kiện sống thế này, chúng ta cố gắng phát huy trí tuệ Bát-nhã, làm sao mỗi ngày mỗi sáng, đừng để bị tắt lụi, phát huy cho đến viên mãn. Đó là mục đích chính của người tu Phật.
Ngài dạy không bận lòng lo nghĩ điều gì, ngày đêm thắp hương đốt đèn cúng Phật, quét tước đài hoa là công việc thường nhật kẻ tu hành. Như huynh đệ được phân công gánh nước trong lúc trời mưa lòng vẫn hoan hỷ, hoặc sắp nấu cơm khi trời nóng bức cũng không phiền hà, trong tâm luôn luôn phấn chấn. Huynh đệ nên nghĩ mình có sức khỏe tạo được công đức, như quét dọn đài hoa trang nghiêm hoặc làm những thức ăn cúng dường các bậc Hiền thánh và chư tăng hiện tiền. Các vị dùng những thức ăn này tuy bây giờ chưa thành Phật, nhưng tương lai tu hành chắc chắn sẽ thành Phật. Công đức này thật vô lượng vô biên. Dù đi ôm củi, quét dọn nhà bếp, hốt trấu, kéo xe đổ rác vệ sinh của viện…, việc làm nào cũng kết lên đài hoa công đức. Các anh em quán chiếu thêm một chút nữa, ta làm việc bên ngoài để nhớ quét dọn trở lại trong mình. Kéo một xe rác đem đổ là rửa ráy những cù cặn trong lòng, đổ hết đi. Nhớ đổ mà đừng trúng người ta, đổ bỏ, nguyện đừng ai vớ vào những thứ đó. Được như vậy lúc nào mình cũng tươi tắn tu hành.
Những năm tôi ở Thủ Đức, khoảng mười sáu mười bảy tuổi gì đó. Trong đạo tràng có thầy bất an, không tu được. Quý thầy trong ban chức sự thương tình trình lên Hòa thượng. Hòa thượng kêu vị ấy hỏi nguyên do, sau đó mỗi sáng Ngài khoanh một khoảng cỏ rồi dạy thầy kia nhổ cho sạch. Ngài đọc mấy câu trong Sơ Đẳng Phật học Giáo Khoa Thư như: “Phật giả Phật đà chi tỉnh xưng…” Dạy khẩu truyền như thế và bắt đệ tử phải học thuộc trong khi làm cỏ. Thời gian sau, kết quả thấy rõ Thầy đó vươn lên trở thành một vị tăng tinh tấn, vui vẻ tu hành không còn thối chuyển nữa.
Cho nên mỗi lần chúng ta làm việc gì phải thường quán chiếu lại chính mình. Hốt cỏ là hốt bỏ những cù cặn, tối tăm nhơ bẩn trong lòng. Làm việc như vậy vừa không phiền não vừa có công đức. Trong lúc tu hành, mỗi cảnh duyên đều là cơ hội để chúng ta phát huy trí tuệ Bát-nhã của mình. Ngoài công việc trong chùa, chúng ta còn được học pháp với Hòa thượng Viện trưởng. Bây giờ tuy Ngài nhập thất không dạy nữa nhưng huynh đệ vẫn được nghe băng thường xuyên. Nghe tới nghe lui từ những băng giảng đầu tiên, như Mới Vào Cổng Chùa cho tới những băng chuyên sâu như Chỉ Ông Chủ… Những bài kinh Bát-nhã cho tới kinh Đại thừa như Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Niết Bàn… Cho nên chúng ta không sợ dốt, chỉ sợ kiến thức quá nhiều trở thành chướng đạo thôi. Học thiền và tu thiền theo Hòa thượng, chúng ta không phải là những học giả mà là hành giả, từng bước đi vào thể nghiệm, để nhận ra chân lý ngay nơi mình. Hiểu như vậy huynh đệ yên tâm tu hành, không còn đứng ngó mong ở sân chùa làm gì.
Việc tu hành cần phải có an tâm, chuyên tâm, mới đạt được sự an vui, thanh thản. Tóm lại trong đoạn này, Sơ tổ Trúc Lâm dạy chúng ta thanh nhàn, vô sự, an nhiên đối với tất cả việc làm. Được thế là người thống nhiếp tất cả việc, tự tại với muôn pháp. Như Hòa thượng dạy: “Một niệm dấy khởi đừng lầm chạy theo, biết các niệm đều là vọng tưởng mình không dính mắc, nó không đủ lực kéo, mình không chạy theo nó tức là tự tại giải thoát rồi.” Khi ấy Định và Tuệ hiện tiền, không tìm ở đâu xa.



]


THIỀN TÔNG VIỆT NAM