Thursday, March 25, 2010

SUỐI REO RỪNG TRÚC

H.T THÍCH NHẬT QUANG

ĐOẠN 6

Thanh nhàn vô sự,
Quét tước đài hoa;
Thờ phụng Bụt trời,
Đêm ngày hương hỏa.


Giảng:


Làm kẻ thanh nhàn vô sự, không bận bịu lo nghĩ điều gì, ngày đêm đốt đèn cúng Phật, quét tước đài hoa. Đó là những công việc hết sức bình thường của kẻ tu hành nhưng rất thiền vị. Chư huynh đệ ở Thiền viện quét dọn trước điện Phật cũng như làm vệ sinh trong đạo tràng… tất cả những việc này đều là việc tu hành. Công đức phát sinh từ những việc như thế, nếu tâm chúng ta thanh nhàn vô sự. Còn huynh đệ làm đâu kẹt đó, so đo nặng nhẹ từng chút, phiền não đầy bụng thì không còn ý nghĩa của việc tu hành nữa.
Ví dụ trước khi xuất gia có vị từng là ông Trưởng ty Điền địa. Bây giờ vào chùa tu, sáng ra làm theo mấy thầy trẻ thì làm không nổi, ngồi không coi không đặng, nên cũng cầm kẹp đi lượm rác. Công tác bình thường nhẹ nhàng thôi nhưng có khi nổi hứng lên tìm Trụ trì nói: “Thầy biết không ! Hồi xưa tôi làm Trưởng ty chớ bộ giỡn”. Hỏi: “Trưởng ty ở đâu?” Nói: “Trưởng ty Điền địa. Bây giờ hốt rác cũng chỉ phó hốt rác chớ không phải chánh nữa, lượm bọc nilon bậy bạ vậy thôi. Thưa thầy, thế mà vui.” Cho nên có bài kệ: “Tùng tảo già lam địa, thời thời phước huệ sanh, nhược vô tân khách chí, tức hữu thánh nhơn hành”. Làm việc quét dọn trong tùng lâm, tuy ban sớm chưa có người đi nhưng mà thánh nhơn đã dạo qua. Siêng năng làm việc như thế mỗi lúc mỗi tăng trưởng công đức phước huệ.
Trong hàng đại đệ tử của đức Phật, có một Tỳ-kheo học đâu quên đó, cuối cùng Phật dạy hai chữ “tảo tuệ” thôi. Tảo tuệ là gì ? Là chổi quét chớ không có gì lạ. Nhưng thầy nhớ chữ tảo lại quên chữ tuệ, nhớ chữ tuệ lại quên chữ tảo. Nhớ chổi quên quét, nhớ quét quên chổi. Một người lẩn quẩn đến mức độ như vậy, mà cuối cùng Phật cũng điểm hóa cho thầy chứng quả A La Hán. So với Tôn giả này chúng ta đâu đến nổi tệ, phần nhiều quí thầy tốt nghiệp cấp hai, cấp ba, cấp đại học… ai cũng hiểu biết, đầu óc tỉnh táo không đến nổi đảo lộn quên ăn quên ngủ. Các căn chúng ta đầy đủ sinh hoạt bình thường như mọi người, đó là một diễm phúc lớn.
Chúng ta không thiếu cái gì, nhất là cái sáng suốt thường nhiên luôn túc trực bên mình. Thế nhưng lắm khi chúng ta bực bội, tại sao mình cứ lầm mê, mãi miết chạy theo trần cảnh bên ngoài để rồi tu không được. Sao mình dại quá ? Nhưng thật ra, chính nhờ những thứ đó ta mới tu được. Không có vọng tưởng thì lấy gì mà tu, không có cái xấu dở, làm sao chúng ta thăng hoa được. Cũng như trong Thiền viện, một trăm ba mươi huynh đệ thì có một trăm ba mươi đường nét khác nhau. Tốt có xấu có, kẻ tâm lượng rộng rãi, người hẹp hòi nhỏ nhoi… nhưng chính những người có tật xấu là nghịch tri thức giúp chúng ta nhiều bài học xứng đáng, huynh đệ sẽ tăng tiến công phu từ trong cuộc sống bình thường ấy.
Tổ nói ngài sống thanh nhàn vô sự, tức không cần lo gì hết nên rất nhàn nhã. Còn chúng ta thì sao ? Lâu lâu đi bác sĩ siêu âm coi có u nhọt nào không? Bây giờ văn minh nên thêm chuyện thêm lo, chớ hồi xưa ông bà nội ngoại mình có siêu âm gì đâu, cũng có vị khỏe mạnh sống lâu vậy. Chừng nào bệnh thì uống thuốc, một hết hai chết chớ có gì phải lo. Bây giờ vài tháng đi siêu âm, nếu bác sĩ nói có cái u nhọt nào đó chỉ còn thở được một tháng, tháng rưỡi thì thôi bắt đầu lo. Có khi lo quá bệnh lại càng nặng hơn, không chữa được luôn. Càng sợ chết thì cái chết càng nhích tới gần hơn. Trong khi cái vinh dự nhất là sự sáng suốt của các giác quan, nghe thấy nếm ngửi mình có đủ, không bao giờ bị bệnh, không bao giờ mất lại không nhớ tới.
Phật dạy chúng ta tu tập, áp dụng công phu thế nào để không bị mắc mứu với các cảnh duyên bên ngoài, không đắm luyến thân tứ đại bên ngoài và tâm vọng tưởng bên trong. Đó là điều quan trọng trong công phu tu hành. Biết rõ cái nào thật cái nào giả rồi, chúng ta vui vẻ sống theo phúc duyên của mình. Chỉ bình tỉnh sáng suốt gan dạ trả hết nợ nần đã vay thì thân này còn mất không thành vấn đề đáng lo sợ nữa. Tỉnh táo sáng suốt chấp nhận trả chớ không có thái độ vừa trả nợ vừa lầm bầm. Trả nợ mà còn lầm bầm không vui vẻ là nợ thêm. Chư vị Bồ-tát trả nợ rất vui vẻ, rất sẵn sàng, vì biết rằng trả là sẽ hết. Hơn nữa thân tâm này không thật, có gì của mình mà chấp giữ. Chúng ta chưa được như thế nên sợ trả nợ, sợ mất thân… đủ thứ lo sợ. Vì vậy cuộc sống của mình khổ đau ràng buộc, chớ không thanh thản giải thoát như các Ngài.
Hồi xưa có hai thầy Tỳ-kheo trên đường trở về đảnh lễ đức Thế Tôn. Đi ngang vùng hạn hán không có nước, lương thực cũng hết, lúc ấy khát quá. Một thầy nhìn thấy chút nước trong lỗ chân trâu, tự nghĩ “Ta cần khỏe mạnh đi đến chỗ Phật đảnh lễ cầu pháp, được nghe giáo pháp tu hành sẽ thành Phật. Do vậy bây giờ phải phương tiện uống nước này, mặc dù phạm giới sát sanh vì trong nước có nhiều lăng quăng.” Còn thầy kia thì nói: “Ta thà mất mạng chớ không mất giới”. Sau đó thầy giữ giới vì quá thiếu nước nên chết dọc đường, còn thầy uống nước trong lỗ chân trâu đi đến được chỗ Phật. Tới nơi, thầy này đảnh lễ Thế Tôn rồi tường trình tự sự và xin được cầu pháp. Đức Phật nói: “Thầy Tỳ-kheo thà mất thân mạng chớ quyết không phạm giới, tuy không quỳ dưới chân ta nhưng chính thực là gần ta. Còn ngươi tuy ngồi cạnh ta nhưng thật ra cách xa ta ngàn dặm, không xứng đáng lãnh thọ giáo pháp của Như Lai”. Câu chuyện đã cho chúng ta một bài học về sự không tham đắm thân mạng này, mà thầy Tỳ-kheo giữ giới đã thành tựu được thâm ý của đức Phật.
Phật pháp rất bình thường, nhưng vì chúng ta không giữ gìn được tâm cầu đạo, không giữ gìn được giới hạnh nên Phật pháp trở thành phi thường làm không nổi. Bây giờ chư huynh đệ chưa ở núi, trong điều kiện sống thế này, chúng ta cố gắng phát huy trí tuệ Bát-nhã, làm sao mỗi ngày mỗi sáng, đừng để bị tắt lụi, phát huy cho đến viên mãn. Đó là mục đích chính của người tu Phật.
Ngài dạy không bận lòng lo nghĩ điều gì, ngày đêm thắp hương đốt đèn cúng Phật, quét tước đài hoa là công việc thường nhật kẻ tu hành. Như huynh đệ được phân công gánh nước trong lúc trời mưa lòng vẫn hoan hỷ, hoặc sắp nấu cơm khi trời nóng bức cũng không phiền hà, trong tâm luôn luôn phấn chấn. Huynh đệ nên nghĩ mình có sức khỏe tạo được công đức, như quét dọn đài hoa trang nghiêm hoặc làm những thức ăn cúng dường các bậc Hiền thánh và chư tăng hiện tiền. Các vị dùng những thức ăn này tuy bây giờ chưa thành Phật, nhưng tương lai tu hành chắc chắn sẽ thành Phật. Công đức này thật vô lượng vô biên. Dù đi ôm củi, quét dọn nhà bếp, hốt trấu, kéo xe đổ rác vệ sinh của viện…, việc làm nào cũng kết lên đài hoa công đức. Các anh em quán chiếu thêm một chút nữa, ta làm việc bên ngoài để nhớ quét dọn trở lại trong mình. Kéo một xe rác đem đổ là rửa ráy những cù cặn trong lòng, đổ hết đi. Nhớ đổ mà đừng trúng người ta, đổ bỏ, nguyện đừng ai vớ vào những thứ đó. Được như vậy lúc nào mình cũng tươi tắn tu hành.
Những năm tôi ở Thủ Đức, khoảng mười sáu mười bảy tuổi gì đó. Trong đạo tràng có thầy bất an, không tu được. Quý thầy trong ban chức sự thương tình trình lên Hòa thượng. Hòa thượng kêu vị ấy hỏi nguyên do, sau đó mỗi sáng Ngài khoanh một khoảng cỏ rồi dạy thầy kia nhổ cho sạch. Ngài đọc mấy câu trong Sơ Đẳng Phật học Giáo Khoa Thư như: “Phật giả Phật đà chi tỉnh xưng…” Dạy khẩu truyền như thế và bắt đệ tử phải học thuộc trong khi làm cỏ. Thời gian sau, kết quả thấy rõ Thầy đó vươn lên trở thành một vị tăng tinh tấn, vui vẻ tu hành không còn thối chuyển nữa.
Cho nên mỗi lần chúng ta làm việc gì phải thường quán chiếu lại chính mình. Hốt cỏ là hốt bỏ những cù cặn, tối tăm nhơ bẩn trong lòng. Làm việc như vậy vừa không phiền não vừa có công đức. Trong lúc tu hành, mỗi cảnh duyên đều là cơ hội để chúng ta phát huy trí tuệ Bát-nhã của mình. Ngoài công việc trong chùa, chúng ta còn được học pháp với Hòa thượng Viện trưởng. Bây giờ tuy Ngài nhập thất không dạy nữa nhưng huynh đệ vẫn được nghe băng thường xuyên. Nghe tới nghe lui từ những băng giảng đầu tiên, như Mới Vào Cổng Chùa cho tới những băng chuyên sâu như Chỉ Ông Chủ… Những bài kinh Bát-nhã cho tới kinh Đại thừa như Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Niết Bàn… Cho nên chúng ta không sợ dốt, chỉ sợ kiến thức quá nhiều trở thành chướng đạo thôi. Học thiền và tu thiền theo Hòa thượng, chúng ta không phải là những học giả mà là hành giả, từng bước đi vào thể nghiệm, để nhận ra chân lý ngay nơi mình. Hiểu như vậy huynh đệ yên tâm tu hành, không còn đứng ngó mong ở sân chùa làm gì.
Việc tu hành cần phải có an tâm, chuyên tâm, mới đạt được sự an vui, thanh thản. Tóm lại trong đoạn này, Sơ tổ Trúc Lâm dạy chúng ta thanh nhàn, vô sự, an nhiên đối với tất cả việc làm. Được thế là người thống nhiếp tất cả việc, tự tại với muôn pháp. Như Hòa thượng dạy: “Một niệm dấy khởi đừng lầm chạy theo, biết các niệm đều là vọng tưởng mình không dính mắc, nó không đủ lực kéo, mình không chạy theo nó tức là tự tại giải thoát rồi.” Khi ấy Định và Tuệ hiện tiền, không tìm ở đâu xa.



]


THIỀN TÔNG VIỆT NAM

0 comments:

Post a Comment