Wednesday, July 1, 2015

Quán bất tịnh - HT Thích Thiện Hoa



http://thuongchieu.net/index.php/phatphapcanban/4040-quanbattinh3


   Somehow mình rất thich tu quán chiếu nha , vì mình thấy nó rất thực  tế hơn , nhất là những lúc có việc gì trái ý nghịch lòng thì mình chỉ quán chiếu tí xíu là mình hết phiền muộn liền , nhưng pháp môn này mình kg rành lắm , chưa có Thầy nào dạy kỹ cách cho mình tu , nhiều lúc quán chiếu tới ngày thứ 3 là tự nhiên cái đầu mình nó cứng ngắt , hết quán với chiếu nổi rồi , khg nghĩ ra được cái gì hết nên đành xếp lại để chờ nhân duyên gặp SP nào đó chuyên tu về pháp môn này  :))

 Quán bất tịnh mà thấy gớm cái thân mình qúa đến nổi muốn tự tử thì phải ngưng nha , quây qua qúan chiếu cái khác , khg thôi sẽ đi tự sát thật đó .... :))  Mắc cười HT Thanh Từ giảng nói khi mà Sư Ông tu quán bất tịnh , đến 1 ngày tự nhiên thấy cái thân là muốn ói  :)) nên HT liền bỏ , qua tu thiền  ......

Tiểu sử Chùa Linh Quang ( Chùa đang xây chánh điện , ai có lòng hảo tâm giùm giúp chút đỉnh bà con ơi )






Địa chỉ Chùa Linh Quang :

Linh Quang Buddhist Temple
821 Ridge Road
Telford, PA 18969-1528

Phone : (215) 234-0930
chualinhquangpa at yahoo.com

( Chùa có bán bánh bía rất ngon lắm nha bà con , ngon khg thua gì tiệm nổi tiếng ở VN đâu đó , bà con nhớ mua giúp đỡ để xây Chùa nha , hình như có gởi bán xuyên bang nữa đó , nhớ gọi hỏi trước khi mua nha  ) 

  Mình nghe nhiều Thầy nói khi giúp xây Chùa thì lập tức trên cõi trời sẽ có 1 toà lâu đài đẹp lộng lẫy chờ sẵn  mình lên đó ở rồi đó , hay là con của mình nhờ có phước sẽ trở thành bác sĩ hay kỹ sư đó , phước báo rất lớn đó các bạn ơi , có thể giúp tiền , nếu khg có tiền cũng có thể giúp làm công qủa , cuộc đời này khi chết nút áo còn lắc bỏ lại , khg đem theo được gì , chỉ có nghiệp lành hay dữ là mình mang theo được thôi .....mấy hôm trước mình có dịp nói chuyện với Ni Sư , Chùa đang thiếu tiền kinh khủng , mấy Sư Cô đang lo lắng qúa trời luôn , ai khg giúp được thì giùm share tiếp mình nhé , củng có nhiều phước lắm nha , please everybody ......

   Mình nói với ông xã vì thấy mấy Sư Cô thấy tội qúa , cực khổ qúa trời vì phải làm đủ thứ để kiếm tiền xây Chùa cho nên tui  định lên Chùa cắt tóc  và nhuộm tóc free , ai có lòng hảo tâm thì cúng Chùa .  Ông xã bảo : bà mà cắt xong chắc mấy người đó đi tu luôn , hong thôi thì tặng mỗi người 1 cái nón .....trùi , sao trù dập tài năng mình đến vậy khg biết nữa  :)
     

NGHIỆP CHUNG VÀ NGHIỆP RIÊNG - Thích Đạt Ma Phổ Giác


  Trong thời Phật còn tại thế, tại núi Linh Thứu, cùng lúc có nhiều đoàn Tỳ kheo đi thiền hành. Đoàn thứ nhất đi theo ngài Xá Lợi Phất, đoàn thứ hai đi theo ngài Mục Kiền Liên, đoàn thứ ba đi theo ngài Phú Lâu Na, đoàn thứ tư đi theo ngài A Na Luật, đoàn thứ năm đi theo ngài Đề Bà Đạt Đa… Khi thấy các đoàn tỳ kheo hành thiền riêng biệt như vậy, đức Phật mới nói rằng, “đoàn Tỳ kheo đi theo ngài Xá Lợi Phất có nghiệp chung với Ngài, nên có trí tuệ đệ nhất. Đoàn Tỳ kheo đi theo ngài Mục Kiền Liên có nghiệp chung là thần thông đệ nhất. Đoàn Tỳ kheo đi theo ngài Phú Lâu Na có cộng nghiệp là thuyết pháp đệ nhất. Đoàn Tỳ kheo đi theo ngài A Na Luật có nghiệp chung là  thiên nhãn đệ nhất. Đoàn Tỳ kheo đi theo ngài Đề Bà Đạt Đa có nghiệp chung xấu ác, tranh giành, giết chóc, sau này dễ bị đoạ lạc.

    Tuy nhiên, không phải ai theo ngài Xá Lợi Phất là có trí tuệ đệ nhất, mà cần phải có thời gian hành trì, học hỏi, vì ai cũng có nghiệp riêng của mình, nên mức độ đạt được tuỳ theo khả năng, không nhất định là ai cũng được như vậy.

     Do đó, nghiệp cũng không cố định, có thể thay đổi được, vì sao? Vì nghiệp từ thân-miệng-ý tạo tác mà thành, tuy có tác ý nhưng không thật. Cái gốc của việc tạo nghiệp lành, nghiệp ác không có thật, bởi do si mê, ngu muội, mà tạo tác thành nghiệp dữ;  nếu ta biết định tĩnh, sáng suốt, thì tạo tác nên nghiệp lành.

    Phật dạy, nghiệp là cái không thật, tuy biết nó không thật, nhưng nếu si mê, để bị dính mắc nghiệp xấu ác, thì sẽ thọ quả khổ đau không ai tránh khỏi, chỉ có người biết tu tập, làm nhiều điều thiện lành thì quả xấu sẽ nhẹ hơn. Đối với thế gian, người khôn ngoan có thể che giấu, trốn tránh tội lỗi, nhưng đối với nghiệp báo thì ai tạo nghiệp gì thì phải chịu quả ấy, không thể trốn tránh vào đâu được; vì khi tạo nghiệp thì mắt thấy, tai nghe, thân thể cảm thọ, chủng từ nghiệp kết tụ, lưu trữ vào tàng thức, chờ khi hội đủ nhân duyên thì nghiệp sẽ trổ ra.

    Có người cho rằng, thân này hành động tạo nghiệp thiện hay ác, đến khi chết thì những hành động ấy đâu còn nữa, chỉ còn lại cái xác nằm trơ, rồi thối rữa, rã tan, làm sao biết được nghiệp ấy còn hay mất.    

    Đây là quan niệm hết sức sai lầm của không ít người lầm chấp, cho rằng chết là hết, không có nhân quả, không có tội phước, nên họ mặc tình hưởng thụ các dục lạc thế gian, tha hồ gây tạo tội lỗi, có khi gây nên tội ác tày trời mà lòng không chút ân hận. Chính cũng vì quan niệm sai lầm như vậy mà bản thân tôi hơn nửa đời người đã gây ra biết bao lầm lỗi. Nhờ duyên gặp được Tam Bảo, gặp được Phật pháp, gặp được bậc minh sư chân chánh, tôi mới quay đầu làm lại cuộc đời, làm mới lại chính mình.    Nếu không nhờ Tam Bảo, nhờ Phật Pháp và minh sư chỉ giáo, hôm nay tôi làm gì có cơ hội được chia sẻ cùng với quý Phật tử ở đây.

     Khoảng năm Mậu Thân (1968), lúc ấy tôi chỉ là một cậu thiếu nhi mà đã biết hút thuốc, uống rượu, cờ bạc. Vậy cái gì đã xuôi khiến, thúc giục tôi đi vào con đường hư hỏng, sa đoạ quá sớm như vậy? Điều ấy trong nhà Phật gọi là tập nghiệp. Tập nghiệp đời trước cộng với sở thích trong đời hiện tại đưa đẩy chúng ta vào hố sâu tội lỗi.

    Cho nên, ngay tại đây và bây giờ, quý vị đã có duyên được đến chùa nghe pháp, tụng kinh, lễ Phật, sám hối, tức là quý vị đã có hạt giống nghiệp lành với nhau từ nhiều đời trước rồi. Nếu không, bây giờ quý vị đã ngồi ở nhà mở truyền hình xem phim, hoặc đi chơi chỗ này, chỗ kia như bao người khác, chứ quý vị đâu có muốn đến chùa nghe pháp, học Phật với nhau như thế này. Đây đúng thật là một duyên lành hạnh phúc cho đời mình trong hiện tại, và nó sẽ còn lưu giữ để duy trì tới kiếp sau.

    Hiện tại, quý Phật tử đã có phước duyên thiện lành, tốt đẹp rồi, quý vị hãy xem nó như một món ăn tinh thần, ráng mà duy trì, ráng mà phát huy, lúc nào thiếu nó mà quý vị cảm thấy khó chịu thì quý vị nên mừng, bởi vì quý vị đã huân tập được một thói quen tốt. Trong nhà Phật thường nói, thân người khó được, Phật pháp khó nghe. Ở đây, quý vị đã có được thân người trọn vẹn, khoẻ mạnh, lại biết nghe Phật pháp, và còn biết áp dụng Phật pháp để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.

     Trong kinh, Phật thường nói, “nghiệp theo ta như bóng với hình, dù trải qua trăm kiếp, ngàn đời vẫn không bao giờ bị mất, khi nào hội đủ nhân duyên thì quả báo tự nó hiện ra, không một ai cưỡng lại hay làm sai lệch được”.

     Có một thí dụ cụ thể cho chúng ta thấy nghiệp không bao giờ mất. Có hai người khách qua sông, một người là thương gia mua bán, mang theo nhiều tiền bạc, của cải; một người chuyên nghề dạy học, chỉ mang chút ít sách vở và tiền lộ phí. Thuyền qua đến giữa sông, bất thần bị chìm, hai người may mắn được cứu và thoát chết, nhưng hành lý, tư trang, tiền bạc của hai người đều bị dòng nước cuốn trôi mất hết. Cả hai người đều trắng tay, riêng cái hiểu biết của nhà giáo dục không bị mất mát chút nào. Vì sao? Vì kiến thức là cái chuyên môn đã huân tập qua nhiều năm tháng, tức cái sở trường riêng của mỗi người, còn gọi là nghề hay nghề nghiệp, nên nó không bị mất.

     Do đó, quý Phật tử tại gia nên lưu ý, khi ta mới sinh ra với hai bàn tay trắng, đến lúc chết đi cũng không mang được gì, duy chỉ có nghiệp lành dữ, xấu tốt, là mình phải mang theo. Lúc ấy, những người thân thương mình nhất như cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, bạn bè, không giúp gì cho ta được. Vì vậy, quý vị cần nên thấy biết rõ ràng về nghiệp quả, để khi ta gặp nhiều bất trắc, mình không quá đau khổ, bi lụy.

    Và ta nên nhớ rằng, khi chúng ta đã tạo được nhiều nghiệp lành, thì dù cho qua nhiều biến đổi, thân xác này chết đi, tan rã thành cát bụi, nhưng nghiệp thức tốt đó vẫn còn, không mất. Khi chúng ta rời bỏ sự sống, bỏ lại thế gian tất cả gia tài, sự nghiệp, vợ chồng, con cái, họ hàng, thân tộc, bạn bè thân hữu, mình chỉ mang theo nghiệp lành, nghiệp dữ mình đã gây tạo trong đời mà thôi. Đây là một lẽ thật, quý vị cần biết để cố gắng gieo tạo nghiệp lành.

Quán chiêú về vô thường - TT Thích Thông Huệ




  Khi nói đến Vô thường liền hiểu ngay đó là luật tuần hoàn của vũ trụ. Nơi nào có sự vận hành, chuyển biến, đổi dời, nơi đó có Vô thường. Vì vậy Vô thường là một định luật phổ biến, bao gồm cả vũ trụ và nhân sinh.
Vì mang tính phổ biến nên Vô thường là một cuộc đại hóa, sự biến hóa cùng khắp, bất cứ ở đâu và lúc nào. Dù đức Phật có xuất hiện hay không thì ngọn lửa Vô thường vẫn cứ điềm nhiên âm ĩ thiêu đốt cả thế gian, không một phút tạm ngừng. Vì thế, đứng về mặt tục đế hữu hình hữu hoại thì hẳn nhiên Vô thường là chân lý bất di dịch.
Thân, tâm và cảnh giới là một dòng chảy (quá, hiện, vị lai). Chánh báo và y baó của một chúng sinh tạo thành dòng sông sinh mệnh, lực đẩy tạo thành dòng sông sinh mệnh chính là sự khát ái vào những sở thuộc như sự nghiệp tài sản, danh vọng nhằm củng cố cái Tôi (giả ngã) trong vòng luân hồi vô tận. Khi nào cái Tôi còn bén rễ, khi nào ý thức chấp ngã còn bén rễ, khi nào ý thức chấp ngã còn xen vào cuộc sống thì vòng luân hồi vẫn thường xoay chuyển.
Vô thường có ba:
- Nhất kỳ Vô thường - Tương tục Vô thường - Sát na sinh diệt Vô thường.
Nhất kỳ là thô tướng nhất của Vô thường, chỉ cho sự kết thúc của một tiến trình, như sự chết của một người, nhưng chết không có nghĩa là mất hẳn, mà chỉ là tạm vắng ở nơi này, để chuẩn bị biểu hiện thành sự sống ở nơi khác.
- Tương tục là sự sinh diệt, băng hoại thường xuyên trong lòng sự vật, là sự chuyển biến không ngừng, nên sự tương tục ấy là tể tướng của Vô thường.
- Sát na sinh diệt là sự vô thường ma mãnh nhất, nhỏ nhiệm nhất. Sát na là thuật ngữ nhà Phật hay sử dụng, chỉ cho đơn vị ngắn nhất của thời gian. Một niệm thoáng qua trong tâm thức có đến 90 sát na. Mỗi sát na là một tiểu niệm. Sự sinh diệt nhỏ nhiệm của mỗi sát na chỉ có Phật trí mới thấy được. Ba phạm trù thuộc ba phân loại Vô thường ở trên không chỉ có nơi các hiện tượng vật lý, mà thâu gồm luôn trong các hiện tượng sinh lý và tâm lý nữa.
Kinh Pháp Hoa, phẩm Thí Dụ. Phật dạy: "Chúng sanh bị chìm đắm trong vô số nạn khổ, thế mà không biết lại hoan hỷ vui chơi, chẳng kinh chẳng sợ, chẳng hề biết chán, chẳng chịu tầm cầu giải thoát. Ở trong nhà lửa tam giới cứ dong ruổi Đông Tây. Tuy gặp đại khổ mà chẳng biết đó là nguy khốn".
Phật nói Vô thường (nhà lửa) nhằm phá cái chấp thường của phàm phu, vì mê mờ điên đảo, vọng nhận các pháp là thực hữu, bèn đem cái tâm Vô thường, dùng cái thân Vô thường, nắm bắt các pháp Vô thường, cho đến mãn kiếp không bao giờ được thỏa mãn tâm vọng cầu. Người lớn hay sống về quá khứ, tuổi trẻ hay mơ mộng về tương lai, người tỉnh thức biết khéo sống nơi giây phút hiện tại. Mảnh đất lập thân của người phàm là quá khứ vị lai. Nơi an thân và lập mệnh của người tỉnh thức là hiện tại. Những kỷ niệm vui buồn quá khứ chỉ còn là những viễn ảnh mờ xa rơi rớt lại trong ký ức. Những dự hướng tương lại chưa đến chỉ là những bóng ma của hư tưởng. Một cuộc vui nào rồi cũng phải qua đi. Một nỗi buồn nào rồi cũng phải nhạt theo năm tháng. Cổ Đức có dạy: "Thời gian tợ tên bắn, ngày tháng như thoi đưa. Vô thường chóng qua mau, gắng gỗ chớ dần dà! Ngày tháng cứ thản nhiên trôi qua, mạng sống cũng theo đó dần dần đoạn giảm, như cá thiếu nước, nào có vui gì...".
(Quang âm tợ tiễn, nhựt nguyệt như toa, Vô thường tấn tốc, thiết mạc ta đà!. Thị nhựt dĩ quá, mạng diệc tùy giảm, như thiểu thủy ngư, tư hữu hà lạc...).
Trong một giây có đến 125 triệu tế bào chết đi, nhường chỗ cho 125 triệu tế bào khác sinh ra, trong ấy thực không thể tìm thấy cái Tôi. Theo đây, luật Vô thường bình đẳng đối với tất cả chúng sanh (5 uẩn), dầu là kẻ sang người hèn, kẻ ngu người trí. Quỷ Vô thường tuy không thấy hình dạng nhưng có khả năng làm mạng căn con người chết dần mòn. Sự nhận diện thường trực nơi tất cả mọi đổi thay chuyển dời của cuộc sống không phải để đi đến bi quan chán đời, mà là sự nhận diện cần thiết nhằm thực hiện sự chuyển hóa nơi tâm thức, vốn là sự mê lầm cố hữu đang đè nặng lên thân phận kiếp người, bình tâm mà nhận xét, vui thú thế gian tuy tạm bợ mong manh nhưng vẫn có hấp lực phi thường, hấp lực đó cũng chính là ma lực vô hình dẫn dắt chúng sanh trôi lăn theo sáu nẻo. Chúng sanh chịu khổ sanh tử không khác nào con tằm mùa Xuân kéo tơ làm kén tự trói buộc mình, cũng như con thiêu thân tự lao vào đèn chịu cái họa chết thiêu. Nếu như không đủ phước duyên gặp minh sư dẫn dắt thì làm sao tỏ ngộ được chánh pháp.
Cổ đức dạy: "Tuy sống một trăm năm như trong khoảng sát na, như lượn sóng rút về biển Đông, như ánh sáng còn sót lại của buổi chiều tà, như đánh đá nhà lửa, như ngựa câu thoáng qua khe cửa, như ngọn đèn trước gió, như giọt sương sớm mai trên đầu ngọn cỏ. Nếu không gặp được chánh pháp, ắt phải chịu vĩnh kiếp trầm luân!".
(Tuy niên bách tuế du nhược, sát na, như đông thệ chi trường ba, tợ tây thùy chi tàn chiếu, kích thạch chi tinh hỏa, sậu khích chi tấn câu, phong lý chi vi đăng, thảo đầu chi triêu lộ. Nhược bất ngộ ư chánh pháp, tất vĩnh đọa ư ư đồ hỷ!). Một tâm thức mê mờ quay cuồng trong cảnh sống say chết mộng thêu dệt nên hoàn cảnh sống, trong đó mình là tác giả. Thế nên kinh Hoa Nghiêm cho rằng tâm chính là một đại danh họa, họa ra thân năm uẩn và thế giới y báo:
"Tâm như người thợ vẽ
Vẽ mỗi mỗi ngũ uẩn
Trong tất cả thế giới
Đều do tâm tạo tác".
(Tâm như công họa sư
Hỏa chủng chủng ngũ uẩn
Nhất thiết thế giới trung
Giai do duy tâm tạo).
Vô thường thuộc yếu tố thời gian, là một diễn trình đi từ nhân đến quả. Diễn trình đó nơi chúng sanh hữu tình thì biểu hiện thành sinh, già, bệnh, chết; nơi các pháp thì có sinh, trụ, dị, diệt; nơi thế giới thì có thành, trụ, hoại, không. Sự thay đổi của bốn mùa, sự di chuyển của các hành tinh, vệ tinh cũng không ra ngoài quy luật của diễn trình đó. Thế giới vĩ mô, thế giới vi mô và thế giới trung bình cũng cùng một loại. Hễ có thành ắt có hoại, có hợp ắt có tan. Người quán thông lý Vô thường thì liền dừng, ấy là người tỉnh, người giác. Cái thực vĩnh cửu vốn vô hình vô tướng, còn cái hữu hình hữu tướng chỉ là giả tạm. Nhưng sự sống vĩnh hằng cũng không thể tìm ngoài cái Vô thường ảo mộng. Hãy bình thường trong mọi hoạt dụng của cuộc sống, và tìm cách giải thoát ngay trong cảnh bình thường đó. Xin thay lời kết thúc bằng đoạn thơ của Thiền sư Thanh Đàm, thuộc đời thứ 42, tông Tào Động, khoảng đầu thế kỷ thứ 19:
"Công danh cái thế màn sương sớm
Phú quý kinh nhân giấc mộng dài
Chẳng hiểu bản lai vô nhất vật
Công phu luống uổng một đời ai"