Ở trên nó tòa nhà mà bước ra ngoài tất nhiên sẽ phải rơi
xuống đất, nếu không chết thì cũng mang thương tích, vì quả đất tự nó có
lực hút thẳng về tâm gọi là trọng lực. Cũng như thò tay vào lữa thì sẽ
bị phỏng vì bản chất của lửa là nóng cháy. Do luật thiên nhiên không có
sự phân biệt, không có vấn đề thiên vị, bởi vậy không phải là vì ông vua,
người có học hoặc không có học, đứa hài nhi, hoặc kẻ hiền mà được miễn
thứ. Định luật Ta-bà trên phương diện tâm linh cũng không khác, nó tự
động thi hành chứ không do ai hoặc đấng quyền năng nào chi phối và nó
hoàn toàn vô tư cho nên ta chẳng thể nói “không biết thì không có tội”.
Khác với luật lệ do xã hội quy ước, đối với định luật Ta-bà,
dù ta có biết hay không biết, dù khi hành vi (thân, khẩu, ý) của ta trái
luật mà không ai hay biết, hoặc dù ta có muốn hay không muốn, chúng vẫn
lạnh lùng thi hành và đến lúc đúng thời điểm, hậu quả sẽ phát tác một
cách tuyệt đối chính xác. Lại nữa, định luật Ta-bà không bao giờ biến
đổi và chúng hiện hành ở khắp mọi nơi trong cả ba thời, quá khứ, hiện
tại và vị lai.
Nhờ hiểu biết định luật Ta-bà, ta có thể nhìn thấu được thật
sự những gì mang lại cái hại [Tà] và những gì mang lại cái lợi [Chánh],
và nhờ đó ta dễ tránh được vấn đề phạm pháp. Những định luật sau đây cần
nên được thông hiểu tường tận.
Vô-Thường
Nhân-quả / Nghiệp
Tái-Sinh
Duyên-Khởi
Vô-ngã / Tánh-Không
Ta vi phạm luật vì những hiểu biết sai lầm như sau:
1)
Tất cả sự vật đều vô thường mà ta lại bám víu chúng, cho rằng
chúng là thường hằng
2)
Ta không biết, không hiểu, hoặc không tin luật nhân-quả và nghiệp
3)
Ta không biết hoặc không tin ở tái-sinh
4)
Cho rằng cái Tôi và mọi vật tự có, độc lập và hằng hữu,
mà không hiểu rằng tất cả loài hữu tình đếu vô-ngã chúng không có tự
tánh, chúng đều mang tánh-Không
Hiểu biết sai lầm về các định luật chẳng những là nguyên
nhân cho Tham-Sân-Si sinh khởi mà còn tạo nên môi trường nuôi dưỡng
chúng, để rồi chúng sẽ thông trị cái tôi sai sử cái tôi
tạo nghiệp và hậu quả là cái tôi phải nhận lãnh KHỔ đau.
Câu hỏi quan trọng được nêu lên ở đây là, như thế nào mới
gọi là hiểu luật?
I.
VÔ-THƯỜNG
[Impermanence]
Vô-thường nghĩa là không thường hằng, không cố định,
luôn luôn biến đổi. Vô thường là sự kiện hiển nhiên trong đời sống, tất
cả sự vật đểu luôn luôn ở trong trạng thái biến đổi, sinh diệt. Bất cứ
cái gì đã sinh tất sẽ phải diệt, có lúc khởi đầu thì phải có lúc tận
cùng:
-
Hậu quả của sự hội tụ là sự ly tán.
-
Hậu quả của sự tạo dựng là sự hủy hoại.
-
Hậu quả của sự sống là sự chết.
Tất cả các hiện tượng trên thế gian, từ những
vật cực nhỏ đến những vật cực lớn, đều thay đổi, biến động không ngừng.
Mối liên hệ giữa mọi người, tương quan trong gia đình, tình bạn, nghề
nghiệp, xã hội cũng không thể tồn tại mãi mại. Hôm nay đang là bạn, ngày
mai có thể đã chuyển sang thành thù. Tài vật của cải lúc được lúc mất.
Danh lợi khi lên lúc xuống.
Thể xác con người, kể cả cảm xúc, tư tưởng, tâm
trạng cũng biến chuyển từng giây khắc. Cơ thể lúc nóng lúc lạnh, khi mệt
khi khỏe. Tâm tư lúc vui lúc buồn lúc lo lắng, có khi trầm ngâm trong
quá khứ có lúc mải mê về tương lai, hoặc lúc tin tưởng chủ thuyết này
lúc theo đuổi chủ thuyết khác.
Bất cứ gì có sinh khởi sẽ có ngày hủy hoại và
đến lúc tiêu tan. Sinh và Diệt tương tục nối nhau trôi chảy từng giây
khắc. Đây là những dấu hiệu của luật vô-thường, nói lên sự biến chuyển
không ngừng nghỉ của vạn hữu. Có thể nói vô-thường là một mặt khác của
nguyên lý đối đãi. Vì lực Âm Dương nên mọi thứ phải liên tục biến động,
hoán chuyển, không thể đứng yên.
Vô-thường được giảng là có hai khía cạnh:
·
Thô [gross] Ở mức độ thô sư biến chuyển
của mọi thứ rất hiển nhiên ngay khi ta để tâm quan sát như đã được trình
bày ở trên. Mọi hiện tượng đều phải đi qua tiến trình gồm bốn giai đoạn.
1)
Thành: Khởi sinh, bắt đầu hình thành.
2)
Trụ: Giai đoạn sinh trưởng, chúng sẽ tiến hóa đến mực cực thịnh.
3)
Hoại (suy): Bắt đầu tan rã.
4)
Không (hủy): Trạng thái hoàn toàn hủy hoại, tan rã.
Theo đó, vũ trụ, nền văn minh, con người, mối quan hệ,
v.v…đều phải theo tiến trình sinh khởi, tiến hóa, suy hoại, và tan biến.
Rồi sau một thời gian, tiến trình này lại được lập lại [tuần hoàn.]
Theo lối nhìn đơn giản hơn qua nguyên lý đối-đãi thì tiến trình
này cũng chỉ là hiện tượng sinh (thành, trụ), và diệt (hoại, không).
·
Tế [subtle]: Đi sâu vào chi tiết về
vô-thường, nhà Phật giảng là tất cả mọi thứ đều ở trong trạng thái lưu
động và trở thành [becoming] từ sát-na này qua sát-na kế. Chúng chỉ là
những hiện tượng liên tục chuyển biến trong từng sát-na, mà vì không
nhận bắt được ở tốc độ cực nhanh đó nên ta cho rằng chúng là những thực
thể cố định, thật sự cụ thể. Thí dụ như một số lượng lớn các phân tử
H2O (đơn vị nhỏ nhất của nước) lăn trượt lên nhau làm ta thấy đó là một
con sông mang tính chất cụ thể dài/ngắn, rộng/hẹp, v.v…
HIỂU LUẬT:
Quán sát sâu xa về vô-thường để thấy rõ được sự ảo hóa của
mọi vật, tất cả chỉ có tính cách tạm thời, nhờ đó tâm Tham-Sân-Si được
giảm thiểu.
-
Tham. Danh vọng, vật chất, hạnh phúc,
những gì tốt đẹp gây ra sự dễ chịu thích thú qua sáu giác quan, v.v…sẽ
biến chuyển, thay đổi, rồi sẽ đến lúc hủy hoại nên chúng không có giá
trị chân thực, biết vậy ta không bám chấp, không cầu mong chiếm đoạt
chúng.
-
Sân. Hoàn cảnh bất lợi xấu xa, những kẻ
ta đang thù ghét, những gì xấu xa gây ra sự khó chịu qua sáu giác quan,
v.v…cũng chỉ là những gì nhất thời, nhiều khi chúng lại mang đến lợi ích
cho ta sau này, vậy không đáng cho ta để tâm sân hận.
-
Si. Hiểu vô-thường tức là đã giảm trừ
được tâm Si
Buông bỏ bớt tâm Tham và Sân nghĩa là tâm Xả đang tăng
trưởng
Những người đang tuổi thanh xuân yêu đời không biết rằng
chỉ trong thoáng chốc cái già, chết sẽ đến; những người lớn tuổi, hằn
những nét khằn khổ, cằn cỗi trên gương mặt, có thể sẽ sẵn sàng gây tổn
hại cho kẻ khác chỉ vì quyền lợi của mình, vậy mà mới đây họ còn là
những đứa trẻ ngây thơ vui đùa không một chút âu lo. Thời gian lạnh lùng
trôi qua, tất cả đều bất lực, không một ai hoặc vật gì có thể cưỡng
chống lại vô-thường. Quán sát vô-thường qua những người quanh ta sẽ giúp
ta tăng trưởng tâm Từ Bi.
Vì vô-thường, mọi vật luôn luôn biến động chạy đầu này bỏ
đầu kia [đối-đãi], tốt xấu, thành bại, hòa bình chiến tranh,
v.v…Hiểu như vậy ta không bám chấp vào sự việc xung quanh, ta không cần
phải bận tâm mong cầu, không cần lo lắng hoặc mong muốn thay đổi chúng,
ta không tìm kiếm hạnh phúc, không chối bỏ cái này cái nọ hoặc muốn
thành đạt cái này cái nọ, không nuôi dưỡng những ước vọng xây dựng một
thứ hạnh phúc nào đó. v.v…tức là ta phát triển tâm Xả. Bất lực trước
vô-thường nên dù có thành công, có hơn người, tâm cũng không Kiêu Mạn.
Có sinh tất phải có tử. Mạng sống là quý nhưng cái chết thì
chắc chắn và thời điểm chết thì bất định, thần chết có thể ra tay lấy
mạng ta bất cứ lúc nào. Thế nên ta không lãng phí ngày giờ chạy theo thế
sự, đi tìm thú vui hạnh phúc, hoặc toan tính việc xây dựng hạnh phúc giả
tạo ở tương lai, v.v…Làm quen và chuẩn bị cho cái chết giúp ta loại bỏ
được tâm lười biếng, giãi đãi, sợ hãi, và tâm ân hận vào lúc ra đi.
Nếu tâm Tham-Sân-Si không suy giảm, chưa thấy sự nguy hại
của cái chết đang rình rập, chưa thấy tính chất nhất thời của mọi vật mà
vẫn lo hưởng thụ, tìm kiếm hạnh phúc vững bền, chưa thấy được sự cấp
bách của việc thoát Khổ - tức là ta vẫn chưa hiểu được vô-thường.
II.
NHÂN QUẢ /
NGHIỆP [Cause-Effect and Karma]:
Sống ở đời phần nhiều các phiền não đau khổ mà ta đang phải
gánh chịu ta đều đổ thừa là do kẻ khác, do xã hội gây ra, hoặc vì sinh
lầm thời, thời buổi mạt pháp, v.v…tuy nhiên, đã có hậu quả tất phải có
nguyên nhân.
Trên phương diện vật lý, định luật vô-thường cùng hai nguyên
lý tuần-hòa và bảo-tồn-năng-lượng xác thuyết rằng mọi vật luôn luôn
chuyển biến từ dạng này sang dạng khác, không có vật gì hình thành mà
không có nguyên nhân gây ra nó. Mưa không thể xảy ra được nếu không có
mây, mây không thể thành được nếu không có hơi nước bốc lên. Quả xoài
sinh ra trên cây xoài do hạt xoài mọc lên, v.v…Nói cách khác, có Quả thì
phải có Nhân, hoặc gieo Nhân nào gặt Quả nấy – đó là luật Nhân-Quả.
Sự kiện luật nhân-quả chi phối hiện tượng
vật lý đã quá hiển nhiên, thế nhưng phần đông chúng ta gặp phải khó khăn
tin tưởng sự hiện hành của nhân-quả trên mặt đạo đức cũng như tâm linh
(Nghiệp) vì nó không được cụ thể rõ ràng. Thêm một lý do nữa làm ta khó
tin được luật nhân quả như trong trường hợp những kẻ hiền chuyên làm
việc thiện nhưng phải chịu cuộc đời khốn khổ trong khi kẻ ác lại bình an
sống trong phú quý đến già và hưởng cái chết an lành. Đó là sự chi phối
của luật nhân-quả trên phương diện tâm linh (Nghiệp) cần phải được chứng
minh. Những yếu tố sau đây mà chúng ta sẽ suy xét có thể sẽ làm sáng tỏ
được phần nào lý lẽ đằng sau nhân-quả để thấy được luật nhân quả áp dụng
ở phương diện tâm linh là hợp lý.
A.
CHỨNG MINH sự
hiện hành của NGHIỆP
Nguyên lý đối-đãi bắt buộc vật lý và tâm lý đi đôi với nhau,
và cũng vì tâm lý và vật lý không thể nào tách rời nhau ra được cho nên
trên nguyên tắc, tâm lý, cũng như vật lý, phải chịu sự chi phối của các
nguyên lý cơ bản và các định luật Ta-bà. Sau đây là ba khía cạnh sẽ được
suy xét:
1)
Các nguyên lý cơ bản chi phối tâm linh.
2)
Các định luật Ta-bà chi phối tâm linh.
3)
Thân / cảnh và tâm có liên hệ chặt chẻ.
1)
Các NGUYÊN-LÝ
CƠ BẢN chi phối TÂM LINH
Ta đã biết tính chất của vật chất / vật lý và
sự phản ứng, vận hành của chúng đều nằm dưới sự chi phối của các nguyên
lý đã được liệt kê: đối-đãi, tuần-hoàn, bảo-tồn-năng-lượng, lực và phản
lực, và đồng-thanh-đồng-khí. Ta sẽ khảo sát những nguyên lý này trên
phương diện tâm lý như sau.
a)
Đối-đãi: Không khác các hiện tượng vật lý [xem chương Nguyên Lý:
Đối-Đãi], bất cứ một hiện tượng tâm lý nào cũng có đối cực của nó. Nói
về tánh tình, ta có: cương nghị - yếu hèn, quân tử - tiểu nhân, kiêu
man- khiêm tốn, v.v…nói về tình cảm, ta có: buồn - vui, yêu - ghét, an
vui – lo sợ, v.v…nói về tư tưởng trừu tượng, ta có: càn – khôn, hư –
thực, hồn – phách v.v…
b)
Tuần-hoàn: Ngày hôm nay ta có thể ăn nhậu “đã đời”, nhưng thường
thì chỉ độ một vài ngày sau là sự thèm muốn rượu thịt đã trở lại nhắc
nhở ta rồi. Con người chúng ta có rất nhiều sự việc tương tự có thể cứ
lập đi lập lại như thế suốt đời. Xét ra thì thấy cái tâm của ta ở trong
tình trạng lòng vòng là nó phản ửng theo điều kiện và khi phản ứng như
vậy, nó lại tự điều kiện lại chính nó. [xem chương Ngũ Uẩn].
c)
Bảo-tồn-năng-lượng: Những loại tâm như yêu, ghét, sợ hãi v.v…sẽ
không bao giờ tự tăng giảm nếu không có điều kiện tác động đến chúng.
Thí dụ, hàng ngày ta phải chứng kiến những cảnh trái tai gai mắt, nếu cứ
đè nén sự bực bội thì đến một ngày nào đó nó sẽ bùng nổ, hoặc gây ra
thân bệnh hoặc tâm bệnh. Bác sĩ tâm thần có ghi chép trường hợp một
người mắc bệnh mập vì ba ta không thể kiểm soát được vấn đề ăn uống,
nhưng sau khi tìm ra được nguyên do thì ba ta khỏi ngay. Vấn đề chỉ vì
hồi bé bà ta không được bố mẹ chăm sóc, sự thèm khác tình thương không
được giả tỏa nên tâm lý đã thúc đẩy bà ta dùng thực phẩm để bù đắp vào
chổ thiếu thốn này. Như vậy có nghĩa là cái tâm bực bội hoặc thèm khát
nếu không được hóa giải, chúng vẫn sẽ nằm đó chờ dịp để bùng lên hoặc sẽ
thể hiện qua các dạng khác chứ không tự tiêu hoại.
d)
Lưc và phản lực: Tâm lý cho thấy khi lòng tin tưởng và sự tôn
kính được đặt ở một chủ thuyết hoặc một nhân vật nào đó, lỡ mà “thần
tượng” sụp đổ thì đức tin càng mạnh bao nhiêu sẽ phát sinh tâm nghi ngờ
(cả về chủ thuyết và các nhân vật khác) càng nhiều bấy nhiêu. Một thí dụ
nữa là sự thương yêu giữa hai người sẽ là mầm mống cho sự thù ghét một
khi mối tình cảm bị gảy đổ, càng khắn khít bao nhiêu thì càng thù ghét
nhau bấy nhiêu, như câu chăm ngôn ta thường nghe nói “Yêu nhau lằm, cắn
nhau đau”.
e)
Đồng-thanh-đồng-khí: Nói về vật lý, thí dụ khi ta gõ nốt La trên
đàn Piano thì sợi dây La trên cây đàn guitar cạnh đó sẽ rung lên. Vì
cung là nốt La nên chúng cảm ứng với nhau. Nói về tâm lý, thí dụ hai
“tâm hồn cô đơn” dễ thông cảm và bắt nối với nhau vì đồng một cảnh ngộ.
2)
Các ĐỊNH LUẬT
TA-BÀ chi phối tâm linh
a)
Vô-thường: Nếu vật chất luôn luôn biến động không ngưng nghỉ thì
tâm thức cũng vậy, ý nghĩ này chạy nhảy sang ý nghĩ khác, hoặc hết buồn
rồi vui rồi lo…không giây phút nào nó chịu đứng yên.
b)
Nhân-quả: Khi một ý tưởng hoặc một cảm xúc nào đó khởi lên
(sinh) hoặc tan biến (diệt), nó đều phải có sự tác động của một hoặc một
số nguyên do nào đó. Thí dụ cơn tức giận nổi lên vì có kẻ nói xấu mình.
c)
Duyên-khởi. Một ý tưởng hoặc một cảm xúc nào đó phải hội đủ một
số điều kiện mới khởi lên được. Thí dụ, ta chợt vui sướng vì vừa nghĩ
đến lời khen của vị thày. Cảm xúc vui sướng khởi lên được nhờ có các yếu
tố: ý nghĩ, lời khen, và vị thày; đó là chưa kể đến những yếu tố phụ
khác xung quanh các yếu tố chính kể trên [sẽ được xét rõ hơn ở chương
Duyên-Khởi].
d)
Vô-ngã / tánh-Không. Tất cả các hiện tượng vật lý hiện hữu được
nhờ nương tựa lẫn nhau (duyên khởi), bởi vậy chúng mang tánh-Không. Tất
cả các hiện tượng tâm lý cũng vậy, chúng sinh và diệt tùy thuộc ở điều
kiện (duyên khởi), bởi vậy chúng mang tánh-Không [sẽ được xét rõ hơn ở
chương Vô-ngã / tánh-Không].
3)
THÂN / CẢNH
và TÂM liện hệ chặt chẽ.
Khoa học đã xác định năng lực [engery] và vật
chất [matter] ở thể động và vật chất là năng lực ở thể tĩnh, chúng là
hai dạng khác nhau của cùng một vật thể_hai dạng này có thể tạm ví như
thân và tâm con người. Khi tâm trí phải vận dụng vào việc suy nghĩ sẽ
làm cho sức lực hao tổn, cơ thể mệt mỏi, và ngược lại, khi tinh thần
hăng hái phấn khởi thì cơ thể cảm thấy tràn đầy sinh lực. Như vậy có sự
móc nối mật thiết giữa thân và tâm và sự liên hệ này có thể được thấy rõ
hơn qua những nhận xét sau đây.
a)
Tâm ảnh hưởng (sinh) Thân. Khi tâm lo buồn thì thân dễ bị bệnh,
chẳng hạn như ăn uống không tiêu. Thương nhớ hay thù ghét ai thì cơ thể
bần thần, nhiều khi cũng bị mất ăn mất ngủ. Hoặc có những trường hợp uất
ức rồi bị vỡ mạch máu mà chết. Khi giận dữ hoặc đau buồn thì khuôn mặt
lập tức thay đổi biến thành hung dữ hoặc tươi vui, phản ảnh tâm trạng
lúc bấy giờ. Bởi thế có câu “tướng tùy tâm sinh”, ta có thể xét tướng
mạo mà biết được tâm tính thế nào.
Tất cả những động tác của thân, chẳng hạn như đứng dậy,
trước tiên phải có ý đứng dậy, ý muốn này dẫn khí lực chuyển xuống chân
đẩy thân đứng dậy. Tâm là động lực chủ yếu sai sử thân hành động.
b)
Tâm ảnh hưởng (sinh) Cảnh. Những thứ nhân tạo như các tòa kiến
trúc, phố xá, công viên, v.v…nếu không được phác họa, có ý tạo dựng
trong tâm trước thì không thể hình thành được. Trong nhiều trường hợp,
rừng núi, ao hồ cũng bị thay đổi do tâm con người.
c)
Thân ảnh hưởng (sinh) Tâm. Sức khỏe suy yếu có thể làm tâm trí
không được tỉnh táo, tư duy không được rõ ràng. Những kẻ uống rượu say
hoặc những kẻ nghiện rượu tâm trí thường bị lu mờ, rượu còn ảnh hưởng
đến gan nên họ rất dễ nổi nóng giận dữ. Ngược lại, đầu óc dễ được sảng
khoái, sáng suốt, hoặc tâm tư vui vẻ khi cơ thể đang ở tình trạng khỏe
mạnh không bệnh tật.
d)
Cảnh ảnh hưởng (sinh) Tâm. Cảnh vật ảm đạm làm tâm sinh ra buồn
bã. Bản nhạc quen thuộc gợi lên trong ký ức những kỷ niệm gây ra tâm
trạng vui hoặc buồn. Hoặc ở trong hoàn cảnh tốt, gần bạn tốt sẽ trở
thành người tốt, và ở trong hoàn cảnh xấu, gần bạn xấu sẽ dễ trở thành
người xấu – “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.”
Như vậy sự liên hệ giữa tâm và cảnh rất chặt chẻ, tâm ảnh
hưởng đến cảnh, và ngược lại, cảnh làm đối tượng và ảnh hưởng đến tâm.
Thân/ cảnh là nhân thì tâm là quả, tâm là nhân thì tâm / cảnh là quả.
Bởi vậy, thân / cảnh và tâm không thể tách biệt được, cũng có thể nói
không có thân / cảnh thì không có tâm và không có tâm thì không có cảnh
/ thân.
·
Kết Luận:
Tuy không thể đưa ra được những chứng cớ cụ
thể về nhân-quả trên phương diện tâm linh, nhưng những nhận xét về cả ba
khía cạnh kể trên là những chứng cớ gián tiếp [circumstantial evidence]
cho thấy vật lý (thân / cảnh) và tâm lý (tâm) đều bị các nguyên lý và
định luật chi phối y như nhau. Do đó ta đi đến kết luận là luật nhân-quả
cũng phải tác động trên phương diện đạo đức tâm lý, vậy sự hiện hành của
NGHIỆP là điều hợp lý.
//Đòi
hỏi phải chứng minh nhân-quả và Nghiệp cho rõ ràng thỏa đáng là điều
không thể thực hiện được. “Cây xoài sinh quả xoài, nhưng trước khi ra
quả thì cây xoài chứa quả ở đâu?” Đài khí tượng tiên đoán mưa nắng nhiều
khi vẫn sai lạc, mặc dù họ có máy tối tân có thể dò được đường đi của
gió, lối về của mây. Đó là phương diện vật lý cụ thể mà còn gặp khó khăn
torng sự xét đoán suy luận, torng khi Nghiệp – không phải chỉ nói riêng
về hiện kiếp mà bao gồm cả vô lượng kiếp [xem chương Tái-Sinh] trong quá
khứ, cộng với những yếu tố như thời gian, v.v…là vấn đề đã không cụ thể
mà lại còn vô cùng phức tạp.//
B.
NĂM LUẬT NHÂN
QUẢ.
Luật nhân quả được nhà Phật phân ra làm năm loại [chi tiết
hơn nữa là 24 loại] có thể giải thích được tất cả các hiện tượng vật lý
cũng như tâm lý.
1)
Luật về Vô Cơ (quy luật của thời tiết) [Physical Inorganic Order]
– luật về trật tự của các hiện tượng vật chất ngoài cây cỏ và thú vật
như các hiện tượng mùa màng, mưa nắng, nóng lạnh, bốn mùa, nguyên nhân
gây ra gió mưa, v.v…
2)
Luật về Hữu Cơ (quy luật của chủng loại) [Physical Organic Order]
– trật tự sinh hóa của các loại cây cỏ, động vật, hạt giông nào thì sinh
ra vật đó. Như cam được sinh ra từ hạt cam, vị ngọt tự mía hoặc mật, đặc
điểm riêng biệt của các loại trái cây, tế bào, gene di truyền,v .v.
3)
Luật về Nghiệp [Order or Cause and Effect] – hành động (Nhân) và
hậu quả (Quả), chẳng hạn như hành động thiện hoặc ác sẽ mang lại hậu quả
thiện ác tương ứng.
4)
Luật về Tâm [Order of Mind . Psychic Law] – tiến trình hoạt động,
sinh diệt của tâm như sát-na tâm trước là nhân tạo nên sát-na tâm kế
tiếp; và những thành phần cấu hợp của tâm thức, năng lực của tâm kể cả
các loại thần thông, v.v…
5)
Luật về Pháp [Order of the Norm] – là những hiện tượng như sức
hút của quả đất, bản tính Tham Sân Si, khuynh hướng làm việc thiện,
v.v…Hoặc hiện tượng thiên nhiên xảy ra như sự kiện mười ngàn thế giới
đều rung động một vị Bồ Tát giáng sinh vào kiếp cuối cùng của Ngài.
Ở đây chỉ bàn về Nghiệp, một trong năm luật kể
trên. Nghiệp được gây tạo qua hành động Thân-Ngữ-Ý rồi nó lại tác động
và ảnh hưởng đến đời sống tâm lý và vật lý của chúng sinh.
C.
NGHIỆP
Nghiệp nghĩa là luật gieo Nhân và gặt Quả trên
phương diện đạo đức, tâm linh. Sự hoạt động của Nghiệp tương hợp với các
nguyên lý cơ bản như sau. Quả tương tự như Nhân sẽ ứng hiện, chẳng hạn
như gây Nhân thiện thì sẽ được hưởng Quả thiện, gây Nhân ác thì sẽ phải
hứng chịu Quả ác. [đồng-thanh-đồng-khí], thí dụ cây xoài thì ra
trái xoài chứ không ra trái cam. Và khi gặp đúng hoàn cảnh và đầy đủ cơ
duyên, Quả sẽ phát tác ngược trở lại người tạo Nhân [lực và phản lực].
Sự kiện trên cho thấy Nghiệp không đóng vai trò phán xét, thưởng phạt,
mà nó chỉ là một định luật tự nhiên trong vũ trụ thiến hành một cách máy
móc không có sự phân biệt; giông như sự tuần hoàn tự nhiên của bốn mùa.
Nói rõ hơn, Nghiệp là sự chủ ý thúc đẩy
ta hành động qua thân, khẩu, ý. Tạo Nghiệp là tạo tác những hành động
với chủ ý thiện hoặc ác, và theo nguyên lý bảo-tồn-năng-lượng
những hành động có chủ ý này được ghi lại trong giòng tâm thức / tàng
thức ở dạng Nhân và chúng sẽ trổ Quả tương ứng trong tương lai khi hội
đủ điều kiện. Hành động đã tạo tác tiềm phục trong dạng Nhân sẽ chỉ tan
biến sau khi trổ Quả, hoặc một Nhân (thiện, ác) sẽ bị triệt tiêu khi gặp
phải một Nhân khác cùng loại, tương đương và đối nghịch.
Nghiệp nói lên sự việc là không có chuyện
gì, biến cố gì xảy đến với một người mà không phải là do chính đương sự
đã từng tạo tác qua thân, khẩu, và ý. Hoàn cảnh, hình dáng, cá tính, và
những biến cố xảy ra trong đời của mỗi người là kết quả của những hành
động và tư tưởng của họ trước đó.
Vậy Nghiệp là lý do chính đáng giải thích
tại sao lại có sự khác biệt, chênh lệch, bất bình đẳng bất công trên thế
gian. Vì sự khác biệt của Nghiệp nên mới có kẻ giàu người nghèo, kẻ sang
người hèn, người thông minh kẻ ngu tối, người may mắn kẻ bất hạnh, đẹp
hoặc xấu, khỏe mạnh hoặc bệnh tật, được mất, vinh nhục, sướng khổ, v.v…
Luật nhân-quả hoàn toàn vô tư không
thưởng không phạt một ai. Nó chỉ điều chỉnh, tái thiết sự quân bình do
ta tạo sự xáo trộn khi phạm luật Ta-bà (gây nghiệp).
Ngẫu nhiên (tình cờ) [chance] nghĩa là sự
việc xảy ra mà không có nguyên cớ gì cả. Đinh mạng (Số mạng, An bài
[pre-determined]) nghĩa là sự việc xảy ra do một đấng quyền năng nào đó
sắp xếp. Sự hiện diện của luật Nhân-Quả cho thấy hai thuyết Ngẫu nhiên
và Định mạng không thể có chỗ đứng. Vì những gì ta nhận lãnh trong hiện
tại là do Nhân đã tạo tác trong quá khứ, và những gì ta sẽ nhận lãnh
trong tương lai là do Nhân trong quá khứ và / hoặc Nhân đang tạo tác
trong hiện tại. Vậy chính chúng ta phải chịu trách nhiệm cho hạnh phúc
và khổ đau của ta. Thiên Đàng và Địa Ngục là do chính chúng ta tạo dựng.
Ta tự tạo ra số mạng cho chính mình. Nghiệp là gia tài ta thừa hưởng do
chính mình tạo ra.
“Con người là chủ nhân của nghiệp, là
kẻ thừa tự nghiệp. Con người được sinh ra từ nghiệp; nghiệp là quyến
thuộc, là nơi nương tựa của họ.”
Tìm hiểu và áp dụng luật Nhân-Quả trên
con đường tu hành không phải là để ta lo làm việc thiện để cầu mong hạnh
phúc, vì Nghiệp thiện lẫn ác đều là sợi dây trói buộc ta vào vòng sinh
tử trong cõi Ta-bà, bắt ta phải nhận lãnh Quả ác cũng như Quả thiện. Và
dù cho ta có được ở cõi lành, an hưởng Quả thiện, nhưng khi luật
vô-thường đoạn dứt những gì tốt đẹp hạnh phúc, ta sẽ lại đối diện với
khổ đau.
Điểm đáng lưu ý là Nhân và Quả tăng cường
và hổ trợ cho nhau, chúng có khuynh hướng tạo thành tật, thói quen, thí
dụ hút điếu thuốc đầu thì rất khó khăn, nhưng nó là cái Nhân tạo điều
kiện dễ dàng hơn cho những điếu thuốc sau, đến khi cái Nhân lớn mạnh thì
phát sinh sự đòi hỏi, chiều theo nó thì nó lại càng đòi hỏi [tuần-hoàn],
và hậu quả là thành tật.
Thói quen, tập quán đưa đẩy ta tạo Nghiệp
đồng thời ta tạo Nghiệp cũng vì tâm bám víu (Tham-Sân-Si), bám víu vào
Thiện hoặc / và Ác. Vậy ta cần nên biết rằng những hành động với tâm
Tham-Sân-Si đưa đến sự hình thành của Nghiệp và những hành động không
Tham-Sân-Si dẫn đến sự đoạn diệt của Nghiệp. Như vậy hai người có thể
làm cùng một việc, nhưng người với tâm bám víu sẽ tạo nghiệp còn người
kia thì không. Nói tóm lại, mục đích tối hậu của việc tu hành là vượt ra
ngoài cả hai Nghiệp Thiện và Ác.
D.
HIỂU LUẬT.
Luật Nhân-Quả / Nghiệp vạch rõ cho thấy
chẳng có gì gọi là may mắn hoặc xui xẻo, tất cả những gì được hoặc mất
đều có nguyên do của chúng. Nếu đem tất cả những gì được, mất trong tất
cả các kiếp quá khứ và kiếp hiện tại ra làm một bài toán cộng, bắt buộc
kết quả phải là zero (0) – nghĩa là thật sự chẳng có gĩ được mà cũng
chẳng có gì mất. Do đó ta không khởi tâm Tham chiếm đoạt những gì không
phải của mình, với lại những gì ta đem bố thí sẽ không mất mát đi đâu,
mà thật ra chúng cũng chẳng phải là của ta. Biết rằng những gì tốt đẹp
muốn có thì phải lao tâm trí, phải bỏ công sức để đạt được giàu sang,
đẹp đẻ, thông minh, thành công, v.v…thì cũng là do Nhân tương ứng mà ta
đã có cơ hội gây tạo trước đó, bởi vậy giảm được tâm Kiêu Mạn.
Gặp hoàn cảnh bất lợi, bị hãm hại, bất
hạnh, v.v…nhưng không buồn khổ, không than thở cho số mệnh, tâm không
nổi Sân ; thật ra đó lại là điều đáng vui mừng vì bớt đi nghiệp phải
trả. Những gì tốt đẹp người khác hơn mình hoặc những gì người có mà ta
không có, thì cũng không sanh tâm Đố kỵ, ganh ghét, Sân hận.
Nếu ta có thể thông cảm và thương xót kẻ
khốn khổ bị ngược đãi, bị ức hiếp mà lại để tâm khinh ghét những kẻ gian
ác là thái độ sai lầm. Nhìn theo luật nhân-quả thì kẻ hung ác và kẻ bị
hại đều giống nhau, chỉ khác ở yếu tố thời gian. Kẻ đang bị hại chính là
kẻ hung ác đã từng làm hại người khác đúng như vậy trong quá khứ, và bây
giờ đang phải trả nghiệp; còn kẻ hung ác hiện giờ sẽ là kẻ khốn khổ bị
ức hiếp trong tương lai lúc họ phải trả nghiệp. Bởi vậy tại sao ta từ bi
đối với những kẻ bất hạnh ngay trước mắt mà không thể từ bi được với kẻ
gian ác mà cũng là kẻ bất hạnh trong tương lai? Chỉ vì không hiểu luật
nhân-quả nên cả hai đều bì Tham-Sân-Si thúc đẩy tạo Nghiệp, và đến khi
nghiệp quả phát tác thì có kẻ đang phải chiu khổ đau và kẻ kia sẽ phải
nhận lãnh khổ đau sau này. Nhìn rộng ra như vậy dễ giúp ta thông cảm,
kiên nhẫn, quan tâm, sẵn sàng lượng thứ cho kẻ ác, và nhờ đó tâm Từ Bi
của ta phát triển.
Tâm Xả phát triển nhờ thông hiểu rằng
những bất công, chênh lệch trên thế gian là do sự phân bố tuyệt đối công
bằng của luật Nhân-Quả / Nghiệp và nhờ nhìn thấy được sự bình đẳng – tất
cả chúng sinh đều như nhau – ở chổ cứ Nhân nào thì Quả nấy chứ luật
Nhân-Quả không phân biệt giàu-nghèo, sang-hèn, giỏi-dở.
Hiểu biết và tin tưởng ở luật Nhân-Quả /
Nghiệp, ta cân nhắc trước mỗi ý nghĩ và thận trọng trong từng hành vi,
lời nói. Ta tự tin và nương tựa nơi chính ta, ta can đảm chịu trách
nhiệm những gì ta đã gây tạo và nhận lãnh những gì đang xảy đến. Hiểu
luật nhân-quả để chuyển Nghiệp. Chuyển Nghiệp đại khái nghĩa là có thể
tiêu trừ ác nghiệp và ngăn trở không cho chúng có cơ hội, điều kiện để
phát tác.
E.
PHÂN LOẠI
NGHIỆP [Xem Phụ Lục]
F.
LUẬT NHÂN QUẢ
GIẢI THÍCH MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP TIÊU BIỂU:
1)
Một số người chết yểu vì trong quá khứ họ đã từng sát hại, đã
thương, không từ bi đối với kẻ khác hoặc các sinh vật. Một số người thọ
mạng lâu dài vì họ từ bi, tôn trọng sự sống.
2)
Lấy của không phải của mình sẽ bì tổn hại tài sản.
3)
Tà dâm thường đưa đến sự đổ vở trong gia đình.
4)
Nói láo thì sau này không được người tin cậy, lời nói không được
tin tưởng.
5)
Nói hai lưỡi (lời chia rẽ) thì sự liên hệ bè bạn dễ bị đổ vỡ.
6)
Nói lời thô ác thì sẽ phải nghe những lời lẽ không tốt đẹp từ
người khác.
7)
Uống rượu, sử dụng các chất ma túy thì sẽ sinh làm người điên
loại, ngu đần.
8)
Bệnh hoạn bì hay làm thương tổn đến kẻ khác.
9)
Hình tướng xấu xa có thể vì hay sân hận, bất bình, phẫn nộ, hình
tướng đẹp đẽ thường là vì kiên nhẫn, vui vẻ.
10)
Giàu có thường là vì rộng rãi, hay bố thí trong quá khứ, nghèo
khó vì ích kỷ, keo kiệt, không chịu bố thí.
11)
Có quyền thế vì hoan hỷ, không tật đố đối với người có quyền thế,
được tôn trọng.
12)
Yếu kém, thấp hèn vì ganh ghét, tật đố đối với người có quyền
thế, được tôn trọng.
13)
Sinh vào gia đình thấp hèn vì ngạo nghễ, kiêu mạn, không tôn
trọng, cung kính đối với những người đáng tôn trọng, được cung kính.
14)
Sinh vào gia đình cao quý vì không ngạo nghễ, kiêu mạn, nhưng tôn
trọng, cung kính đối với những người đáng tôn trọng, cung kính.
15)
Người không có trí tuệ là vì không chịu suy xét, tìm hiểu thế nào
là thiện / bất thiện – thế nào là phạm tội / không phạm tội- Làm gì thì
được lợi ích, an lạc lâu dài – Làm gì thì không được lợi ích mà phải
chịu đau khổ lâu dài – v.v…
16)
Người có trí tuệ là vì chịu khó tìm hiểu thế nào là thiện / bất
thiện.
G.
VÀI THÍ DỤ VỀ
LUẬT NHÂN QUẢ TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM
Tại nước ta, kể từ khi Ngô Quyền dựng cờ
độc lập vào năm 939 đến nay đã trải qua bao nhiêu tang thương, hưng phế.
Do đó chung ta có rất nhiều thí dụ rất linh động về “Nhân nào Quả ấy”. Ở
đây chỉ nêu lên hai dẫn chứng:
1)
Nhờ Sư giúp được nước,
Vì làm Sư mất nước.
Khi Vua Long Đĩnh nhà Tiền Lê mất (1009), Điện tiền Chỉ huy
Sứ Lý Công Uẩn được triều đình tôn lên làm vua, lập ra nhà Lý. Công lao
vận động chính là nhờ Sư Vạn Hạnh, với sự phụ tá của Đại thần Đào Cam
Mộc.
Năm 1224, Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái là Chiêu Thánh
Công Chúa (tức Lý Chiêu Hoàng) rồi đi tu ở chùa Chân Giáo.
Năm 1225, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, và nhà
Lý cáo chung.
2)
Nhờ nhan sắc được nước
Vì nhan sắc mất nước.
Nhà Trần nhờ Thái Tử nhà Lý tên Sam (sau này là Lý Huệ Tôn)
lấy con gái Trần Lý mà thành công trong việc đoạt ngai vàng (1225). Và
đến khi vương nghiệp đã hết, nhà Trần lại rơi vào vết xe đổ triều Lý:
mất nước vì nhan sắc.
a)
Dương Nhật Lễ làm Vua.
Con Thượng Hoàng Trần Minh Tông là Cung Túc Vương Dục
mê vợ một kẻ hát bội tên Dương Khương và cướp lấy làm vợ (khi ấy Dương
Khương đã có mang hai tháng) và đẻ ra Nhật Lễ. Khi Vua Dụ Tông (em Minh
Tông) chết, vì không có con nên đã để lại di chiếu cho Nhật Lễ làm Vua.
Nhật Lễ làm vua được hai năm thì bị giết.
Nhà Trần lấy lại ngai vàng.
b)
Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần (1400)
Hồ Quý Ly lấy Công Chúa Huy Ninh là em vua Nghệ Tông.
Họ Hồ được trọng dụng. Cuối đời nhà Trần, con gái họ Hồ lấy Thuận Tông.
Thuận Tông sau đi tu Tiên và nhường ngôi cho con là Án (cháu ngoại họ
Hồ) mới lên ba tuổi. Hồ Quý Ly đã làm cuộc đảo chính bắt cháu ngoại
“nhường ngôi”.
Nhà Trần chấm dứt.
III.
TÁI SINH [Rebirth]
Có bao nhiêu kẻ làm nhiều chuyện ác,
nhưng phần nhiều ta chẳng thấy quả báo xảy đến cho họ. Ngược lại, nhiều
người cả đời chuyên làm việc thiện, nhưng cũng ít khi ta thấy họ được
hưởng phước báo đã gây tạo. Ngoài ra, còn có trường hợp những kẻ đột
nhiên bị tai họa hoặc những kẻ bổng dưng gặp những chuyện may mắn mà
không thấy được nguyên do nào dẫn đến những hậu / hết quả như thế. Và
còn biết bao nhiêu sự chênh lệch, bất công trong đời sống không thể cắt
nghĩa được. Thật sự luật nhân-quả rất phức tạp, có rất nhiều yếu tố khác
nhau – các nhân phụ, đúng thời, đúng chổ v.v…chí phối nhân chính, và chỉ
khi hội đủ các điều kiện, nhân mới trổ quả [ sẽ bàn kỷ hơn ở chương
Duyên Khởi]. Bởi vậy, nhiều khi trong hiện kiếp nhân không có cơ hội để
trổ quả; và theo luật nhân-quả, nhân không thể chợt biến mất được, như
thế bắt buộc nó phải trổ quả vào lúc khác. Tái sinh, vào một kiếp khác
sẽ tạo cơ hội cho một số nhân nào đó trong tiền kiếp gặp được đầy đủ
điều kiện để trổ quả. Tóm lại, nếu có sự hiện hành của luật Nhân-quả /
Nghiệp thì ta khẳng định là phải có Tái Sinh.
Một đứa bé lơn lên trở thành một thanh
niên và sau đó người thanh niên già đi biến thành một ông già. Vậy đứa
bé, cậu thanh niên và ông già là ba kẻ khác nhau hay chỉ là một người?
Câu hỏi này không thể chỉ trả lời đơn giản là họ khác nhau hay họ là một
được.
Hạt xoài không phải là cây xoài hoặc quả
xoài. Song Nhân sinh ra cây, cây sinh ra Quả, Nhân và Quả có liên hệ với
nhau. Cũng thế, ba người kể trên đều có hình dáng, tâm tư, cá tính khác
nhau nên không thể nói cả ba chính là một người; nhưng nếu nói ba người
hoàn toàn không có liên hệ gì đến nhau cũng không được vì chính đứa bé
đó biến thành cậu thanh niên và cậu thanh niên này thành ông già chứ
không phải đứa bé hoặc cậu thanh niên nào khác.
Vậy đứa bé là Nhân đối với cậu thanh niên
là Quả, và cậu thanh niên là Nhân đối với ông già là Quả. Tương tự, một
người năm nay là Quả của Nhân người năm trước và là Nhân quả Quả năm
sau. Hoặc ta có thể đi vào chi tiết, một người trong giây phút này là
Quả của giây phút trước và là Nhân cho giây phút sau.
Tạm thời, muốn nói cho dễ hiểu thì theo
như thí dụ trên, đứa bé tái sinh làm cậu thanh niên và cậu thanh niên
tái sinh làm ông già.
Ta có thể xác định rằng cứ mỗi một sát-na
là một thân xác sinh rồi diệt. Thân xác sát-na này (B-quả) được sinh ra
dựa vào thân xác sát-na trước (A-nhân), và nó (B-nhân) diệt dể sinh ra
thân xát sát-na kế tiếp (C-quả). Ta có một chuỗi nhân-quả của thân xác
tương tục sinh diệt một cách nhanh chóng.
Sự diễn tiến của tâm cũng không khác thân
xác, những đơn vị tâm thức, giống như những tấm phim trong một cuộn
phim, nối tiếp nhau tạo thành một chuỗi nhân-quả tương tục sinh diệt
biến đổi. Như vậy con người là chuỗi nhân-quả thân xác song song với
luồng nhân-quả tâm thức liên tục sinh diệt trôi chảy không ngừng nghỉ.
Hiện tượng chết được thấy về mặt vật chất
là lúc thân xác ở tình trạng bị hư hỏng không thể tiếp tục hoạt động
được nữa. Tuy nhiên, chết chưa phải là hết. Đó chỉ là cái chết của thể
xác, phần vật chất sẽ chuyển biến sang những dạng khác. Còn giòng tâm
thức vẫn đang chứa đựng những tiềm lực ở dạng chủng tử (nhân) như những
tâm tư chưa giải quyết xong, những ước mơ, nguyện vọng chưa thành, cộng
với những món “nợ” (nghiệp) chưa thanh toán, thì chưa thể “hết” được.
Bởi vậy, giòng thâm thức đang trôi chảy không thể nào tự nhiên dứt ngang
rồi tan biến mất [ bảo-tồn- năng lượng], nó vẫn phải tiếp tục
torng một thân xác khác (không nhất thiết là thân người) để biểu hiện và
tiêu hóa cho hết những năng lực này.
Khi đơn vị tâm thức cuối cùng (Nhân) chấm
dứt trong cái thân xác phải từ bỏ và đơn vị tâm thức đầu tiên (Quả) xuất
hiện trong một thân xác mới, tức là chuỗi nhân-quả của luồng tâm thức
vẫn nối tiếp không gián đoạn, ta gọi đó là tái-sinh. Lý giải trên không
chấp nhận một thực thể cố định nào (chẳng hạn như linh hồn) di chuyển từ
một thân xác này qua một thân xác khác, mà đó chỉ là sự lập lại tiến
trình của đời sống với sự nối tiếp, liên hệ nhân-quả giữa đời trước và
đời sau.
Thí dụ ta thắp một cây nến, một lúc sau
khi trở lại ta nói cây nến lúc thắp và cây đang cháy, trước sau là một.
Bình thường thì không ai phủ nhận điều này, thế nhưng khi khảo sát kỹ
lưỡng ta thấy chỉ giây phút trước và giây phút sau chúng đã là hai ngọn
lữa khác nhau, vì chúng phải nương nhờ vào những điều kiện khác nhau:
chúng đốt đoạn sáp khác nhau, khúc tim khác nhau, và bầu không khí khác
nhau. Với điều kiện khác thì ngọn lửa phải khác, do đó cứ mỗi một sát-na
là một ngọn lửa hoàn toàn khác biệt. Nhưng vì sự sinh và diệt của ngọn
lửa, tim và nến của giây khắc trước là điều kiện cho ngọn lửa, tim và
nến giây khắc sau sinh khởi, và do sự liên hệ nhân-quả này, hai ngọn lửa
tuy không phải là một mà chúng cũng không phải là hai.
Hai ngọn lửa liên tiếp nối nhau sinh
diệt, ngọn sau khởi lên tiếp ngọn trước một cách mau chóng không kẽ hở,
và vì sự nối kết thành một giòng tương tục nên ta cho rằng đó chỉ là một
ngọn lửa.
Trường hợp cây nến cháy cạn và ngay trước
khi nó tắt, ta mồi lửa vào một cây nến mới. Tức là ngọn lửa được chuyển
từ cây nến cũ sang cây mới. Trở lại vấn đề là hai ngọn lửa của cây nến
cũ và mới chỉ là một hay chúng là hai ngọn khác nhau? Một mặt ta có thể
nói vì đây nến mới với ngọn lửa khác nên chúng khác nhau, nhưng mặt
khác, ngọn lửa cây nến củ là điều kiện sinh khởi cho ngọn lửa của cây
nến mới, và qua sự liên hệ nhân-quả này ta cũng không thể nói chúng là
hai ngọn lửa hoàn toàn khác biệt.
Áp dụng cây nến vào vấn đề Tái-Sinh. Dùng
cây nên dụ cho thân xác con người, ngọn lửa dụ cho luồng tâm thức, cây
nến cháy cạn dụ cho lúc chết và ngọn lửa bắt qua cây nến mới dụ cho tái
Tái-Sinh vào một thân xác mới. Thí dụ này cho ta khái niệm về diễn tiến
của Tái-sinh. Như vậy, một người khi lớn hoặc của thân xác kiếp này
không phải là một với lúc còn bé hoặc của thân xác kiếp sau, nhưng cũng
không phải là hai người hoàn toàn khác nhau.
Nghiệp vừa tạo tác không phải cái nào
cũng có cơ hội, điều kiện thuận tiện để trổ quả ngay trong hiện kiếp. Và
theo luật bảo-tồn năng-lượng, nếu có luật nhân-quả thỉ bắt buộc
phải có tái-Sinh. Nhân-quả là nhân thì tái-Sinh là quả, tái-Sinh chứng
minh và giải thích cho nhân-quả, tái-Sinh chính là hệ luận của nhân-quả.
Sau khi thể xác nằm xuống, giòng tâm thức sẽ lấy một thể xác mới cộng
với những điều kiện thích hợp khác để thanh toán các nghiệp, ước vọng
chưa thành tựu.
Ngoài ra, đây là tuần-hòa nên
sinh tử nối tiếp nhau luân chuyển bất tận, và chỉ chấm dứt khi nguồn
nhiên liệu (Tham-Sân-Si) khô cạn đi. Tái-Sinh là một phần trong tiến
trình biến chuyển liên tục của sự sống, thúc đẩy bởi luật nhân-quả và
Tham-Sân-Si. Không phải chỉ có tái-Sinh sau khi chết mà thân tâm chúng
ta đang sinh diệt, tái-Sinh trong từng giây khắc.
Tái-Sinh không nhất thiết là sẽ trở lại
kiếp người. Theo vũ trụ quan nhà Phật, Ta-bà được chia ra làm ba giới
và phân ra là sáu cõi, ta có thể tái-Sinh vào bất cứ cõi nào do Nghiệp
[đã bàn ở chương nhân-quả / Nghiệp] dẫn đi và / hoặc do tính chất cõi đó
tương ứng với tâm.
1)
Dục giới:
1.
Địa ngục: Tính chất (băng tần) của cõi này là sân hận
2.
Ngạ Quỷ: Tính chất tham lam
3.
Súc Sinh: Tính chất ngu si và hung bạo.
4.
Atula: Tính chất đố kỵ (ganh ghét)
5.
Người: Tham Sân Si vừa phải
6.
Thiên: Thuộc về kiêu mạn.
2)
Sắc giới:
Các cõi Thiên mà nơi đó vật chất rất tinh khiết vi
tế, hơn xa các cõi trời Dục giới. Tâm trí chúng sinh ở đây rất trong
sáng và thọ mạng có thể kéo dài nhiều đại kiếp (dài hầu như vô tận).
3)
Vô sắc giới:
Các cõi Thiên chỉ hoàn toàn tâm thức, không có vật
chất, sắc tướng. Tâm thức không nương dựa nơi vật chất mà an trú trong
thuần an lạc và bình thản. Thọ mạng có thể kéo dài hàng ngàn đại kiếp.
Ở Dục giới, bốn cõi Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh và Atula là
bốn cõi khổ, còn gọi là bốn cõi ác. Cõi Thiên ở Dục giới là cõi sung
sướng. Sắc giới và Vô Sắc giới bao gồm các cõi Thiên tương ứng với các
tầng Thiền Định. Sướng quá thì chỉ lo hưởng thụ torng khi khổ quá thì
tâm bất an, hai thái cực này không để cho ta cơ hội suy tư học hỏi được
gì. Chỉ có cõi Người là sướng khổ tương đối quân bình. Không sung sướng
thoái quá nên ta có thể kiểm soát tránh sự lôi cuốn, mê hoặc theo thú
vui; không đau khổ thoái hóa nên ta tạm được thư thái và thoải mái để
quán bản chất đời sống; thọ mạng không quá lâu dài nên ta có thể nhận
biết được sự vô-thường.
Định luật Vô-thường chi phối tất cả nên dù có ở cõi giới
nào, đến khi mãn hạn, hết phước hoặc trả nghiệp nào đó xong, ta sẽ phải
tái sinh vào các cõi khác theo sự dẫn dắt của các nghiệp lực khác. Và cứ
thế ta tiếp tục sinh tử, luân hồi vô hạn định ở các cõi trong Ta-bà, cho
đến khi tâm ta hoàn toàn thanh tịnh, không còn mảy may ô nhiễm- đã thanh
lọc sạch Tham-Sân-Si. Vậy quan niệm và lối nhìn về Tái-Sinh sẽ chỉ cho
ta những gì thật sự quan trọng, đồng thời chúng sẽ ảnh hưởng đến hành vi
lẫn tư tưởng của ta trong đời sống.
Luật nhân-quả và tái-Sinh được Đức Phật tóm gọn trong câu
sau:
“Dục tri tiền thế NHÂN, kimh sinh THỤ giả thị;
Dục tri lai thế QUẢ, kim sinh TÁC giả thị.”
“Muốn biết NHÂN kiếp trước, hãy xem những gì đang hưởng /
chịu nhận trong kiếp này;
Muốn biết QUẢ kiếp sau, hãy xem những gì đang tạo tác trong
kiếp này”.
HIỂU LUẬT
Tâm Tham sẽ phải giảm trừ khi biết rõ rằng của cải,
danh vọng mà ta góp nhặt sẽ không cùng theo ta tái sinh. Cũng vậy, nhìn
theo khía cạnh tu hành, niềm hãnh diện về giòng họ, về con cháu sẽ vô
nghĩa khi kiếp sau ta tái sinh vào một gia đình, một quốc gia nào khác
mà có thể là sẽ không có sự liên hệ gì đế gia đình, tổ quốc hiện tại
nữa. Thật ra, lịch sử đã chứng minh sự kiêu hãnh về tổ quốc, dòng giống,
và ngay cả tôn giáo là những nguồn gây ra chiến tranh hận thù. Nhờ bỏ
bớt được sự báo víu vào gia đình, người thân, giòng giống, tâm tham ái
và kiêu mạn sẽ giảm trừ. Cũng nhờ suy luận như vậy, ta sẽ bớt được sự
ngăn cách, nghi kỵ (tâm Sân) đối với người ngoài.
Từ vô thủy chúng sinh đã trải qua vô lượng kiếp sống, khó mà
có một ai không từng là người cha, người mẹ, chồng, vợ, con, v.v…đối với
mọi chúng sinh khác. Bởi vậy, bất cứ ai, kể cả kẻ thù, trong quá khứ (và
có thể trong những kiếp tương lai) đã phải có liên hệ cha mẹ, họ hàng,
bạn hữu với ta. Có sự hiểu biết rằng tất cả chúng sinh điều có cùng mối
liên hệ với ta tức là nhìn thấy sự bình đẳng, sẽ mang lại tâm Xả. Ở địa
vị cha mẹ, chắc chắn họ đã không quản ngại khó nhọc chăm sóc nuôi nấng
ta, cho nên nuôi dưỡng tâm Sân đối với bất cứ một chúng sinh nào là
điều sai lầm; hiểu biết như thế giúp cho tâm Từ Bi Hỷ Xả sẽ càng ngày
càng nảy nở tăng trưởng.
Nếu ta hay giỏi thế tại sao vẫn bị kéo đi tái sinh, có hơn
gì loại vật? Quán chiếu điều này giúp ta giảm trừ được tâm Kiêu Mạn.
IV.
DUYÊN KHỞI
[Dependent Co-Arising, Conditional Genesis,
Inter-dependent Origination]
Thí dụ ngọn lửa của cái đèn dầu cháy được là nhờ tim,
dầu và bầu không khí. Hoặc một hạt cam (nhân chính) gieo xuống đất cần
phải có thêm những yếu tố (nhân phụ) trợ giúp như đất thích hợp, đầy đủ
nước và ánh nắng thì mới mọc lên thành cây và ra quả cam được.
Vậy một hiện tượng cần phải hội đủ những thành tố, những điều
kiện cần thiết để có thể sinh khởi hoặc hiện hữu. Cũng như ngọn lửa phải
nương vào tim, nến và bầu không khí, và cây cam phải nương nhờ vào hạt
cam, đất, nước và ánh nắng.
Nhân Duyên được định nghĩa như sau: Một hiện tượng xảy ra phải
gồm có Nhân (nhân chính – hạt cam) và Duyên (các nhân phụ, điều kiện hổ
trợ cho hạt cam – đất, nước, ánh, nắng).
Trường hợp tim cháy hết, hoặc dầu cạn, hoặc thiếu không khí,
thì đương nhiên ngọn lửa không thể tiếp tục cháy được. Như vậy cũng tùy
thuộc vào điều kiện mà một hiện tượng bị hủy diệt.
Nói tóm lại, không có một hiện tượng vật chất hoặc tinh thầ nào
có thể tự hiện hữu hoặc hiệu hữu độc lập mà nó phải tùy thuộc vào những
hiện tượng khác, tức là những điều kiện làm yếu tố hỗ trợ và nâng đỡ cho
nó. Tất cả hiện tượng khởi sinh phải tùy thuộc vào điều kiện và hủy diệt
cũng phải tùy thuộc vào điều kiện. Những điều kiện này gọi là duyên, và
sinh khởi hoặc hủy diệt do Duyên được gọi là duyên-khởi.
Ta có thể giải thích duyên-khởi một cách đơn giản là hai khúc
cây nhờ gác dựa vào nhau mà đứng được, nếu một khúc cây đổ thì khúc cây
kia cũng sẽ đổ theo. Tuy vậy trên thực tế lý duyên-khởi rất phức tạp.
Hãy khảo xét lại cái đèn dầu, nếu dò ngược trở lên, ta thấy có được tim
đèn là do bông gòn và người thợ với dụng cụ của họ tạo ra. Dầu được lọc
từ dầu thô, …rồi thêm một bước nữa, bông gòn lấy từ cây bông gòn, dầu
thô từ lòng đất, đất có liên hệ đến giun dế cây cỏ, mưa nắng, mùa màng,
v.v…
Quan sát ngay bản thân thì thấy cơ thể con người sinh hoạt được
là vì các bộ phận tim, gan, phổi, v.v…hỗ trợ và kiểm soát lẫn nhau. Một
bộ phận có sự liên hệ với các bộ phận khác vá nó ảnh hưởng đến toàn bộ
hệ thống khí huyết tuần hoàn của cơ thể. Nhìn ra ngoài thì guồng máy xã
hội được duy trì và phát triển là nhờ cả bốn thành phần
Sĩ-Nông-Công-Thương liên kết và cộng tác với nhau. Chúng có sự liên hệ
chặt chẽ, và vì phải nương tựa lẫn nhau để hoạt động nên không thể thiếu
hoặc loại bỏ bất cứ một thành phần nào.
Nhìn rộng ra nữa để thấy sự liên hệ giữa một chúng sinh với tất
cả các chúng sinh khác cũng như một hiện tượng khởi sinh và ảnh hưởng
dây chuyền đến các hiện tượng khác. Thí dụ, rừng là lá phổi của quả đất,
bởi vậy sự kiện một người nghèo đói ở Nam Mỹ phải đốt rừng để kiếm sống
sẽ gây ảnh hưởng đến toàn thể quả đất, cùng tất cả các chúng sinh hiện
tại và trong cả tương lai. Ngay cả một con giun con dế cũng đóng vai trò
duy trì sự quân bình của hệ thống sinh thái [ecology system] trong khu
vực của nó, mà đó là một phần trong toàn bộ hệ thống quả đất. Như vậy
con giun tự nó có tính cách quan trọng qua sự liên hệ và ảnh hưởng của
nó với quả đất và tất cả chúng sinh khác.
Qua những nhận xét trên ta thấy luật duyên-khởi rất phức tạp,
một quả do nhiều nhân tác động với nhau – và mỗi phần nhân này lại là
quả của những nhân trước đó kết thành – và một nhân sẽ kết hợp với những
nhân khác đưa đến nhiều quả khác. Mọi vật không phải chỉ do một nguyên
nhân dưa đến hoặc tự khởi mà không có nguyên nhân nào.
Duyên-khởi là sự nương tựa và tương quan nhân-quả giữa các hiện
tượng với nhau, do đó không có một hiện tượng nào tự đứng một mình được;
các sự vật hiện hữu và có được cá tính [identity] của chúng là nhờ ở sự
liên hệ, ỷ dựa lẫn nhau (đúng ra gọi là Duyên-tương-khởi mới đầy đủ ý
nghĩa). Mối tương quan này không phải là lối móc nối hay sự diễn tiến
theo nhân-quả một chiều, mà nó là mạng lưới đan kết chằng chịt, và tất
cả nương tựa vào nhau mà tương khởi [co-arising]. Cũng vì mọi thứ móc
nối với nhau quanh quẩn lòng vòng nên không thể dò ra được nguyên nhân
đầu tiên, không thể thấy được chỗ nào là đầu, chỗ nào là đuôi.
Hai đặc điểm của đối-đãi, tương đối và vận chuyển, đã được bàn
qua ở chương nguyên-lý. Tính cách liên hệ và nương tựa lẫn nhau của vạn
vật theo lý duyên khởi có thể thấy rõ hơn khi đi sâu vào nguyên lý
đối-đãi bằng cách nghiệm xét thêm những khía cạnh sau:
Tương quan: Một người từ lúc sinh ra sẽ trải qua những sự quan
hệ với người trong gia đình qua những vai trò như con cháu, anh em, vợ
chồng, bố mẹ, v.v…Và sự quan hệ trong xã hội như chủ tớ, quan dân, bạn
thù, v.v…Loài người và thú vật có sự tương quan là người và thú, và
chúng là động vật đối với cây cối là thực vật, v.v…Nói chúng, một sự vật
có sự tương quan với tất cả sự vật khác.
Tương sinh – tương diệt: Trong một lớp học nếu chỉ giữ các học
sinh điểm A và loại bỏ tất cả từ điểm B trở xuống thì không ai sẽ còn
bàn đến điểm cao thấp nữa. Như vậy B mất thì A mất, có B thì có A, nghĩa
là chúng tương sinh và tương diệt.
Tương hỗ: Có sự hỗ trợ lẫn nhau trong gia đình với người cha
cương nghị và người mẹ dịu hiền (hai đối cực bổ túc cho nhau).
Tương xung – tương khắc: Có sự xung khắc nếu người chồng chỉ
muốn sống đơn giản, người vợ lại muốn được giàu sang danh giá (hai đối
cực xung khắc nhau).
Tương tùy (Tương quan, Tương sinh Tương diệt): Một sự vật đóng
vai trò khác nhau tùy thuộc vào đối tượng của nó, và nó cũng tùy thuộc
vào sự vật khác để sinh khởi hoạc hủy diệt – nó tiềm chứa sẵn nhân, điều
kiện, có thể ảnh hưởng đến tất cả sự vật khác. Một cá nhân phải tùy
thuộc vào xã hội và mọi thứ khác, và xã hội cũng phải tùy thuộc vào mỗi
cá nhân – mỗi thành phần và cả tổng thể phải nương vào nhau và tùy thuộc
lẫn nhau. Thiện và Ác cũng phải tùy thuộc lẫn nhau như có cảnh sát vì có
quân gian, hoặc có quan tòa và luật sư vì có tranh chấp; có quân gian và
tranh chấp vì có sự chênh lệch giàu nghèo. v.v…
Tâm và cảnh có sự tương quan với nhau qua duyên khởi (điều kiện
hai chiều giữa cá nhân và thế gian;) nguyên nhân sinh khởi tâm và cảnh
là tâm và cảnh. Nói rộng ra, duyên-khởi là sự tương quan giữa con người,
xã hội và thiên nhiên.
Xin nói rõ hơn. Duyên khởi miêu tả thực tại không phải là sự
tương quan giữa hai thực thể [entity), mà nó là tiến trình của sự tác
động qua lại chằng chịt của các hiện tượng tâm lý và vật lý dưới sự ảnh
hưởng của nhân-quả - điều kiện. Duyên-khởi là cơ cấu chi phối sự vận
hành và tạo dựng của Ta-bà; nó nói lên sự tương quan (tiến trình qua
lại) giữa các sự vật; nó cho biết tại sao sự vật lại như thế và chúng
biến chuyển như thế nào; nó khẳng định tính cách trật tự [order] tuyệt
đối trong sự diễn tiến của sự biến chuyển của sự vật; và nó cũng là yếu
tố chính yếu chỉ cho ta thấy tánh – Không / vô-ngã [sẽ được bàn sau]
đẳng sau vạn hữu.
Thế gian hiện hữu là do mọi thứ tựa vào nhau để sinh khởi, bởi
thế, vì duyên - khởi nên vạn pháp mới hiện hữu, và cũng vì duyên – khởi
nên chúng không thật có (chúng mang tánh-Không).
Định luật duyên-khởi được thu gọn lai như sau:
“Cái này có thì cái kia có, cái này sinh thì cái kia sinh.
Cái này không có thì cái kia không có, cái này diệt thì cái kia
diệt.”
Vì sự liên hệ chằng chịt tất cả
với nhau nên một động thì tất cả bị động, “bứt mây động rừng”, bởi vậy
khi làm lợi cho kẻ khác tức là ta làm lợi cho tất cả, và thật ra đó là
ta làm lợi cho chính ta; hoặc khi làm hại kẻ khác có nghĩa là ta tự hại
ta. Thí dụ, nếu chỉ biết gom lấy lợi lọc về phần ta, thì có trồi lên ở
đây đương nhiên phải sụt ở nơi khác vì sự tăng ích lợi cho ta là sự thất
tổn cho người khác, và sự xáo trộn bị khởi động này sẽ đi theo đường dây
chuyền dần sẽ ảnh hưởng ngược trở lại ta. Bởi vậy tâm Tham nói lên sự
thiếu hiểu biết về duyên-khởi.
Qua thí dụ vể kẻ đốt rừng ở Nam Mỹ, ta thấy do sự đan kết chặt
chẽ giữa cá nhân và xã hội, con người và thiên nhiên, nên mỗi một hành
động (thân-khẩu-ý) của ta dù nhỏ nhặt đến mấy vẫn sẽ gây ảnh hưởng đến
mạng lưới rộng lớn hơn của đời sống. Như vậy, ta cần phải ý thức về
những hành vi của ta không những để tránh tác hại đến chúng sinh mà trái
lại, đó là trách nhiệm mang lại sự an vui cho họ nữa (Từ-Bi).
Khi phải đối diện với kẻ gây phiền nhiễu cho ta hoặc hoàn cảnh
trái ý, nếu chỉ biết riêng có đối tượng thôi mà không thấy những nguyên
nhân liên hệ gần xa (duyên), có thể bắt nguồn từ bao kiếp trước, thì sẽ
khó kiểm soát được tâm Sân. Thí dụ như có kẻ đánh ta một gậy, chuyện
thật vô lý nếu ta lại đi giận cây gậy thay vì giận kẻ đánh ta, kẻ chủ
động đằng sau cây gậy, vì chính họ là điều kiện gây ra cái đánh đó. Thế
nhưng hành động của kẻ làm phiền hoặc hại ta cũng lại do điều kiện sinh
khởi (duyên-khởi), họ không phải lả kẻ chủ động, bởi vậy giận họ thì
cũng giống như giận cây gậy mà thôi.
Nếu chỉ nhìn trong một phạm vi nhỏ hẹp, chỉ biết tôi,
gia đình của tôi, đất nước của tôi, thì đó là tâm chấp
thủ. Ngược lại, nếu hiểu sự tương quan giữa tất cả chúng sinh, sự đan
nối tất cả chúng sinh với nhau qua duyên-khởi, thì cái nhìn toàn diện
này sẽ mang lại cái nhìn bình đẳng – tức là tâm Xả.
Xét cho thấy đáo thì những thành quả đạt được đều không phải
chỉ do riêng khả năng của ta mà còn có nhiều yếu tố khác (duyên) nữa
đóng góp vào. Thật ra nếu những kẻ khác cũng có đầy đủ điều kiện và cơ
hội như ta thì chưa chắc họ đã thua kém gì ta, trái lại họ có thể phát
triển khả năng, tạo được sự nghiệp và thành công còn hơn ta nữa. Ý thức
được điều này tâm kiêu-mạn sẽ giảm thiểu.
V.
VÔ NGÃ /TÁNH
KHÔNG [Selflessness / Emptiness]
Hiện tượng cầu vồng thì ai cũng thấy, ta không thể phủ nhận nói
nó không có được; tuy nhiên, khi đến tận nơi để tìm kiếm thì lại chẳng
thấy nó đâu, cho nên ta không thể quả quyết là thật có cầu vồng. Tương
tự, rõ ràng là có mặt trăng ở lòng sông, nhưng lội xuống để vớt nó lên
thì cũng vậy, không vớt được. Ta thấy có hiện tượng cầu vồng và trăng
sông mà lại không nắm bắt được chúng, vậy do tính cách huyễn ảo của
chúng nên ta không thể khẳng định cho rằng chúng có mà cũng không thể
khẳng đinh cho rằng chúng không có, và ta đi đến kết luận là chúng
không thật có.
Nhìn theo khía cạnh duyên-khởi
thì hiện tượng cầu vòng có được là do sự có mặt của bụi nước và ánh nắng
chiếu vào, mà nếu vắng mặt hai điều kiện này thì không thể có cầu vồng
được. Như vậy cầu vồng phải do điều kiện sinh ra chứ nó không tự có.
Sự có mặt của trăng sông cũng thế, nó phải dựa vào điều kiện là ánh
trăng chiếu xuống lòng sông chứ nó không tự có.
Thấy một đống gỗ, ván, gạch, ngói, xi-măng, đinh ốc, v.v… trên
mặt đất thì không ai nói đó là cái nhà, và nó chỉ thành căn nhà khi tất
cả những thành phần này được ráp lại. Cái xe, cánh rừng, đám mây, thành
phố, xã hội, v.v…cũng thế, bất cứ vật gì từ lớn đến nhỏ cũng đều là sự
kết hợp của nhiều thành phần, và khi khảo sát từng thành phần một, nó
lại do những thành phần khác nhỏ hơn kết hợp. Bởi thế chúng không tự
có.
Một cái cây không phải là cánh rừng, nhưng nhiều cây tụ lại một
chỗ ta đặt tên cho chúng là cánh rừng. Cái bánh xe không phải là cái xe;
tay lái, máy xe, v.v…không phải là cái xe. Nhưng khi ráp tất cả các bộ
phận này lại, ta gọi chúng là cái xe. Khi mặt ta nóng đỏ, máu huyết sôi
lên, cơ thể run rẩy, cộng những yếu tố này lại, ta gọi đó là sự giận dữ.
Như vậy, nếu phân tích và khảo sát một cách tường tận thì sẽ không tìm
thấy cái gì thật sự là cánh rừng, cái xe, hoặc cơn giận; chúng chỉ là
những tên gọi tượng trưng cho những hiện tượng vật chất hoặc tinh thần
được kết hợp bởi những thành phần khác. Hiểu theo nghĩa này thì tất cả
sự vật chỉ là tên gọi được gán đặt, chúng không thật có.
Xét cho cùng, khi nói một thực
thể thật có, hiện hữu một cách độc lập, nó phải hội đủ những điều kiện
sau đây:
·
Phải tự có, không do bất cứ gì tạo ra,
cũng không thể bị chia chẻ ra thành những phần nhỏ.
·
Phải độc lập, không cần phải vay mượn,
nương nhờ bất cứ nhân duyên nào.
·
Phải bất biến, không bao giờ thay đổi,
phải tồn tại vĩnh viễn.
·
Phải tự chủ, không bị bất cứ gì khác
chi phối, ảnh hưởng.
·
[An enduring, un changing self /
inherently exist . existing from the object’s side / existing under its
own power / established by way of its own nature / able to set itself up
/ self-established].
Trên phương diện vật lý, tất cả sự vật chẳng những chúng
không tự có như ta đã khảo xét, chúng lại còn bị các điều kiện chi
phối nên lúc thì có (sinh), lúc không có (diệt), cũng vì
thế, chúng liên tục biến chuyển và thay đổi. Nói tóm lại, chẳng có sự
vật gì là tự có, độc lập, bất biến và có thể tự chủ, và chiếu theo tiêu
chuẩn trên, tất cả sự vật đều không thật có. Nói vậy có nghĩa là ta
nhìn sự vật theo một lối khác chứ không theo thế tục cho sự vật là có
hoặc không có; tức là ta không chấp nhận hoặc chối bỏ sự vật là
có hoặc không có, mà ta đi ở giữa, nói rằng chúng không
thật có.
“Lối đi ở giữa” – Trung Đạo – này (khác với Trung dung của đạo
Nho) có thể diễn tả bẳng những cách khác nhau như sau:
·
Không thật có
·
Không tự có, không có tự tánh
·
Không có thực chất (cốt lõi)
·
Không hiện hữu độc lập
·
Vô ngã hoặc tánh-Không
·
[the base of inherent existence / the
absence of a permanent, unitary and independent self / empty of
intrinsic existence]
Ta có thể vẽ ra làm ba cột, có và không có là hai
cột hai bên, và không thật có ở cột giữa:
(Trung Đạo)
Có
|
Không Thật Có
|
Không có
|
Cầu vồng
|
Cầu vồng
|
Cầu vồng
|
Trăng sông
|
Trăng sông
|
Trăng sông
|
Nhà cửa
|
Nhà cửa
|
Nhà cửa
|
Đám mây
|
Đám mây
|
Đám mây
|
Thành phố
|
Thành phố
|
Thành phố
|
Xã hội
|
Xã hội
|
Xã hội
|
…
|
…
|
…
|
Thế tục nói rằng cầu vồng, trăng sông, nhà của, v.v…là có
hoặc không có, nhưng theo Trung Đạo ta chẳng nghiên qua có
hoặc ngả qua không có; ta không chấp nhận và cũng chẳng chối bỏ
có và không có; mà ta sẽ nói cầu vồng, trăng sông, xã hội,
v.v..Tất cả các hiện tượng đều là những tên gọi được gán đặt, chúng
không thật có – không tự có, không có tự tánh, không có thực chất,
không hiện hữu độc lập, vô-ngã, tánh-Không.
// Ta cần hiểu rõ ý nghĩa chữ Ngã trong vô-ngã. ‘Ngã’
tuy có mang ý nghĩa ‘tôi’, nhưng ở đây không phải là nó chỉ nói riêng về
cái tôi như phần đông chúng ta thường lầm lẫn, mà nó nghĩa là ‘tự
tánh’[inherent nature], gần như tương đương với chữ ‘self’ trong tiếng
Anh. Vậy dùng từ ngữ tiếng Anh để cắt nghĩa cho dễ, ta thấy chữ ‘self’
không phải chỉ để dùng riêng cho tôi mà nó được dùng cho tất cả
mọi người và vật khác như ‘myself’, ‘itself’, himself’, themselves’,
nghĩa là ‘tự tôi’, ‘tự nó’, ‘tự hắn’, ‘tự họ’, v.v…
Vậy vô-ngã nghĩa là không có tự tánh, và nói ngược lại
là tánh-Không. (vô-ngã = tánh-Không) //
Đến đây ta bàn sơ qua về cái tôi.
A.
CÁI TÔI
Con người do hai thành phần kết hợp, thân (vật lý) và tâm (tâm
lý). Tuy cả hai đều không thật có [no inherent existing]
(phần vật lý đã được bàn qua ở trên, phần tâm lý sẽ được xét sau) nhưng
tất cả chúng ta hầu như ai cũng tin tưởng rằng có một cái tôi độc
lập, thật có và thường hằng ở đằng sau, nó là cốt lõi, là chủ nhân của
thân và tâm.
Tất cả những sự việt ta làm, những hành động, ý tưởng, ước
muốn, v.v…có tính cách nhỏ nhặt hoặc tầm vốc to lớn, quan trọng hoặc
không quan trọng, thuộc về quá khứ hoặc trong tương lai, v.v…đều không
nằm ngoài sự lợi ích của cái tôi, cho tôi¸ vì tôi.
Cái tôi là trọng tâm của tất cả những sinh hoạt trong đời sống.
Tất cả những gì có dính líu đến thân và tâm đều được quy vào
cái tôi . Cái thân này là tôi [I], của tôi [mine], và
tự tôi [myself]; cái tên này, tư tưởng ý nghĩ này, cảm xúc này,
v.v…là tôi, của tôi, và tự tôi.Cái tôi còn trải
rộng đến những sự vật xung quanh, nhà tôi, vợ chồng con cái
tôi, cộng đồng tôi, tôn giáo tôi, dân tộc tôi,
v.v…
Bình thường chúng ta đều đồng ý rằng ta khó chối cãi được sự
hiện diện của cái tôi, tôi đi đứng, suy tư, nhận biết, buồn vui, v.v…nếu
không phải là tôi thì là ai? Cái gì?
Nhưng cái tôi có thật sự hiện hữu hay không?
B.
Bác Bỏ Sự Hiện
Hữu “Chân Thật” Của Cái Tôi [reflute the
inherent self]
Cũng chiếu theo tiêu chuẩn trên ta khảo sát con người qua hai
thành phần, thân và tâm.
·
Thân thể do cha mẹ sinh tạo, nó phải
nương nhờ thực phẩm, không khí, để tồn tại; nói chung nó do bốn thứ yếu
tố - tứ đại-cấu tạo và phải dựa vào bốn yếu tố mà có.
·
Thân thể thay đổi từng giây phút một và
sẽ có lúc nó bị hủy hoại tiêu tan.
·
Bất cứ tâm gì, buồn vui, hiểu biết,
v.v…phải có nguyên nhân, hoàn cảnh nào đó sinh tạo ra, chúng không thể
tự có. Tâm phải nương nhờ vào thân và cảnh mà có.
·
Tâm luôn luôn thay đổi, lúc buồn lúc
vui, lúc yêu lúc ghét, lúc mừng lúc giận, v.v…nó vô-thường.
·
Các thứ tình cảm đến rồi đi, ta không
thể ngăn chặn, thay đổi, hoặc kiểm soát được chúng – ta không tự chủ
được.
·
Ta bị lôi cuống trong vòng sinh tử mà
không thể kiểm soát được.
·
Ta cũng không thể bảo thân đừng bệnh
tật, phải khỏe mạnh, phải đẹp đẻ - ta kh6ong làm chủ cái thân.
Ta thấy con người bị Khổ, vô-thường, nhân-quả, tái-Sinh,
duyên-khởi chi phối mà không kiểm soát được, do đó cái tôi không
thật có.
Xét về ngũ uẩn [sẽ được bàn sau], ngủ uẩn là những thành phần
thuộc về thân và tâm cấu tạo nên con người mà ta bám chấp lấy chúng, tin
tưởng chúng là tôi và của tôi. Tuy nhiên, nếu tìm kiếm một
cái tôi nào đó ở ngoài ngũ uẩn thì không thể có. Trong khi ngũ
uẩn phải dựa vào nhau để sinh khởi [duyên-khởi] mà cái tôi lại
phải nương tựa nơi ngũ uẩn mới hiện hữu. Phải tùy thuộc vào điều kiện
như vậy thì cái tôi chỉ là tên gọi cho một thực thể không thật
có.
Con chó Pavlov mỗi khi nó nghe tiếng chuông lập tức nó chảy
nước rãi [condition reaction]; không phải vì nó muốn vậy, nhưng vì qua
kinh nghiệm quá khứ nó biết đó là tiếng báo hiệu giờ ăn. Kinh nghiệm,
thói quen này chính là động lực thúc đẩy nó tự động phản ứng như vậy, và
con người cũng không khác, tất cả những ý nghĩ, hành động, dự tính đều
do kinh nghiệm, thói quen điều khiển. Những tư tưởng, hành động sinh
khởi đều tùy thuộc vào điều kiện hoặc những tư tưởng trước (chúng lại
tùy thuộc vào những tư tưởng trước đó để sinh khởi…), cho nên chúng
không thật có. Vậy thì tất cả chỉ là những phản ứng máy móc được điều
kiện sẵn (duyên khởi), không thật có một cái tôi nào đằng sau các
cảm thọ, tư tưởng và hành động.
Theo định luật duyên-khởi, vạn hữu (tâm và cảnh) phải dựa vào
nhau để hiện hữu. Bởi vậy không có gì là thật có. Chúng sinh, vạn hữu
chỉ là những ý tưởng, khái niệm.
Tuy nhiên, vấn đề là ta vẫn thấy không có gì thật hơn là cái
tôi; lúc bé tôi như thế, bấy giờ tôi thế này và khi
già tôi sẽ vậy. Ta tin tưởng rằng có một cái tôi cố định
và chắc thật đằng sau sự biến chuyển của thân và tâm. Hãy lấy sự Sinh
Diệt của đinh luật Vô-thường để phân tích, ta sẽ thấy hiện tượng sinh
diệt nối tiếp nhau của thân tâm là cái gây cho ta cảm giác sai lần trên.
Thí dụ. Nếu quay cây nến đang cháy theo hình vòng tròn trong
bóng đêm thì nhìn từ đằng xa sẽ thấy đó là một vòng tròn lửa. Nhưng đó
là vì sự di chuyển liên tục của cây nến theo các vị trí nằm trên vòng
tròn nên tạo ra ảo ảnh vòng tròn lửa chứ thật sự không có vòng tròn lửa.
Thí dụ. Trong rạp chiếu bóng (xi-nê) người và cảnh vật trên
màng ảnh trông sống động đến nỗi ta bị lôi cuốn theo chúng và tình cảm
của ta cũng bị khuấy động; nhưng sự thật là cả cuộn phim chỉ là một loại
những tấm phim riêng rẽ nối nhau liên tục chạy qua ống kính để phóng lên
màn ảnh mà thôi.
Xuyên qua những nhật xét trên, đời sống chỉ là luồng tâm thức
và chuỗi thân trạng, cũng như những tâm phim, tương tục biến chuyển từng
giây khắc, cái sau thừa hưởng tính chất của cái trước và tùy thuộc vào
cái trước nữa làm điền kiện để sinh khởi. Có thể nói hiện tại là sự nối
dài của quá khứ qua sự trôi chảy liên tục và tính chất liên tục này tạo
cho ta ảo giác là có một cái tôi hiện hữu. Ảo giác này dẫn đến sự
tin tưởng sai lầm là có một linh hồn bất biến, một cái tôi độc
lập ở đằng sau những trạng thái biến chuyển không ngừng nghỉ của thân và
tâm.
Vậy thì cái tôi có hay không có?
(Trung Đạo)
Có
Không Thật Có Không Có
Tôi
Tôi Tôi
Lại chia ra làm ba cột, theo thế tục, một số người tin tưởng
rằng có cái tôi thường hằng vĩnh cữu, và một số khác cho rằng
chết là hết, không có cái tôi nào cả. Nhưng cũng giống như cầu
vồng và bóng trăng trên sông, cái tôi phải dựa vào thân và tâm để
hiện hữu – nó cũng do duyên-khởi – bởi vậy theo Trung Đạo, ta sẽ nói cái
tôi không thật có, nó vô-ngã, nó mang tánh-Không (không có tự
tánh).
Vậy khi nói vô-ngã / tánh-Không – không có tự tánh – chẳng phải
là ta chối bỏ sự hiện hữu của thực thể (hữu tình hoặc vô tình) được cấu
thành do duyên-khởi. Ta chẳng chối bỏ sự hiện hữu của con người do ngũ
uẩn kết hợp, mà ta phủ nhận ý niệm tin tưởng rằng có cái tôi ẩn
đằng sau ngũ uẩn và nó là cốt lỗi của ngủ uẩn. Ta không chấp nhận cái
tôi là thực tại độc lập, chân thực và thường hằng. Chỉ vì ta lầm cho
các thứ kinh nghiệm qua giác quan (nghe, thấy, …) cảm giác (buồn, vui…),
tư tưởng (suy nghĩ), v.v…là tôi nghe, tôi buồn, tôi nghĩ, nên ta đồng
hóa, gán cho cái tôi là kẻ tạo tác, tôi là kẻ lãnh quả,
và ta bám chấp vào ngũ uẩn và tin tưởng rằng chúng là tôi, của
tôi, chính tôi.
Thế thì ai tạo nghiệp, ai nhận lãnh quả báo?
“Hành là kẻ tạo tác, Thọ là kẻ lãnh chịu quả báo. Ngoài
những tâm trạng do duyên khởi này ra, không [thật] có ai gieo
nhân và cũng không [thật] có ai gặt quả.”
//Hành và Thọ là hai uẩn trong năm uẩn; xem chương Ngũ Uẩn.//
C.
Hiểu Biết Sai
Lầm Về Vô-Ngã / Tánh-Không
Để tránh hiểu lầm, xin nhắc lại sự khác biệt quan trọng giữa
tánh –Không [Emptiness / non-inherent nature] và Không-Zero
[non-existence]
Thí dụ. Thấy cái ly trên bàn ta nói lá có cái ly trên bàn,
nhưng nếu bỏ cái ly đi thì ta nói là không có cái ly trên bàn. Đây là
cái có đối với cái không có (=zero [non-existenc]) [đối-đãi].
Sau đây là điểm khác biệt, bây giờ ta nói có cái ly trên bàn, nhưng cái
ly không có tự tánh, bản chất của nó là Không (vô-ngã). Chữ Không ở đây
chẳng phải là zero, chẳng phải là ta phủ nhận sự hiện hữu của sự vật (do
duyên khởi), mà Không mang ý nghĩa là không có thực chất, vô ngã.
Nói cách khác, cái ly có ở đây nhưng tánh của nó là Không, nó không
có thực chất, nó không thực có.
Ta đã biết sướng khổ chỉ là những
trạng thái tương đối do ta gán đặt giá trị cho chúng chứ tự chúng không
có giá trị gì. Và khổ, sướng, cái tôi, tâm Tham-Sân-Si, nhân-quả,
hòn núi, v.v…cũng như tất cả mọi hiện tượng khác, đều do duyên-khởi,
tánh của chúng là Không, chúng không hiện hữu độc lập, chúng không thực
có.
Song vì lẫn lộn tánh-Không với không-zero nên nhiều hành giả
chợt “ngộ” rằng khi cái Khổ không có, chẳng có ai khổ, nhân-quả cũng
không, thì cần gì tu hành, có gì để mà tu hành; vì nếu còn thấy cần phải
tu tức là còn “chấp” Khổ, Tham-Sân-Si, nhân-quả, còn chấp tu với không
tu, v.v…Trong khi tu hành nghĩa là phải dẹp bỏ sự bám chấp, tại sao lại
không “tự tại” hòa đồng với mọi người, “bình thường” như mọi người, ăn
chơi, sống đời sống ‘tự nhiên’ như mọi người, việc gì mà phải chấp giữ
giới luật?
Nhiều khi chúng ta mượn những lý lẽ trên để bác bỏ mọi thứ,
không chấp gì cả, và ta vịn vào đó để tỏ thái ,độ tự tại, tha hồ muốn
làm gì thì làm, hoặc không làm gì hết. Đây là điều sai lầm rất tai hại.
Ta không thể chối bỏ các hiện tượng sướng khổ, Tham-Sân-Si,
nhân-quả, v.v… và nên hiểu rằng tánh của chúng là Không, chúng không có
thực chất, chúng không thực có chứ không phải là chúng không có. Vấn đề
ta sơ suất là vẫn có cái tôi tin tưởng vào vô-ngã / tánh-Không –
một cách sai lầm – và cho rằng có Khổ, chẳng có nhân-quả, v.v…Nhưng thật
ra vẫn có cái tôi đang bác bỏ mọi thứ, đang không bám chấp, vẫn
có cái tôi đang tin tưởng rằng chẳng có tu, chẳng có chứng, chẳng
có đắc, v.v…Tức là ta vẫn đang bám chấp vào cái tôi mà không hay
biết, bởi vậy cái tôi này là chổ ở của Tham-Sân-Si, là môi trường
cho nhân-quả hoạt động và tạo nghiệp, và là nơi để cái Khổ phát tác. Khi
còn chấp ngũ uẩn là tôi, của tôi, thì nhân quả và những luật khác
đều thật có (đối với cái tôi) và chúng sẽ tác động lên cái tôi
đó, và tôi sẽ phải lãnh chịu hậu quả của những gì do tôi
tạo tác.
Vài điểm sai lầm nữa ta cần lưu ý.
1)
Thời buổi này có nhiều nơi mượn những kiến thức khoa học để giải
thích cho những khái niệm khó hiểu của nhà Phật, thí dụ như tánh-Không.
Điều này rất đáng khuyến khích nếu nhờ đó mà người học có thể lãnh hội
được mau chóng và thấu đáo. Tuy nhiên, có những trường hợp, lời giải
thích lại làm sai lạc ý nghĩa tánh-Không, chẳng hạn như sự tron61ng
không của các hạt nguyên tử [atom] được dùng để chứng minh là vật chất
khi chia chẻ đến cùng thì nó chỉ là khoảng không, chẳng có gì hết. Lối
giải thích này cho rằng tất cả sự vật, cả thế gian này đều là
không-zero. Điều này không đúng theo ý nghĩa của tánh-Không – là tánh
của sự vật; thật ra, nó cũng không được đúng ngay cả đối với khoa học,
vì tuy chia chẻ vật chất đến khi không còn hình tướng nữa, nhưng lúc đó
vẫn còn những hạt hoặc luồng năng lực [engergy].
2)
Tánh-Không thường vì lẫn lộn và ví với không khí và hư không
[space] như thí dụ sau đây. Mọi thứ được cho là do hư không sinh khởi và
chứa chấp, chẳng hạn như nếu không có hư không thì cái bàn chẳng thể
hiện hữu được, hoặc cái bàn choán một khoảng không, nhưng khi đẩy nó ra
chổ khác thì khoảng không vẫn còn đấy, chẳng mất đi đâu. Hay có thí dụ
là khi san bằng hòn núi rồi thì nó thành ‘không’, nhưng trước lúc núi vị
san bằng thì ‘không’ cũng vẫn sẵn tại nơi đó. Theo lời giải thích này
thì sự vật và khoảng không là hai vật khác nhau, nếu thế khoảng không ở
đây chẳng mang ý nghĩa gì của tánh-Không cả. Lúc chưa bị sang bằng, ta
vẫn sẽ chỉ hòn núi và nói tánh của nó là Không.
3)
Hoặc có thí dụ là tánh-Không cùng Sắc (hình tướng) là một như
nước với băng. Nước đông thành đá tức là Không biến thành Sắc; đá chảy
thành nước tức là Sắc biến thành Không. Thí dụ này ám chỉ nước và băng
là hai dạng khác nhau của một vật thể, và chúng có thể chuyển biến từ
dạng này sang dạng kia. Thế nhưng Không và Sắc chẳng phải là hai dạng
khác nhau; chẳng có cái gi có thể biến thành Không và Không chẳng thể
biến thành cái gì khác. Sự liên hệ của chúng nằm trong ý nghĩa đơn thuần
là vạn hữu mang tánh-Không, hoặc nói ngược lại, Không là tánh của vạn
hữu. Bởi vậy dùng nước và băng để dụ cho Không và Sắc thì hoàn toàn sai
lạc.
4)
Hoặc có thí dụ tương tự là nước và sóng. Nó được diễn tả là nước
là thể là Không, và sóng là dụng là Sắc; sóng phát sinh ra từ nước và sẽ
trở về bản thể nước của nó. Ta thấy có điểm tương đồng với lối suy luận
của Ấn Độ giáo, họ cũng có những thí dụ là những thứ như cái chén, cái
bình, cái tượng, v.v…tuy hình thù sai khác nhưng chúng đều cùng một chất
liệu là đất sét – nghĩa là tất cả đều từ một nguồn gốc [Thượng Đế - Đại
Ngã] mà sinh khởi. Nhưng khi luận về tánh Không thì thí dụ nước và đất
sét cũng lại không được chỉnh. Vì nước sinh ra sóng, và đất sét sinh ra
bình, chén; trong khi tánh-Không chẳng sinh ra gì cả. Ta hãy nghiệm xét
thí dụ về nước và tánh ‘lỏng’ sau đây thì rõ.
Nói đến nước ta nghĩ ngay đến tánh ‘lỏng’
[fluidity] của nó; hoặc nói đến ‘lỏng’ ta nghĩ ngay đến nước. Nhờ nước
nên ta mới biết được tánh lỏng và nhờ tánh lỏng nên nước mới là chất
lỏng, mới chảy được. Chúng đi với nhau như hình với bóng không thể tách
rời nhau ra được. Nhưng mà như vậy không có nghĩa là (=) tánh
lỏng; hay tánh lỏng là (=) nước; cũng chẳng thể nói chúng là hai
dạng khác nhau, nước sinh ra tánh lỏng hay tánh lỏng sinh
ra nước. Bởi vì ‘lỏng’ chỉ có nghĩa nó là tánh của nước
5)
Có nơi lại dùng phép phủ định để chỉ ra tánh-Không. Phương pháp
của họ là chối bỏ tất cả sắc thái đặc thù của hiện hữu, thí dụ như
sinh-diệt, thường-đoạn, hữu-vô, v.v…bằng cách phủ định liên tiếp. Tức là
phủ định đối tượng, rồi lại phủ định luôn sự phủ định đó. Họ cho rằng
càng phủ định thì càng tiến gần đến cửa chân lý, cho đến khi không còn
gì để phủ định, và đến lúc buông xả hết tất cả, thì đó là lúc ta giáp
mặt với tánh-Không.
// Pháp phủ định này gần như không khác với pháp
“neti, neti [not this, not this . không phải nó, không phải nó],” một
pháp thiền quán của Ấn Độ giáo. Hành giả tu theo pháp neti-neti cũng phủ
định tất cả những gì hiện lên trong tâm thức cũng như những gì họ có thể
nắm bắt được, và họ quan niệm rằng đến khi hết sạch không còn gì nữa thì
cái Đại-Ngã sẽ hiển lộ. [Mục đích mà họ nhắm qua pháp thiền này thì khác
với nhà Phật]//
Lối nhìn trên (phủ định liên tiếp) và ý niệm
tánh-Không hoàn toàn khác nhau. Cứ tiếp tục phủ định tất cả cho đến khi
không còn gì thì cũng chỉ là một loại không-zero, nói cách khác, cách
thức này sẽ dẫn vào con đường đoạn kiến [nihilism]. Lý do là vì phương
pháp phủ định này sai ngay từ cơ bản, nhó không nhắm đúng đối tượng để
phủ định. Xin nhấn mạnh lại ở đây, đối tượng phủ định là cái tự tánh
[inherent nature] (cái cốt lõi vốn có [substantially established self]
hoặc tự hữu độc lập
[independent existence]). Trong đề tài này,
chỉ có tự tánh của vạn hữu [all phenomena] là đối tượng duy nhất để phủ
định, và như vậy ta chỉ cần nói một cách đơn giản là vạn hữu không có tự
tánh (vô-ngã) – vạn hữu mang tánh-Không.
Nói tóm lại, tất cả sự vật đều mang tánh-Không. Nước và tánh
lỏng chẳng thể ly khai nhau được, thì cũng thế, ta chẳng thể ly khai sự
vật với tánh-Không và cho chúng là hai dạng khác nhau. Mà nếu cả hai là
một thì chúng không cần phải có hai tên gọi.Bởi thế ta cũng chẳng thể
nói:
§
Sự vật là (=) tánh-Không hoặc sự
vật sinh tánh-Không;
§
Tánh-Không là (=) sự vật hoặc
tánh-Không sinh ra sự vật;
§
Tánh-Không là nguồn gốc là bản thể của
sự vật và sự vật sẽ trở về với tánh-Không
D. HIỂU LUẬT
Khảo sát những khía cạnh khác nhau kể trên dẫn đến
kết luận là vạn pháp đều vô-ngã hay bản chất của vạn pháp là Không. Tất
cả chỉ là những hiện tượng vật chất, thân và tâm trôi chảy diễn tiến
theo Nhân, Duyên, và Quả của chúng.
Vài điểm đáng ghi nhận:
-
Vì định luật vô-thường nên mọi thứ biến
chuyển liên tục, nhưng chính sự trôi chảy lên tục một cách nhanh chóng
này lại là cái màn che phủ vô-thường làm ta không ý thức được sự có mặt
của vô-thường.
-
Tính chất cụ thể của mọi vật cũng là
một lý do gây nên cảm tưởng là chúng rất ‘thật’ làm ta không thấy được
bản chất vô-ngã của chúng.
-
Vì vô-thường nên mọi sự vật liên tục
chuyển biến, chúng biến chuyển theo luật nhân-quả và sinh-diệt theo luật
duyên-khởi. Do sự vật không cố định và phải nương tựa lẫn nhau nên chúng
không có tự tánh. Nhưng ngược lại, vì tánh-Không / vô-ngã cũa vạn hữu
nên mới có vô-thường, và sự sinh diệt chuyển biến mới có thể xảy ra
được.
Hiểu biết về vô-ngã / tánh-Không, ta tránh được hai cực
đoan, thường kiến và đoạn kiến. Biết rằng không có gì độc lập, tự có, ta
không chấp vào cái có (thường kiến [ eternalism]). Và không phải ngẫu
nhiên, tình cờ mà vạn pháp hiện hữu được, chúng có mặt là do các điều
kiện tương ứng – duyên-khởi – vậy ta không chấp vào không –zero (đoạn
kiến [nihilism]), nhờ đó ta tránh được lỗi lầm chối bỏ sự hiện hành của
nhân-quả.
Hiện tượng thì có đối đãi, có khác biệt, nhưng tất cả đều
bình đẳng vì bản chất của chúng là vô-ngã, tất cả đều mang tánh-Không.
Do quán chiếu bản chất tương đồng của mọi hiện tượng, tâm Xả phát triển.
Nếu mọi vật đều không có thực chất thì những giá trị tốt đẹp cũng chỉ là
do ta gán đặt cho chúng, như vậy ta không khởi tâm Tham. Đồng thời những
vật xấu xa, những hoàn cảnh bất lợi cũng là qua cái nhìn đã sẵn thành
kiến, bởi vậy ta không Sân. Khi có kẻ tán dương hoặc thóa mạ ta, với sự
hiểu biết về vô-ngã / tánh-Không ta có thể nhìn sự việc như sau, ta
không thực có, kẻ khen / chê không thực có, lời khen / chê cũng không
thực có, vậy thì tâm Tham và Sân khó khởi lên đượcl ngay cả khi tâm
Tham-Sân-Si đã nỗi lên rồi, ta ghi nhận rằng chỉ có Tham-Sân-Si sinh
khởi rồi tan biến do duyên-khởi – vì thế tánh chúng là Không – chứ không
thật có Tham-Sân-Si và cũng không thật có kẻ đang Tham-Sân-Si.
Nếu cảm thấy mình hay giỏi, tức là đã phạm luật vì có cái
tôi chắc thật đang kiêu-mạn.
Có cái tôi thì có các tâm Tham-Sân-Si, kiêu-mạn
v.v…thật ra cái tôi và Tham-Sân-Si, kiêu mạn nương nhau mà có,
bởi vậy giảm trừ tâm Tham-Sân-Si thì cái tôi sẽ bị suy yếu, và
ngược lại, nếu thu nhỏ cái tôi lại thì Tham-Sân-Si cũng sẽ mất
dần chỗ để sinh sống. Vậy hiểu biết về tánh-Không / vô-ngã là để áp dụng
với mục đích buông bỏ xả sự tin tưởng ở cái chắc thật của cái tôi,
cái chắc thật của vạn hựu; tức là để giảm trừ tâm Tham-Sân-Si.
Bồ-Đề tâm theo nghĩa tương đối là ‘vị tha’ tất cả những hành
vi thân-khẩu-ý của mình đều được thi hành với mục đích lợi ích cho chúng
sinh. Vun trồng Bồ-Đề tâm tức là tăng trưởng tâm vị tha, tâm
từ-bi-hỷ-xả. Theo lẽ đó, phát Bồ-Đề tâm là một phương cách thiện xảo để
trừ bỏ cái tôi và ở mức độ tuyệt đối Bồ-Đề tâm chính là vô-ngã /
tánh-Không.
VI.
KẾT LUẬN (ĐỊNH
LUẬT TA-BÀ)
Thiếu hiểu biết về đối đãi, Khổ và các đinh luật
Ta-bà nên ta phạm luật, bởi vậy chúng là những sợi dây trói buộc và giam
giữ ta ở Ta-bà. Ngược lại, nếu được thấu hiểu thì chúng sẽ là những pháp
chuyển tâm, giúp ta xả bỏ thế gian, buông bỏ việc đời, giúp ta ý thức
được rằng có được thân người đã là quý hiếm mà lại may mắn gặp được Phật
Pháp. Cho nên ta không bỏ lở cơ hội tụ tập và chính chúng sẽ là động cơ
thúc đẩy ta tu tập.
Hiểu biết về đối đãi, Khổ và các định luật Ta-bà giúp ta
giảm trừ tâm Tham-Sân-Si, phát triển tâm từ-bi-hỷ-xả, mang lại sự an lạc
và ổn định cho tâm, chuẩn bị cho thiền tập, và chúng cũng là nền tảng
dẫn đến trí tuệ giải thoát. Trên phương diện này thì chúng là những
người Thày, người bạn giúp ta tháo gỡ xiềng xích.
Khi ý thức được tầm mức quan trọng của tánh-Không / vô-ngã,
ta hay có khuynh hướng coi thường các định luật khác. Tuy nhiên, nếu
không hiểu rõ Khổ và các định luật khác thì ta sẽ khó thấu triệt được
tánh-Không. Cũng vì mối tương quan chặt chẽ giữa các định luật, mỗi yếu
tố thể hiện một khía cạnh của thực tại, nên sự hiểu biết tổng thể là
điều thiết yếu. Cũng do duyên-khởi nên các định luật có sự liên hệ với
nhau như sau:
Sự vật mang tánh-Không / vô-ngã nên
-
Khổ vì sự vật không thật có.
-
Vô thường vì không có cốt lõi cố định
nào nên sự vật mới biến chuyển được.
-
Nhân-quả / tái-Sinh mới hiện hành được,
-
Duyên-khởi mới hiện hành được.
Ta khổ vì:
-
Sự vật vô-thường
-
Bị luật nhân-quả chi phối,
-
Bị tái-Sinh quanh quẩn trong cõi Ta-bà.
-
Sự vật do duyên-khởi, mọi sự diễn tiến
và biến chuyển tùy thuộc vào điều kiện nên chúng nằm ngoài tầm kiểm soát
của ta.
-
Sự vật mang tánh-Không nên chúng chỉ là
ảo huyển
Các định luật vô-thường, nhân-quả, tái-Sinh, duyên-khởi cũng
thế, chúng đều có sự tương quan và móc nối với nhau.
Ta cũng nên để ý sự quan trọng của vô-thường và nhân-quả. Vì
vô-thường nên thực tại chỉ là giòng sinh-diệt, tương tục của hiện tượng
tâm lý và vật lý. Nói khác đi, tất cả những cảm nghiệm của ta đều không
nằm ngoài vô-thường, chúng là vô-thường. Và vì hai luật vô-thường và
nhân-quả nên tất cả sự vật chuyển biến trong tật tự tuyệt đối. Hơn nữa,
vô-thường nghĩa là sinh-diệt, và vì luật duyên-khởi nên phải tùy thuộ
vào điều kiện mới có sinh và diệt được.
Ta thường nghe nói khi Sân nổi lên thì phải dùng Từ-Bi để
đối trị, tuy nhiên nếu Từ-Bi không có thì lấy gì để đối trị? Cũng như
đợi giặc đã đến nơi rồi lúc đó ta mới đúc binh khí thì trở tay sao kịp?
Ta chuẩn bị trước bằng cách quán chiếu Khổ và các định luật Ta-bà, làm
cho Tham-Sân-Si suy yếu nên chúng sẽ khó lòng sinh khởi được, đồng thời
làm Từ-Bi-Hỷ-Xả tăng trưởng, và như vậy đến lúc hữu sự trường hợp
Tham-Sân-Si sinh khởi, ta mới sẳn binh khí để sử dụng. Vậy thì đối trị
không phải là đè nén, mà chính sự thấu triệt và thấm nhuần các định luật
sẽ dẹp trừ Tham-Sân-Si và ngăn chặn không để chúng sinh khởi dễ dàng.
Không phải ta chỉ giới hạn trong phạm vi cá nhân riêng ta
thôi mà tất cả các chúng sinh, cảnh vật, trạng huống đều là đề tài quán
sát. Tự bản thân thì mỗi hành vi của thân, lời nói và ý tưởng, hoặc đối
với cảnh vật bên ngoài, bất cứ cái gì mắt thấy (tốt, xấu, đẹp đẽ, gai
mắt, v.v…), tai nghe (êm dịu, chối tai, khen, chế, v.v…), hay cảm nhật
được, ta đều xét xem:
-
Khổ ở chổ nào, nguyên Nhân dẫn dến
hành vi hay sự việc này có phải do Khổ không, hậu Quả của nó có dẫn đến
Khổ không.
-
Vô-thường, trước đó nó khác bây giờ ở
chỗ nào, và sau này nó sẽ biến đổi ra sao.
-
Duyên-khởi, những nguyên nhân gần xa
nào dẫn đến sự việc này.
-
Nó không thực chất – Vô-Ngã – như thế
nào.
-
Đang tâm Tham, hay Sân hay Si.
Ta
cũng luôn luông kiểm điểm:
-
Tham-Sân-Si chưa suy giảm nghĩa là chưa
hiểu định luật Ta-bà.
-
Từ-Bi-Hỷ-Xả chưa tăng trưởng nghĩa là
chưa hiểu định luật Ta-bà
-
Tâm chưa an định nghĩa là chưa hiểu
định luật Ta-bà
-
Chưa cảm thấy sự khẩn khiết của việc tu
hành nghĩa là chưa hiểu định luật Ta-bà
Các định luật không phải là chỉ để đọc suông. Đọc hoặc nghe
giúp ta có sự hiểu biết về mặt tri thức, nhưng muốn đi vào chiều sâu ta
cần phải để ý quán sát [contemplate] ngày đêm, nếu nói một cách cự đoan
thì ta phải sống chết với chúng. Vì nhìn ở một khía cạnh thì Giác Ngộ có
nghĩa là sự thấu triệt, trực nhận các định luật Ta-bà. Ở đời ta thường
thấy có những người đang trong bể tình ái, ngày đêm ra vào lúc nào cũng
tơ tưởng đến người yêu, hoặc như các thương gia lúc nào cũng chỉ có
những ý nghĩ tính toán làm giàu. Lấy đó làm tiêu chuẩn thì chỉ cần sự nổ
lực, chuyên tâm trong việc tu tập của ta được như họ, hẳn sự tiến bộ của
ta cũng không phải nhỏ.
HẾT CHƯƠNG BA