Wednesday, July 8, 2009
Tuesday, July 7, 2009
Nhân Vật Phật Giáo Thế Giới
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
---o0o---
Ðại Sư thế danh Nguyễn văn Bình, pháp danh Thiện Chánh, pháp tự Trí Tịnh, đạo hiệu Hân Tịnh, người miền Tây Nam Việt, sanh năm Ðinh Tỵ (1917) tại làng Mỹ An Hưng (Mương Chùa, Cái Tàu Thượng), huyện Lấp Vò, hạt Sa Ðéc; vốn dòng dõi gia giáo. Ðại Sư thuộc hạng thanh tịnh xuất gia, đắc độ nơi trưởng lãoVạn Linh thượng Thiện hạ Xưng thuộc thiền phái Lâm Tế, đắc pháp với bậc tiên đạt thượng Trí hạ Ðộ. Các bạn lữ đồng học cùng ngài tại Báo Quốc Phật học đường ở Huế là các vị tôn túc thượng Thiện hạ Hòa, thượng Thiện hạ Hoa, thượng Trí hạ Chiêu, thượng Trí hạ Quang... Ðại Sư đắc giới nơi bậc tiên giác Kim Huê thượng Chánh hạ Quả.
Năm 1945, sau khi học hoàn mãn chương trình đại học tại đại học Báo Quốc, Ðại Sư cùng chư tôn pháp hữu đảm nhiệm trọng trách hành hóa. Lúc bấy giờ nền kinh tế địa phương khủng hoảng, Phật học đường Báo Quốc không thể duy trì. Tiền cơm của học tăng từ năm đồng một tháng, vọt lên đến sáu mươi lăm đồng mỗi tháng. Vì thế, Ban Quản Trị Hội Phật Học Trung Việt và Ban Giám Ðốc học đường quyết định cấp tốc dời trường vào miền Nam, làm giấy tờ ủy nhiệm cho ba vị túc học - Ðại sư là một. Ngài đảm nhiệm nhiếp thủ học chúng, ngài thượng Trí hạ Chiêu đảm nhiệm trọng trách vận động với Hội Phật Học Lưỡng Xuyên tại Trà Vinh, ngài thượng Thiện hạ Hoa đảm nhiệm trọng trách vận động ngoại hộ với cụ Trương Hoàng Lâu ở Quận Cầu Kè Trà Vinh. Trên đoạn đường di chuyển vào Nam lắm gian nan nguy hiểm vì ảnh hưởng thời cuộc, ngày trốn đêm đi, hết đi xe tới đi bộ, trải nắng dầm mưa suốt hai mươi mốt ngày mới đến Sài Gòn vào giữa đêm. Cuộc hành trình tiếp tục tiến về Mỹ-Tho. Chúng tôi được Hòa Thượng Vĩnh Tràng lưu lại nơi đây tu học trong khi chờ đợi cuộc vận động Hội Phật Học Lưỡng Xuyên. Hoàn cảnh khá khó khăn về mọi mặt nhưng cũng vượt qua, cuộc vận động thành công, học chúng giã từ Vĩnh Tràng về cư trú Phật học đường Lưỡng Xuyên tu học. Cùng lúc ngài thượng Thiện hạ Hoa vận động thiết lập Phật học đường Phật Quang ở Bang Chang (Trà Ôn). Sau khi Phật Quang học đường làm xong, Ðại Sư cùng Hòa Thượng Thiện Hoa và chư Pháp Sư Quảng Minh, Huyền Dung cùng chư liệt vị Phước Cần, Ðạt Tôn, Chánh Viên, Huệ Phương, Chánh Ðức, Như Mỹ v.v… lớn nhỏ trên dưới bốn mươi vị câu hội. Bấy giờ pháp tịch lại được khai diễn; nhưng thương ôi! Cuộc đời vốn vô thường, có hợp tất chia lìa, không hẹn với người, Phật Quang học đường được khai giảng chưa đầy một năm lại bị gián đoạn bởi hoàn cảnh loạn ly. Ðại sư và Pháp Sư Huyền Dung dẫn học chúng về SàiGòn, Hòa Thượng Thiện Hoa ở lại Phật Quang ẩn dật, chờ thời duyên khôi phục.
Với hoài bão 'Tục Phật huệ mạng - đống lương chánh pháp', sau khi giã từ Phật Quang học đường ở Bang Chang Trà Ôn về Sài Gòn, Ðại Sư vận động thành lập Phật học đường Liên Hải vào năm 1948 với sự hợp tác điều hành của ngài Quảng Minh. Ðến năm 1950, vì nhu cầu thăng tiến của nền giáo dục tăng luân, cần được hệ thống hóa tổ chức để dễ dàng cho việc giảng huấn, kết quả thu thập mỹ mãn hơn nên Phật học đường Liên Hải và Mai Sơn Phật học đường của ngài Trí Hữu thống hợp lấy danh xưng là Phật học đường Nam Việt. Sau khi thống hợp các học đường, Ðại Sư khai sơn Ðạo Tràng Vạn Ðức tọa lạc tại Thủ Ðức, tỉnh Gia Ðịnh. Ngài trụ tích nơi đây, Phật pháp rất thạnh hành.
Ðại Sư cực lực hoằng dương Tịnh Ðộ, thành lập Cực Lạc Liên Hữu, Ngài là bậc hóa chủ bổn liên, khuyến hóa người người niệm Phật. Cực Lạc Liên Hữu do Ðại Sư khai hóa, tư trợ cho hành giả tín hướng chỉ qui Tịnh Ðộ thật khả dĩ. Có thể nói ngài là vị Tổ Sư khai nguyên phong trào xương minh chấn hưng Tịnh môn trong tòa nhà Phật Giáo Việt Nam cận đại. Ngài là bậc bác lãm kinh tạng, tinh A Tỳ Ðạt Ma, Thiền, Giáo, Luật hay nói một cách đầy đủ, Ðại Sư là bậc 'Ðạt Giả' quán triệt thánh điển; kiến thức đa văn, quảng bác Nho học, tinh tường y dược Ðông phương. Cận đại hàng Phật tử thấm nhuần hoặc biết qua kinh điển Ðại thừa là nhờ công trình dịch thuật của Ðại Sư.
Dịch phẩm rất có giá trị. Ngài quí chuộng căn bản, dịch giải chính xác, rõ ràng mà không hoa dạng, chơn chất mà không quá quê kệch, người đọc tụng có thể nhận được nghĩa thú hiểu biết ý chỉ dễ dàng.
Kể từ năm 1948 đến nay, dịch phẩm, tác phẩm của Ðại sư phiên dịch và soạn thuật gồm có :
* Dịch phẩm :
• Ðại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh
• Ðịa Tạng Bổn Nguyện Công Ðức Kinh
• Tam Bảo Tôn Kinh (Di Ðà - Hồng Danh - Vu Lan - Phổ Môn - Kim Cang)
• Phạm Võng Kinh
• Ðại Bát Niết Bàn Kinh
• Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh
• Ðại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh
• Ðại Bảo Tích Kinh
• Ngộ Tánh Luận (dịch giải và phân đoạn)
• Thiền Tịnh Quyết Nghi
• Văn Sám Nguyện Thập Phương và Thập Ðại Nguyện Phổ Hiền (dịch giải)
* Trước thuật :
• Pháp Hoa Cương Yếu
• Ðường về Cực Lạc
• Văn Phát Nguyện Tu Thập Thiện
Thủ ngoại, Ðại sư còn diễn giảng rất nhiều bộ kinh Ðại thừa, trình bày chỉ thú pháp tướng, pháp tánh như :
• Pháp Hoa Thông Nghĩa
• Lăng Nghiêm Trực Chỉ
• Viên Giác
• Phật Tổ Tam Kinh
• Kinh Văn Trích Yếu
• Ðại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm - Duy Thức Chương
• Bát Thức Qui Củ Tụng Thích Luận v.v…
Tóm lại, ngài giảng dạy tinh chỉ của Duy Thức, Tịnh Ðộ học, Thiền học v.v... một cách thâm thúy.
Ngoài việc phiên dịch Thánh điển, huân tu tịnh đức chỉ thú Tây phương, ngài còn chủ giảng tại Ðạo Tràng Vạn Ðức và dạy Phật-pháp tại Cao Ðẳng Phật Học viện Huệ Nghiêm, Từ Nghiêm và Vạn Hạnh. Ðại Sư là bậc long tượng của thời kỳ mạt pháp, bậc luật đức sanh giới thân huệ mạng cho kẻ hậu côn số nhiều vô kể. Nơi nào chư phương Ðại Ðức, Trưởng Lão kiến đàn hoằng giới đều cung thỉnh ngài vào những ngôi vị tối tôn của Giới Ðàn, đặc biệt ở ngôi vị Tuyên Luật Sư, trong đó có các Ðại Pháp Tịch Tỳ Ni cận đại như Quảng Ðức tổ chức tại Phật học viện Trung phần (Nha Trang), Huệ Quang tại chùa Phật Ân (Mỹ Tho), Khánh Anh tại Bồ Ðề (Long Xuyên), Ấn Quang tại chùa Ấn Quang (Sài Gòn), Thiện Hòa tại Ấn Quang (Sài Gòn)...
Ðại Sư là thành viên sáng lập Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Ngài là trưởng phái đoàn đại biểu Giáo Hội Tăng Già Việt Nam tham dự đại hội thống nhất Phật Giáo để thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Và là thành viên Hội Ðồng Giáo Phẩm Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, ngài được suy cử đảm nhiệm trọng trách :
• Tổng Ủy Viên Tổng Vụ Tăng Sự (1964 - 1974)
• Phó Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo (1974 - đến khi GHPGVNTN bị giải thể bởi chủ nghĩa chuyên chế).
Ngoài ra về giáo dục, ngài còn đảm nhiệm trách vụ :
• Viện Trưởng Viện Cao Ðẳng Phật Học Viện Huệ Nghiêm
• Khoa Trưởng Phật Khoa tại Viện Ðại Học Vạn Hạnh.
Trước năm 1975, Ðại Sư cùng chư tôn túc kiến lập Pháp Bảo Viện, chỗ phụng thờ và dịch thuật Tam Tạng thánh giáo và là nơi cư trú của chư Tăng, tọa lạc tại Thủ Ðức. Chư vị tôn túc ký thác ngài trọng trách Tọa Chủ bổn viện. Khởi đầu xây dựng được ngôi tháp thờ đức Quán Thế Âm Bồ Tát, công tác đang tiến hành thì tình thế đổi thay.
Tăng cách của ngài không phải nói: “Y cứ pháp tạng, nhận xét qua hoạt dụng, kính xưng 'bậc thượng sĩ' quả nhiên thật không quá lời” (lời của Ngộ Công Trưởng Lão thường đề cập về ngài). Thường nhựt, Ðại Sư hành trì không bỏ sót thời gian, ít ngủ nghỉ, quá ngọ thời không ăn, thức ăn không quá phần đại chúng; giới hạnh tinh nghiêm, không nói chuyện ngoài sự đàm thuyết điển tịch Phật pháp. Niệm châu không rời, không sót ngày Bố Tát và An Cư dù lúc thân thể suy gầy. Có ai hỏi đạo lý thì tùy cơ đối giải. Thân giáo, khẩu giáo nghiêm minh nhưng rất hoan hỉ, lý tánh cùng tận, lắm nhiều thần tích. Tựu trung, khách quan mà nhận xét, tất cả tòng lâm, tự viện thời cận đại từ trước đến nay, kể cả toàn quốc từ Bắc, Trung, Nam không nơi nào vân tập tứ chúng đông đảo như chốn Lan Nhã của Ðại Sư trụ tích. Kể từ khi ngài khai sơn Ðạo Tràng Vạn Ðức, tăng tín đồ câu hội về quanh vùng thiết lập tu viện, tịnh xá, tịnh thất trên dưới bốn mươi ngôi. Có thể nói, ai có túc duyên bái kiến y chỉ với ngài không khác gì được yết kiến Thánh Giả.
Ðích thực kinh điển Ðại thừa được phổ cập trong tòa nhà Phật Giáo Việt Nam, lưu thông trong quảng đại quần chúng có thể nói ngài là vị đứng đầu trong giới phiên dịch hiện đại.
P.L 2528, Los Angeles - Phước Huệ Ðạo Tràng
Ngày Thọ Tuế mùa An Cư năm Giáp Tý
Pháp Tử
HÂN THUYÊN Tỳ Kheo THÍCH PHƯỚC BỔN
Cẩn lục
--- o0o ---
Source: http://www.niemphat.net
Cập nhật ngày: 01-04-2003
Friday, July 3, 2009
Yếu chỉ pháp trì danh niệm Phật và Kệ gia hạnh tu trì
Khi hạ thủ công phu ở nơi một câu hồng danh của Phật “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” hay là “A DI ĐÀ PHẬT” niệm cho được vừa chừng không quá mau (không gấp), không quá chậm (không hườn) là niệm cho đều đặn. Kế đó là mình phải giử làm sao cho cái tiếng niệm Phật cùng với cái tâm của mình phải hiệp khắn nhau. Nghĩa là cái tâm phải duyên theo tiếng, cái tiếng phải nằm ở trong tâm, không để cho nó xao lãng theo một tiếng gì khác | ||
Tin sâu - Nguyện thiết - Hạnh Chuyên ***
Nhiếp tâm là định học KỆ NIỆM PHẬT (Hạ thủ công phu) MỘT CÂU A DI ĐÀ PHẬT KHÔNG GẤP CŨNG KHÔNG HƯỜN TÂM TIẾNG HIỆP KHẮN NHAU THƯỜNG NIỆM CHO RÀNH RÕ Khi hạ thủ công phu ở nơi một câu hồng danh của Phật “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” hay là “A DI ĐÀ PHẬT” niệm cho được vừa chừng không quá mau (không gấp), không quá chậm (không hườn) là niệm cho đều đặn. Kế đó là mình phải giử làm sao cho cái tiếng niệm Phật cùng với cái tâm của mình phải hiệp khắn nhau. Nghĩa là cái tâm phải duyên theo tiếng, cái tiếng phải nằm ở trong tâm, không để cho nó xao lãng theo một tiếng gì khác, hể nó thoạt mà rời đi thì mình phải nhiếp kéo nó trở lại liền đặng cho nó trụ nơi cái tiếng, như vậy gọi là “TÂM TIẾNG HIỆP KHẮN NHAU” nghĩa là cái tâm và cái tiếng không khi nào rời nhau, mà tâm và tiếng không khi nào rời nhau đó mới gọi là thiết thiệt niệm Phật, chớ nếu trong lúc mình niệm Phật mà mình lại tưởng niệm những việc khác đó là mình niệm việc khác, nhớ việc khác, chớ đâu phải là thiệt niệm Phật. Nếu là thiệt niệm Phật thì trong tâm mình chỉ nhớ và tưởng Phật mà thôi. Bây giờ mình niệm Phật , danh hiệu Phật, tất nhiên là mình nhớ và tưởng lấy ở nơi cái tiếng niệm Phật, cái hiệu của Phật, như vậy mới gọi là thiết thiệt niệm Phật. Thành ra mình làm cái gì cũng phải cho thiết thiệt trúng cái đó, chớ nếu sai đi, tất nhiên khó có thể thành công được, do đó mới có câu “TÂM TIẾNG HIỆP KHẮN NHAU.” Nên nhớ kỹ lắm mới được, khi niệm Phật phải nhớ câu đó và phải làm cho đúng theo mới có lợi lạc. Nếu được tâm tiếng hiệp khắn nhau như vậy mới gọi là niệm đúng cách và thiết thiệt. Giờ đây phải “THƯỜNG NIỆM CHO RÀNH RÕ.” Tâm tiếng hiệp khắn nhau rồi, nhưng phải để ý cho nó rành, rành là rành rẽ, tức là từ tiếng, từ câu không có lộn lạo, còn rõ là rõ rành, hể Nam là rõ tiếng Nam, Mô là rõ tiếng Mô, A là rõ tiếng A cho đến Phật thì Phật cái tiếng không trại đi, phải cho thật rõ, vì điều này rất cần lắm, chớ nếu mình niệm mà không nhận cho rành rẽ và rõ ràng, niệm một cách bơ thờ, về sau khi công phu được thuần thục, mà khi thuần rồi, cái niệm trong tâm nó tự nổi lên cũng không rành rỏ, nó hơi trại đi, chớ nếu lúc nào mình cũng giữ cho rành rõ, thì khi thuần thục trong tâm mình nó cũng nổi lên cái tiếng niệm Phật rõ lắm, điều nầy rất quan trọng, nên nhớ chữ “THƯỜNG” nếu muốn được cái tâm mà về sau, nó tự niệm lấy nó, không cần mình phải ép buộc nó mới niệm--phải thường—nghĩa là luôn luôn mình phải niệm cho thật nhiều giờ và thời gian cho được tương tục gọi là thường, chớ nếu trong một ngày, một đêm mà mình chỉ có niệm một hai tiếng đồng hồ thôi, còn 22 tiếng kia mình lại nghĩ việc tào tạp thì biết bao giờ tâm mình mới thuần thục được. Mình phải tập cho nó niệm luôn luôn lâu ngày thành thói quen--tập quán—nhưng bây giờ mình bận đủ các công việc đâu phải như các vị rãnh rang (cấm túc), kiết thất hay là tịnh niệm, tịnh khẩu chẳng hạn, vậy mình phải làm sao đây? Tất nhiên trong lúc đi đứng nằm ngồi và lúc rãnh cũng bắt cái tâm mình nó niệm Phật, trừ khi nào tâm mình bắt buộc phải chú trọng đến những công việc gì khác, xong rồi, phải nhớ niệm Phật lại. Như lúc mình mặc áo mình cũng vẫn niệm Phật được, đi ngoài đường cũng vẫn niệm Phật được, bởi vì lúc đó cái tâm có thể rảnh để Niệm Phật, như vậy lúc mình ngồi ăn cơm cũng niệm Phật được, hoặc lúc mình nằm nghĩ, chứ không phải chỉ niệm phật lúc mình ở trước bàn thờ Phật, có chuông, có mỏ, quỳ nơi đó, nếu chỉ có như vậy thì khó thuần thục, khó thành thói quen. Về công hạnh niệm Phật điều đó cần phải nhớ lắm mới được. NHIẾP TÂM LÀ ĐỊNH HỌC NHẬN RÕ CHÍNH HUỆ HỌC CHÁNH NIỆM TRỪ VỌNG HOẶC GIỚI THỂ ĐỒNG THỜI ĐỦ Trong một câu niệm Phật, mình gồm cả ba môn “Vô lậu học” mà các đệ tử của Phật cần phải thật hành là “GIỚI, ĐỊNH, HUỆ.” Như vậy trong câu niệm Phật mà đang thật hành đó nó tương ứng với: GIỚI, ĐỊNH, HUỆ là như thế nào? Đáng lẽ thì bài kệ phải nói là GIỚI trước rồi mới đến ĐỊNH và HUỆ, nhưng vì rằng phải theo việc trình bày, thành ra phải để GIỚI về sau. Trước hết là mình nhiếp tâm niệm Phật, không nghĩ việc gì khác, tâm mình trụ nơi câu niệm Phật thôi, thì đó mình học về môn ĐỊNH. Đây nói là mình học về môn ĐỊNH chớ không phải là mình được ĐỊNH, nhưng mình đã học môn định thì tương ứng với ĐỊNH thì một ngày kia mình sẻ được ĐỊNH. Đó là môn “Vô lậu học” thứ nhất, gọi là “ĐỊNH HỌC.” Kế đó, trong lúc mình niệm Phật thì tâm và tiếng hiệp khắn với nhau, mình lại nhận rõ ràng và rành rẽ tất nhiên trong lúc đó cái tâm mình nó sáng, nó có sáng mới nhận được rành rẽ và rõ ràng, chớ nếu nó không sáng thì làm sao nhận được rành rõ. Cái sáng đó nó tương ứng với HUỆ, đây là môn “Vô lâu học”, thứ hai gọi rằng “HUỆ HỌC”. Và trong lúc mình niệm Phật thì không có những vọng tưởng, đó là chánh niệm. Đã chánh niệm, không vọng tưởng tất nhiên không có những sự lỗi lầm và tương ứng với GIỚI, đây là môn “Vô lậu học” thứ ba gọi rằng môn học về GIỚI. Đó là từ dưới đi lên trên, hay là bắt từ trên trở xuống dưới thì nhiếp tâm thuộc về ĐỊNH HỌC, tâm mình nhận rành rẽ và rõ ràng đối với câu niệm Phật là tâm sáng, tương ứng với HUỆ HỌC và vọng niệm không khởi, chánh niệm hiện tiền không có sự lỗi lầm trong lúc niệm Phật tất là tương ứng với GIỚI. Như vậy trong lúc mình thực hành một câu niệm Phật đủ cả ba môn Vô lậu học (GIỚI, ĐỊNH, HUỆ), mà đã tương ứng với Giới, Định, Huệ rồi một ngày kia khi mà câu niệm Phật được thuần, tất nhiên là mình thành tựu được một lượt cả ba môn Vô Lậu Học, và mình thấy trong hiền đời đã có sự lợi ích rất lớn là mình được cái sư điều nhiếp thân tâm đi vào nới pháp lành, tương ứng với ba môn Vô Lậu Học là ba điều mà đức Phật dạy: Hễ đệ tử Phật, dầu xuất gia hay tại gia đều phải tu và trong tương lai, tất nhiên là nhờ ở nơi tịnh nghiệp mình tu hành đó, sẽ được vãng sanh về Cực Lạc Thế Giới, bảo đảm sự giải thoát thẳng đến thành Phật không thối chuyển. Như vậy, pháp môn “NIỆM PHẬT” nếu mình suy nghĩ kỹ lợi ích biết chừng nao, cần phải noi theo và thực hành cho đúng và phải cố gắng khuyên những người có duyên với mình đều phải TIN, phải NGUYỆN và THỰC HÀNH như mình để cho mình cùng tất cả mọi người đều được lợi ích nơi pháp môn Tịnh Độ, niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc Thế Giới của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy và đúng theo bản hoài của Ngài là muốn cho tất cả chúng sanh đều được thành Phật. TÓM LẠI: Mấy câu kệ trên nói về nơi hạ thủ công phu ở một câu hồng danh của Phật “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” hay là “A DI ĐÀ PHẬT” niệm cho vừa chừng, không quá mau gọi là không gấp, không quá chậm gọi là không hườn, và nơi đó phải nhiếp tâm theo cái tiếng niệm Phật, tâm với tiếng đi đôi với nhau gọi là tâm tiếng hiệp khắn với nhau. Phải niệm cho được nhiều giờ trong ngày đêm. Khi niệm cái tiếng phải cho rõ ràng, nhận cho rành rỏ, nên gọi rằng thường niệm cho rành rõ, kế đó mới hiệp câu niệm Phật của mình cho tương ứng với ba môn “Vô Lậu Học” Giới, Định và Huệ. Khi mình niệm thì nhiếp tâm, không cho tán tâm, trụ nơi cái tiếng niệm Phật, như vậy gọi rằng tâm duyên nơi một cảnh, nghĩa là cái tâm ở một cảnh hồng danh của đức Phật, đó tất nhiên học về môn Định và khi niệm đó thì cái trí rất sáng, nhận cái tiếng niệm Phật rõ ràng, từng câu rành rẻ. Cái trí sáng đó tất nhiên đã tương ứng với môn Huệ Học thì lần lần TRÍ HUỆ PHÁT. Trong khi mình niệm Phật thì nhiếp tâm nơi chánh niệm, vọng niệm không xen vô, mà vọng niệm không có thì tất nhiên những lỗi lầm không có, vì bao nhiêu những tội nghiệp lỗi lầm đều ở nơi vọng tâm phân biệt mà ra. Nay vọng tâm không có, trụ tâm ở chánh niệm, thì như vậy những lỗi lầm không có, mà giới là chi? Tức nhiên là để ngăn, không cho ở nơi thân khẩu ý tạo tội lỗi. Giờ đây thân khẩu ý trụ nơi câu niệm Phật là chánh niệm không có những tội lỗi, thì đó là tương ứng với Giới. Như vậy, trong một câu niệm Phật, lúc mình chuyên tâm đúng cách thì đầy đủ cả Giới Học, Định Học và Huệ Học. Khi Giới, Định và Huệ mà phát ra thành tựu, cái đó là chứng quả thánh. Giờ đây mới tiếp tục để tiến lần thêm ở nơi cái phần niệm Phật cho nó được nơi Sự Tam Muội hay Lý Tam Muội, tức là chánh định niệm Phật về SỰ và chánh định niệm Phật về LÝ. Theo đúng như trong kinh nói: Người niệm Phật mà được ở nơi cái Sư Tam Muội, chánh định về sự thì khi lâm chung, chắc chắn vãng sanh. Vãng sanh rồi tất nhiên không mất nơi cái phần Trung Phẩm, mà nếu được gồm lý niệm Phật nữa thì khi vãng sanh không mất phần Thượng phẩm. Thượng Phẩm tức là BẬT ĐẠI BỒ TÁT, Trung Phẩm tức là ngang hàng Thánh của Nhị Thừa, thành ra không phải bực thường được. Đây theo nơi bài kệ để tuần tự giảng giải quí đạo hữu nên nghe kỹ và cố gắng để mình đi được bước nào thì được bước nấy. NIỆM LỰC ĐƯỢC TƯƠNG TỤC ĐÚNG NGHĨA CHẤP TRÌ DANH NHẤT TÂM PHẬT HIỆN TIỀN TAM MUỘI SỰ THÀNH TỰU Khi niệm Phật nhiếp tâm đúng cách như vậy rồi, niệm mỗi ngày mỗi đêm, niệm được nhiều giờ, nhiều thời gian gọi rằng thường niệm, đã thường niệm rồi trải qua một thời gian tức nhiền cái tâm được thuần thục. Khi tâm được thuần thục rồi thì nó có cái trớn niệm Phật nơi tâm. Lúc đó thì không cần phải tác ý, không cần phải dụng công, nhưng nơi tâm vẫn cứ tiếp tục nổi lên tiếng niệm Phật. Nhớ kỹ là cái tâm nổi lên tiếng niệm Phật, như vậy đó, nó không có gián đoạn nghĩa là đi, đứng, nằm, ngồi gì cũng nhận thấy rằng tâm mình nó vẫn có cái tiếng niệm Phật, không cần phải dụng công tác ý gì hết, đó gọi rằng là được niệm lực tương tục, nghĩa là cái sức chánh niệm nối tiếp, cho nên biết rằng cái lúc mà mình tác ý dụng công thì mình phải cố gắng lắm cái tâm mới chịu duyên theo ở nơi cái tiếng niệm Phật, mà rồi thật ra trong lúc đó tâm nó có nhiều khi, ở nơi mình, cái miệng thì có niệm Phật, cái tiếng có phát ra mà cái tâm nhiều khi nó nhận câu thứ nhất, câu thứ nhì nó lơ là hay là ở trong câu niệm Phật đó nó nhận tiếng Phật tiếng A gì đó, mà tiếng Nam, tiếng Mô nó lơ là, còn giờ đây cái tâm tự động nó niệm Phật do sau khi mình niệm Phật được thường lâu ngày nó thuần thục, nói lâu ngày đây, chớ cái trình độ này có người chỉ trong một ngày đêm có thể được, nếu căn trí lanh lợi và tinh tấn. Có người chừng bảy ngày đã được rồi, còn người niệm Phật không được thường lắm thì phải thành ra lâu. Nếu được cái sức niệm ở nơi tâm tự động nó niệm gọi là BẤT NIỆM TỰ NIỆM đó thì được cái chánh niệm nối tiếp luôn kêu là NIỆM LỰC ĐƯỢC TƯƠNG TỤC, thì đó mới đúng nơi cái nghĩa CHẤP TRÌ DANH HIỆU mà trong kinh Di Đà các đạo hữu thường tụng đó. Thường thường người tụng kinh Di Đà ít có để ý, bởi vì lời Phật nói ra không phải là cái thông thường, mình phải cần để ý lắm. Hễ phật nói nhất tâm thì nhất định là cái tâm phải chuyên nhất thôi, không được xen gì hết mới gọi là nhất tâm, còn Phật nói nhất niệm thì tất nhiên cái niệm phải cột nó lại một chỗ mới gọi là nhất niệm. Giờ đây Phật nói rằng chấp trì danh hiệu thì tất nhiên ở nơi danh hiệu đức Phật, nơi hồng danh đức Phật A Di Đà hay Nam Mô A Di Đà Phật thì phải nắm cầm cho chắc, nắm cầm đó là cái tâm nắm cầm cho chắc không lúc nào rời và không để cho cái gì xen tạp vô, như vậy gọi rằng cái tâm nó chỉ nắm cầm hay là giữ chắc không rời câu niệm Phật, mới gọi là niệm Phật tương tục, dù không niệm cái tâm nó vẫn tự niệm, nói gọn lại là bất niệm tự niệm và cái chánh niệm đó được nối tiếp gọi là tượng tục. Đó mới thiệt là cái nghĩa chấp trì danh hiệu ở trong kinh Di Đà. Nên cuối câu kệ gọi rằng: Niệm lực được tương tục. Đúng nghĩa chấp trì danh. Khi mà niệm lực được tương tục rồi, nắm giữ lấy danh hiệu của Đức Phật mà không có cái tạp niệm xen vô thì trong một thời gian cái tâm nó dừng lại, lìa hết tất cả cảnh ngũ trần, nghĩa là sắc, thanh, hương, vị, xúc nó không có duyên nừa. Lúc đó dầu có con kiến cắn cũng không hay, nghĩa là lìa nơi xúc trần, dầu có mùi hương thoãng cũng không biết là lìa nơi hương trần và cho đến có tiếng chi một bên tai cũng không nghe, có cái chi ở trước mắt cũng không thấy, dầu lúc đó mỡ mắt, mà cái tâm chỉ duyên rành rẽ ở nơi câu niệm Phật và chỉ có nhận câu niệm Phật mà thôi lúc đó trong thì quên thân, ngoài không duyên theo cảnh, cái tâm nó đứng lặng là nhất tâm bất loạn. Khi được như vậy thì trong kinh Vô Lượng Thọ có nói lúc đó Phật thân hiện, Phật A Di Đà hiện, cho đến Phật cảnh Cực Lạc hiện, nên câu kệ gọi rằng: “NHẤT TÂM PHẬT HIỀN TIẾN.” Đó là thành tựu được Sự Tâm Muội, câu kệ gọi rằng: “TAM MUỘI SỰ THÀNH TỰU.” Chánh định thuộc về sự, cái tâm mình trụ ở nơi câu niệm Phật, trong thì quên thân, ngoài không duyên theo cảnh và lúc đó Phật và thánh cảnh hiện, nó thuộc về sự tướng. Nếu người mà đuợc ngang nơi đây, thơi gian sau, khi vãng sanh bảo đảm ở nơi Trung Phẩm, tức nhiên ngang với hàng thánh của Nhị Thừa. Còn nếu được niệm lực tương tục đúng nghĩa chấp trì danh ở trên là bảo đảm vãng sanh, nhưng mà trong phẩm vị thì chưa chắc Phẩm nào, còn tùy theo ở nơi thiện căn công đức của người tu hành. ĐƯƠNG NIỆM TỨC VÔ NIỆM NIỆM TÁNH VỐN TỰ KHÔNG TÂM LÀM PHẬT LÀ PHẬT CHỨNG LÝ PHÁP THÂN HIỆN Bây giờ do nơi chánh định thuộc về sự thì cái tâm nó đứng lặng, do cái tâm đứng lặng đó, thành trí huệ phát—trí huệ đây gợi là Vô lậu trí huệ hay là thánh trí phát. Do nơi phát đó, thành ra lúc đó toàn thể tự tâm bổn tánh nó hiển hiện, trong Thiền Tông gọi rằng minh tâm kiến tánh. Lúc đó đã thấy nơi bổn tánh rồi, mà bổn tánh thì tức nhiên không phải là cái tánh riêng của một cái gì hết, nó cũng là cái tánh của tâm mà cũng là cái tánh của Pháp, nó là cái tánh nói chung của tất cả Pháp. Mà đã là cái tánh của tất cả Pháp rồi thì đương lúc niệm Phật đó cái tâm nó trụ ở nơi câu niệm Phật, nơi sự niệm Phật. Chính ở nơi sự niệm Phật đó lại tỏ ngộ, thấy là vô niệm. Cho nên biết rằng cái thể tánh chân thật của tất cả các pháp, nghĩa là không luận của tâm hay là của sắc đều là cái tánh không tịch cả. Đã không tịch tất nhiên nó không có cái sự gì và cũng không có cái tướng gì hết, cho nên nói cái thể tánh chân thật nó như vậy. Do đó mới tùy duyên mà có ra tất cả sự, tất cả Pháp. Vì vậy nên khi tỏ ngộ bổn tâm tự tánh rồi thì thấy cái chánh niệm mình đương niệm đó tức là vô niệm gọi là ĐƯƠNG NIỆM TỨC VÔ NIỆM. Mà cái tánh của chánh niệm không phải là mình làm cho nó không, bởi vì bổn lai là không. Cũng như cái tánh của tất cả tâm, cái tánh của tất cả Pháp, bổn lai nó là không tịch. Do đó cho nên sợ rằng người học đạo không biết, cố ý mà dằn ép cái tâm phải nhận rằng ở nơi niệm cái tánh là không (điều đó không phải). Lúc đó thấy cái niệm là không tánh mà rồi cũng rõ biết cái tánh niệm bổn lai nó là không. Như vậy mới thật là thấy cái thật tánh của niệm, mà nếu thấy cái thật tánh của niệm thì thấy tất cả cái thật tánh của các pháp, bởi vì tất cả pháp đều là một tánh mà thôi. Cho nên thành ra thấy cái thật tánh của một pháp tất nhiên thấy được cái thật tánh của tất cả pháp. Nên câu kệ mới nói đương niệm, chính lúc đương niệm đó không phải bỏ niệm, mà GIÁC NGỘ LÀ VÔ NIỆM. Giác ngộ vô niệm là chi? Tức nhiên là cái niệm tánh không tịch, mà cái niệm tánh không tịch đó là tánh bổn lai của cái niệm, cho nên gọi rằng: “NIỆM TÁNH VỐN TỰ KHÔNG” chớ không phải là nó mới không đây. Tại vì trước kia mình mê muội, mình theo sự tướng, mình thấy có thế này, có thế kia đủ thứ hết. Giờ đây giác ngộ được rồi thì thấy là bổn tánh không tịch, bổn tánh không tịch đó là bổn lai từ nào đến giờ nó đã vẫn không tịch như vậy, chớ không phải mới, do mình tu hành đây rồi nó mới là không, không như vậy …Kế đến câu “TÂM LÀM PHẬT LÀ PHẬT” Đồng thời lúc đó phải giác ngộ rằng chính cái tâm của mình đây là chân tâm thật tánh của mình đó. Và rằng ở trên, hể giác ngộ ở nơi cái tâm niệm đó rồi thì thấy rõ rằng cái bổn tâm của mình làm Phật và cái bổn tâm đó chính là Phật. Đó gọi rằng là bổn tâm chân thật. Lúc đó tất nhiên gọi rằng chi? Là đã chứng ở nơi lý tánh, thành tựu ở cái lý Tam Muội niệm Phật và đồng thời pháp thân Phật hiện. Ở nơi trên về cái sự Tam Muội gọi rằng là Phật hiện tiền, lúc đó có Phật ở ngoài mình hiện ra, rồi mình thấy Phật hiện, còn giờ đây, chính tỏ ngộ được ở nơi thân tâm mình làm Phật là Phật. Nên biết rằng cái tỏ ngộ đó không phải lấy ở nơi cái trí suy luận mà tỏ ngộ chính là cái hiện lượng chứng trí lúc đó nhận như vậy, thấy như vậy, chứng như vậy, chớ không phải là cái suy luận. Mà đã chứng ngộ ở nơi bổn tâm mình làm Phật và tức là Phật, vậy Phật và tâm không phải là hai, chính tâm là Phật, Phật là tâm. Như vậy tất nhiên là chứng nơi pháp thân, gọi là pháp thân hiên tiền, lúc đó pháp thân hiện, còn ở trên ở nơi sự tam muội mà Phật hiện đó là Phật sư tướng hiện, sắc thân Phật hiện, còn đây là PHÁP THÂN PHẬT HIỆN. Nếu người mà được đến đây rồi, thì khi vãng sanh quyết định ở nơi thượng phẩm, tức là một vì Đại Bồ Tát hiện tại người đó ở tại đây cũng là một vì Đại Bồ tát. Tầng bậc nầy đối với Thiền Tông gọi là Chứng Tâm Tánh, sau khi minh tâm kiến tánh rồi, chứng tâm tánh gọi là đai triệt, đại ngộ, ngang nơi đó. Nhưng ở nơi pháp môn niệm Phật thì hơn nơi Thiền Tông bởi vì ở nơi Thiền Tông đến khi minh tâm kiến tánh hay là chứng nhập ở nơi tự tánh rồi, còn cần phải thêm một thời gian rèn luyện nơi đó để dứt trừ những nghiệp chướng phiền não, còn người niệm Phật thì không như vậy. Bởi vì ngoài cái sự tỏ ngộ ra, chứng nhập ra, còn có cái nguyện lực Phật nhiếp trì, mà đã vào trong nguyện lực của Phật nhiếp trì rồi tất nhiên chẳng những là chứng ngộ nơi cái tự pháp thân mà cũng là ở vào nơi pháp thân của đức Phật A Di Đà. Do đó cho nên không luận là nghiệp chướng, phiền não và tất cả, không luận tới việc đó. Mà sau khi bõ cái thân này rồi về Cực Lạc Thế Giói được vãng sanh ở nơi Thượng Phẩm thì mấy cái đó tự mất. Do đó nên trong kinh quán Vô Lượng Thọ có nói: Người mà được vãng sanh về Thượng Phẩm tức nhiên bực đó gọi rằng ở vào sơ Địa Bồ Tát. Hiện tiền sau khi sanh về có thể dùng cái trí lực và thần thông, nghĩa là liền sau khi sanh về có thể hiện thân làm Phật ở trong 100 thế giới nào không Phật thì vị Bồ Tát đó có thể hiện thân làm Phật để độ chúng sanh. Nên biết rằng mỗi thế giới như vậy là có vô số những tiểu thế giới hiệp lại, cũng như Ta Bà thế giới của mình là có 1000 triệu cái tiểu thế giới hiện lại, nghĩa là 1000 triệu cái thái dương hệ hiệp lại mới thành cái thế giới Ta Bà. Do đó mà khi Đức Thích Ca Mâu Ni thành Phật rồi thì cái thân hiện ra tới gọi là: “Thiên Bá Ức”, nghĩa là 1000 trăm ức, 1000 trăm lần ức, 1000 trăm ức đó là 1000 tỷ, 1000 tỷ thân Phật Thích Ca chớ không phải chỉ một thân Phật Thích Ca. Đó là nói một thế giới, mà đây vị Bồ Tát ở nơi cái chứng lý pháp thân, nghĩa là ở nơi cái lý Niệm Phật Tam Muội thành tựu rồi, vãng sanh về Cực Lạc Thế Giới, trụ nơi bậc sơ địa có thể dùng thần thông trí huệ hiện thân làm Phật ở trong 100 thế giới không Phật để độ chúng sanh. Mình thấy pháp môn niệm Phật, nếu bắt từ dưới nhìn lên trên và từ trên nhìn lần xuống dưới, mình thấy cái đường đi rành rẽ hết sức là phân minh. Ở nới đó, mình thấy cũng không đến nổi quá khó, chỉ có khó là mình phải tin, quyết định thực hành tinh tấn và không giải đãi mà thôi. Khó là chịu nhất định để tu và quyết định tinh tấn, chỉ có khó nới đó mà thôi, chớ còn cái việc mà thấy theo sự đắc lực, thì pháp môn niệm Phật không có cái chi là khó lắm, không phải như các pháp môn khác. Vì các pháp môn khác do tự lực, tự lực thành khó, và ở nơi các pháp môn khác mà đến chổ chứng lý pháp thân hiện: Bên Thiền Tông thuộc về vô tướng tu. Vô Tướng Tu đó khó nắm nơi đâu để mà làm trụ cột, để hạ thủ lắm, nếu sai một chút thì thuộc về hữu tướng, mà hữu tướng tất nhiên không phải của Thiền Tông, sai rồi thì không thành tựu được. Còn như theo Pháp Hoa Tông mà tu thì cũng phải tam chỉ tam quán, cái đó không phải dể được. Theo Hoa Nghiêm Tông thì thuộc về pháp giới quán rất khó. Theo như Duy Thức Tông thì phải là Duy Thức Quán, quán chẳng phải dể. Đó là nói những pháp môn thuộc về tự lực tu. Muốn được đến trình độ gọi là chứng lý pháp thân thì phải trong các tông thuộc về Viên Đốn Đại Thừa, chớ nếu ngoài những tông đó ra mà tu những tông khác thì tất nhiên không thể đến từng đó được. Những tông vừa kể trên tu đến từng này khó lắm, bởi vì ở đó thuộc về tự lực. Còn đây, ngoài tự lực ra thì pháp môn niệm Phật này còn có ở nơi tha lực, tức là nguyện lực của Phật nhiếp trì. Do đó thành ra có sự dễ dàng hơn, bão đảm hơn. Huống nữa là trong pháp môn niệm Phật nầy, nếu mình chỉ được ở nơi cái từng công phu thấp nhất là có cái sự chuyên niệm, nó được tương ứng với nghĩa chấp trì, tất nhiên đó là bảo đảm vãng sanh. Nếu được vãng sanh rồi thì dự vào hàng thánh, được bất thối chuyển nơi đạo vô thượng. Dầu rằng đối với các bậc đạt được Sự Tam Muội Niệm Phật hay Lý Tam Muội Niệm Phật là còn thấp, nhưng kỳ thật khi đã vãng sanh dự vào hành thánh, được bất thối chuyển, nhất là được về Thế Giới Cực Lạc rồi thì không có các sự khổ như là những cảnh duyên nó làm mình xao động, hoặc sự ép buộc ở nơi thời tiết, nhất là việc ăn, việc mặc nó làm mình bận rộn cả ngày đêm. Không có tất cả cái đó thì tất nhiên rãng rang tu hành, mà trong khi rãnh rang đó lại có tiếng gió thổi, tiếng chim kêu, tiếng nước chảy đều phát ra tiếng nói pháp hết, hơn nữa, nơi Cực Lạc Thế Giới, như trong kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, như kinh A Di Đà đó, các đạo hữu cũng thường tụng, thì các Bậc Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát thượng thiện nhân là bạn, và người được vãng sanh sẽ ở chung với bậc đó. Cho nên trong kinh Di Đà có nói: Những người nào mà nghe nơi đây thì phải phát nguyện, nguyện sanh về Cực Lạc Thế Giới. Tai sao vậy? Vì đồng với các Bậc Thượng Thiện Nhân Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát câu hội một chổ ở chung một chổ. Như vậy đó thì thấy minh về bên đó rồi thì các bậc Đại Bồ Tát như Quan Thế Âm, Đại Thế Chí và vô số các vị Bồ Tát khác cũng đến cái từng đó, thì mình được ở trong cái hội đó, trong cái xóm đó, nghĩa là nói ngay ra ở chung. Cung điện của mình ở đây thì cung điện của các Ngài ở kia, muốn gặp lúc nào cũng được, muốn hỏi han lúc nào cũng tiện. Và cái hóa thân Phật ở khắp nơi trong Thế Giới Cực Lạc, không có chổ nào không có hóa thân Phật hết. Thành ra muốn thấy Phật lúc nào cũng được, trừ ra những bậc thuộc về thượng phẩm, chứng lý pháp thân. Chừng đó tất nhiên về Thế Giới Cực Lạc mới thấy được báo thân thật của Phật, còn ở những bậc dưới thì thấy hoá thân mà hóa thân cũng như báo thân, bởi vì sự thuyết pháp độ sanh của Phật thì hóa thân báo thân gì cũng giống nhau nhưng cái thân có khác theo trình độ người: Thân lớn, thân nhỏ, cái chổ đẹp nhiều hay là đẹp ít khác nhau, theo cái trí lực ở nơi con mắt thấy nó sai khác, chớ sự giáo hóa cũng đồng. Phật bao giờ cũng theo căn cơ mà thuyết pháp. Do đó cho nên trong kinh nói rằng: Chỉ có nước Cực Lạc là bảo đảm ở nơi con đường thành Phật mà thôi. Như trong kinh A Di Đà Phật nói: Người nào nghe kinh này mà thọ trì tu hành cùng những người đà phát nguyện, đang phát nguyện, sẻ phát nguyện vãng sanh về nước của đức Phật A Di Đà, thì những người ấy đều đặng không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nghĩa là người đó sẽ được vãng sanh và được bảo đảm đi thẳng đến thành Phật mà thôi. Do đó, thấy căn cơ của tự mình hiện tại đây cũng như tất cả mọi người trong thời gian này mà rời pháp môn Niệm Phật thì quyết khó bảo đảm giải thoát lắm đừng nói là bảo đảm thành Phật. Vậy các đạo hữu cũng nên cố gắng tự tu cho tinh tấn, và cũng đem pháp môn Niệm Phật chỉ dậy người khác và khuyên bảo người khác nên thực hành như mình. Hòa thượng Thích Trí Tịnh biên soạn | ||
Gửi cho người thân In trang này | ||
| ||
| ||